Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Nghị luận xã hội về “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”

Văn mẫu lớp 10: Nghị luận về “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo chi tiết và tải về tại đây nhé.

Ngoài ra, VnDoc.com đã thành lập group chia sẻ tài liệu học tập THPT miễn phí trên Facebook: Tài liệu học tập lớp 10. Mời các bạn học sinh tham gia nhóm, để có thể nhận được những tài liệu mới nhất.

Dàn ý chi tiết bài nghị luận Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

1. Mở bài

Đặng Trần Côn đã viết nên tác phẩm Chinh phụ ngâm như một khúc ngân xé lòng về nỗi đau về khát khao hạnh phúc của người chinh phụ xưa khi phải rời xa người thương.

2. Thân bài

- Bước đi đầy thẫn thờ, mỗi bước chân mang nặng nỗi sầu bi

- Ngồi nơi rèm thưa mà lòng chẳng chịu yên, mong chờ tiếng chim thước báo tin chàng trở về cho thỏa lòng mong mỏi, vậy mà chẳng một tiếng kêu.

- Nỗi buồn khổ thốt chẳng nên lời, xót thương cho bóng người sầu muộn bên hoa đèn cô đơn, ủ rũ, buồn thương.

- Cảnh vật giờ đây cũng như tâm trạng của nàng vậy, thật ảm đạm, hiu hắt, hoang vắng:

+ Tiếng gà eo ốc

+ Bóng hoè phất phơ

- Thời gian dài đằng đẵng như nỗi sầu vô tận.

- Càng gắng gượng thoát khỏi nỗi cô đơn bao nhiêu thì nỗi cô đơn lại càng bủa vây chiếm lấy cả tâm hồn nàng:

+ Gượng gạo soi gương thì lệ buông

+ Gảy tiếng đàn mang khúc nhạc tình yêu thì dây đứt

- Muốn mượn cơn gió đông kia gửi đến chàng những lời yêu thương thắm thiết nhất nơi đáy lòng mình.

3. Kết bài

Thông qua tâm trạng bi thiết của người chinh phụ, tác giả đã nói lên tiếng lòng của bao người phụ nữ trong xã hội đồng thời là tiếng nói tố cáo bao cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm chia lìa hạnh phúc lứa đôi.

Nghị luận Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mẫu 1

Vào nửa đầu thế kỉ thứ mười tám, xã hội phong kiến nước ta rơi vào tình trạng rối ren. Nội chiến xảy ra liên miên khiến nhiều nơi nông dân nổi dậy, nhiều gia đình phải chia li từ biệt … “Chinh phụ ngâm” ra đời chính là để lên án những cuộc chiến tranh phi nghĩa, đề cao quyền sống cùng khát vọng hạnh phúc của con người. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã diễn tả những cung bậc cảm xúc của người chinh phụ khi phải rời xa người mình yêu thương.

Đầu đoạn trích là hình ảnh người chinh phụ:

xuất hiện như có như không, vừa tỉnh thức trong từng bước đi, từng động tác buông thả tấm rèm nhưng liền đó lại quên tất thảy, thờ ơ với tất thảy:

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

Chinh phụ xuất hiện như vừa tỉnh, lại vừa mơ, bước đi thẫn thờ, đôi tay như thả tấm rèm một cách hững hờ. Dường như mọi thứ xung quanh đều không làm cho người chinh phụ có chút mảy may để ý. Những gì mà người chinh phụ quan tâm là tin tức từ người chồng nhưng chẳng thấy đâu. “Ngồi rèm thưa” khiến cho không gian như thu hẹp lại, có phần tối tăm hơn, hình ảnh người chinh phụ càng cô đơn, bé nhỏ. Dẫu đã có ánh đèn nhưng nó vẫn không đủ để thắp sáng tâm hồn chinh phụ, chỉ khiến chinh phụ thêm cô độc với cái bóng của chính mình:

Đèn có biết dường bằng chẳng biết

Hoa đèn kia với bóng người khá thương

“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” - mọi thứ xung quanh cũng như nhuốm màu tâm trạng của người chinh phụ: “gà eo óc gáy sương”, “hoè phất phơ rủ bóng”… Thời gian đằng đẵng trôi qua, sự chờ đợi tưởng chừng như đang ngày một vô vọng:

