Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích bốn câu thơ sau "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá. Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp. Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao"

VnDoc xin gửi tới quý độc giả bài viết: Phân tích bốn câu thơ sau "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá. Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Rượu đến gốc cây, ta sẽ uống. Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao". Bài viết là tài liệu học tập bổ ích, được VnDoc sưu tầm và biên soạn chi tiết để giúp các em học sinh có thêm tư liệu học tập. Mời các bạn tham khảo!

I. Dàn ý Phân tích bốn câu thơ sau Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đa tài, sống trong xã hội đầy bất công ông suy nghĩ, trăn trở về cuộc sống con người, quyết cầm bút lên để chiến đấu với gian tà.

- “Nhàn” là bài thơ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện rõ quan niệm sống của tác giả.

2. Thân bài

- Hai câu đề:

“Một mai/một cuốc/một cần câu

Thơ thẩn dầu ai/ vui thú nào”

+ Nhịp điệu những câu thơ đầu tạo cảm giác thư thái, ung dung

+ Bằng cách sử dụng những vật dụng quen thuộc của người dân lao động cho thấy cảnh nghèo khó nhưng an nhàn, thanh bình biết bao.

+ Tâm trạng của nhà thơ là tâm trạng của một kẻ sĩ “an bần lạc đạo” vượt lên trên nỗi lo lắng bon chen của đời thường để tìm đến thú vui của ẩn sĩ.

- Câu thực:

+ Cách sử dụng phép đối: dại >< khôn, nơi vắng vẻ >< chốn lao xao cho thấy được sự khác nhau giữa lối sống của tác giả và người đời thường. Ông cho rằng nơi vắng vẻ là nơi thôn quê yên bình ở đó không còn bon chen chốn quan trường, đây mới thực là cuộc sống.

+ Cách xưng hô “ta”, “người”

>>>> Hai về tương phản làm nổi bật ý nghĩa, nhân mạnh phương châm, quan niệm sống của tác giả khác với thông thường. Đồng muốn ngầm ý phê phán thói đời, thói người, và thể hiện cái cao ngạo của kẻ sĩ.

- Hai câu luận:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”

+ Cuộc sống giản dị không cần những thứ giàu sang hào nhoáng chỉ là sản vật từ nhiên nhiên “măng trúc” “giá” -> Thấy được cuộc sống an nhàn, đạm bạc thanh cao, lối sống hòa nhập với thiên nhiên của tác giả.

+ Cái thú sống an nhàn ẩn dật, những con người có nhân cách cao đẹp khi sống trong thời loạn lạc ấy để giữ được phẩm giá cốt cách của mình chỉ có cách cáo quan về ẩn dật, an lòng với cảnh nghèo khó, sống chan hòa với thiên nhiên với vũ trụ.

- Hai câu kết:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

+ Xem nhẹ lẽ đời sống sa hoa phú quý, ông ngậm ngùi coi đó như một giấc chiêm bao.

+ Lối sống thanh cao vượt lên trên lẽ đời thường

3. Kết luận

- Quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm sống vui thú với lao động, hòa hợp với thiên nhiên, giữ cốt cách thanh cao, xa lánh vòng danh lợi.

II. Văn mẫu Phân tích bốn câu thơ sau Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

1. Phân tích bốn câu thơ sau Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao - Mẫu 1

Phân tích bốn câu thơ sau "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá. Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp. Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao"

Ca ngợi lối sống thanh cảnh, gắn bó với thiên nhiên không phải là đề tài hiếm hoi trong thơ ca trung đại. Thế nhưng, đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư tưởng sống ấy được nâng tầm trở thành triết lí “Nhàn”, trở thành đặc trưng không thể thiếu khi nhận diện phong cách tác giả. Vẻ đẹp của quan niệm sống đó được thể hiện rất rõ trong bốn câu thơ cuối bài “Nhàn”.

Xuất thân là một nhà nho có học vấn uyên thâm, văn chương Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nặng tính chất giáo huấn, đề cao nhân cách trong sạch của kẻ sĩ. Sống dưới thời kì đất nước nhiều biến động, dù được vua chúa coi trọng nhưng ông vẫn từ quan về ở ẩn. Nếu bốn câu thơ đầu miêu tả cuộc sống thường nhật thì bốn câu thơ sau lại tập trung nói về quan niệm sống và vẻ đẹp nhân cách của nhà thơ. Thi nhân xưa thường dùng hình ảnh thiên nhiên để thể hiện tấm lòng trinh bạch:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Vòng thời gian tuần hoàn xuân – hạ - thu – đông gợi lên nhịp sống đều đặn, chậm rãi. Bốn mùa luân chuyển nhịp nhàng khiến tâm hồn con người thảnh thơi. Hòa vào tự nhiên, cảm nhận sự đổi thay của đất trời và đón nhận những thức quà dân dã chính là cách rời xa vòng danh lợi cám dỗ. Măng trúc, giá là những món ăn giản dị từ núi rừng. Hồ sen, ao nước cũng là cảnh vật gắn bó với làng quê. Phép đối rất chỉnh cùng phép liệt kê thể hiện rõ lối sống thuận theo tự nhiên, mùa nào thức nấy. Từ ăn uống đến sinh hoạt hằng ngày đều đậm chất “Nhàn”, rất giản dị và thanh tao.

