Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc hay nhất
Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc
Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc là tài liệu được đội ngũ giáo viên của VnDoc biên soạn chi tiết, cụ thể để các em học sinh lớp 12 hiểu, nắm rõ nội dung phần này của bài và có bài làm mẫu để các em tham khảo, mở rộng vốn từ, các viết văn của mình. Mời các bạn cùng tham khảo thêm tại mục Ngữ văn 12 nhé.
I. Dàn ý Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu
A. Mở bài
Giới thiệu tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc. (Tố Hữu là một nhà thơ lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học nước nhà. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là bài thơ Việt Bắc.)
B. Thân bài
1. Tác giả
- Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Thơ ông thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại.
- Thơ Tố Hữu mang tình chất trữ tình chính trị sâu sắc: Hướng đến cái chung về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và của cả dân tộc, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính toàn dân.
- Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm thắm, chân thành; vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt ông phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,…
2. Tập thơ Việt Bắc
- Tập thơ là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những con người kháng chiến.
- Ca ngợi Đảng và Bác Hồ, tình quân - dân, tiền tuyến - hậu phương, miền xuôi - ngược, cán bộ - quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên nhiên, đất nước con người,...
- Kết thúc bằng những bài ca hùng tráng, vang dội phản ánh khí thế chiến thắng hào hùng của dân tộc.
3. Phân tích 8 câu đầu
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”
→ Lời của người Việt Bắc hỏi người ra đi, khơi gợi những kỉ niệm đã qua.
Câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta?”, cách xưng hô “mình - ta” quen thuộc trong lối đối đáp dân gian thể hiện được cảm xúc dâng trào cùng nỗi lòng của người ở lại.
“Mười lăm năm” khoảng thời gian đủ dài để giữa người đi và kẻ ở thấu hiểu nhau, có với nhau những kỉ niệm đáng nhớ.
“thiết tha mặn nồng”: tình cảm giữa người dân Việt Bắc và người cán bộ chiến sĩ thủy chung, sâu sắc, keo sơn, bền chặt.
Hai câu thơ sau là lời nhắc nhớ người ra đi về thiên nhiên, con người Việt Bắc. Hình ảnh “núi, sông” là sự vận dụng tài tình của tác giả với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn” để nhắc nhở người ra đi về Việt Bắc - cội nguồn của Cách mạng, là nơi chúng ta đã cùng nhau đồng cam cộng khổ chiến đấu và giành chiến thắng.
→ Người ở lại mở lời gợi nhắc nhớ người ra đi về khoảng thời gian gắn bó và những kỉ niệm cùng nhau.
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
→ Tiếng lòng của người của người về xuôi mang trong mình sự quyến luyến, nỗi nhớ thương, bịn rịn.
“tha thiết”: sự cảm nhận của người ra đi trước tình cảm của người ở lại.
“bâng khuâng”: nhớ nhung, luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn, “bồn chồn” diễn tả sự day dứt, nô nao trong lòng khiến bước đi ngập ngừng.
→ Người ra đi vô cùng lưu luyến Việt Bắc, nửa muốn đi, nửa muốn ở, bịn rịn, phân vân.
“áo chàm” la hình ảnh hoán dụ tượng trưng cho những người dân Việt Bắc giản dị, mộc mạc, chất phác đưa tiễn người chiến sĩ về miền xuôi.
“phân li” tuy chia cách nhưng trong lòng vẫn luôn hướng về nhau, vẫn dành trọn vẹn tình cảm cho nhau hẹn ngày gặp lại.
“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”: không phải không có gì để nói với nhau mà có rất nhiều điều muốn nói vào giờ phút chia li ấy nhưng không nói thành lời. Một cái cầm tay thay cho tất cả những lời muốn nói. Phép im lặng (dấu “…”) cuối câu làm cho không gian của buổi chia tay như trùng xuống, tĩnh lặng thể hiện được nỗi buồn, quyến luyến giữa người đi và kẻ ở.
→ Không gian chia tay đầy bịn rịn.
C. Kết bài
Khẳng định lại giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ: đoạn thơ đóng góp một phần to lớn vào thành công của tác phẩm và nền văn học Việt Nam; để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.
II. Văn mẫu Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu
1. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu - Mẫu 1
Tố Hữu không phải một nhà thơ đi tìm cái mới ở những chốn xa xăm và lạ lẫm. Ông khơi nguồn cho sự mới ngay trên cái nền truyền thống của thơ ca dân tộc, để biểu đạt tình cảm yêu thương tình nghĩa. Điều này được thể hiện rất rõ qua tám câu thơ đầu trong “Việt Bắc”.
“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ - ne - vơ về Đông Dương được kí kết. Vào tháng 10 năm 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân dịp ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ. Tác phẩm là khúc ca ân tình về kháng chiến, con người Việt Nam trong cách mạng. Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Hai đại từ “Mình” và “ta” được lặp lại nhiều lần khiến lời thơ trở thành lời đối thoại, lời tâm tình tha thiết. Tố Hữu đã vận dụng cách xưng hô thân mật quen thuộc trong những câu ca dao, dân ca truyền thống để diễn tả nghĩa tình cách mạng. “Mình” - người cán bộ về xuôi, “ta” - người dân Việt Bắc. Cụm từ “thiết tha mặn nồng” diễn tả sự gắn bó, tình sâu nghĩa nặng giữa người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta?”, “Mình về mình có nhớ không?” vừa bộc lộ sự quyến luyến, nhớ nhung lại vừa mang âm điệu của một lời dặn dò tình nghĩa. Dù hôm nay các chiến sĩ cách mạng trở về thủ đô nhưng đừng bao giờ quên đi khoảng thời gian gắn bó “Mười lăm năm ấy”, hãy mãi khắc ghi hình ảnh con người và thiên nhiên Việt Bắc trong lòng. Câu thơ “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” gợi nhắc đến truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” quý báu của dân tộc. Núi rừng Việt Bắc đã cưu mang, che chở cho cán bộ cách mạng. Nhờ có những người dân nơi đây mà kháng chiến mới thắng lợi vẻ vang, hòa bình được lập lại. Ân tình ấy không thể nào quên!
Trước những lời dặn dò của người ở lại, người ra đi chưa trả lời trực tiếp mà lại thể hiện cảm xúc bằng những lời độc thoại nội tâm:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Đại từ phiếm chỉ “Ai” chỉ người dân Việt Bắc.Những từ láy “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả tâm trạng lưu luyến, bịn rịn, không nỡ rời xa của người chiến sĩ cách mạng. Trong đó, “Bâng khuâng” gợi lên cảm giác hoài niệm. Dường như người chiến sĩ đang chìm đắm trong dòng cảm xúc, hồi tưởng lại những kỉ niệm khi gắn bó với nơi thủ đô gió ngàn. Từ “bồn chồn” cho thấy sự đan xen của nhiều dòng cảm xúc, dâng lên như lớp lớp sóng trào trong lòng tác giả. Tố Hữu đã rất tinh tế khi tạo ra sự hô ứng cho hai khổ thơ. Nếu ở bên trên, người ở lại nói “thiết tha” thì đến đây, người ra đi lại nói “tha thiết”. Điều này tạo nên một mạch ngầm tri âm giữa người đi và kẻ ở, cho thấy sự đồng điệu trong cảm xúc. Không chỉ vậy, các hình ảnh như “cồn”, “áo chàm” còn gợi không khí, con người, cảnh vật nơi núi rừng. Màu áo chàm được hoán dụ để khắc họa bản sắc trang phục của đồng bào Việt Bắc. Ngày người chiến sĩ về xuôi, cả thiên nhiên và nhân dân Việt Bắc cùng tiễn bước. Cụm từ “biết nói gì” không phải là đôi bên đều không có gì để nói mà có ý nghĩa rằng cả người ra đi và người ở lại đều quá xúc động, không thể nói hết cho thỏa niềm thương nhớ. Im lặng dường như trở thành một thứ ngôn ngữ đặc biệt giúp con người thể hiện tình cảm một cách kín đáo mà sâu sắc. Tất cả những nhớ thương, lưu luyến được gửi vào cái cầm tay nặng ân tình.
Đoạn thơ đầu đã khắc họa khung cảnh chia tay đầy xúc động giữa người dân Việt Bắc với các cán bộ cách mạng. Qua đó, nhà thơ ca ngợi tình cảm thủy chung, son sắt của con người Việt Nam trong những năm kháng chiến gian lao.
2. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu - Mẫu 2
Nhà thơ Tố Hữu là một trong những nhà thơ đi đầu trong phong trào thơ ca Cách mạng, là nhà thơ tiêu biểu nhất cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Chặng đường nghệ thuật của ông gắn liền với những hình ảnh, sự kiện nổi bật của dân tộc. Một trong số đó phải kể đến bài thơ Việt Bắc - một bài thơ đỉnh cao trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Đặc biệt, chỉ với tám câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã tái hiện niềm yêu thương, nỗi nhớ mong bồi hồi lưu luyến của người dân Việt Bắc với cán bộ Cách mạng:
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuân trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Câu thơ mở đầu là một câu hỏi tu từ với biết bao cảm xúc chất chứa trong đó: "Mình về mình có nhớ ta". "Mình" chỉ những người chiến sĩ Cách mạng, những người đã hoàn thành nhiệm vụ và phải ra đi, "ta" chính là những người đồng bào ở Việt Bắc. Câu hỏi ấy như một nỗi niềm khó tả của người ở lại, họ muốn biết rằng những người chiến sĩ cách mạng ấy khi về miền xuôi rồi còn nhớ đến những người Việt Bắc hay không? Cách xưng hô "mình - ta" mang đậm nét dân gian trong các câu ca dao, nó thể hiện một tình cảm gắn bó đầy yêu thương khiến cho nỗi nhớ ngày càng da diết, khôn nguôi khó tả.
"Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng"
Mười lăm năm không quá dài nhưng cũng chẳng ngắn, là khoảng thời gian gắn bó bền chặt của những người chiến sĩ cách mạng với con người vùng đất Việt Bắc. Quãng thời gian ấy họ đã cùng nhau chiến đấu, cùng nhau vượt qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ. Từ "ấy" được tác giả sử dụng đã làm tăng thêm ý nghĩa của khoảng thời gian này, thể hiện sự trân trọng với những tháng ngày ở Việt Bắc ấy. Những từ "thiết tha", "mặn nồng" lại một lần nữa nhấn mạnh thêm tình cảm keo sơn giữa những người Việt Bắc với người cách mạng. Qua đây, tác giả đã cho người đọc cảm nhận được nghĩa tình, tấm lòng luôn hướng đến cách mạng của những người dân Việt Bắc.
Hai câu thơ tiếp theo như lời nhắc nhở dành cho những người ra đi:
"Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn"
Nhà thơ lại một lần nữa sử dụng câu hỏi tu từ, cách xưng hô "mình" để nhắc nhở những người chiến sĩ Cách mạng hãy nhớ đến Việt Bắc khi đã về miền xuôi. Cho dù có về nơi phố xá phồn hoa thì vẫn hãy nhớ tới nơi núi rừng Việt Bắc, nơi mà họ đã chiến đấu, cùng nhau vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ. Khi mà nhìn thấy cây hãy nhớ đến nơi núi rừng, nhìn sông hãy nhớ đến nguồn, hãy nhớ về nơi núi rừng Việt Bắc đã cùng những người chiến sĩ vượt qua biết bao khó khăn gian khổ, cùng nhau chiến đấu anh hùng. Các điệp từ "nhìn", "nhớ" đã nhấn mạnh ý hỏi của người ở lại, cũng như để khẳng định mong muốn những người chiến sĩ hãy luôn nhớ về Việt Bắc - nơi có những con người son sắt, thuỷ chung, luôn một lòng hướng về cách mạng.