Khắc chờ đằng đẵng như niên,

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Mòn mỏi trong sự đợi chờ khiến cho mọi sinh hoạt thường ngày cũng chinh phụ cũng trở nên “gượng”: “Hương gượng đốt”, “Gương gượng soi”, “Sắt cầm gượng gảy” mà không sao che đậy nổi một hiện thực bất như ý “hồn đã mê mải”,… Nỗi chán chường, buông xuôi bộc lộ rõ qua từng cử chỉ. Nhớ chồng da diết, nhưng người chinh phụ không thể không làm cách nào có thể gặp được vì sự cách trở là quá lớn: “non Yên”, “xa vời khôn thấu”… Quá đau buồn, người chinh phụ đau đớn, xót xa:

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong

Đối lập với tâm trạng lo âu, thấp thỏm đợi chờ, cảnh vật vẫn cứ đổi thay từng ngày. Giờ đây người với thiên nhiên không thể tìm được sự đồng điệu về tâm hồn:

Cảnh buồn người thiết tha lòng,

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.

Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,

Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.

“Sương như búa”, “tuyết dường cưa” là những hình ảnh so sánh diễn ta sự đổi thay mạnh mẽ, mãnh liệt của thiên nhiên. Người chinh phụ đã không còn chịu đựng nổi quãng thời gian ngóng đợi tin tức từ chồng. Sự thất vọng như đổ dồn qua cái nhìn của chinh phụ, cách cảm nhận về thế giới thiên nhiên. Sự mâu thuẫn giằng xé trong tâm hồn. Ở người chinh phụ, cả niềm hi vọng và nỗi thất vọng đang tồn tại song song cùng lúc.

Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,

Nguyệt gặp hoa, hoa thắm từng bông.

Không gian đã được mở rộng hơn. Có hoa, có nguyệt nhưng không làm cho cảnh sắc ấm áp hơn. Ngược lại, thấy hoa và nguyệt lại càng làm cho lòng người xót xa. Có một sự so sánh ngầm giữa cảnh và người. Người chinh phụ thương xót cho thân phận mình mà cảm thấy lẻ loi trước cảnh nguyệt hoa đang hòa quyện, đan xen lẫn nhau:

Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu!

Như tiêu đề, đoạn trích đã miêu tả về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, nỗi nhớ thương, chờ đợi chồng chinh chiến phương xa. Chiến tranh phi nghĩa đã làm tan nát hạnh phúc của bao gia đình và khiến cho bao người phải đổ xương máu một cách vô nghĩa. Tác phẩm đã nói lên quyền được sống và quyền được hưởng hạnh phúc của con người. “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” thực sự đã đem lại những giá trị nhân văn cao cả và có sức ảnh hưởng lớn trong nền văn học Việt Nam.

Nghị luận Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mẫu 2

Chiến tranh - hai từ nghe sao mà đau thương, nó đã để lại bao hậu quả, về sự chia li, sự mất mát. Từ thời xa xưa, chiến tranh luôn xảy ra vì muốn giành lại độc lập hoặc xâm chiếm. Dù vì mục đích gì, nó đã làm cho bao gia đình đau khổ trong cảnh chia li, từng ngày ngóng trông lo lắng. Hiểu được nỗi lòng đó, ở thế kỉ XVIII, tác giả Đặng Trần Côn đã sáng tác bài thơ “Chinh phụ ngâm” về sự mất mát, cô đơn của người phụ nữ, gia đình có chồng đi lính. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã làm nổi bật lên nỗi buồn, lẻ loi, ngày ngày lo lắng cho chồng, và mong rằng có một tương lai hạnh phúc.

