Phân tích bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử

Phân tích bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 11 hay dành cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 11 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

Dàn ý phân tích tác phẩm mùa xuân chín

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả và tác phẩm Mùa xuân chín

2. Thân bài

Bức tranh mùa xuân chốn thôn quê thật thanh bình, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương

Dấu hiệu báo xuân sang:

+ Làn nắng ửng

+ Khói mơ

+ Mái nhà tranh bên giàn thiên lý

-> Thanh tĩnh, bình dị, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương. Những hình ảnh bầu trời xanh đang dần gợi lại những hình ảnh tươi đẹp, nó đang dần lan tỏa và bom trùm lên toàn bộ không gian ở nơi đây, nó thể hiện một tình cảm đặc biệt nhất, với những hình ảnh của cánh đồng đang hát vang và vang và đám xuân xanh, ở đây ẩn dụ để nói những người con gái đang đến tuổi xuân thì

- Cảnh vật thôn quê đẫm hơi xuân:

+ Làn mưa xuân tưới thêm sức sống

+ Cỏ cây xanh tươi" gợn tới trời"

+ Niềm vui của con người khi xuân đến

- Niềm hạnh phúc của lứa đôi

- Tiếng thơ ngây sao khiến lòng người bâng khuâng, xao xuyến

=> Xuân mang vị "chín" của lòng người, của đời người

3. Kết bài

Khái quát lại tác phẩm Mùa xuân chín

Với ngôn ngữ kết tinh cùng tấm lòng hồn hậu của thi nhân, Hàn Mạc Tử đã viết nên một "mùa xuân chín" vẹn tròn, đầy đặn, thiết tha

Phân tích tác phẩm Mùa xuân chín mẫu 1

Hàn Mặc Tử là một thi sĩ có phong cách thơ rất riêng biệt, độc đáo. Ông để lại cho đời nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên hay Chơi Giữa Mùa Trăng. Bài thơ "Mùa xuân chín" là một bài thơ tiêu biểu, góp phần làm nên tên tuổi của nhà thơ.

Tựa đề bài thơ đầy ấn tượng" Mùa xuân chín", ta nghe như có sự mềm mại, hương thoang thoảng của vị xuân rạo rực mà không kém phần đằm thắm, ý tứ chất chồng những tầng sâu ý nghĩa khiến ta tò mò muốn khám phá, thôi thúc ta đi sâu vào nội dung tác phẩm để khám phá nét "chín" của mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử ra sao.

"Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lý bóng xuân sang"

Bức tranh mùa xuân chốn thôn quê thật thanh bình, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương. Trong làn nắng nhẹ của của bầu trời, làn khói xa như tan đi, tạo nên vẻ đẹp như mơ như thực, không quá chi tiết, chỉ đôi nét chấm phá nhưng khiến ta không khỏi xuyến xao trước khung trời đầy yên bình lúc này. Trên những mái nhà tranh nơi quê nghèo lấm tấm màu hoa thiên lý điểm tô, cơn gió nhẹ đung đưa những chiếc lá xanh biếc tạo nên thứ âm thanh lạ lùng" sột soạt", tất cả đều quá đỗi nhẹ nhàng mà thân thương. Mùa xuân đang len lỏi vào cảnh vật, trên giàn thiên lý báo xuân về, mùa xuân đến, cây cỏ, thiên nhiên, đất trời, và lòng người như hòa quyện lấy nhau:

"Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

Bao cô thôn nữ hát trên đồi;"

Vạn vật mang sức xuân, làn mưa xuân tưới thêm cho cỏ cây sức sống mới đầy xanh tươi "gợn tới trời" như đang đùa giỡn với nắng, với gió với mây. Tiếng hát đón xuân của bao cô gái thôn quê đầy tình tứ, mùa xuân đến khiến ai cũng vui tươi, phấn khởi, tâm hồn đầy trẻ trung, yêu đời. Giai điệu nhạc cất lên cùng lời ca:

"Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi."