Hai câu kết bài tựa như tiếng cười khà sảng khoái của nhà thơ khi rũ bỏ chốn quan trường nhốn nháo:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Nguyễm Bỉnh Khiêm sử dụng điển tích Thuần Vu Phần để thể hiện quan điểm của mình. Trong mắt ông, phú quý giàu sang chỉ như giấc chiêm bao hư ảo. Con người thèm khát tiền bạc vinh hoa, làm tất cả để có được nó thật chẳng khác nào đang theo đuổi ảo vọng mong manh dễ vỡ. Ông chọn cho mình thế đứng cao hơn tất cả, coi thường danh vọng. Nhà thơ chủ động lựa chọn, sống tự do và an nhiên, không trở thành nô lệ cho tiền tài. Nương theo tự nhiên để di dưỡng tinh thần, con người có được sự thanh thản trong tâm hồn, bảo toàn được khí tiết trinh bạch.

Thú sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho thấ cách ứng xử của những bậc trí thức trong thời kì đất nước rối ren. Họ lui về ở ẩn, vui vầy với thiên nhiên và dân chúng. Sống “Nhàn” không phải là thoát ly thực tại hay xa cách hiện thực. Sống “Nhàn” để thấu hiểu đời sống nhân dân, thêm yêu cảnh sắc quê hương và đối diện với chính mình. Ấy chính là cốt lõi nhân văn trong văn chương Nguyễn Bỉnh Khiêm.

2. Phân tích bốn câu thơ sau Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao - Mẫu 2

Hai câu trong phần luận đăng đối hài hòa làm hiện rõ một cách sống giản dị, bình dị, thanh bạch của kẻ sĩ cao khiết đã lánh đục tìm trong, đã thoát "chốn lao xao” đầy bụi trần:

"Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao ”

Trúc và giá còn thơm ngon hơn cao lương mĩ vị "chốn lao xao”.Tắm hồ sen về mùa xuân, tắm ao về mùa hạ đối với Bạch Vân cư sĩ là để thanh sạch tâm hồn, để di dưỡng tinh thần cho thêm phần thanh cao. “Xuân tắm hồ sen” là thú quê, là niềm vui dân dã không phải ai cũng tìm thấy, ai cũng được tận hưởng:

“Rủ nhau ra tắm hồ sen,

Nước trong bóng mát hương chen cạnh mình.

Cứ chi vườn ngọc ao quỳnh,

Thôn quê vẫn thú hữu tình xưa nay”.

(Ca dao)

Hai câu kết thể hiện một cốt cách thanh cao, ung dung tự tại của bậc cao sĩ phong lưu. Ở trên đã nói “ta tìm nơi vắng vẻ” thì khi uống rượu, “ta” lại “đến cội cây”. Trong lúc “người đến chốn lao xao" thì với "tư” lại “nhìn xem phủ quý tựa chiêm bao”. Xưa nay, đã mấy ai có cách sống đẹp như thế:

"Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Xưa kia, Nguyễn Trãi đã từng "Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng”. Uống rượu và uống cả ánh trăng thanh. Thì giữa am Bạch Vân, Trạng Trình lại ung dung “Rượu đến cội cây, ta sẽ uống Rượu ấy là rượu đế, rượu tăm, đâu phải là mĩ tửu. Có dị bản ghi: “Rượu đến cội cây, ta sẽ nhắp chữ "nhắp” mới thể hiện đầy đủ cốt cách của kẻ sĩ yêu nhàn và sống nhàn.

Có người cho rằng hai câu kết “tác giả có ý dẫn điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cây hòe, rồi mơ thấy mình ở nước Hòe An, được công danh phú quỷ rất mực vinh hiển. Sau bừng mất tỉnh dậy thì hóa ra đó là giấc mộng... Chúng tôi không nghĩ như thế. Một là, Thuần Vu Phần chưa có chút danh vọng gì, giấc mộng của ông ta chỉ là “giấc Nam Kha" mà thôi! Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi bước lên tới đỉnh cao danh vọng mới lui về quê cũ dựng am Bạch Vân để vui thú trong cảnh nhàn:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quỷ tựa chiêm bao”

Hai là, trong thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm có khá nhiều điển tích, còn trong thơ Nôm của ông rất ít điển tích, mà sử dụng nhiều tục ngữ, ca dao. Thuần Vu Phần là một con người bất đắc chí, say sưa, mộng hão, còn Bạch Vân cư sĩ là một con người đã từng đứng trên đỉnh cao danh vọng, ung dung tự tại, cao khiết nên mới có tâm thế "nhìn xem phủ quỷ tựa chiêm bao? ”

3. Bài phân tích bốn câu thơ sau "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá. Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp. Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao" bài 2

Văn học trung đại là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng những tài năng văn chương có đóng góp lớn lao đến muôn đời. Tên tuổi của các nhà thơ đã để lại trong ta bao ấn tượng. Và trong đó không thể không nói tới Trạng Trình NGuyễn BỈnh Khiêm với bài thơ Nhàn. Nhàn là triết lí sống của thi nhân giữa cuộc đời với đầy rẫy những xô bồ. Đặc biệt, qua bốn câu thơ cuối của bài, ta thấy rõ hơn cả triết lí, lối sống và vẻ đẹp tâm hồn thi nhân.