Vẻ đẹp của đoạn thơ không chỉ là lời của những người Việt Bắc mà còn là lời đáp lại tình cảm của những người cách mạng dành cho vùng đất và con người nơi đây:
"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"
Đại từ nhân xưng "ai" là đại diện cho những người dân Việt Bắc, tiếng ai ấy chính là những tiếng lòng của người Việt Bắc vang vọng như muốn níu giữ những người cách mạng ở lại, cũng chính là tiếng lòng của những người chiến sĩ không muốn chia xa. Từ "tha thiết" khiến cho tiếng lòng ấy vang vọng, đầy sâu lắng khiến người đọc cảm nhận được những tình cảm giữa người Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Câu thơ sau đó lại càng làm nổi bật thêm điều đó:
"Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi"
Lúc này, "bâng khuâng", "bồn chồn" chính là tâm trạng của những người ra đi. Bâng khuâng là một trạng thái lưu luyến đầy day dứt, như thể vẫn còn vương vấn lại một điều gì ấy thật khó nói. Nó khiến cho tâm trạng con người ta trở nên đầy bứt dứt, khó chịu. Bồn chồn lại là sự lo lắng, day dứt trong tâm trạng của con người. Những cảm xúc lẫn lộn đan xen ấy đã thể hiện tâm trạng của người chiến sĩ cách mạng khi trở về với miền xuôi, họ vẫn sẽ mang trong mình nỗ nhung nhớ, day dứt đầy khôn nguôi và trong đó có có những sự lo lắng trong tâm trạng của người cán bộ cách mạng. Chỉ với vài dòng thơ ấy, người đọc cũng đã phần nào cảm nhận được những tình cảm của người cách mạng đối với vùng đất, con người Việt Bắc cũng chẳng kém gì tình cảm mà nơi đây dành cho họ.
Hai câu thơ cuối đã vẽ nên một khung cảnh chia tay đầy bịn rịn, lưu luyến của người đi với người ở:
"Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"
Áo chàm là một loại trang phục truyền thống của những người dân tộc vùng đất này, nó là hình ảnh hoán dụ để chỉ chính những con người Việt Bắc. Họ ra tiễn những người cách mạng về nơi miền xuôi với một tâm trạng nao nao khó tả. Từ "phân ly" nghe sao thật buồn, nó thể hiện rằng người đi và người ở lại chẳng muốn rời xa nhau thế nhưng bởi hoàn cảnh, bởi nhiệm vụ mà họ phải chia cách. Chỉ với một cụm từ mà tác giả đã thể hiện được một nỗi niềm tiếc thương nhung nhớ, khẳng định một tình cảm gắn bó đầy sâu sắc của người dân Việt Bắc với chiến sĩ cách mạng và ngược lại. Và tình cảm ấy lại càng rõ ràng hơn ở câu thơ:
"Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"
"Biết nói gì" không phải là không có gì để nói với nhau mà là có quá nhiều thứ cần nói, không biết bắt đầu từ đâu và cũng chẳng ngôn từ nào có thể diễn tả hết nỗi lòng này. Mười lăm năm bên nhau, cùng nhau vượt qua bao nhiêu khó khăn thử thách nên tình cảm họ dành cho nhau là vô cùng sâu đậm. Họ có nhiều điều muốn nói với nhau nhưng chẳng biết làm như thế nào để thốt lên lời, lời muốn nói ra mà cứ nghẹn nơi cổ họng. Không nói ra được nên họ thể hiện qua hành động "cầm tay". Chỉ với hành động ấy thôi mà chúng ta đã cảm nhận được một tình yêu thương giữa họ. Hành động đơn giản ấy đã thay cho những lời gửi gắm, chia sẻ. Đây cũng là cách mà họ thể hiện tình cảm, thể hiện tâm trạng dù chưa rời xa nhưng đã nhớ nhung của mình.
Chỉ với tám câu thơ lục bát ngắn gọn nhưng nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được biết bao ý nghĩa trong đây. Chúng ta thấy được tình cảm thuỷ chung son sắt, sự gắn bó đầy sâu đậm giữa người đi - người ở. Nhà thơ còn sử dụng các nghệ thuật như lối đối đáp, cách xưng hô mình - ta, điệp từ, hình ảnh hoán dụ... rất thành công. Nó đã thể hiện sự tiêu biểu trong phong cách thơ của Tố Hữu.
Qua đoạn thơ này chúng ta đã hiểu được tình cảm, sự yêu thương mà người Việt Bắc với những người chiến sĩ cách mạng dành cho nhau. Thứ tình cảm ấy không phải là sự hoa mĩ, tô vẽ mà là những thứ chân thành xuất phát từ trái tim đầy yêu thương. Tám câu thơ trong bài thơ "Việt Bắc" đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng đầy sâu sắc về tình cảm gắn bó này.
3. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu - Mẫu 3
Những ngày tháng chiến đấu chống thực dân Pháp đầy gian khổ của nhân dân ta cuối cùng cũng dành được thắng lợi vô cùng vẻ vang, huy hoàng. Để làm nên thành công đó không thể không nhắc đến đóng góp của thơ văn cổ vũ cách mạng nêu lên tinh thần đấu tranh, khí thế hừng hực của nhân dân ta. Tố Hữu chính là một nhà thơ lớn, có những tác phẩm vô cùng nổi bật ở giai đoạn này. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông nói về tình cảm khăng khít, gắn bó sâu nặng giữa quân và dân ta là bài thơ Việt Bắc. Mở đầu là 8 câu thơ nói về không gian chia tay của người đi - kẻ ở.
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm của con người Việt Nam hiện đại. Thơ ông mang đậm chất trữ tình chính trị sâu sắc: hướng đến cái chung về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và của cả dân tộc, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính toàn dân. Bên cạnh đó, ông còn là nhà thơ khéo léo trong việc kết hợp các biện pháp nghệ thuật: Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm thắm, chân thành; vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt ông phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,…
Tập thơ Việt Bắc là một trong những sáng tác vô cùng nổi tiếng của ông. Bài thơ là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những con người kháng chiến; ca ngợi Đảng và Bác Hồ, tình quân - dân, tiền tuyến - hậu phương, miền xuôi - ngược, cán bộ - quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên nhiên, đất nước con người,…
Mở đầu đoạn trích là khung cảnh chia tay của người ở lại và người chiến sĩ ra đi, trở về miền xuôi:
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”
Người ở lại mở lời bắt đầu cho cuộc đối thoại giữa người đi - kẻ ở trong khung cảnh chia tay. Bao nhiêu suy tư, trăn trở của người ở lại được gửi gắm vào những câu hỏi dành cho người ra đi: liệu rằng người ra đi có nhớ về khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó thiết tha, mặn nồng đã qua hay không? Có nhớ về con người, thiên nhiên, căn cứ đầu não cách mạng của nơi này hay không? Chỉ với bốn câu thơ nhưng người dân Việt Bắc đã tái hiện toàn bộ những gì hai bên đã có với nhau: đó là thời gian dài đằng đẵng, là những kỉ niệm đã có cùng nhau. Tố Hữu vô cùng khéo léo khi vận dụng cách xưng hô “mình - ta” vốn được dùng trong lối đối đáp xưa vào bài thơ của mình cùng với câu hỏi tu từ, điệp từ “nhớ” càng gây ấn tượng với bạn đọc về nét giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng chân thành của con người nơi đây.
Trước tình cảm, sự trân thành của người dân Việt Bắc, người ra đi bịn rịn không nói nên lời:
“- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Những tính từ “tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” đã diễn tả vô cùng chính xác, chân thực tình cảm của người ra đi trước giờ phút chia tay đầy quyến luyến. Có thể thấy, bốn câu thơ là vùng đất trù phú của các biện pháp nghệ thuật. Bên cạnh việc sử dụng tính từ, Tố Hữu đã sử dụng vô cùng thành công trong việc sử dụng biện pháp nghệ thuật hoán dụ: mượn hình ảnh áo chàm - vật dụng quen thuộc với người nông dân để chỉ những con người lao động chất phác của mảnh đất này. Vào khoảnh khắc chia tay đầy xúc động ấy, người đi kẻ ở bịn rịn, quyến luyến không nói nên lời. Tất cả tình cảm được thể hiện qua cái cầm tay, bởi khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó đã đủ làm họ hiểu nhau, chỉ cần nhìn vào mắt nhau cũng có thể thấu hiểu tâm tư tình cảm của người còn lại. Phép im lặng (dấu “…”) cuối câu làm cho không gian của buổi chia tay như trùng xuống, tĩnh lặng và cũng để cả hai nhớ về thời gian bên nhau.
Đoạn trích nói riêng và bài thơ nói chung không chỉ là những kỉ niệm trong mười lăm năm gắn bó của người chiến sĩ với nhân dân Việt Bắc mà còn là tình cảm gắn bó keo sơn, trước sau như một của người đi kẻ ở. Bên cạnh đó tác giả còn thể nêu cao tầm quan trọng của chiến khu Việt Bắc đối với cách mạng và độc lập của nước nhà. Tất cả nhưng tâm tư, tình cảm này được tác giả thể hiện chân thực nhất qua thể thơ lục bát và cách xưng hộ “mình - ta” vốn quen thuộc trong dân gian và các câu hỏi tu từ, liệt kê, hoán dụ… vô cùng tinh tế và đặc sắc đã góp phần không nhỏ vào việc làm nên thành công cho tác phẩm.
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Có lẽ vì thế mà quê hương cách mạng Việt Bắc đã không ngần ngại chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu viết nên thi phẩm cùng tên. Nhiều năm tháng qua đi nhưng tác phẩm vẫn giữ nguyên những giá trị, ý nghĩa tốt đẹp của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
4. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu - Mẫu 4
Tố Hữu là một trong những thi sĩ trữ tình chính trị. Vừa tham gia chiến đấu nên thơ ông dành rất nhiều tình cảm cho con người và lý tưởng sống của Cách mạng Việt Nam. Trong đó, tác phẩm “Việt Bắc” là bài thơ thấm đượm hồn thơ của Tố Hữu và là bản hùng ca về kháng chiến chống Pháp.
Tác phẩm được viết nhân sự kiện các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ phải rồi chiến khu Việt Bắc để về Thủ đô, sau hiệp định Giơnevơ được ký kết thành công vào tháng 10 năm 1954. Bài thơ không chỉ ghi lại mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc mà còn là lời tâm sự đầy yêu thương, thể hiện tình cảm son sắt thủy chung của người đi và chiến khu Việt Bắc. Cảnh chia ly bịn rịn ấy được khắc họa chân thực, sinh động và xúc động của 8 cầu thơ đầu:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
Theo lịch sử Việt Nam, thì Việt Bắc là tên gọi chung của sáu tỉnh phía Bắc thời kháng chiến chống Pháp, là Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, được viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Đây là khu căn cứ địa kháng chiến, được Đảng và Chính phủ thành lập từ năm 1940. Chính ở nơi đây, nhân dân Việt Bắc và cán bộ chiến sĩ đã trải qua 15 năm gắn bó nghĩa tình, keo sơn, từ 1940 đến 1954.