Niềm vui xuân hoà cùng niềm vui của hạnh phúc lứa đôi, thế là ngày mai trong đám cô thôn nữ ấy, có người đi lấy chồng bỏ lại sau lưng những cuộc vui, có chút gì đó tiếc nuối đan xen trong niềm vui ấy. Mùa xuân điểm tô cho đời, kết nên quả ngọt cho tình yêu, mùa của niềm hạnh phúc tràn đầy.

"Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây,

Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,

Nghe ra ý vị và thơ ngây..."

Niềm yêu đời họa trong lời hát thơ ngây, trong sáng, tinh nghịch "tiếng ca vắt vẻo" trên lưng núi, hòa vào cảnh vật, âm vang mãi. Những âm thanh như đang chuyển động theo nhịp thời gian, "hổn hển" "thì thầm" với nhau đầy ý vị, thân thương. Tiếng thơ nghe sao khiến người bâng khuâng, xao xuyến đến lạ kỳ.

"Khách xa gặp lúc mùa xuân chín

Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"

Nếu ở khổ thơ đầu là hình ảnh cỏ cây tươi xanh thì đây chính là hình ảnh đối lập khi xuân chín, xuân đã không còn thơ mộng như khi vừa sang nữa, nó mang màu của nỗi tiếc nuối ngậm ngùi, mang màu của nắng gió thôn quê: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". Âm "ang" cuối bài làm cho câu thơ mang tâm trạng mênh mang khó tả, như nỗi lòng thì nhân đang băn khoăn, trĩu nặng xót xa về thân phận người con gái:

"Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"

Nếu ngày xưa khi đang tuổi xuân thì, nhịp xuân sang cùng lòng bao cô gái ngân nga lời ca, tiếng hát chào mừng thì giờ đây khi xuân chín, xa rời xuân xanh năm nào, "chị ấy" giờ trở thành một người phụ nữ với bao nỗi lo toan. Trách nhiệm cuộc sống và công việc của người mẹ, người vợ thêm nặng, song dù vất vả, nhọc nhằn vẫn ánh lên nét đẹp rạng ngời.

Bài thơ thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ dù giản dị nhưng được nhà thơ chọn lọc rất tinh tế. Mỗi tiếng thơ thốt lên là cả một bầu trời thương yêu vừa mang nỗi thương cảm vừa mang nỗi nhớ mênh mang chốn quê nhà vất vả, gian nan. Với ngôn ngữ kết tinh cùng tấm lòng hồn hậu của thi nhân, Hàn Mạc Tử đã viết nên một "mùa xuân chín" vẹn tròn, đầy đặn, thiết tha.

Phân tích tác phẩm Mùa xuân chín mẫu 2

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ đi đầu trong các phong trào thơ mới. Các bài thơ của ông mang một tâm hồn, niềm đam mê mãnh liệt với thiên nhiên, cuộc sống và con người. Một trong những bài thơ hay nhất của ông phải kể đến là bài “Mùa xuân chín” - được in trong tập Thơ năm 1988 để lại cho người nhiều cảm xúc.

Mùa xuân là thời điểm muôn hoa đua nở, cảnh sắc vùng quê tươi đẹp. Bài thơ " Mùa xuân chín" được nhà thơ sáng tác vào năm 1973, trong thời gian đầu mà nhà thơ lâm bệnh và đăng trong tập Nắng.

Bức tranh mùa xuân tươi đẹp, hơi thở của mùa xuân thể hiện sâu sắc trong từng câu thơ của Hàn Mặc Tử. Xuân về, mang theo những tia nắng ấm đầu tiên sau một mùa đông giá rét:

"Trong làn nắng ửng khói mơ tan,

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.

