Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan

Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan bao gồm dàn ý và các bài văn mẫu hay lớp 7 giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng hoàn thành bài văn hay và hoàn chỉnh. Mời các bạn tham khảo.

1. Dàn ý phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan

a. Mở bài

Bài thơ "Qua Đèo Ngang" giới thiệu về nhân vật Bà Huyện Thanh Quan và nội dung chính của tác phẩm.

b. Thân bài

(1) Hai câu đề: Cảnh vật thiên nhiên nơi Đèo Ngang

- Trong khoảnh khắc "Bóng xế tà," thời điểm kết thúc mỗi ngày, khi mọi người trở về sau một ngày làm việc vất vả, nhà thơ tìm thấy mình cô đơn tại Đèo Ngang.

- Khung cảnh thiên nhiên tại Đèo Ngang được miêu tả qua hình ảnh "Cỏ cây chen đá, lá chen hoa," biểu tượng hóa một thiên nhiên hoang sơ nhưng đầy sức sống.

- Nhà thơ đã thành công trong việc khắc họa khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang chỉ bằng vài nét mô tả, mang lại sự chân thực và sinh động.

(2) Hai câu thực: Cuộc sống con người nơi Đèo Ngang

Trong vùng thiên nhiên hoang sơ và mênh mông này, con người trở nên rất nhỏ bé:

- Bằng nghệ thuật đảo ngữ, nhà thơ tạo ra hình ảnh "Lom khom - tiều vài chú," nơi một vài chú tiều đứng lom khom dưới chân núi.

- Tương tự, qua "Lác đác - chợ mấy nhà," ông tạo ra hình ảnh một số căn nhà nhỏ nhắn, lác đác ven sông.

Như vậy, nhấn mạnh sự không đáng kể của con người trước sự rộng lớn của thiên nhiên. Con người chỉ tồn tại như một chấm nhỏ giữa vẻ đẹp vô tận của thiên nhiên. Sự xa cách giữa cảnh vật và con người tạo nên không gian hoang vu và cô đơn.

(3) Hai câu luận: Tâm trạng nhớ nhà của nhà thơ khi đứng trước Đèo Ngang

- Hình ảnh "con quốc quốc" và "cái gia gia" không chỉ là mô tả về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa).

- Thay vào đó, nhà thơ đã sử dụng tiếng kêu "quốc quốc" và "gia gia" để thể hiện sự nhớ thương đối với đất nước và quê hương của mình, qua đó thể hiện tâm trạng đậm đà của Bà Huyện Thanh Quan.

- Hai câu thơ này đánh dấu một sự kết nối tinh tế giữa con người và thiên nhiên, thể hiện lòng yêu quý và nhớ nhung sâu đậm của nhà thơ đối với quê hương.

(4) Hai câu kết: Nỗi cô đơn tột cùng của nhà thơ

- Câu thơ "Dừng chân đứng lại, trời, non, nước" tái hiện tình cảnh của nhà thơ một mình đứng ở Đèo Ngang, với tầm nhìn trải ra xa xôi chỉ thấy một vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên (bao gồm bầu trời, núi non, và dòng sông).

- Sự cô đơn của nhà thơ được thể hiện qua từng từ trong câu "một mảnh tình riêng," thể hiện tâm trạng riêng tư không thể chia sẻ với ai khác, và "ta với ta," chỉ có một mình nhà thơ đối diện với chính bản thân, cảm giác cô đơn và lẻ loi.

- Những câu này nhấn mạnh nỗi cô đơn và sự trống trải của tác giả trước sự mênh mông của thiên nhiên.

c. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Qua Đèo Ngang.

2. Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang

Phân tích bài thơ Qua Đèo Ngang mẫu 1

Bà Huyện Thanh Quan, một nữ thi sĩ danh tiếng trong văn học trung đại của Việt Nam, đã tạo ra một tác phẩm xuất sắc mang tên "Qua Đèo Ngang." Đây là một ví dụ điển hình cho phong cách thơ của bà. Bài thơ này đã vẽ lên trước mắt độc giả một khung cảnh thiên nhiên tại Đèo Ngang vào buổi chiều tà. Trong bức tranh hình ảnh đó, vẻ thoáng đãng của Đèo Ngang được mô tả cùng với sự heo hút của nó. Khung cảnh này thể hiện sự sống của con người, mặc dù vẫn còn giữ nguyên sự hoang sơ. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở việc mô tả thiên nhiên, tác giả còn truyền đạt thông điệp về tình yêu quê hương và niềm nhớ đối với quê nhà trong bài thơ này.

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

"Cụm từ 'bóng xế tà' đưa chúng ta đến thời điểm cuối cùng của một ngày. Nhà thơ đứng một mình tại nơi Đèo Ngang, trong bóng chiều tà. Sau đó, trong câu thơ 'Cỏ cây chen đá, lá chen hoa,' nhà thơ sử dụng một hình ảnh tượng trưng để mô tả vẻ đẹp thiên nhiên tại Đèo Ngang. Bằng cách sử dụng từ "chen" để kết hợp với hình ảnh của "đá, lá, hoa," nhà thơ tạo ra một bức tranh ước lệ. Trong sự hoang sơ của nó, thiên nhiên tại Đèo Ngang tràn đầy sức sống. Khung cảnh này được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét mô tả, nhưng nó hiện ra một cách chân thực và sống động."

Trong bức tranh thiên nhiên đó, hình ảnh con người là một phần không thể thiếu. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ để mô tả con người và môi trường xung quanh. Bằng cụm từ "lom khom - tiều vài chú," nhà thơ tạo ra hình ảnh một số chú tiều, với dáng đứng lom khom dưới chân núi. Đồng thời, qua "lác đác - chợ mấy nhà," tạo ra hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé, thưa thớt, lác đác ven sông. Những tượng hình này nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người trước bản vẻ mênh mông của thiên nhiên. Con người chỉ tồn tại như một điểm buồn lặng lẽ giữa vẻ đẹp hoang sơ và rộng lớn của thiên nhiên. Thiên nhiên là trung tâm chính trong bức tranh của Đèo Ngang.

Thiên nhiên càng cô quạnh, tâm trạng của tác giả lại càng cô đơn. Điều đó được bộc lộ rõ hơn ở những câu thơ tiếp theo:

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia”

Hình ảnh của "con quốc quốc" và "cái gia gia" không chỉ đơn thuần là mô tả về hai loài chim, chim đỗ quyên và chim đa đa. Tác giả đã khéo léo sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh bằng tiếng kêu "quốc quốc," "đa đa" để thể hiện một cảm xúc sâu sắc, nỗi lòng nhớ thương đối với đất nước và quê hương. Đọc đến đây, chúng ta gần như có thể cảm nhận được tiếng kêu khắc khoải, da diết vang lên từ sâu thẳm trong lòng.

Câu thơ "Dừng chân đứng lại, trời, non, nước" thể hiện hình ảnh nhà thơ đơn độc đứng tại Đèo Ngang, ánh mắt hướng về phía xa, nơi mà chỉ thấy vẻ đẹp rộng lớn của thiên nhiên trước mắt (bao gồm bầu trời, núi non, và dòng sông). Tâm trạng cô đơn của nhà thơ được thể hiện qua "một mảnh tình riêng," tình cảm riêng tư không thể chia sẻ với ai:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta"

Trong thơ Nguyễn Khuyến cũng đã từng sử dụng cụm từ “ta với ta”:

“Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta”

Trong bài thơ "Bạn đến chơi nhà," từ "ta" đầu tiên chỉ đề cập đến nhà thơ, người chủ nhà, và từ "ta" thứ hai chỉ người bạn, khách đến chơi. Sự xuất hiện của từ "với" thể hiện mối quan hệ thân thiết và sự gắn bó, không có khoảng cách giữa hai người. Điều này thể hiện tình bạn mật thiết và sâu đậm của nhà thơ đối với người bạn.