Sau khi quân ta đánh bại quân giặc để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vẻ vang, rúng động thế giới, thì đến tháng 10.1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Bắc. Cảnh và người trong buổi chia ly có 1-0-2 ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho tác giả viết nên bài thơ “Việt Bắc” nổi tiếng. Xuyên suốt tác phẩm là nỗi niềm thương nhớ về những năm tháng chiến tranh gian khổ mà đầy nghĩa tình của quân và dân.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng một câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao: “Mình về mình có nhớ ta”. “Mình về” ở đây tiết lộ cho độc giả thấy hoàn cảnh để đưa đến nỗi niềm của người ở lại. Đó là đang tiễn người đi về nhà. Chữ “mình” và “ta” được sắp xếp đứng cách xa nhau và chữ “nhớ” được đứng ở giữa. Điều đó thể hiện, dù mình và ta có cách xa nhau bao nhiêu thì vẫn nhớ mãi về nhau. Nỗi nhớ ấy dựa trên 15 năm gắn bó thiết tha mặn nồng: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” . Dường như, câu thơ mang dáng dấp nỗi nhớ trong thơ Kiều: “Mười lăm năm ấy biết bao là tình”. Nhưng nếu như Kiều là tình yêu thì ở đây là tình đồng chí, đồng bào trong một thời kháng chiến đầy gian lao, khốc liệt. 15 năm với biết bao đau thương mất mát, giờ đây chỉ còn là tình cảm thiết tha mặn nồng. 15 năm là quãng thời gian có thể ví như là ¼ đời người. Người ở và người đi đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, đã cùng vào sinh ra tử. Vì thế, nói chia ly sao mà xót xa đến thế!
Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc ta càng thấy trân trọng hơn tình cảm của người dân Việt Nam dành cho nhau trong gian khổ. Dường như càng khốc liệt bao nhiêu thì con người càng yêu mến nhau, đùm bọc che chở cho nhau nhiều hơn. Chính vì thế, câu sau tác giả lại tiếp tục thêm câu hỏi tu từ: “Mình về mình có nhớ không”. Giờ đây, mình và ta đã hòa thành một. Nỗi lòng của người ở cũng như của người đi, tất cả đều là nỗi nhớ. Và nỗi nhớ ấy không chỉ dừng lại ở nội tâm mà lan rộng ra cả núi rừng, sông suối “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đây như vừa là lời nhắn nhủ của người ở lại với người đi rằng, sau này dù đi đâu về đâu khi nhìn thấy cây thì cũng hãy nhớ tới núi rừng Việt Bắc, khi nhìn thấy sông thì cũng nhớ tới cội nguồn chiến khu này. Đồng thời cũng vừa là lời hứa của người đi rằng sẽ luôn nhớ về chiến khu Việt Bắc từ núi cho tới nguồn mỗi khi nhìn thấy cây, thấy sông.
Trong câu thơ xuất hiện hai từ chỉ hành động “nhìn” và “nhớ”. Một hành động mô tả hoạt động thị giác, một động từ mô tả hoạt động trong tâm tưởng. Nhìn là đang nói về hiện tại, tương lai. Nhớ là nói về quá khứ. Điều này nhấn mạnh rằng dù người ở và người đi tương lai có như thế nào thì vẫn nhớ về quá khứ bên nhau. Động từ “nhớ” xuất hiện với tần suất dày, như để khẳng định như để khắc sâu hơn vào tâm hồn người và cảnh Việt Bắc về nỗi nhớ. Đồng thời qua đây ta có thể cảm nhận được tấm lòng chân thực, tình cảm chân thành của người dân miền núi dành cho chiến sĩ. Dù nghèo khổ ra sao, nguy hiểm, gian lao thế nào, họ vẫn luôn dành cho các cán bộ miền xuôi một tình cảm da diết và mãi vững bền qua năm tháng.
Nếu như bốn câu thơ đầu lột tả tình cảm của người Việt Bắc dành cho cán bộ về xuôi thì những câu thơ sau nói lên tình cảm đáp lại của chiến sĩ, cán bộ với người chiến khu:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Người chiến sĩ định bước đi, nhưng bỗng nghe tiếng “ai tha thiết” khiến cho họ bước đi mà trong lòng bâng khuâng, bồn chồn. Nhà thơ thật khéo léo khi chỉ qua hai câu thơ nhưng vẽ lên được sự bịn rịn quyến luyến không muốn chia xa của cả người ở lẫn người đi. Chỉ có những ai gắn bó với nhau lắm, yêu nhau lắm thì mới khó lòng chia xa đến như vậy. Bởi cả hai người ở và người đi đều biết, chiến tranh sẽ vẫn còn tiếp diễn. Sự gặp lại biết đến bao giờ. Bởi thế, họ càng thấy nuối tiếc xót xa. Giống như chân lý mà Chế Lan Viên từng khẳng định: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”. Các chiến sĩ, cán bộ đáp lại lời của bà con dân bản đó là bà con và đất trời chiến khu đã trở thành một phần trong tâm hồn họ. Tác giả sử dụng 2 cụm từ láy “bâng khuâng” và “bồn chồn” càng nhấn mạnh thêm sự day dứt, lưu luyến của người đi. Người đi là các cán bộ về xuôi. Họ ra đi nhưng vẫn mang trong mình nỗi lo lắng và nhung nhớ. Họ thương người dân chiến khu. Họ lo lắng rồi đây, trong những năm tháng tiếp theo, người dân nơi đây sẽ như thế nào. Thật sự, chưa nơi đâu mà tình cảm quân dân lại thắm đượm đến như thế!
Hình ảnh buổi chia ly đầu nước mắt, nghẹn ngào con tim diễn ra chiến sĩ cách mạng và người Việt Bắc được lột tả đậm nét ở hai câu thơ cuối:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Nói đến “áo chàm” là người ta nghĩ ngay tới hình ảnh chiếc áo màu nâu, là màu áo của bà con nông dân lam lũ, cực khổ đã lao động cần mẫn phục vụ cho Cách mạng. Nhà thơ sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo chàm” chính là nói về người dân Việt Bắc. Áo chàm không dành cho riêng ai, mà nói về tất cả những người dân chiến khu. Họ và các cán bộ cầm tay nhau mà không biết nói gì. Không phải họ không có gì để nói với nhau là trong lòng quá nhiều thứ để nói. Họ muốn nói với nhau nhiều lắm nhưng không bắt đầu từ đâu. Thế nên, chỉ cầm tay nhau để cảm nhận hết nỗi lòng. Bởi từ bàn tay, trái tim con người sẽ dễ dàng cảm nhận được. Khối óc con người sẽ dễ dàng nhận dạng được. Dù tình cảm vô cùng keo sơn gắn bó, nhưng giữa những con người ấy vẫn có lí trí. Họ hiểu rằng, không còn cách nào khác. Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc chia li. Nhưng chia li trong nước mắt hạnh phúc vẫn hơn là trong đau khổ. Dù là phải xa nhau nhưng người dân Việt Bắc và các chiến sĩ vẫn có niềm vui của chiến thắng.
8 câu đầu bài Việt Bắc không thể không nhắc tới các biện pháp nghệ thuật được nhà thơ Tố Hữu sử dụng. Đầu tiên là về thể thơ lục bát. Với thể loại này, khiến độc giả vô cùng dễ nhớ dễ thuộc, bởi đây là thể thơ mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, lối hát đối đáp mang âm hưởng ca dao, dân ca giúp bài thơ thêm phong phú về giai điệu. Kết hợp với nhiều biện pháp tư như như hoán dụ, câu hỏi tu từ… giúp bức tranh buổi phân ly thêm rõ nét và nhiều cảm xúc.
Qua 8 câu thơ đầu độc giả vô cùng cảm động trước tình cảm chân thành sâu sắc giữa bà con chiến khu Việt Bắc với các cán bộ, chiến sĩ Cách mạng. Nếu như, 15 năm người ta sống trong sung sướng, sang giàu chưa chắc đã gắn bó, nghĩa tình như khi người ta sống trong gian khổ hiểm nguy. Bởi thế, khi phải nói lời chia tay, mối thâm tình ấy của người đi và người ở càng thêm day rứt, luyến lưu.
Vì là người trong cuộc, lại là một hồn thơ yêu nước nên nhà thơ Tố Hữu đã vẽ nên bức tranh thật sinh động, tuy mộc mạc, giản dị nhưng thấm đượm tính nhân văn.
5. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu - Mẫu 5
Nhà thơ Tố Hữu là một tiêu biểu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ của ông chất phác, giản dị, mộc mạc nhưng lại đầy chất trữ tình. Bài thơ "Việt Bắc" của ông là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ dù được viết về một đề tài không phải là mới nhưng nó lại được làm mới bởi hoàn cảnh ra đời chính là trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc với các cán bộ cách mạng. Bài thơ không chỉ là một cuộc chia ly đầy nước mắt mà là sự chia ly trong tình cảm giữa người dân và cán bộ cách mạng đầy ân tình. Nổi bật lên chính là tám câu thơ với lời kẻ ở, người đi đầy lưu luyến, xúc động:
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
MÌnh về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."
Mở đầu đoạn thơ là cách xưng hô "mình - ta" đầy những yêu thương, gần gũi. Mình là người chiến sĩ cách mạng - những người ra đi, ta là những người dân Việt Bắc. Ta đã hỏi rằng mình về liệu có còn nhớ ta không. Chỉ với một câu hỏi tu từ mà người đọc cảm nhận được ở trong đó là những tình cảm đầy lưu luyến, là sự tiếc nuối không nỡ rời xa bởi họ đã bên nhau, gắn bó với nhau "mười lăm năm". Khoảng thời gian ấy không hề ngắn, khoảng thời gian mười lăm năm đã vun đắp, bồi dưỡng nên một thứ tình cảm "thiết tha mặn nồng" giữa những con người ấy.
Nếu như hai câu thơ đầu là tình cảm giữa người với người thì hai câu thơ sau là tình cảm của con người với thiên nhiên nơi đây:
"Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn"
Người dân Việt Bắc tự hỏi rằng không biết liệu khi về miền xuôi, về với chốn phố thị những người chiến sĩ cách mạng ấy còn nhớ đến Việt Bắc hay không. Lại một câu hỏi tu từ nữa được sử dụng khiến người đọc không khỏi bùi ngùi, xúc động. Câu hỏi đã gợi về một không gian có núi, có nguồn nơi Việt Bắc. Không gian ấy đã vô cùng quen thuộc với cả người đi, kẻ ở. Không gian ấy chất chứa biết bao kỉ niệm, ba cảm xúc mà họ đã cùng trải qua trong những tháng ngày gian khổ chiến đấu. Với điệp từ "nhìn", "nhớ" đan xen trong câu thơ như muốn gợi nhắc người ra đi đừng quên quá khứ, về miền xuôi đừng quên đi miền ngược, đừng lãng quên những kỉ niệm đã lưu giữ lại nơi đây. Đó chính là những nhắn nhủ, những mong muốn của người ở lại. Nỗi nhớ của người ở lại đã được biểu đạt một cách trực tiếp, và càng về sau thì sự nhớ nhung lại càng tăng thêm tạo âm hưởng chủ đạo của bài thơ - âm hưởng nhớ thương, tha thiết.