Sột soạt gió trêu tà áo biếc,

Trên giàn thiên lý bóng xuân sang"

Nắng xuân không như nắng thường. Đó là "ánh nắng" bởi vì nó có ánh sáng dịu dàng, ấm áp. Từ “làn” gợi cảm giác hơi thở và nắng như một “tảng” mỏng manh, mềm mại trải đều trong thơ và trong không gian. Mặt trời lại “thắp sáng” trong “khói mơ”. Khung cảnh thật nhẹ nhàng, xinh đẹp và huyền diệu. Ngòi bút của nhà thơ vẫn hướng đến lối thơ truyền thống, cổ điển, cảnh mà như nhập hồn, như có tình tràn trề. Ánh mặt trời mùa xuân đang tô điểm cho những mái nhà tranh trong làng quê một chút màu sắc và hương thơm của mùa xuân. Tiếng xào xạc trêu đùa của gió với những tà áo xanh biếc. Màu xanh của chiếc áo là sự báo hiệu của một tình yêu mùa xuân. Một chữ “trêu” sao mà ngọt ngào, thật đặc biệt, chẳng gì bằng nghe hương quê trong những câu ca dao, tình ca luôn làm xao xuyến lòng ta…Sự hô ứng vần thơ tạo nên một sự hài hòa, cân xứng và đậm chất thơ mộng của mùa khung cảnh mùa xuân. Chỉ với những điều đơn giản đấy đã gợi lên một sức sống tràn ngập, bình yên đặc biệt ở làng quê.

"Trên giàn thiên lý bóng xuân sang". Câu thơ đã thể hiện rõ sự mong ngóng mùa xuân đến sớm của tác giả. Cảm giác ngưng đọng trong cảm xúc vừa dịu dàng, vừa bâng khuâng của mùa xuân. Mạch thơ chùng xuống như mạch cảm xúc, xuân bước vào lấp đầy khoảng trống. Xuân đến mang theo những hơi ấm, giàn hoa thiên lý đã đến lúc vươn mình, phát triển xanh tốt. Mùa xuân thật dịu dàng, bình yên, bao trùm lên khắp không gian các làng quê.

Cứ tưởng mùa xuân sẽ đến một cách thật chậm như khung cảnh mà nó bao trùm, nhưng trong tâm hồn thơ mộng của nhà thơ thì mùa xuân lại đến một cách vội vàng:

"Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.

Bao cô thôn nữ hát trên đồi.

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,

Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi."

Mùa xuân mang đến cho vạn vật trong thiên nhiên một màu tươi mới. Hình ảnh ẩn dụ "sóng cỏ" trong xanh mãi mãi "gợn tới trời" giống như những làn cỏ đang nhảy múa khi gió mùa xuân thổi qua lại. Bầu trời đang dần hồi tưởng lại những hình ảnh đẹp đẽ đang lan tỏa khắp không gian. Nó thể hiện tình cảm đặc biệt nhất đối với những cánh đồng, những cô gái đang hát vang ngọn đồi. Trong sắc xuân ấy, tiếng hát vang lên giữa đồi núi xanh ngát thật vui tươi, như một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người dân Việt Nam. Hình ảnh "đám xuân xanh" là cách nói dụ tượng trưng cho những cô gái đến tuổi trưởng thành, sắp phải xa người thân để đi lấy chồng. Niềm vui được nhân lên nhiều lần khi có thêm niềm vui của hạnh phúc lứa đôi. Như vậy, là ngày mai cô gái đến tuổi xuân thì đã đi lấy chồng, bỏ lại những ngày tháng được cùng bạn bè đi chơi. Tuy có chút nuối tiếc của tuổi trẻ nhưng cũng là niềm vui khi cô gái tìm được hạnh phúc cho riêng mình. Mùa xuân đến, tô điểm thêm cho cuộc sống những niềm vui, tình yêu, hạnh phúc màu hồng. Qua đó, cho thấy mức độ nở rộ và nó tràn đầy sức sống của vạn vật đang dần sinh sôi, nảy nở.

Với nhà thơ Hàn Mặc Tử, tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên chưa bao giờ là hết:

"Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây,

Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây."