Mở đầu đoạn trích, người đọc đã có thể cảm nhận ngay được một bóng hình lẻ loi, cô đơn trong một không gian tĩnh mịch, yên ắng:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”

Các câu thơ không có một từ chỉ người nhưng ta có thể cảm nhận ngay ra một hình ảnh người phụ nữ quá lẻ loi, cô độc trong cảnh đêm “hiên vắng”. Nàng đi đi lại lại, từng bước, từng bước, của sự lo lắng, trông mong. Những hành động luôn vô thức lặp lại, buông rèm, rồi kéo rèm, nàng hướng ra xa, lòng nàng từng giờ phút chỉ hướng tới chồng mình, trông tin lành. Nhịp thơ chậm, đều đều, như ngưng tụ lại, hình ảnh hiện lên thật rõ nét, sự sáng tác ấy đã mang lại sự đồng của người đọc. Với câu hỏi tu từ, nàng thực muốn biết tin tức của chồng ra sao, lòng bồn chồn khắc khoải với những câu hỏi không có lời đáp.

Nghị luận về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ để thấy được số phận người phụ nữ trong xã hội xưa

Nỗi cô đơn ấy, có ai hiểu cho nàng, nàng mong muốn được chia sẻ, nàng chỉ có thể chia sẻ với những vật vô tri, vô giác:

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi
Buồn rầu chẳng nói nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

Trong cảnh đêm tĩnh mịch, còn mỗi ngọn đèn kia làm bạn, nàng hỏi, như để tự trấn an lòng mình. Nhưng càng đối mặt với ngọn đèn, thì nàng chỉ thấy hiện rõ lên hình bóng lẻ loi của bản thân, nàng càng nhận ra “lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi”, rằng chẳng ai, ngoài nàng, đang bị sự cô đơn gặm nhấm từng giây, từng giờ. Hình ảnh ngọn đèn được sử dụng nhiều trong văn thơ, và hình ảnh ẩn dụ của ngọn đèn trong đoạn trích này đang soi lòng của người phụ nữ trông chồng, một nỗi buồn rầu đến thương cảm.

Dường như nỗi cô đơn của người chinh phụ đã dần thấm trong từng không gian:

“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”

Tiếng gà gáy đến eo óc, bóng cây hòe rủ phất phơ trong đêm. Ở đây, tác giả đã sử dụng biện pháp tả cảnh ngụ tình, cảnh vật nhuốm màu bi thương vô tận khó mà nắm bắt. Không chỉ về cảnh vật, thời gian của nàng như càng chậm trôi:

Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền ải xa”

Từng câu thơ thấm đầy tâm trạng. Với từ láy “đằng đẵng” kết hợp với “ dằng dặc” đã làm nổi bật lên một nỗi buồn không chỉ kéo dài, mà còn nặng trĩu. Tác giả đang nhấn mạnh thêm về mặt thời gian cũng như không gian, so sánh một giờ bằng một năm, mối sầu bằng biển lớn mênh mông với hai từ láy, như cho thấy tiếng thở dài đáng thương của người thiếu phụ đắm chờ chồng.

Người phụ nữ ấy đang chiến đấu từng giờ với sự cô đơn:

“Hương gượng đốt hồn đà mê sải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Duyên ương kim đứt, phím loan ngại chùng.”

Điệp từ “gượng” được lặp lại tới ba lần, một từ chỉ sự hành động đầy ngượng ngạo, cố gắng làm một cái gì đó. Nỗi buồn của nàng dường như rơi vào đỉnh điểm. Cố đốt hương, rồi chính nàng mê sảng, không tỉnh táo được. Gượng soi gương để chỉnh lại nhan sắc, mà giọt lệ lại càng châu chan. Nàng gảy đàn, mà lòng sợ kim đứt, rồi bao kỉ niệm lại ùa về. Cứ tưởng làm việc gì đó để quên đi nỗi buồn, nhưng không nỗi sầu ấy lại càng thêm chồng chất.

Sống trong sự cô đơn, lo lắng vậy, nhưng lòng nàng vẫn luôn hướng về miền đất xa xôi kia, luôn gìn giữ tấm lòng thủy chung của mình:

“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên

……

Cánh buồm người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”