Thế nhưng không chỉ có những tình cảm mong nhớ của người ở lại, mà những người ra đi cũng chất chứa trong lòng những sự nhớ nhung với vùng đất, con người nơi đây. Và rồi, người ra đi cũng đã hồi đáp lại:
"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"
Bốn câu thơ đã vẽ nên một khung cảnh chia tay đầy lưu luyến, dù chưa chia xa thế nhưng sự nhớ nhung đã thể hiện một cách rõ ràng. Đại từ "ai" cùng với từ "tha thiết" đã làm nổi bật cảm xúc, tình cảm đặc biệt của người ra đi". Điều này như một câu trả lời gián tiếp rằng người ra đi sẽ mãi chẳng bao giờ quên đi những kỉ niệm đã có ở nơi đây. Điều này càng được bộc lộ một cách rõ ràng qua các từ miêu tả cảm xúc như "bâng khuâng", "bồn chồn". Họ ra đi thế nhưng trong lòng lại cảm thấy lưu luyến không nỡ rời xa nơi có những con người tình nghĩa luôn chờ họ. Và rồi chính bởi sự không nỡ rời xa ấy mà phút cuối cùng trước khi chia xa họ lại nghẹn ngào không nói lên lời:
"Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"
Áo chàm là màu áo đặc trưng truyền thống của những con người nơi đây, là một hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống thường nhật. Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh hoán dụ "áo chàm" để chỉ những người dân Việt Bắc. Hình ảnh "áo chàm đưa buổi phân ly" ấy chính là bức tranh về cuộc chia tay đầy cảm xúc giữa người Việt Bắc với những người cách mạng. Và nổi bật lên cả trong khung hình ấy chính là hình ảnh "cầm tay nhau". Đây là một hành động quen thuộc và đẹp đẽ khi chia ly, nó thể hiện một tình cảm đầy gắn bó và thân thiết, cũng như thể hiện sự lưu luyến giữa người đi kẻ ở. Họ cầm tay nhau trong trang thái nghẹn ngào, "biết nói gì hôm nay". Họ không phải không có điều gì để nói với nhau mà do có quá nhiều thứ cần nói, quá nhiều những tình cảm chất chứa khiến họ nghẹn ngào không thể thốt lên lời.
Chỉ với tám câu thơ chúng ta đã thấy được sự tài hoa của nhà thơ Tố Hữu trong việc vận dụng các biện pháp nghệ thuật vào tác phẩm của mình. Đồng thời, những nội dung mà nhà thơ truyền tải cũng thật gần gũi, sâu lắng. Một buổi chia tay của người dân với chiến sĩ cách mạng lại được vẽ ra đầy cảm xúc, góp phần làm nổi bật sự thuỷ chung, ân tình của những con người nơi đây.
6. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu - Mẫu 6
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, tiêu biểu cho thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người Cách mạng. Thơ ông đậm đà tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Bài thơ "Việt Bắc" là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. "Việt Bắc" là một trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài thơ "tống biệt" của Tố Hữu. Mặc dù là đề tài cũ, nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi "Việt Bắc" ra đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào tháng 10/1954. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một cuộc chia ly với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa cán bộ và nhân dân sâu đậm ân tình. Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là sự thể hiện tinh tế và sâu sắc những rung động trong trái tim của người đi và người ở trong giờ phút phân li:
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại nói với người ra đi:
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tác giả mở đầu bằng một câu hỏi mang âm hưởng ca dao, tình yêu: "Mình về mình có nhớ ta". "Mình về" là hoàn cảnh để người ở lại bộc lộ nỗi niềm. "Về" gợi đến sự chia li, đó là sự chia li của người ra đi và người ở lại. Về mặt kết cấu câu thơ thì "mình" đứng ở đầu câu, còn "ta" đứng ở cuối câu thơ. Nó gợi lên cái khoảng cách giữa "ta" và "mình". Nỗi niềm gợi lên qua câu hỏi ấy của người ở lại là nỗi nhớ, tình cảm của người ở lại hướng tới người ra đi. Đứng giữa câu thơ là một từ "nhớ", nó làm cho "mình" và "ta" dường như được xích lại gần nhau hơn. Cơ sở tạo nên nỗi nhớ ấy là: "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Câu thơ phảng phất âm hưởng của thơ Kiều, nhưng từ âm hưởng đó lại vang lên nỗi niềm tình cảm của những con người trong một thời kháng chiến. "Mười lăm năm ấy" gợi đến một quãng thời gian khó khăn, một thời đau thương, mất mát. Tuy vậy, dường như tất cả mất mát đau thương ấy chìm đi, đọng lại trong câu thơ chỉ còn là tình cảm "thiết tha mặn nồng". Đó chính là sự gắn bó thân thiết, tình cảm chia bùi sẻ ngọt trong "mười lăm năm ấy" giữa "ta" và "mình". Bởi vậy, hỏi nhưng cũng chính là để bộc lộ tình cảm và hỏi chính là thể hiện mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình.
Đến câu thơ thứ ba cũng là một câu hỏi. Câu hỏi: "Mình về mình có nhớ không" cũng có sự lặp lại gần giống câu thơ đầu. Tuy vậy, đối tượng hỏi không chỉ còn bó hẹp trong mối quan hệ giữa "ta - mình" và nỗi nhớ dường như không còn chỉ hướng tới "ta", mà nỗi nhớ đó đã hướng vào đối tượng rộng lớn hơn rất nhiều, đó chính là không gian "núi rừng" và "sông nguồn". Câu hỏi gợi về không gian có "núi", có "nguồn" ở núi rừng Việt Bắc. Đây chính là không gian quen thuộc gắn với người ở lại và cũng gắn bó với cả người ra đi. Không gian đó với người ra đi và người ở lại không còn là không gian vô hồn, vô cảm mà là không gian chứa đầy kỉ niệm, nó góp phần tạo nên tình cảm cho người ra đi.
Ở trong câu thơ xuất hiện nhiều lần hai động từ chỉ hành động "nhìn" và "nhớ". Một hành động tác động vào thị giác, một hành động tác động vào tâm tưởng; một hành động hướng tới hiện tại, một hành động hướng về quá khứ. Sự đan xen giữa các hành động đó mà người ở lại đưa ra là để muốn nhắc nhở người ra đi sống ở hiện tại đừng quên về quá khứ, sống ở miền xuôi đừng quên miền ngược, đừng quên về những kỉ niệm của một thời đã qua. Đó chính là mong muốn của người ở lại nhắn nhủ tới người ra đi. Trước khi mong muốn người ra đi để nhớ thì người ở lại đã thể hiện nỗi nhớ của mình. Nỗi nhớ đó biểu đạt trực tiếp qua động từ "nhớ" xuất hiện nhiều lần ở khổ thơ, càng về cuối thì từ "nhớ" xuất hiện càng nhiều đã thể hiện cường độ nhớ ngày một tăng và nó đã tạo nên âm hưởng chủ đạo cho bài thơ. Đó là âm hưởng nhớ thương, ân tình tha thiết.
Bốn câu thơ đầu chỉ với hai câu hỏi, nhưng chủ yếu là để giãi bày tình cảm và để mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như chính mình, bởi giữa hai đối tượng đó có sự gắn bó khăng khít trong một thời kháng chiến và một vùng kháng chiến. Để rồi từ đó, người ra đi đáp lại người ở lại bằng bốn câu thơ:
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Người ở lại đặt ra câu hỏi nhưng người ra đi không trực tiếp trả lời câu hỏi đó mà thay vào đó người ra đi thể hiện tình cảm lưu luyến, bịn rịn trong buổi chia tay. Ấn tượng ban đầu đã tác động đến người ra đi: "Tiếng ai tha thiết bên cồn". "Ai" là đại từ không xác định. "Ai" có thể là nhân vật đang xuất hiện trước mắt người ra đi, quen thuộc với người ra đi - một con người cụ thể xuất hiện "bên cồn" trong buổi chia li. "Ai" có thể là bất cứ người dân Việt Bắc đã cùng sống, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với người ra đi. Dù hiểu theo cách nào thì ấn tượng tác động đến người ra đi là âm thanh tiếng nói tha thiết - đó chính là âm thanh rất đỗi ngọt ngào, thiết tha, sâu lắng. Và âm thanh đó dường như gọi về biết bao kỉ niệm, biết bao buổi trò chuyện tâm tình và âm thanh đó gọi về mối tình keo sơn gắn bó thân thiết giữa người ở lại với người ra đi. Chính âm thanh đó đã khiến cho người ra đi "Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi".
Câu thơ ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối trong tương quan đối lập giữa bên trong và bên ngoài. "Trong dạ" thì "bâng khuâng" còn hành động bên ngoài biểu hiện sự "bồn chồn" thấp thỏm của người ra đi, nhưng lại có sự tương đồng trong cảm xúc và hành động. Chính vì cảm xúc "bâng khuâng" thì mới có hành động "bồn chồn" đó được.
Trong cảm nhận của người ra đi, một hình ảnh bình dị, quen thuộc thường xuất hiện trong cuộc sống đời thường đó là hình ảnh "áo chàm". Hơn thế nữa chiếc "áo chàm" gợi đến sắc màu bền bỉ khó phai. Tác giả sử dụng hình ảnh hoán dụ "áo chàm" để chỉ người dân Việt Bắc và bởi vậy nói "áo chàm đưa buổi phân li" là nói về cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa người Việt Bắc với người cách mạng. Mượn hình ảnh "áo chàm" dường như tác giả muốn nói đến tình cảm thủy chung sắt son khó phai mờ của người dân Việt Bắc với người chiến sĩ cách mạng. Và ấn tượng đậm nét nhất với người ra đi chính là hành động "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...".
Trước tiên là hành động "cầm tay nhau" là hành động quen thuộc và rất đẹp của những ai khi chia li, nó thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết và đồng thời thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ ở người đi. Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào, vì thế không nói lên lời. Dấu ba chấm xuất hiện cuối dòng thơ như nốt nặng không lời, nhưng chính nó lại quý giá hơn rất nhiều những lời nói thường ngày bởi cái cầm tay đã nói lên tất cả những lưu luyến, bịn rịn. Câu thơ kết lại đoạn thơ có nhịp thơ thay đổi khác thường. Sự thay đổi của nhịp thơ không chỉ tạo nên sự ngập ngừng cho giọng điệu của câu thơ mà còn tạo nên cái ngập ngừng của tình cảm. Và đồng thời sự khác lạ trong nhịp thơ ấy đã diễn tả sự khác lạ trong diễn biến tình cảm của kẻ ở người đi.
7. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu - Mẫu 7
Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi nhà thơ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn..."