Tiếng hát "vắt vẻo" và " thơ ngây" giữa rừng mùa xuân bát ngát đấy sao mà thân quen đến vậy. Tình cảm của đôi lứa đã đến lúc chín muồi, nhất là trong lòng của những cô gái đang tuổi xuân thì, tiếng hát " vắt vẻo" như một bản tình ca mùa xuân. Đời sống tình cảm, nồng nàn của nhà thơ được thể hiện sâu sắc trong lời bài hát đấy, và nó càng "chín" hơn trong những mùa xuân khi có người thì thầm, tâm sự cùng. Âm thanh bài hát còn đọng lại trong từng ý thơ, hòa nhịp âm trầm, bay bổng tạo nên một sự chuyển đổi âm thanh hài hòa, tinh tế. Tâm hồn thơ mộng của nhà thơ đã hòa cùng là một với thế giới của những âm sắc mùa xuân. Tiếng hát "hổn hển" được ví von "như lời của nước mây", nó như nhịp thở vội vàng của mùa xuân đến. Đôi lứa thì thầm, tâm sự dưới những rừng trúc bao la, gắn kết tình cảm với nhau để tìm niềm vui, hạnh phúc. Đoạn thơ mang nhiều cung bậc âm thanh của mùa xuân, chan chứa niềm vui, sự tươi đẹp mới mẻ. Chính những điều đó để rồi đến những người đọc cũng cảm nhận được sự "ý vị và thơ ngây". Khung cảnh thiên nhiên của mùa xuân "chín" mang lại cho con người ta một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, một tình cảm gắn kết đặc biệt nếu ta đã từng ghé qua:

"Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,

Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng.

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông nắng trắng chang chang."

Những người khách, người con xa quê trong một lần bắt gặp khung cảnh mùa xuân yên bình, tươi đẹp trên những làng quê mà lưu luyến, khó quên được. Những khung cảnh thiên nhiên ấy làm cho tâm hồn của họ có một nỗi buồn, nỗi nhớ da diết về những kí ức xưa cũ mà bao nhiêu năm họ mới được nhìn lại. Nếu ở đầu bài thơ tác giả đã gợi tả một mùa xuân tươi đẹp, xanh ngát thì bây giờ đã đến lúc mùa xuân chín. Đã đến lúc những ánh nắng chói chang của mùa hè thay thế cho sự ấm áp, phát triển xanh tốt của mùa xuân. Hình ảnh người chị gánh thóc dọc bờ sông đấy là hình ảnh người con gái lúc xuân thì, sau khi có gia đình phải tần tảo lo toan. Cuộc sống đã đưa họ đến những vất vả, nhọc nhằn nhưng đó nét đẹp lao động của người vợ, người mẹ Việt Nam lúc bấy giờ.

Bài thơ nhẹ nhàng, ngôn ngữ giản dị, giúp nhà thơ chuyển tải rõ ràng cảm xúc của mình. Từng câu chữ như cả một bầu trời chan chứa yêu thương, cả cho quê hương đã khó rời xa và cho những kỷ niệm về mái ấm ấy. Ngôn ngữ kết tinh và tấm lòng nhân hậu của nhà thơ đã làm cho bài thơ “Mùa xuân chín” chan chứa đầy cảm xúc.

Phân tích tác phẩm Mùa xuân chín mẫu 3

Hàn Mặc Tử là nhà thơ có phong cách thơ rất riêng và độc đáo. Ông để lại nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái quê, Thơ điên hay Chơi giữa mùa trăng. Bài thơ “Mùa xuân chín” là bài thơ tiêu biểu làm nên tên tuổi của nhà thơ.

Nhan đề bài thơ thật ấn tượng “Mùa xuân chín”, nó âm vang sự dịu dàng, hương thơm nhè nhẹ của một mùa xuân rạo rực nhưng cũng không kém phần đằm thắm, chất chứa những tầng nghĩa sâu xa khiến ta phải băn khoăn tìm tòi, thôi thúc chúng ta muốn khám phá đi sâu vào nội dung tác phẩm để tìm hiểu xem mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử “trưởng thành” như thế nào.