Không gian dường như được mở rộng hơn, xa hơn đến tận núi Non Yên. Nàng gom lại những nỗi nhớ, lòng yêu thương sâu sắc tận tâm mình, nhờ gió đông gửi tới cho người biên ải xa xôi. Một hình ảnh ước lệ đã gợi lên khoảng cách địa lí giữa hai con người, nỗi nhớ tràn ra cả không gian rộng lớn, kết hợp với hình ảnh hơi khoa trương về nỗi nhớ nhung rằng nó dài đằng đẵng, và rồi dường như chỉ có kích thước của vũ trụ ấy mới đo được lòng nàng vậy. Giữa cảnh người và vật có sự tương đồng bởi “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Người chinh phụ nhìn cảnh vật bằng đôi mắt chất chứa buồn thương. Các câu thơ dù đi từ tả tâm trạng đến tả cảnh hay ngược lại thì ta càng thấy sự luẩn quẩn trong lòng người phụ nữ cô đơn, lẻ loi. Từ láy “thiết tha” cho thấy sự dai dẳng không thôi, nó đeo bám người chinh phụ, như muốn cắt da cắt thịt bằng nỗi nhớ mong ấy. Cảnh vật càng cây, sương, mưa, các hình ảnh đều bé nhỏ, mong manh cũng như nàng vậy, khiến nàng càng thêm sầu não.

Dưới ngòi bút của mình, tác giả đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật trong việc diễn tả tâm trạng của người chinh phụ. Ông đã sử dụng các từ láy rất độc đáo kết hợp với biện pháp điệp ngữ, khéo léo trong việc lấy hình ảnh ẩn dụ, các bút pháp ước lệ tượng trưng. Đặc biệt, ông đã rất thành công trong việc “tả cảnh ngụ tình” đã làm nổi bật các cung bậc cảm xúc của người phụ nữ. Thể thơ song thất lục bát với âm điệu réo rắt đã khiến cho người đọc không khỏi đồng cảm, yêu thương người chinh phụ nhiều hơn.

Những vần thơ trong đoạn trích đã vẽ lên một nỗi buồn tâm can của người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Qua đó, tác giả muốn lên án tố cáo chiến tranh phong kiến đã làm phá hủy hạnh phúc lứa đôi của con người, đồng thời ông muốn khẳng định quyền được hạnh phúc của con người. Ông đồng cảm với người phụ nữ và luôn mong muốn họ cũng có được hạnh phúc, cho thấy ông là một người có một tư tưởng nhân đạo thật sâu sắc: yêu thương, trân trọng con người.

Nghị luận Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mẫu 3

Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn là một kiệt tác văn học của nước nhà. Bài thơ được viết bằng chữ Hán, theo thể trường đoản cú với 467 câu thơ. Sau khi ra đời, Chinh phụ ngâm được nhiều người dịch lại, song bản dịch thành công nhất có lẽ là bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Trích đoạn Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được trích ra từ tác phẩm với 24 câu thơ đầy xót xa, diễn ra tâm trạng buồn tủi, nỗi cô đơn, thương nhớ và nỗi khát khao hạnh phúc của người vợ có chồng ra trận.

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

Chồng ra chiến trận, người vợ một mình cô lẻ nơi không gian chật hẹp. Hình ảnh bóng người phụ nữ cô độc dạo trước hiên nhà vắng vẻ khiến ta không khỏi xót xa. Nỗi hiu quạnh bao trùm lấy không gian tịch liêu nhỏ bé, bước chân đi "thầm gieo từng bước" đầy mệt mỏi trong tĩnh lặng như muốn nói lên nỗi u hoài nặng trĩu tâm can nơi tâm hồn chinh phụ. Bước đi rồi lại ngồi, những hành động cứ lặp lại lặp lại trong vô thức, nỗi mong ngóng, chờ đợi chồng đã bao trùm lấy tâm trí. Đôi tay gầy guộc cứ cuốn lấy chiếc rèm, nâng lên rồi hạ xuống, như một sự mệt mỏi, hiu quạnh đến chán chường.

Các động từ "dạo", "ngồi" kết hợp với các từ chỉ sự ít ỏi "trống trải", "hiên vắng" cùng nhịp thơ chầm chậm càng càng bộc bạch rõ nỗi lòng khắc khoải, ngậm ngùi trong tâm khảm người chinh phụ. Xa chồng, buồn tủi, thương nhớ ngập tràn, nỗi ngóng trông chồng nơi biên ải trở về ngày một lớn thêm, trong chờ tiếng chim thước mang niềm vui tới những chim thước cũng “bặt vô âm tín”:

"Ngoài rèm thước chẳng mách tin"

Niềm hy vọng nhỏ bé được chim thước báo tin lành cũng chẳng có, nỗi buồn người chinh phụ càng thêm nặng bội phần:

"Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?