(Vân chữ- Cao Đạt)
Cái "vân chữ... không trộn lẫn" của nhà thơ hay của một nhà văn thứ thiệt mà Cao Đạt nhắc đến ở đây chính là phong cách tác giả, là sự thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ qua tác phẩm nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả. Là lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng, Tố Hữu xuất hiện giữa làng thơ với một phong cách thơ độc đáo, hấp dẫn, đó chính là tính trữ tình-chính trị sâu sắc, dậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn. Kết tinh vẻ đẹp độc đáo ấy của thơ Tố Hữu phải kể đến Việt Bắc- bản anh hung ca, cũng là bản tình ca về cách mạng kháng chiến và con người kháng chiến. Làm nên Việt Bắc- một bản tình ca thấm đẫm màu sắc dân tộc phải kể đến tám câu thơ đầu của tác phẩm:
"Mình đi mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"
Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản. Ông đến với thơ ca và cách mạng cùng một lúc. Vì vậy cho nên chặng đường thơ của ông luôn song hành với những chặng đường cách mạng mà lộng gió thời đại với những tập thơ: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, Một tiếng đờn, Ta với ta... Trong đó có thể nói Việt Bắc là đỉnh cao của thơ ca Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Bài thơ Việt Bắc được trích từ tập thơ cùng tên và được sang tác vào tháng 10/1945, khi Trung ương Đảng và Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm cảm hứng từ buổi chia tay ấy, Tố Hữu đã xúc động viết nên bài thơ này. Tính dân tộc của bài thơ thể hiện ở cả nghệ thuật lẫn nội dung và thể hiện sâu sắc nhất là ở tám câu thơ đầu.
Tính dân tộc dân tộc là một khái niệm thuộc phạm trù tư tưởng- thẩm mĩ chỉ mối quan hệ văn học và dân tộc, thể hiện qua tổng thể những đặc điểm độc đáo tương đối bền vững chung cho các sáng tác của một dân tộc được hình thành trong quá trình phát triển của lịch sử và phân biệt so với các dân tộc khác. Tính dân tộc được thể hiện xuyên suốt từ nội dung đến hình thức.
Về mặt nghệ thuật, Tố Hữu đã vô cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc để diễn tả tình cảm cách mạng. Từ xưa đến nay lục bát vốn là thể thơ dễ đi vào lòng người bởi âm điệu ngọt ngào vốn có của nó. Nếu dung để diễn đạt tình cảm thì không còn gì hay bằng. Hay hơn nữa nhà thơ đã khéo vận dụng lối đối đáp vốn là hình thức diễn ý quen thuộc trong ca dao dân ca:
"Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng có lối ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào"
Chính điều ấy đã làm cho bài thơ mang đậm âm hưởng ngọt nào và thấm đượm tinh thần dân tộc. Bên cạnh đó ngôn ngữ là yếu tố góp một phần không nhỏ gợi lên cái hồn dân tộc của tác phẩm nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ thơ của Việt Bắc mượt mà, uyển chuyển đặc biệt là cắp đại từ nhân xưng mình-ta vừa ngọt ngào lại vừa sâu lắng mà ta thường bắt gặp trong những câu ca dao về tình yêu đôi lứa:
"Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ"
Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tình yêu đôi lứa.
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lắm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn song nhớ nguồn?"
"Mình" trên câu thơ trên chỉ người ra đi, còn "ta" là người ở lại. Dường như đây không còn là cuộc chia ly giữa đồng bào và cách mạng mà nó đã trở thành buổi chia ly của đôi lứa yêu nhau mặn nồng da diết. Qua đó ta mới mới phần nào thấm thía cái tình cảm mặn nồng, keo sơn của quân dân ta trong những buổi đầu đầu kháng chiến gian khổ, khó khăn. Dù bị cách trở bởi không gian và thời gian nhưng dường như cảm xúc từ trái tim đã nâng đỡ họ vượt qua mọi rào cản để trong tâm hồn "như chưa hề có cuộc chia ly". Tính dân tộc về mặt hình thức còn thể hiện qua hình ảnh. Đó là dáng núi hình song :" Nhìn cây nhớ núi, nhìn song nhớ nguồn". Đó là hình ảnh chiếc áo chàm trong "buổi phân li". Áo chàm là hình ản hoán dụ cho người dân Việt Bắc nghĩa tình nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Những con người ấy là đại diện cho một dân tộc Việt Nam vừa hào hùng lại hào hoa: "Lưng mang gươm ta mềm mại bút hoa/Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa".
Tính dân tộc không chỉ vô cùng thành công trên bình diện nghệ thuật mà còn đậm nét qua nội dung, tư tưởng. Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh đậm nét hình ảnh con người Việt Nam trong thời đại cách mạng; đã đưa những tư tưởng tình cảm cách mạng hòa nhịp và tiếp nối truyền thống tinh thần, tình cảm đạo lý dân tộc.
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lắm năm ấy thiết tha mặn nồng."
Người ở lại đặt câu hỏi tu từ "Mình về mình có nhớ ta" để nhắc nhớ người ra đi, gợi trong người ra đi những kỷ niệm về " mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Mười lăm năm ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10.1954, là mười lăm năm "Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi", là mười lăm năm có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia, mười lăm năm "bát cơm chấm muối mối thù nặng vai"...làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ "thiết tha mặn nồng" cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Có lẽ vì thế nên nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã cho rằng: " "Mười lăm năm ấy" không chỉ đo bằng thước đo thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính là thứ thuốc thử làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn".
"Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn"
Lại một câu hỏi tu từ nữa xuất hiện. Lại là một lời nhắc nhớ, gợi thương. Về Hà Nội rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành: Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, "Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa", là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Câu thơ này phải chăng là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của nhà thơ Tố Hữu với câu tục ngữ "Uống nước nhớ nguồn". Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.
"- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"
Nếu như người Việc Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi nhớ thì trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng tha thiết. Không sử dụng đại từ xưng hô "mình", "ta" mà người xưng hô sử dụng đại từ "ai" để khẳng định trước hết là sự gắn bó với người ở lại. Ai có thể là đại từ để hỏi nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm chỉ, rất gần cách nói của ca dao: "Nhớ ai bồi hổi bồi hồi" Tố Hữu sử dụng và khai thác triệt để sự biến hoá hết sức linh diệu trong giá trị biểu cảm của từ "ai". Một chữ "ai" của người về xuôi đủ làm xao xuyến lòng người đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc đến chừng nào và hiểu nỗi niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mạng, đối với người miền xuôi. Một chữ "ai" làm xao động cả không gian đưa tiễn. Phải chăng: "Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn" Hai từ láy "bâng khuâng" và "bồn chồn" góp phần làm tang thêm tâm trạng người ra đi. Tình thương nỗi nhớ như níu chân người ở lại "Bước đi một bước lâu lâu lại ngừng" để rồi "cầm tay nhau biết nói gì hôm nay". Không biết nói gì phải chăng là vì có quá nhiều thứ để nói. Bao nhiêu ân nghĩa, sắt son chẳng thể nào dung ngôn từ để diễn tả, đành phải gửi tâm tình qua cái năm tay thật chặt, thật lâu. "Cầm tay" là biểu tượng của yêu thương đoàn kết. Chỉ cần cầm tay nhau thôi và hãy để hơi ấm nói lên tất cả, yêu thương, nhung nhớ, nghĩa tình sẽ ấm mãi như hơi ấm tay trao tay nhau lúc này. Dấu chấm lửng ở cuối câu như càng làm tang thêm cái tình cảm mặn nồng, dạt dào, vô tận. Nó như nốt lặng trong một khuôn nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. Qua đó con người Việt Nam hiện lên thật đẹp với những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm chất dân tộc: ân nghĩa, thủy chung, son sắt.
Bằng tài hoa của một người nghệ sĩ và một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mạng, Tố Hữu đã viết nên một bản tình ca, anh hùng ca đậm đà bản sắc dân tộc. Để rồi Việt Bắc đã thực sự trở thành một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên.
8. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu - Mẫu 8
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị tiêu biểu của văn học Việt Nam. Thơ Tố Hữu có giọng điệu tình cảm thiết tha ngọt ngào, đậm đà tính dân tộc, là tấm gương cao đẹp phản chiếu tâm hồn của người chiến sĩ luôn hi sinh vì dân tộc, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Tác phẩm “Việt Bắc” được viết năm 1954 nhân sự kiện đặc biệt Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu rừng núi Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Đây là một khúc ca hùng tráng cũng là một khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến gian khổ và con người tình nghĩa nơi đây với sự gắn bó sâu sắc với nhân dân với đất nước trong niềm tự hào dân tộc. Đặc biệt 8 câu thơ đầu là khug cảnh chia tay đầy quyến luyến và xúc động trong khung cảnh núi rừng Việt Bắc.
Tình cảm ấy được thể hiện ngay trong những câu thơ sau:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Có đến bốn chữ “nhớ” trong đoạn thơ cho thấy nỗi nhớ ấy vô cùng thật da diết của tình cảm gắn bó sâu sắc với vùng đất đầy kỷ niệm ấy. Nhà thơ đã diễn tả nỗi nhớ bằng tiếng nói ngọt ngào của khúc hát đối đáp giao duyên nam nữ trong dân ca: “mình – ta” cho thấy đây không chỉ là thứ tình cảm nhất thời mà nó đã trở nên thiêng liêng, chung thủy như người thân thiết, ruột thịt. Không còn là quân và dân mà là những người một nhà cùng chia sẻ giúp đỡ nhau lúc khó khắn gian khổ nên đến khi chia tay này không nỡ rời. Bốn câu thơ với hai câu hỏi tu từ nói lên đạo lí Việt Nam nhắc nhở mọi người nhớ về những tình cảm mà mình đã từng sẻ chia và trải qua với bất cứ con người vùng đất nào mình gắn bó. Cụm từ “mười lăm năm” là một khoảng thời gian dài thậm chí là nửa đời người của người lính trẻ. Bởi thứ ân tình khiến người ta khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn chữ “mình” cùng bốn chữ “nhớ” hòa quyện cùng chữ “ta”, trở thành sợi chỉ xuyên suốt tác phẩm Việt Bắc và cũng đã trở thành chủ đề của bài thơ.
Sau khúc hát mở đầu là cảnh tiễn đưa trong nỗi nhớ với âm thanh và màu sắc da diết đậm đà thủy chung, khiến bước chân bồn chồn khiến những cái nắm tay trở nên lưu luyến. “Tiếng ai” chẳng phải là câu hỏi, mà là cách nói với nỗi niềm “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi” bởi lẽ với người lính Việt Bắc đã trở thành cội nguồn, thành tình yêu.
Từ láy bâng khuâng cùng bồn chồn được sử dụng rất hay ở câu thơ này không chỉ thể hiện nỗi niềm mà còn cả những chuyển động trong tâm trạng. Và đến khi hình ảnh chiếc áo chàm bằng thủ pháp hoán dụ xuất hiện cảm xúc như vỡ òa. Màu áo chàm là là màu áo của người dân Việt Bắc son sắt như chính tấm lòng của con người nơi đây khiến người ra đi khó phai nhòa.
Câu thơ “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” quả là hình ảnh tả thực khi mà trong giờ phút này mặc dù có quá nhiều điều bày tỏ nhưng lại không biết nói gì trước mà được giấu kín trong tim. Nhưng sự im lặng ấy chính cái thứ biểu lộ hiệu quả tấm lòng thương nhớ con người.