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lý bóng xuân sang”

Bức tranh quê mùa xuân êm đềm, đậm đà, đằm thắm. Trong ánh nắng rực rỡ của bầu trời, những làn khói như tan ra, tạo nên một vẻ đẹp mộng mơ, không quá chi tiết, chỉ vài nét chấm phá nhưng lại khiến ta xao xuyến trước khung trời lúc này đã tĩnh lặng. Trên những mái nhà tranh của miền quê ngập tràn sắc hoa của trời, gió khẽ lay động những chiếc lá xanh tạo nên một tiếng “sột soạt” lạ lùng, tất cả thật tinh tế và thân thương biết bao. Mùa xuân đang len lỏi vào cảnh vật, trên thềm trời, xuân đang về, xuân đang về, cỏ cây, thiên nhiên, đất trời, lòng người như hòa vào nhau:

“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

Bao cô thôn nữ hát trên đồi;”

Vạn vật mang theo sức xuân, mưa xuân tiếp thêm sức sống tươi xanh cho cỏ cây, “gợn tới trời” như đùa giỡn với nắng gió, mây trời. Khúc hát chào xuân của bao cô gái quê chan chứa tình cảm, mùa xuân đến vui tươi, phấn khởi, tràn đầy sức trẻ và tình yêu cuộc sống. Giai điệu nhạc cất lên cùng lời ca:

“Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.”

Niềm vui của mùa xuân hòa cùng niềm vui lứa đôi, để rồi mai đây trong số những cô thôn nữ ấy sẽ có người đi lấy chồng bỏ lại cuộc vui sau lưng, có chút gì đó tiếc nuối đan xen trong niềm vui ấy. Mùa xuân làm đẹp đời, đơm hoa kết trái ngọt cho tình yêu chan chứa hạnh phúc.

“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây,

Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,

Nghe ra ý vị và thơ ngây…”

Tình yêu cuộc sống vẽ nên “tiếng ca vắt vẻo” hồn nhiên, trong trẻo, vui đùa trên triền núi, hòa vào cảnh vật khiến cho giọng ca vang vọng mãi. Những tiếng nói như chuyển động theo nhịp điệu của thời gian, “hổn hển”, “thì thầm” với nhau, đầy ẩn ý và tình cảm. Giọng thơ khiến người ta bâng khuâng, rạo rực lạ thường.

“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín

Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”

Nếu như ở câu thơ đầu tiên có hình ảnh cỏ cây xanh tươi thì đây là hình ảnh đối lập, khi chín thì mùa xuân không còn thơ mộng như lúc mới đến, nó mang màu sắc của tiếc nuối ngậm ngùi, mang màu của nắng gió thôn quê: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang” Chữ “ang” ở cuối khổ thơ khiến cho câu thơ mang một không khí mênh mang khó tả, như nỗi lòng của người thi nhân băn khoăn, xót xa cho thân phận người con gái:

“Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”

Nếu như trước đây ở tuổi thanh xuân, nhịp xuân đã đi vào lòng bao cô gái ngân nga câu ca vọng cổ, thì nay khi xuân đã chín, bỏ lại xuân xanh, “chị ấy” giờ đã trở thành một người phụ nữ với bao nỗi lo toan. Cuộc sống và trách nhiệm công việc của một người mẹ, người vợ nhiều vất vả nhưng vẫn tỏa sáng, ánh lên nét đẹp rạng ngời.

Lời thơ thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ giản dị nhưng nhà thơ lại lựa chọn thật tinh tế. Mỗi âm tiết thốt ra là cả một trời thương nhớ, mang theo cả sự đồng cảm và nỗi nhớ da diết về mảnh đất quê hương gian khó. Bằng ngôn ngữ kết tinh và trái tim nhân hậu của một nhà thơ, Hàn Mặc Tử đã viết nên một “mùa xuân chín” vẹn tròn, đầy đặn, thiết tha.

Phân tích tác phẩm Mùa xuân chín mẫu 4

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có nhiều sáng tác hay về mùa xuân, một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông là bài thơ Mùa xuân chín để lại cho tác giả nhiều cảm xúc.