Đèn đã được thắp sáng, bóng đêm cũng bao phủ không gian, đây là thời điểm mà con người ta dễ cô đơn, buồn tủi nhất. Câu hỏi tu từ cất lên trong thanh âm của nỗi buồn "Trong rèm dường đã có đèn biết chăng”? Ngọn đèn kia xua đi không gian của màn đêm tăm tối nhưng nào có thể xua tan những u sầu trong lòng kẻ tri âm. Ánh đền vô tri sao có thể hiểu thấu nỗi lòng, sao có thể rọi sáng tâm can, nỗi ưu phiền nơi đấy lòng chinh phụ.

"Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi"

Phép điệp ngữ bắc cầu "Đèn biết chăng-đèn có biết" lại càng gợi nỗi buồn, nỗi cô đơn như trải dài thêm ra, khắc khoải thêm ra. Một nỗi bi thiết, u hoài chỉ lòng nàng thấu, chỉ mình nàng chịu đựng:

"Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương"

Nỗi buồn tái tê đến nghẹn ngào, lời thốt ra cũng chẳng đặng. Đêm thêm dài, hoa đèn ngày càng rực mà lòng chinh phụ nào được nguôi ngoai. Bóng người vẫn ngồi đó, bên bức đèn khuya ngỡ ấm áp mà nào ngờ lạnh lẽo, cô đơn khôn cùng. Câu thơ gợi nhớ đến hình ảnh nàng Vũ Nương cùng chiếc bóng in trên tường trong nỗi nhớ nhung chồng nơi chiến trận trong Chuyện người con gái Nam Xương. Có lẽ, những người chinh phụ chọn cách gửi gắm nỗi nhớ nhớ thương chồng trong chiếc bóng của mình để vơi bớt đi phần hờn tủi. Ánh đèn ngày một lụi tàn hay chính thanh xuân người thiếu phụ ngày một ngắn lại, héo mòn theo thời gian đợi chờ, trông ngóng.

Nàng thương nhớ chồng rồi đến thương cả chính mình đang cô độc, tuyệt vọng càng diễn tả sự vận động cảm xúc trong nội tâm của nhân vật trữ tình: thương người lại xót cho mình nhưng bất lực, không thể làm gì được đành ngậm ngùi ôm nỗi đắng cay. Những dòng thơ đượm buồn như tiếng nấc nghẹn ngào trong từng hơi thở, nỗi khát vọng sum vầy của người thiếu phụ càng mãnh liệt lại càng xa xôi, thật xót xa, ngang trái.

Lòng buồn nên cảnh vật nào được tươi vui, thiên nhiên mang cả màu tâm trạng, tất cả đều buồn hiu giữa màn đêm:

"Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng đòi phen"

Tiếng gà gáy, bóng cây đều vốn là những sự vật gợi nét thanh bình, yên cả của cuộc sống thôn quê , dưới ánh nhìn cô đơn của người chinh phụ, cảnh vật trở nên hoang lạnh, đến lạ thường. Những tính từ láy "eo óc", "phất phơ" cực tả sự hoang vu, thưa thớt, hiu hắt đến ớn lạnh của cảnh vật. Thiên nhiên như đang mòn mỏi, mệt nhoài, sầu tư chìm vào đêm tối quanh hiu.

"Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa"

Suốt năm canh của đêm dài trôi qua, người thiếu phụ vẫn thao thức chẳng thể nào ngủ được, nỗi sầu thì nhân lên gấp bội. Hình ảnh so sánh kết hợp với lối nói quá quen thuộc "Khắc giờ đằng đẵng như niên" càng tô đậm nỗi cô đơn trong lòng, với người thiếu phụ, mỗi khoảnh khắc của thời gian đều thật dài, thật buồn khôn tả. Những tính từ láy "dằng dặc", "đằng đẵng" kết hợp với các danh từ chỉ thời gian, tâm trạng càng làm nổi bật nỗi sầu muộn triền miện bên trong nhân vật trữ tình. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh để khắc họa không gian, thời gian nhằm diễn tả nỗi buồn của lòng người được tác giả sử dụng thật tinh tế. Người đọc như đau cùng nỗi đau của nhân vật, nhớ cùng nỗi nhớ của nhân vật trong từng tiếng thơ bi ai.

"Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phim loan ngại chùng"

Nỗi cô đơn giằng xé tâm can, người chinh phụ tìm đến những thú vui để trốn chạy nỗi cô đơn trong lòng, nhưng dường như đều vô nghĩa. Điệp từ “gượng” cho thấy sự mệt mỏi, chán chường nơi nàng. Hương đốt thì hồn đà mê mải, gượng soi thì nước mắt tuôn rơi, ngay đến cả dàn cầm cũng đứt gãy, tất cả đều như đang chống lại nàng hay chính lòng nàng đang trĩu nặng, chẳng thể vượt thoát được nỗi cô đơn, trống vắng ngay lúc này.

“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”

Nỗi thương nhớ chồng da diết khôn nguôi, không một ai thấu hiểu cùng nàng trút bầu tâm sự, nàng đành gửi gắm lòng mình đến người thương nơi biên ải xa xôi. Những hình ảnh tượng trưng “non Yên” , “gió đông” càng khắc hoạ khoảng cách xa xôi vô ngần của nàng chinh phụ và người chinh phu. Gom hết những thương nhớ, đau xót, tủi hờn gửi vào gió đông để đến với chàng, nhưng nào có thấu, càng nhớ, khoảng cách lại càng xa xôi, vô tận. Nỗi nhớ cứ thế ngày một dài thêm, rộng thêm “nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”.

Trang thơ khép lại mà nỗi xót xa, đớn đau của người chinh phụ vẫn còn đó. Chiến tranh thực tàn khốc, đã đẩy con người vào những nỗi đau tinh thần khôn xiết. Niềm khát khao hạnh phúc của người chinh phụ trong tác phẩm thật đáng trân trọng, đó cũng là niềm khao khát của con người trong mọi thời đại.

-------------------------

Nghị luận xã hội về “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” vừa được VnDoc.com gửi tới bạn đọc. Bài viết được tổng hợp dàn ý và 3 bài văn mẫu. Bài viết cho ta thấy được Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ  đã làm nổi bật lên nỗi buồn, lẻ loi, ngày ngày lo lắng cho chồng, và mong rằng có một tương lai hạnh phúc. Ngay từ đầu đoạn trích ta đã có thể cảm nhận ngay được một bóng hình lẻ loi, cô đơn trong một không gian tĩnh mịch, yên ắng một hình ảnh người phụ nữ quá lẻ loi, cô độc trong cảnh đêm hiên vắng. Nàng đi đi lại lại, từng bước, từng bước, của sự lo lắng, trông mong. Dường như nỗi cô đơn của người chinh phụ đã dần thấm trong từng không gian. Người phụ nữ ấy đang chiến đấu từng giờ với sự cô đơn. Sống trong sự cô đơn, lo lắng vậy, nhưng lòng nàng vẫn luôn hướng về miền đất xa xôi kia, luôn gìn giữ tấm lòng thủy chung của mình. Nàng gom lại những nỗi nhớ, lòng yêu thương sâu sắc tận tâm mình, nhờ gió đông gửi tới cho người biên ải xa xôi. Người chinh phụ đã không còn chịu đựng nổi quãng thời gian ngóng đợi tin tức từ chồng. Sự thất vọng như đổ dồn qua cái nhìn của chinh phụ, cách cảm nhận về thế giới thiên nhiên. Sự mâu thuẫn giằng xé trong tâm hồn. Ở người chinh phụ, cả niềm hi vọng và nỗi thất vọng đang tồn tại song song cùng lúc. Qua đoạn trích tác giả muốn lên án tố cáo chiến tranh phong kiến đã làm phá hủy hạnh phúc lứa đôi của con người, đồng thời ông muốn khẳng định quyền được hạnh phúc của con người.

Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 10: Nghị luận xã hội về “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 10 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 10.

Bài tiếp theo: Nghị luận ý kiến sau: Cha mẹ thuơng con bằng trời bằng bể

Chia sẻ, đánh giá bài viết
16
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 10

    Xem thêm