Tuy nhiên, trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ "ta với ta" ở đây đều chỉ về nhà thơ chính bản thân, cho thấy tâm trạng của bà lúc này, cô đơn và lẻ loi. Sự cô đơn này dường như không thể chia sẻ với bất kỳ ai.

Như vậy, bài thơ "Qua Đèo Ngang" đã thể hiện một cách rất sâu sắc tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan trước vẻ đẹp hoang sơ của Đèo Ngang. Bài thơ chứa đựng những tình cảm và ý nghĩa sâu xa.

Phân tích bài Qua Đèo Ngang mẫu 2

Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ "Qua đèo Ngang" tiêu biểu cho phong cách ấy.

Bài thơ "Qua đèo Ngang" được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết.

Chỉ 8 câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này. Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo Ngang:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, lá chen hoa

Không gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ "bóng xế tà". Có thể nói đây là thời gian là cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, chúng ta vẫn bắt gặp thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mặt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này.

Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ "chen" dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh sôi.

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Đến hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là "tiều vài chú". Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo Ngang.

Việc sử dụng hai từ láy "lom khom" và "lác đác" vừa chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang chờn vờn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn. Sang đến hai câu thơ luận thì cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậy

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Điệp âm "con cuốc cuốc" và "cái da da" đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe văng vẳng tiếng cuốc và gia gia kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quạnh quẽ bông nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê lương.

Nghe tiếng cuốc, tiếng da da mà tác giả "nhớ nước" và "thương nhà". Thương cảnh nước nhà đang chìm trong cảnh loạn lạc, gia đình li tan; thương cho thân gái phải xa nhà quạnh hiu, đơn độc. Nỗi lòng của bà huyện thanh quan như sâu thẳm tầng mây, trùng trùng điệp điệp không dứt. Hai câu thơ kết thì cảm xúc và nỗi niềm của tác giả được đẩy lên đỉnh điểm:

Dừng chân nghỉ lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta

Chỉ bốn chữ "dừng chân nghỉ lại" cũng đã khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chồn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn "một mảnh tình riêng". Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có "ta với ta". Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời đất.

Bài thơ "Qua đèo Ngang" với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây.

Phân tích bài Qua Đèo Ngang mẫu 3

Xã hội phong kiến luôn có sự chèn ép, ràng buộc tự do của những người phụ nữ bất hạnh, chỉ sống phụ thuộc, không làm chủ cho bản thân mình. Xã hội hiện đại bây giờ, phụ nữ luôn được tôn trọng, bình đẳng, không phân biệt đối xử như ngày xưa nữa.

Tình cảm yêu mến, muốn được bảo vệ hạnh phúc tự do cho mình, cũng không hề kém cạnh các đại nam nhi. Đối với bà Huyện Thanh Quan tuy không đi ra chiến trường chiến đấu, nhưng bà đã gửi gắm tinh thần, sự cổ động mạnh mẽ vào thơ, để tiếp thêm một phần sức mạnh, công lao của mình cho đất nước.

"Qua đèo ngang" gợi lên sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của bà Huyện Thanh Quan làm tiêu biểu cho phong cách thơ. Bài thơ "Qua đèo ngang" được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh vào Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi ngang qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, quê hương, thương cho thân người con gái yếu đuối đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú. Với 8 câu thơ mà đã thấy được những thần thái, cái hồn trong cảnh vật và con người trước cảnh núi rừng hiu quạnh.

"Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa"

Hai câu đề hiện rõ khung cảnh rừng núi hoang sơ lúc "bóng xế tà". Một cảnh chiều nặng nề làm cho lòng người trở nên u buồn, gợn sầu hơn. Tất cả như gợi lên nỗi nhớ muốn tỏ rõ nỗi lòng mà không ai bầu bạn, sẻ chia. Chỉ có "cây cỏ chen lá, đá chen hoa" hiu quạnh. Điệp từ "chen" khẳng định sức sống mạnh mẽ của cỏ, cây, bấu víu để sinh sôi nảy nở.

"Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà"

Đến hai câu thơ tiếp theo thì mới thấy bóng dáng của con người. "người tiều phu" đi lượm củi vẫn tạo cảm giác vô định, "lom khom" từ ngữ nhấn mạnh thể hiện sự vất vả của người tiều phu, phải đi kiếm từng khúc củi, ước tính số lượng cụ thể, sự sống hiếm hoi, xa vời, tìm một người bạn trở nên khó khăn hơn. Tiếp đến hai câu thơ luận phần nào cảm xúc của tác giả như được thể hiện rõ nét hơn:

"Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia"

Giữa chốn rừng sâu vắng lặng, vang lên tiếng chim cuốc đau lòng não ruột. Đó cũng có thể là thanh âm thật là hay là tiếng lòng trong tâm trạng nhà thơ. Mượn bút pháp ước lệ và nghệ thuật chơi chữ để nói lên tiếng lòng mình trước cảnh. Tiếng chim kêu làm tăng phần cô quạnh, phải chăng đó là tâm trạng hoài vọng nhớ thương nước nhà?

Cái bao la, vô tận của non nước làm chơi vơi bóng hình một mình giữa thiên nhiên, hồn cảnh - hồn người như hòa lẫn vào nhau, làm nỗi buồn da diết bị lắng đọng cùng.

"Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta"

Tiếng lòng non nước thấm thía, không san sẻ buộc nhà thơ thốt lên giãi bày "ta với ta" nghe chua xót. Chỉ ta mới hiểu được lòng ta, sự cô đơn như tăng lên gấp bội. Dù sầu muội như bà Huyện Thanh Quan vẫn cảm nhận được vẻ đẹp non nước dù nơi dừng chân có vẻ hoang sơ, nhưng đã tô lên vẻ đẹp hùng vĩ, bao la của núi rừng.

Bài thơ "Qua Đèo Ngang" vừa gợi lên một bức tranh về cảnh đẹp thiên nhiên núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, vừa gợi ra khung cảnh sống giản dị, đơn sơ mà ấm áp. Từ đó mang lại những cảm xúc, nỗi niềm, riêng tư của tác giả với tình yêu quê hương, đất nước da diết khi xa quê hương, lẻ loi một bóng hình nơi đất khách quê người.

Phân tích bài Qua Đèo Ngang mẫu 4

Bà Huyện Thanh Quan một trong những nữ văn sĩ nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Thơ văn bà để lại cho hậu thế không còn nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là phải kể đến bài Qua đèo Ngang. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình, bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của bà khi trên đường vào kinh đô Huế nhận chức. Mở đầu bài thơ là bức tranh phong cảnh thấm đẫm nỗi buồn hiu quạnh:

Bước đến đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Hai câu thơ mở ra không gian, thời gian nghệ thuật quen thuộc trong thơ trung đại, đây đồng thời cũng là nét đặc trưng phong cách của Bà Huyện Thanh Quan: chiều tà và bóng hoàng hôn. Thời gian là buổi chiều nhưng không phải là lúc đầu hôm mà là chiều tà, thời điểm chuyển giao giữa chiều và tối, ánh nắng chỉ còn nhạt nhòa và sắp lặn. Không gian mênh mông, rộng lớn, với cả trời, non, nước nhưng tất cả đều im ắng, vắng lặng đến rợn ngợp.

Trong không gian đó, hình ảnh cây cối, hoa cỏ hiện lên có phần hoang dại, chúng chen chúc nhau mọc lên. Từ “chen” gợi sức sống mãnh liệt của muôn loài trước cái cằn cỗi của đất đai, cái khắc nghiệt của thời tiết. Đồng thời từ này còn gợi lên thiên nhiên có phần hoang dã, vô trật tự. Không gian và thiên nhiên cây cỏ hòa quyện vào nhau càng làm sâu đậm thêm ấn tượng về mảnh đất hoang vu. Bức tranh được điểm thêm hơi thở, sự sống của con người:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Những tưởng rằng với sự xuất hiện của sự sống con người quang cảnh sẽ bớt vắng lặng, cô đơn hơn nhưng thực tế lại không phải vậy. Sự xuất hiện của con người trái lại càng khiến cảnh vật thêm phần heo hút, hoang vắng hơn. Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào dáng “lom khom” của những chú tiều, cái “lác đác” của mấy ngôi nhà ven sông kết hợp các từ chỉ số lượng ít ỏi “vài”, “mấy” khiến cho hình bóng con người đã nhỏ lại càng nhỏ hơn, cuộc sống đã hiu quạnh lại càng hiu quạnh hơn.