“Mùa xuân chín” là tác phẩm viết về mùa xuân vào độ chín rộ, hình ảnh này gây được tình cảm đặc biệt của người đọc mà trước hết tác giả sử dụng những hình ảnh báo hiệu mùa xuân đến, hình ảnh những tiếng gió xào xạc, sột soạt soạt trên mái nhà, và những khoảng trời thông báo mùa xuân đến, những hình ảnh này gợi cho người đọc một liên tưởng và những ấn tượng nhất định:

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc,

Trên giàn thiên lý- đón xuân sang”

Những tia nắng đang dần nhẹ đi, vì mùa xuân đang đến, những mái nhà đã được lấm tấm vàng, ở đây hình ảnh vàng có thể thấy là hình ảnh những chiếc lá vàng rơi, gió xào xạc trên mái nhà là những hình ảnh sáng tạo gợi cho người đọc cảm giác rằng mùa xuân đã đến:

“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

Ba cô thôn nữ hát trên đồi

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”

Hình ảnh bầu trời trong xanh “gợn tới trời” gợi những hình ảnh tươi đẹp, dần lan rộng và bao trùm cả không gian nơi đây, nó thể hiện một tình cảm đặc biệt nhất, ngân nga tiếng hát với hình ảnh cánh đồng và mùa xuân xanh. Đây là phép ẩn dụ muốn nói rằng các cô gái đến tuổi thanh xuân đến tuổi đi lấy chồng, hình ảnh của bầu trời xanh với các cô gái đang hát trên núi. Hình ảnh này tượng trưng cho tiêu đề, mùa xuân đã chín, cho thấy giai đoạn tràn đầy sức sống của mùa xuân và mọi thứ đang dần lớn lên:

“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi

Hổn hển như lời của nước mây

Thầm thì với ai ngồi dưới gốc trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây.”

Giữa lưng chừng núi, tiếng những cô thôn nữ và câu hát trong trẻo, vắt vẻo trên không gian núi rừng, hình ảnh những câu hát như hòa vào thiên nhiên rừng núi. Một bức tranh mây núi, với nhiều hình ảnh đẹp và màu sắc, đặc sắc nhất chính là giá trị mà bức tranh ấy để lại cho mỗi chúng ta cái nhìn mới mẻ và sâu sắc. Hình ảnh con người giữa núi rừng, với những giai điệu âm vang thì thầm bên cạnh tạo cảm giác nên thơ và hài hòa với thiên nhiên, cảm giác thi vị và hòa nhập với thiên nhiên.

Hình ảnh những cô thôn nữ hòa cùng nhịp sống để lại cho người đọc một diện mạo mới về mùa xuân tươi tắn, căng tràn sức sống.

“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín

Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông nắng trắng chang chang.”

Còn hình ảnh kẻ khách đang lưu luyến trước cảnh sắc mùa xuân, luyến tiếc cảnh đẹp, hình ảnh này lay động tâm hồn họ với nỗi nhớ da diết, bâng khuâng. Hình ảnh mùa xuân mang lại cảm giác thân thuộc với người con gái gánh thóc năm nay và bên bờ sông nắng vẫn đang chang chang soi rọi vào tâm trí của con người, để lại trong lòng người ba cảm xúc lưu luyến trước khung cảnh thiên nhiên thơ mộng và tươi đẹp.

Bài thơ đã để lại cho người đọc những cảm xúc sâu sắc nhất, nó thể hiện một mùa xuân đang nở rộ mà tác giả đang tìm kiếm. Và tác giả cũng muốn khơi gợi trong lòng người đọc về tình yêu quê hương và mang đến cho bạn đọc những giá trị, những cái nhìn mới mẻ và thi vị. Hình ảnh mùa xuân hòa cùng tâm trạng của người đọc tạo cảm giác mạnh mẽ, bồi hồi cho cảnh sắc mùa xuân.

Phân tích tác phẩm Mùa xuân chín mẫu 5

Khi nhắc đến Hàn Mặc Tử, nhà thơ Chế Lan Viên từng nói rằng: "Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa, rực rỡ của mình". Ông đã để lại cho thơ ca Việt Nam rất nhiều bài thơ hay và ý nghĩa. Hồn thơ Hàn Mặc Tử được coi là hồn thơ "điên" cất lên từ số phận bất hạnh với những ám ảnh về "trăng" và "máu". Nhưng trong tác phẩm "Mùa xuân chín", thi nhân đã đem đến cho người đọc những cảm nhận về bức tranh thiên nhiên mùa xuân căng tràn sức sống. Từ đó, thể hiện tình yêu thiên nhiên, khát khao giao cảm với đời, với người mãnh liệt của ông.

Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi ra vẻ đẹp mùa xuân rực rỡ, tròn đầy. Động từ trạng thái "chín" kết hợp với danh từ "mùa xuân" gợi cho ta liên tưởng về một mùa xuân đang vào giai đoạn đẹp nhất, căng tràn sức sống nhất. Đồng thời, bộc lộ sự tiếc nuối của thi nhân trước cái đẹp không thể níu giữ, kéo dài vĩnh viễn. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.

Mạch thơ được triển khai thông qua hệ thống hình ảnh, các biện pháp tu từ, sự phối hợp nhịp và vần trong toàn bộ bài thơ. Có thể thấy, nhân vật trữ tình vừa hòa mình với thiên nhiên, trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống, vừa có những phút giây thoát li khỏi thực tại để trắc ẩn, ưu tư. Vì thế, giọng điệu bài thơ cũng được biến chuyển liên tục để phù hợp với tâm trạng của nhân vật trữ tình. Khi thì tha thiết, say sưa khi thì bị ngưng lại, tạo sự lắng đọng trong cảm xúc.

Khung cảnh mùa xuân được nhà thơ miêu tả thông qua hai hình tượng chính là hình tượng thiên nhiên và hình tượng con người trong mùa xuân. Vẻ đẹp thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy nhựa sống được khắc họa thông qua một loạt các hình ảnh thơ gợi hình, gợi cảm: "làn nắng ửng", "khói mơ tan", "bóng xuân sang", "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời". Hình ảnh "làn nắng ửng" cho ta hình dung về màu vàng nhạt của nắng. Đó là màu của nắng sớm mới lên đầy trong trẻo chứ không phải cái nắng gay gắt chói chang của ngày hè hay cái nắng vàng hanh của mùa đông. Trong khi đó "khói mơ tan" lại đem đến hai cách hiểu: khói phát ra từ những căn bếp trong buổi sáng sớm hoặc cũng có thể là làn sương khói tinh mơ. "Làn nắng ửng" kết hợp với "khói mơ tan" tạo cảm giác sương khói đang dần tan biến để nhường chỗ cho nắng mới lên. Đôi mái nhà tranh được nắng ửng nhuộm vàng để lại ấn tượng về một vùng quê thanh vắng, yên bình trong buổi sớm ban mai. Câu thơ "sột soạt gió trêu tà áo biếc" với biện pháp đảo ngữ và từ láy "sột soạt" vừa diễn tả được âm thanh vừa nhấn mạnh được sự trêu đùa, tình tứ của gió khiến tà áo biếc nhẹ bay. Mùa xuân của tự nhiên đã được hữu hình hóa thông qua biện pháp tu từ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong câu thơ "Trên giàn thiên lí bóng xuân sang". Tác giả đã ngăn cách câu thơ bằng dấu chấm nhằm tạo nhịp điệu thơ cũng như nhấn mạnh vào dấu ấn của mùa xuân. Sự thay đổi nhịp thơ từ 2/2/3 sang 4/3 một cách linh hoạt và cách gieo vần "vàng" - "sang", "trời" - "chơi" đã mở ra không gian mùa xuân bao la rộng lớn. Trong không gian ấy còn xuất hiện hình ảnh "Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời". Câu thơ không chỉ miêu tả được sắc xanh, mật độ của cỏ mà còn gợi ra được chuyển động của cỏ theo làn gió khiến mùa xuân ngập tràn khắp không gian. Ngôn từ của bài thơ đã gợi lên khung cảnh mùa xuân đang vào giai đoạn rực rỡ và tràn đầy sức sống nhất.

Trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy, nổi bật hình ảnh con người đang độ tuổi xuân. Hình ảnh thơ giàu sức gợi: "bao cô thôn nữ", "đám xuân xanh", "tiếng ca vắt vẻo", "ai ngồi dưới trúc", "khách xa", "chị ấy" khiến chúng ta hình dung về sự xuất hiện của con người. Hình ảnh "bao cô thôn nữ hát trên đồi" vừa diễn tả được đối tượng vừa miêu tả được hành động và nơi chốn cụ thể. Câu thơ "- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi" bỗng chốc trở thành lời nói trực tiếp thông qua dấu gạch ngang, kết hợp với sự thay đổi trong cách ngắt nhịp từ 2/2/3 sang 4/3, ý thơ bộc lộ sự tiếc nuối tuổi xuân của người con gái ngay khi đang ở trong mùa xuân. "Tiếng ca" được nhân hóa thông qua từ láy "vắt vẻo", "hổn hển", "thầm thĩ" tạo ra sự trầm bổng khác nhau, lúc thì nhỏ nhẹ, tha thiết, khi thì dồn dập, gấp gáp. Trong khung cảnh mùa xuân, con người hiện lên với tiếng hát trong trẻo.

Trái ngược với sự tươi vui, rộn rã của bức tranh thiên nhiên mùa xuân, khổ thơ cuối đã có sự chùng xuống về mặt cảm xúc của nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình được khắc họa thông qua hình ảnh "khách xa". "Khách xa" ở đây có thể hiểu là khách từ phương xa đến làng hoặc cũng có thể là nhà thơ ẩn mình dưới vai trò của một vị khách để diễn tả hoàn cảnh của bản thân. Người khách gặp đúng lúc mùa xuân chín mà lòng, trí nhớ về quê hương. Từ láy "bâng khuâng" gợi ra cảm giác buồn man mác, lửng lơ, vô định kết hợp với từ "sực" càng cho ta cảm giác về sự bất chợt, ngay tức khắc. Tại chính thời điểm đó, nỗi nhớ làng quê ngập tràn, dâng trào trong tâm tưởng của thi nhân. Tương tự câu trên, câu thơ " - Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?" với sự thay đổi trong cách ngắt nhịp từ 2/2/3 sang 4/3 và dấu gạch ngang đầu câu khiến câu thơ trở thành lời nói bộc lộ trực tiếp cảm xúc. Đây là câu hỏi của "khách xa" hay của chính tác giả đang tự hỏi chính mình "liệu năm nay chị ấy có còn gánh thóc dọc bờ sông hay không?". Câu thơ vừa diễn tả được hoạt động "gánh thóc" của đối tượng vừa miêu tả được không gian mùa hè với cái "nắng chang chang". Cách gieo vần "làng" - "chang chang" đã gợi ra sự vang vọng trong cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật trữ tình. Khổ thơ đã thể hiện nỗi nhớ quê, khát khao giao cảm với đời, với người mãnh liệt của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Cùng viết về đề tài mùa xuân, Nguyễn Bính thể hiện bức tranh tươi tắn, hồn hậu "chân quê để bày tỏ tình cảm với người con gái thì "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử lại diễn tả một mùa xuân tươi tắn, tràn đầy nhằm bộc lộ tiếc nuối và mặc cảm thân phận trước cuộc sống. Cả Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử đều sử dụng hình ảnh thơ gắn liền với các hình ảnh vùng quê. Nhưng điều làm nên dấu ấn của "Mùa xuân chín" chính là cách sử dụng ngôn từ giàu sức gợi, khắc họa nên mùa xuân ở trạng thái tròn đầy nhất.

Hàn Mặc Tử đã vẽ nên bức tranh sống động với đầy đủ màu sắc, đường nét, âm thanh của thiên nhiên, con người trong mùa xuân thông qua biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, so sánh, nhân hóa, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, hệ thống từ láy giàu sức gợi hình, gợi cảm cùng cách ngắt nhịp, gieo vần phá cách. "Mùa xuân chín" bộc lộ khát khao giao cảm với đời, với người của một hồn thơ "điên" đang mang trọng bệnh nhưng vẫn luôn hướng về cuộc sống.

----------------------------

Trên đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu Phân tích bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 11, soạn bài lớp 11 các bài trong sách Văn tập 1 và tập 2.

Các bài liên quan đến tác phẩm:

Đánh giá bài viết
2 10.660
Sắp xếp theo

    Văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức

    Xem thêm