Bằng việc sử dụng đại từ linh hoạt cùng thể thơ lục bát, những câu hỏi tu từ cùng nhịp thơ thiết tha Tố Hữu đã khắc cuộc chia tay đầy cảm xúc của người dân Việt Bắc với người chiến sĩ khiến người đọc thấy đồng cảm vô cùng.
9. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu - Mẫu 9
Nhà thơ Tố Hữu được coi là “cánh chim đầu đàn” tiên phong trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Ngay từ tập thơ đầu tiên, Tố Hữu đã cho thấy một trái tim hừng hực sức trẻ đang “bừng nắng hạ” vì được “mặt trời chân lý chói qua tim” . Và cho đến tác phẩm Việt Bắc, Tố Hữu đã hoàn toàn khẳng định được mình là một cây bút cách mạng – trữ tình xuất sắc nhất trên văn đàn Việt Nam thế kỉ XX.
8 câu thơ đầu của bài thơ Việt Bắc thể hiện những cảm xúc lưu luyến, nhớ thương của mình khi rời Việt Bắc. Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng lối xưng hô mình – ta hết sức thân mật và tình cảm. Đặc biệt đây là cách xưng hô thường thấy trong những câu ca dao – dân ca về giao duyên giữa đôi lứa với nhau.
Tố Hữu đã khéo léo mang sắc thái tình cảm đôi lứa vào tình nghĩa quân dân. Chính điều đó đã mang lại cho người đọc cảm nhận 8 câu đầu bài thơ việt bắc một tâm trạng xúc động và quyến luyến như đang hòa nhập vào chính nhân vật “mình”
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
“Mười lăm năm ấy” tính từ năm 1941 cho đến hết năm 1954. 1941 là khi Bác Hồ về nước và lập căn cứ kháng chiến ở Pác Bó. Năm 1954 sau khi kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ, Bác mới dời chiến khu về Hà Nội. Mười lăm năm ấy là mười lăm năm kháng chiến gian khổ. Nhưng trong chính những năm tháng vất vả trăm bề ấy, tình cảm quân – dân đã trở nên “thiết tha mặn nồng”.
Qua cảm nhận 8 câu đầu bài thơ việt bắc ta có thể thấy được tình cảm giữa “mình” – những người đồng bào Việt Bắc dành cho “ta” – người cán bộ kháng chiến miền xuôi. Không còn chỉ là tình quân – dân mà nó trở thành thứ tình cảm giữa những người thân thiết trong gia đình.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Những từ láy liên tiếp: tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn đã khắc họa rõ nét tâm trạng rối bời của nhân vật trữ tình trong phút chia ly. Trong đó, áo chàm là một hình ảnh ẩn dụ hết sức đặc sắc.
Dùng áo chàm để chỉ những người đồng bào Việt Bắc, Tố Hữu đã thực sự hòa nhập vào cuộc sống của những người dân ở đây. Không còn khoảng cách quân – dân, cán bộ – đồng bào. Trong giây phút chia ly chỉ còn “mình” với “ta” cùng nỗi xúc động “không biết nói gì hôm nay”
Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc để thấy được tính dân tộc của bài thơ, trước hết ở kết cấu đối đáp kiểu ca dao giao duyên. Kiểu kết cấu đối đáp trong ca dao giao duyên là một kiểu kết cấu độc đáo để nhân vật trữ tình có thể vừa kể lể sự việc bộc lộ cảm xúc, thể hiện thái độ tình cảm với “đối phương” hoặc đối tượng được nói tới.
10. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu - Mẫu 10
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại nhưng mang đậm chất dân tộc, truyền thống. Tố Hữu có nhiều tập thơ với nhiều bài thơ có giá trị, trong đó có bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ sau là đoạn thơ tiêu biểu thể hiện tâm tình bịn rịn quyến luyến của người ở lại đối với người ra đi:
“Mình về mình có nhớ ta
……………
Cầm tay nhau, biết nói gì hôm nay”
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương Đảng và Nhà nước chuyển từ Việt Bắc (Thủ đô kháng chiến) về thủ đô Hà Nội. Sự lưu luyến giữa kẻ ở và người ra đi đã khơi nguồn cảm xúc lớn cho nhà thơ sáng tác “Việt Bắc”.
“Việt Bắc” được viết bằng thể thơ lục bát, dài 150 câu thơ, gồm hai phần. Phần đầu bài thơ tái hiện một thời gian khổ mà oanh liệt của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người. Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ngợi ca công ơn Bác Hồ và Đảng đối với dân tộc. Bài thơ có kết cấu đối đáp. Hai nhân vật trữ tình “mình-ta” kẻ ở, người đi bộc lộ tâm trạng trong buổi chia tay đầy lưu luyến, xúc động. Chuyện ân tình cách mạng được tác giả khéo léo thể hiện như câu chuyện tình yêu đôi lứa. Nhà thơ hoá thân vào hai nhân vật trữ tình để bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình, cũng là của những người tham gia kháng chiến. Đoạn thơ gồm 8 câu đầu thuộc phần một của bài thơ.
Đoạn mở đầu bài thơ là lời đối đáp giữa kẻ ở và người về, lời giã biệt giữa Việt Bắc với người cán bộ kháng chiến về xuôi. Đoạn thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.
Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay:
“Mình về mình có nhớ ta
…………………………………………..
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Bốn câu thơ gồm hai câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất, người Việt Bắc hỏi người cán bộ : khi
về xuôi thì còn nhớ người Việt Bắc không. Có nhớ thời gian gắn bó đã “mười lăm năm” và tình cảm là “thiết tha mặn nồng ”hay không. Trong câu hỏi, cụm từ “mười lăm năm” là chỉ thời gian từ sau khởi nghĩa Bắc Sơn ( 1940) đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi (1954). Đó là khoảng thời gian Việt Bắc là căn cứ cách mạng. Các từ “thiết tha mặn nồng” là để chỉ mức độ tình cảm, đó là tình cảm tha thiết, sâu nặng. Từ đó thấy được: ở câu hỏi này, người ở lại đã nhắn nhủ với người về xuôi hãy nhớ Việt Bắc và cách mạng có thời gian gắn bó lâu dài, có tình cảm tha thiết, sâu nặng.
Câu hỏi thứ hai, người Việt Bắc hỏi người cán bộ : khi về xuôi, nhìn “cây” thì có nhớ đến “núi” ở Việt Bắc không, nhìn “sông ”thì có nhớ nguồn nước ở Việt Bắc không. Trong câu hỏi, cụm từ “nhìn sông nhớ nguồn” gợi nhớ đến câu tục ngữ “uống nước nhớ nguồn” quen thuộc. Như vậy, trong câu hỏi này, một cách khéo léo, người ở lại như muốn nói với người về, cũng là lời khẳng định của nhà thơ: Việt Bắc là cội nguồn cách mạng.
Điều đó thật đúng. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, Việt Bắc trở thành căn cứ địa cách mạng, là nơi Bác Hồ, Trung ương Đảng và mặt trận Việt Minh lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, dẫn tới thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Năm 1946, thực dân Pháp trở lại đánh chiếm nước ta. Hà Nội rơi vào tay giặc. Việt Bắc tiếp tục trở thành căn cứ kháng chiến. Việt Bắc là “An toàn khu”, đã che chở, bảo vệ các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ trong suốt thời kì kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc đã góp phần quan trọng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, đưa dân tộc Việt Nam lên tầm cao của thời đại .Việt Bắc đúng là cội nguồn, là cái nôi của cách mạng. Vì vậy , kết thúc phần đầu bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã viết “Mười lăm năm ấy ai quên – Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà”.
Cả bốn câu thơ, qua lời ướm hỏi, đã khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, nghĩa tình; qua đó thể hiễn tâm trạng người ở lại: lưu luyến , bâng khuâng trong buổi chia tay, nhắn nhủ, tâm tình cùng người về xuôi về nghĩa tình cách mạng.
Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
…………………………………………..
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Ở hai câu trên, người về không trả lời câu hỏi của người ở lại mà đưa ra câu hỏi nhưng là để bộc lộ tâm trạng. Từ “ai” phiếm chỉ, nhưng ở đây là chỉ người Việt Bắc. Có thể hiểu hai câu thơ này là: nghe lời hỏi “tha thiết” của người Việt Bắc, người về xuôi thấy “bâng khuâng” trong dạ, “bồn chồn” bước đi. Từ láy “bâng khuâng” diễn tả tâm trạng của người cán bộ: nhớ, buồn vì phải chia tay với Việt Bắc, nơi đã gắn bó suốt “mười lăm năm” với bao “đắng cay ngọt bùi”. Nhưng người cán bộ cũng hồi hộp, không yên trong lòng vì sắp được trở về quê hương sau thời gian dài xa cách.
Ở hai câu thơ dưới, “áo chàm” là hình ảnh hoán dụ chỉ người Việt Bắc. Hai câu thơ đã gợi ra hình ảnh người Việt Bắc và cán bộ cách mạng trong buổi “phân li”, cầm tay nhau mà không biết nói gì. Đó là hình ảnh kẻ ở người đi lưu luyến không muốn rời xa. Đó là tâm trạng xúc động không nói nên lời. Xúc động vì phải chia tay sau “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Người về còn xúc động vì phải rời xa nơi có “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”. Nơi đã từng “chia củ sắn lùi- Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
Nhìn chung, tám dòng thơ đầu là cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn nhưng là cuộc chia tay lớn mang tính chất chính trị trọng đại trong hình thức cuộc chia tay tình tứ của lứa đôi. Đoạn thơ đậm đà tính dân tộc với thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết cấu đối đáp thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng mình – ta với sự biến hoá linh hoạt, tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở, người đi đại diện cho tình cảm của cả cộng đồng.
Tóm lại, “Việt Bắc” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình cách mạng – một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến. Đoạn thơ nói riêng, bài thơ “Việt Bắc” nói chung, đúng là một bản tình ca ca ngợi đất nước và tình cảm cách mạng cao đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
11. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu - Mẫu 11
Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. 8 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc đã tái hiện niềm thương nỗi nhớ, cũng chính là niềm trăn trở chung của đồng bào ta trong lần chia tay lịch sử.
Tính dân tộc là những dấu ấn độc đáo, không lặp lại, biểu hiện những gì là bản sắc, là những nét riêng biệt đặc thù của một dân tộc. Tính dân tộc được hiểu là một đặc tính nhưng đồng thời cũng là thước đo giá trị của một tác phẩm văn học. Những tác phẩm văn chương lớn từ trước cho đến nay. Mà những tác phẩm vừa mang tính nhân loại, vừa mang tính dân tộc sâu sắc.
Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Về nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề hiện thực đời sống cách mạng nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dân tộc, những tình cảm chính trị có sự gắn bó, hòa nhập với truyền thống tình cảm và đạo lí của dân tộc, khát vọng và ý chí của một dân tộc. Về hình thức nghệ thuật, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc (cách so sánh, ẩn dụ, hiện tượng chuyển nghĩa, cách diễn đạt gần với ca dao dân ca). Nếu hiểu như thế thì thơ Tố Hữu mang phong cách nghệ thuật “đậm đà bản sắc dân tộc”.