Bức tranh về một thế giới cô liêu hiện lên rõ hơn bao giờ hết. Nhìn lại cả hai câu thơ ta thấy chúng có đầy đủ các yếu tố của một bức tranh sơn thủy, hữu tình: núi, sông, tiều phu, chợ. Thế nhưng những yếu tố ấy khi hợp lại với nhau và khúc xạ qua cảm nhận của nhà thơ lại gợi lên một miền sơn cước hiu quạnh, heo hút.

Bốn câu thơ cuối nói lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc/ Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”. Những âm thanh của cuốc kêu cũng chính là nỗi lòng của Bà Huyện Thanh Quan. Tài dùng chữ của bà đã đạt đến độ điêu luyện: chữ quốc là nước đồng âm với chữ cuốc tức con chim, chữ gia là nhà gần âm với từ chữ đa là chim đa đa.

Chữ vừa ghi âm thanh nhưng đồng thời còn bộc lộ tâm trạng, ý tứ của tác giả, qua đó làm nổi bật tâm trạng, nỗi niềm của nữ sĩ. Vì phải xa quê hương, vào miền đất mới nhận chức nên bà nhớ nhà, nhớ gia đình. Còn nhớ nước tức là bà đang nhớ về quá khứ huy hoàng của triều đại cũ. Hai chữ nhớ nước, thương nhà được tác giả đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh và làm nổi bật nỗi niềm của bà.

Hai câu thơ cuối bộc lộ trực tiếp nỗi niềm cô đơn khắc khoải của nhà thơ: “Dừng chân đứng lại trời, non, nước/ Một mảnh tình riêng ta với ta”. Không gian mênh mông khiến con người lại càng trở nên bé nhỏ, cô đơn hơn. Sự vật tưởng là hòa quyện, gắn kết với nhau mà thực chất lại đang chia lìa đôi ngả, trời, non, nước được tách biệt với nhau bằng những dấu phẩy, đó là cái nhìn mang tính tâm trạng của chính tác giả.

Câu thơ cuối như là một lời khẳng định trực tiếp nỗi cô đơn đó “một mảnh tình” “ta với ta”. Đại từ “ta” không còn mang ý nghĩa chỉ chung, cộng đồng mà là cá nhân, chỉ một mình tác giả. Trong hai câu kết, tất cả là một sự gián cách, là một thế giới riêng, cô đơn đến tuyệt đối.

Không chỉ đặc sắc về nội dung, tác phẩm còn là điển hình mẫu mực về nghệ thuật cổ điển Đường thi. Bà sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú, chuẩn mực về niêm, luật, đối, ngôn ngữ trau chuốt, mượt mà mặc dù đã được Việt hóa. Sử dụng thành công đảo ngữ, chơi chữ. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình xuất sắc, tả cảnh vật mà bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của tác giả.

Qua bài thơ Qua đèo Ngang ta không chỉ ấn tượng bởi nghệ thuật tài tình, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển đường thi và chất dân dã của dân tộc, mà còn bị cuốn hút bởi nội dung. Bức tranh phong cảnh đèo Ngang hiu quanh, mênh mông đã thể hiện tâm trạng buồn bã, nỗi niềm nhớ nước, thương nhà của tác giả.

Audio Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang

Video Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang

.....................................

Ngoài văn mẫu Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, mời các bạn tham khảo thêm các tài liệu Ngữ văn lớp 7 để học tốt Ngữ văn 7 hơn.

Đánh giá bài viết
51 21.914
Sắp xếp theo

    Văn mẫu lớp 7 Cánh diều

    Xem thêm