Bốn câu thơ đầu là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của người ở lại, khơi gợi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội nghĩa tình, thể hiện tâm trạng nhớ thương, tình cảm gắn bó, thủy chung của quê hương Việt Bắc, con người Việt Bắc dành cho người về xuôi. Ở đây, nhà thơ sử dụng thành công những hình ảnh đối đáp kiểu dân gian:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Khung cảnh chia tay bịn rịn giữa kẻ ở và người về. Cách xưng hô “mình – ta”: thân mật gần gũi như trong ca dao. Điệp từ “nhớ” thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng. Cách xưng hô “mình – ta” : thân mật gần gũi như trong ca dao. Điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ” : lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, về thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình.
Người ở lại đặt câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta” để nhắc nhớ người ra đi, gợi trong người ra đi những kỷ niệm về ” mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Mười lăm năm ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10.1954, là mười lăm năm “Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi”, là mười lăm năm có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia, mười lăm năm “bát cơm chấm muối mối thù nặng vai”…làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ “thiết tha mặn nồng” cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Có lẽ vì thế nên nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã cho rằng: ” “Mười lăm năm ấy” không chỉ đo bằng thước đo thời gian mà còn đo bằng thước đo tình cảm con người. Đó chính là thứ thuốc thử làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn”.
“Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Lại một câu hỏi tu từ nữa xuất hiện. Lại là một lời nhắc nhớ, gợi thương. Về Hà Nội rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành: Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Câu thơ này phải chăng là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của nhà thơ Tố Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài.
Hai câu hỏi đều hướng về nỗi nhớ, một nỗi nhớ về thời gian “mười lăm năm”, một nỗi nhớ về không gian: sông, núi, nguồn. Đó là khoảng thời gian gắn bó biết bao kỉ niệm của người dân Việt Bắc với người lính.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Bốn câu thơ là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi: tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn đầy lưu luyến, bịn rịn của người kháng chiến đối với cảnh và người Việt Bắc.
Từ láy “bâng khuâng” thể hiện sự xao xuyến, “bồn chồn” thể hiện sự không yên tâm trong dạ, không nỡ rời bước. Hình ảnh “áo chàm” chỉ người dân Việt Bắc thân thương giản dị. Cử chỉ “cầm tay nhau” thay lời nói chứa đầy cảm xúc. Không khí buổi chia tay thân tình, gần gũi, bịn rịn không muốn chia xa.
Lời người ở lại nhắn gửi tới người ra đi: Lời nhắn gửi được thể hiện dưới hình thức những câu hỏi: nhớ về Việt Bắc cội nguồn quê hương cách mạng, nhớ thiên nhiên Việt Bắc, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ những kỉ niệm ân tình…
Nếu như người Việt Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi nhớ thì trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng tha thiết. Không sử dụng đại từ xưng hô “mình”, “ta” mà người xưng hô sử dụng đại từ “ai” để khẳng định trước hết là sự gắn bó với người ở lại. Ai có thể là đại từ để hỏi nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm chỉ, rất gần cách nói của ca dao: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi” Tố Hữu sử dụng và khai thác triệt để sự biến hoá hết sức linh diệu trong giá trị biểu cảm của từ “ai”. Một chữ “ai” của người về xuôi đủ làm xao xuyến lòng người đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương Việt Bắc đến chừng nào và hiểu nỗi niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách mạng, đối với người miền xuôi. Một chữ “ai” làm xao động cả không gian đưa tiễn. Phải chăng: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Hai từ láy “bâng khuâng” và “bồn chồn” góp phần làm tăng thêm tâm trạng người ra đi. Tình thương nỗi nhớ như níu chân người ở lại “Bước đi một bước lâu lâu lại dừng” để rồi “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Không biết nói gì phải chăng là vì có quá nhiều thứ để nói. Bao nhiêu ân nghĩa, sắt son chẳng thể nào dùng ngôn từ để diễn tả, đành phải gửi tâm tình qua cái nắm tay thật chặt, thật lâu. “Cầm tay” là biểu tượng của yêu thương đoàn kết. Chỉ cần cầm tay nhau thôi và hãy để hơi ấm nói lên tất cả, yêu thương, nhung nhớ, nghĩa tình sẽ ấm mãi như hơi ấm tay trao tay nhau lúc này. Dấu chấm lửng ở cuối câu như càng làm tăng thêm cái tình cảm mặn nồng, dạt dào, vô tận. Nó như nốt lặng trong một khuông nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. Qua đó con người Việt Nam hiện lên thật đẹp với những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm chất dân tộc: ân nghĩa, thủy chung, son sắt.
Về mặt nghệ thuật, Tố Hữu đã vô cùng khéo léo khi sử dụng thành công thể thơ lục bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc để diễn tả tình cảm cách mạng. Từ xưa đến nay lục bát vốn là thể thơ dễ đi vào lòng người bởi âm điệu ngọt ngào vốn có của nó. Nếu đừng để diễn đạt tình cảm thì không còn gì hay bằng. Hay hơn nữa nhà thơ đã khéo vận dụng lối đối đáp vốn là hình thức diễn ý quen thuộc trong ca dao dân ca.
Chính điều ấy đã làm cho bài thơ mang đậm âm hưởng ngọt nào và thấm đượm tinh thần dân tộc. Bên cạnh đó ngôn ngữ là yếu tố góp một phần không nhỏ gợi lên cái hồn dân tộc của tác phẩm nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ thơ của Việt Bắc mượt mà, uyển chuyển đặc biệt là cặp đại từ nhân xưng mình-ta vừa ngọt ngào lại vừa sâu lắng mà ta thường bắt gặp trong những câu ca dao về tình yêu đôi lứa.
Tính dân tộc về mặt hình thức còn thể hiện qua hình ảnh. Đó là dáng núi hình sông :” Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đó là hình ảnh chiếc áo chàm trong “buổi phân li”. Áo chàm là hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc nghĩa tình nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Những con người ấy là đại diện cho một dân tộc Việt Nam vừa hào hùng lại hào hoa: “Lưng mang gươm tay mềm mại bút hoa/Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”.
Tính dân tộc không chỉ vô cùng thành công trên bình diện nghệ thuật mà còn đậm nét qua nội dung, tư tưởng. Việt Bắc nói chung và tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh đậm nét hình ảnh con người Việt Nam trong thời đại cách mạng; đã đưa những tư tưởng tình cảm cách mạng hòa nhịp và tiếp nối truyền thống tinh thần, tình cảm đạo lý dân tộc.
Bằng tài hoa của một người nghệ sĩ và một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mạng, Tố Hữu đã viết nên một bản tình ca, anh hùng ca đậm đà bản sắc dân tộc. Nghĩa tình sâu nặng của người kháng chiến đối với chiến khu Việt Bắc, của quần chúng đối với cách mạng trong thơ Tố Hữu là sự kế thừa tình cảm, đạo lý sống của con người Việt Nam “Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung. Để rồi Việt Bắc đã thực sự trở thành một trong những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên.
8 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc là minh chứng cho sự thành công của thơ Tố Hữu trong việc kết hợp hai yếu tố: Cách mạng và Dân tộc trong hình thức đẹp đẽ của thơ ca. Tính dân tộc là một trong những đặc điểm nổi bật làm nên phong cách thơ Tố Hữu. Thơ Tố Hữu mang vẻ đẹp của thơ ca truyền thống nhưng vẫn mang đậm hồn thơ của thời đại cách mạng.
12. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu - Mẫu 12
“Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi nhà thơ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn…”
Giống như mỗi người, sẽ sở hữu riêng cho mình một loại vân tay riêng, không giống bất kì ai. Thì mỗi nhà văn, nhà thơ, cũng sẽ sở hữu một phong cách “một dạng vân chữ” riêng biệt. Vì thế, khi đọc những tác phẩm văn chương, ta không thể trộn lẫn giữa Hồ Xuân Hương với Xuân Quỳnh khi cả hai cùng nói rất hay về thơ tình yêu người phụ nữ. Và nổi lên trong phong trào dân tộc dân chủ, cùng sự phát triển của văn học nước nhà, ta nhớ tới Tố Hữu, những khổ thơ mượt mà như áng tóc trữ tình của ông, học được trong ca dao nhưng lại nổi lên một phong cách rất riêng của Tố Hữu, và ta được biết đến điều đó rõ hơn, thông qua 8 khổ thơ đầu bài thơ Việt Bắc.
Nói đến Tố Hữu là nói ngay đến cây đại thụ của làng văn. Ông mang trong mình một áng thơ ca chạy suốt chiều dài lịch sử, thơ văn viết về lịch sử là thế, nhưng trong đó lại mang đậm dấu ấn của một người con rất Huế, rất Việt Nam, lúc nào cũng tha thiết, lúc nào cũng vấn vương gợi tình.
Mình về mình có nhớ ta
Mười năm lăm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Bài thơ Việt Bắc là một trong những kiệt tác văn chương rất tiêu biểu của tiếng thơ Tố Hữu. Ra đời trong bối cảnh kháng chiến chống Pháp vừa giành thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội tiếp quản. Lấy cảm hứng từ buổi chia tay mang ý nghĩa lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động viết ra áng thơ này. Việt Bắc như mang nặng hồn thiêng của sông núi, vì thế, bài thơ đến gần với trái tim người đọc, nhờ tính dân tộc đậm đã, được thể hiện đậm nét trong cả hai phương diện nội dung và hình thức.
Ta biết tính dân tộc trong một bài thơ, là một khái niệm quen thuộc, thuộc phạm trù tư tưởng- thẩm mĩ, và là mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa văn học và dân tộc. Tính dân tộc trong một bài thơ là cách thức thể hiện và nội dung có tính bền vững cho các sáng tác của dân tộc ta, được hình thành từ quá trình phát triển của dân tộc từ xưa đến nay. Và tính dân tộc, phải được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và hình thức.
Trong ca dao ta vẫn thường nghe có câu:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng đã có nhưng chưa ai vào
Vậy đấy, tính dân tộc là đây chứ đâu. Vì sao ca dao dân ca từ ngàn đời nay vẫn mới và vẫn luôn khiến ta cảm thấy mến thương như vậy. Đơn giản, bởi ca dao luôn mang đậm chất trữ tình, ngọt ngào, chân chất và gần gũi, được thể hiện qua thể thơ lục bát uyển chuyển. Bắt nhịp và nối tiếp những giá trị cao quý đó của ca dao dân ca, Tố Hữu đã vận dụng nhuần nhuyễn để làm ra Việt Bắc.
Mình về mình có nhớ ta
Mười năm lăm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tính dân tộc trước hết thể hiện ở thể thơ lục bát quen thuộc, nhờ nó, ý thơ vốn uyển chuyển và đầy chất trữ tình của Tố Hữu càng được bộc lộ một cách rõ nét. Không những thế, Tố Hữu đã vận dụng khéo léo lối đối đáp vốn là hình thức quen thuộc trong ca dao, ngôn ngữ mượt mà, uyển chuyển, đặc tả tình cảm giữa mình – ta ngọt ngào sâu lắng, mà ta vốn thường hay gặp trong những câu ca dao viết về tình yêu lứa đôi.
Đoạn thơ đầu đặc tả nỗi nhớ của người ở lại dành cho người da đi, ngôn từ bình dị nhưng tha thiết và quyện chặt trong lòng kẻ đi người ở. Tình cảm người gắn bó keo sơn tựa như tình cảm đôi lứa, qua đó càng cho ta thấy sự đoàn kết của nhân dân ta trong thời kì kháng chiến. Hóa ra, dù có khó khăn cách trở về không gian, thời gian, trái tim của những người con đất Việt vẫn mãi gắn bó và dành cho nhau. Chỉ cần anh cần, tôi luôn có mặt. Những hình ảnh mang đậm tính dân tộc cũng được tả rõ nét, đó là “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” những cây, những núi, sông, nguồn, là những hình ảnh quen thuộc, vốn đã đi vào tiềm thức của người dân ta muôn đời.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Lời đầu tiên là lời người ở lại dành cho người ra đi, vì nhớ thương, vì luôn canh cánh trong lòng, nên đoạn thơ này tựa như một lời đồng vọng thân thương mà người ra đi đáp lại người ở. Từ “ai” là một đại từ phiếm chỉ, như ám chỉ hình ảnh tiếng hát da diết và mộc mạc của người dân vùng núi Việt Bắc, người cất bước ra đi nhưng vọng trong hoài niệm, trong nhung nhớ vẫn luôn nghĩ về ân tình Việt Bắc, muối mặn gừng cay, phai chăng “Khi ta ở thì là nơi đất ở/ khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn” là vậy? Những hình ảnh mang đậm tính dân tộc như “áo chàm” “cầm tay” mang một vẻ đẹp đơn sơ, giản dị nhưng ấm cúng lắm. Những cái bắt tay mặn mà tình cảm, những tấm áo chàm là hoán dụ cho nhân dân Việt Bắc, cầm tay thôi là đã nói lên tất cả, ngôn ngữ dần như cũng ngưng đọng lại, bồi hồi vì cảm xúc mà không nói thành lời.
Qua đó, càng nổi bật rõ nên nét dân tộc truyền lại trong thơ Tố Hữu, đặc tả vẻ đẹp thủy chung, nghĩa tình, son sắt của người dân quê hương. Việt Bắc là sự kế thừa trọn vẹn những tinh hoa của văn chương muôn đời.
13. Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu - Mẫu 13
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, đậm chất trữ tình. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị như tập thơ “Từ ấy”, “Máu và hoa” trong đó tiêu biểu nhất là bài thơ “Việt Bắc” trích trong tập thơ “Việt Bắc”. Bài thơ đã thể hiện một cách thành công về nỗi nhớ nhung, tâm trạng bồi hồi, lưu luyến trong buổi chia tay của người Việt Bắc với cán bộ cách mạng. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:
Mình về mình có nhớ ta?
…
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Việt Bắc là căn cứ địa cách mạng, là cái nôi kháng chiến. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 7 năm 1954, hiệp định Giơ ne vơ được ký kết. Tháng 10 năm 1954, Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử ấy Tố Hữu đã viết bài thơ “Việt Bắc”.
Câu thơ mở đầu là một câu hỏi tu từ chứa nhiều cảm xúc:
Mình về mình có nhớ ta?
“Mình” là chỉ người ra đi - người chiến sĩ cách mạng, “ta” chính là người Việt Bắc. Câu hỏi chính là lời của người ở lại hỏi người ra đi rằng khi người chiến sĩ cách mạng về xuôi rồi còn có nhớ đến người Việt Bắc hay không? Với cách xưng hô “mình - ta” đậm chất ca dao cùng với điệp từ mình đã cho ta thấy được tình cảm gắn bó thân thiết đầy yêu thương, làm cho nỗi nhớ càng trở nên day dứt khôn nguôi. Người Việt Bắc muốn hỏi người kháng chiến có nhớ:
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mười lăm năm là từ chỉ thời gian, là khoảng thời gian gắn bó keo sơn giữa người chiến sĩ và người Việt Bắc. Đó là một khoảng thời gian dài cùng nhau chiến đấu, cùng nhau vượt qua biết bao gian khổ. Từ “ấy” vang lên chứ tác giả không sử dụng từ “đó” như để làm tăng thêm ý nghĩa của khoảng thời gian “mười lăm năm” đồng thời thể hiện sự trân trọng của tác giả với những ngày tháng gắn bó. Những từ “thiết tha”, “mặn nồng” là những từ nhấn mạnh tình cảm gắn bó keo sơn giữa người Việt Bắc và người cách mạng. Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh hơn về tình nghĩa thủy chung son sắt luôn hướng tới cách mạng, hướng tới những người chiến sĩ của người dân Việt Bắc.
Câu thơ tiếp theo như một lời nhắc nhở đối với người chiến sĩ cách mạng:
Mình về mình có nhớ không?
Vẫn là câu hỏi tu từ, vẫn là cách xưng hô “mình” nhưng đây là câu hỏi vang lên như một lời nhắc nhở “có nhớ không”. Người Việt Bắc muốn nhắc nhở người chiến sĩ cách mạng về xuôi hãy nhớ đến Việt Bắc, hãy:
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
Khi về tới Hà Nội, người cách mạng khi nhìn thấy cây ở Hà Nội phồn hoa thì hãy nhớ đến núi rừng nơi Việt Bắc. Hãy nhớ nơi gắn bó thủy chung son sắc, nơi người cách mạng và người Việt Bắc đã cùng chiến đấu, cùng nhau vượt qua bao gian khổ. Khi nhìn thấy sông thì hãy nhớ đến nguồn, hãy nhớ đến sông núi Việt Bắc, nhớ đến những dòng sông cùng các chiến sĩ cách mạng chiến đấu. Hay đó chính là lời nhắc nhở của người Việt Bắc đối với người chiến sĩ cách mạng khi trở về xuôi nhìn thấy cảnh vật nơi phồn hoa đô thị tươi đẹp ấy thì hãy nhớ đến con người Việt Bắc, nhớ đến những ngày tháng chiến đấu gian khổ nơi núi rừng đầy hiểm trở, cheo leo. Điệp từ “nhìn” và “nhớ” dường như đã nhấn mạnh ý hỏi của người ở lại. Mong muốn những người cách mạng luôn nhớ về nơi Việt Bắc. Nơi có những con người sắt son, thủy chung, luôn mong nhớ về người cách mạng.
Bốn câu thơ đầu tiên là lời của người Việt Bắc hỏi người cán bộ về xuôi. Với lối đối đáp cách xưng hô “mình - ta” kết hợp sử dụng biện pháp điệp từ cùng với từ láy, đặc biệt là kết hợp với câu hỏi tu từ đã cho thấy được tình cảm gắn bó thiết tha, mặn nồng, thủy chung son sắt của người Việt Bắc. Qua đó ta có thể cảm nhận được phẩm chất tốt đẹp của con người nơi đây. Dù phải sống trong khó khăn, đồi núi hiểm trở, thiếu thốn nhưng tình yêu của họ đối với người chiến sĩ là không hề thay đổi, luôn luôn cồn cào, da diết và mãnh liệt.
Vẻ đẹp của đoạn thơ không chỉ là lời của người Việt Bắc mà còn là câu trả lời của người cách mạng dành cho Việt Bắc:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
…
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Với đại từ nhân xưng “ai” đó chính là tiếng lòng của người Việt Bắc vang vọng như muốn gọi người chiến sĩ ở lại, hay đó chính là tiếng lòng của người chiến sĩ không muốn chia xa. Từ “tha thiết” như làm cho tiếng gọi đó vang vọng hơn, sâu lắng hơn, làm cho ta cảm nhận được tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ cách mạng như vô cùng sâu nặng. Câu thơ tiếp theo càng làm rõ hơn điều đó:
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” chính là để chỉ tâm trạng người ra đi. “Bâng khuâng” là trạng thái lưu luyến day dứt, như còn lâng lâng một điều gì đó sâu sắc lắm trong tình cảm của mình. Nó khiến cho tâm trạng của con người day dứt đến khó chịu còn “bồn chồn” là chỉ sự ray rứt trong tâm trạng của con người như lo lắng điều gì đó. Tất cả đã tạo nên tâm trạng của người chiến sĩ cách mạng về xuôi, khi trở về xuôi vẫn còn mang trong mình nỗi nhung nhớ, ray rứt khôn nguôi, cả sự lo lắng trong tâm trạng của người cán bộ cách mạng. Qua đó ta có thể cảm nhận được tình cảm của người cách mạng đối với Việt Bắc cũng sâu nặng không kém gì tình cảm của người Việt Bắc dành cho họ.
Hai câu thơ cuối là hình ảnh chia tay đầy nước mắt giữa người chiến sĩ cách mạng và người Việt Bắc:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
“Áo chàm” là màu áo nâu, là màu áo của người nông dân nghèo khổ, cực nhọc, vất vả quanh năm suốt tháng lao động cần cù để phục vụ cho cách mạng. Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” chính là để chỉ người Việt Bắc. Những người Việt Bắc ra tiễn những người cách mạng về xuôi trong một tâm trạng day dứt, bâng khuâng. Từ “phân li” như thể hiện buổi chia tay ấy như là sự chia cắt. Dường như họ không muốn rời xa nhau nhưng do hoàn cảnh họ phải chia ly, xa rời nhau mỗi người một nơi. Qua đó thể hiện nỗi tiếc thương nhung nhớ, khẳng định tình cảm gắn bó sâu đậm của người Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng. Tình cảm ấy được khẳng định rõ ràng hơn trong câu thơ cuối:
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Không phải không có gì để nói mà là có quá nhiều điều để nói, không thể nói hết và không biết nói điều gì đầu tiên, từ “biết nói gì” đã thể hiện điều đó. Mười lăm năm gắn bó keo sơn, mười lăm năm cùng nhau vượt qua bao khó khăn gian khổ tình cảm của họ quá sâu đậm, có quá nhiều điều để nói nhưng những lời nói ấy tại sao không thốt nên lời, nó cứ nghẹn lại trong cổ họng mà thứ trào ra chỉ có nước mắt của sự chia ly. Không nói ra được họ chỉ biết cầm tay nhau, chỉ hành động “cầm tay” thôi đã cho ta cảm nhận thấy tình yêu thương mặn nồng giữa họ. Hành động “cầm tay” thay cho những lời nói yêu thương, những lời gửi gắm, tình cảm giữa họ dường như được truyền hết qua hành động ấy. Đó còn là sự thể hiện tình cảm, tâm trạng chưa xa đã nhớ của người chiến sĩ cách mạng và đó cũng chính là tiếng lòng của họ.
Tám câu thơ ngắn gọn nhưng mang biết bao ý nghĩ. Qua đó cho ta cảm nhận sâu sắc về tình cảm thủy chung son sắt, gắn bó sâu nặng giữa người Việt Bắc và người cán bộ cách mạng về xuôi. Qua đó ta thấy được tâm trạng bồi hồi lưu luyến day dứt của họ.
Không chỉ thành công về nội dung, đoạn thơ còn thành công về nghệ thuật. Với lối đối đáp, cách xưng hô mình - ta, điệp từ, điệp ngữ cùng với hình ảnh hoán dụ, từ láy, ngôn từ bình dị, đậm đà tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.
Qua đoạn thơ ta đã cảm nhận được một cách rõ nét tình cảm, tấm lòng, tình yêu thương mà người Việt Bắc và người cán bộ cách mạng dành cho nhau. Tám câu thơ trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mang lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Những ân tình ấy sẽ sống mãi trong lòng người đọc hôm nay và mai sau.