Bốn câu thơ đầu của bài:

Một mai một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

Bốn câu thơ cho ta thấy hoàn cảnh sống, quan niệm sống của nhà thơ. Trong cuộc sống thôn quê bình dị, thi nhân không thấy khổ sở, vất vả mà vui thú tận hưởng nó. Dù ngoài kia người người vui vẻ nơi chốn đông người, vui vẻ với vật chất đủ đầy thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn giản đơn chọn cho mình lối sống giản đơn. Ông bỏ mặc mọi vinh hoa phú quý kia và chọn lối sống an yên, tự tại. Dù có bị cho là dại nhưng tâm hồn người thi sĩ vẫn thấy đó mới là cuộc sống hưởng thụ, cuộc sống vui thú. Hình ảnh liệt kê, những từ láy, nhịp thơ giàu cảm xúc diễn tả được thi vị cuộc đời "lánh đục" trong nhà thơ.

Hai câu thơ luận đã gợi mở rõ nét hơn, chân thực hơn trước mắt người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của bậc hiền triết:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Một cặp câu đã lột tả hết tất cả cuộc sống sinh hoạt cùng thức ăn hằng ngày của người nông dân bình thường như bao người khác. Mùa nào thức nấy rất giản đơn chứ không cầu kì với sơn hào hải vị. Chính những thức ăn sẵn có một mạc này lại là thứ làm lòng người an yên hơn cả. Nghệ thuật liệt kê, đối đã trở thành những sợi dây gắn kết và làm sáng bức tranh tâm hồn thi nhân. Chỉ với vài nét chấm phá, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ngợi ca được sự phogn phú của sản vật quê hương. Những sản vật bình dị nhưng chứa chan nghĩa tình ấm êm. Đặc biệt câu thơ “Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao” giúp ta hiểu hơn về cuộc sống sinh hoạt của thi nhân. Hồ sen rồi ao, mọi thứ đều sẵn có, đều thân thuộc vô cùng trong cuộc sống nhà nông.

Hai câu thơ kết dường là sự khẳng định và đúc kết được tinh thần, cốt cách cũng như suy nghĩ của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Hai câu thơ này là triết lý và sự đúc rút Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thời gian ở ẩn. Cuộc đời ông làm quan, đỗ đạt và được hưởng công danh, tiền tài chẳng thể làm ông mờ tối. Với ông, phú quý “tựa chiêm bao”. Những vật chất ấy là một giấc mơ, khi tỉnh dậy thì sẽ tan biến và con người chỉ có trong say mê, trong ảo não thì mới có thể đắm mình. Còn khi tỉnh táo, thì giấc mơ phú quý sẽ tan biến. Điển tích điển cố được sử dụng trong lời thơ mang theo bao tâm tình. Lời thơ là lời khẳng định triết lí sống đẹp của con người giữa những xô bồ của thời cuộc.

Nhàn với bốn câu thơ cuối đã thành công trong việc sử dụng biện pháp nghệ thuật liệt kê, những hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị, lời thơ hàm súc. Đặc biệt, ta đã bắt gặp tiếng lòng của nhà thơ với bao xúc cảm. Dấu ấn sâu sắc mà Nhàn trong bốn câu cuối nói riêng, trong toàn bài thơ nói chung làm chúng ta hiểu hơn cuộc sống của con người thanh cao, của bậc cư sĩ đại tài dẫu đồi sống ngổn ngang, xô bồ.

3. Phân tích bốn câu thơ sau Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao - Mẫu 3

Hai câu thơ luận đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Một cặp câu đã lột tả hết tất cả cuộc sống sinh hoạt và thức ăn hằng ngày của "lão nông nghèo". Mùa nào đều tương ứng với thức ăn đấy, tuy không có sơn hào hải vị nhưng những thức ăn có sẵn này lại đậm đà hương vị quê nhà, khiến tác giả an phận và hài lòng. Mùa thu có măng trúc ở trên rừng, mùa đông ăn giá. Chỉ với vài nét chấm phá Nguyễn Bỉnh Khiêm đã "khéo" khen thiên nhiên đất Bắc rất hào phòng, đầy đủ thức ăn. Đặc biệt câu thơ "Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao" phác họa vài đường nét nhẹ nhàng, đơn giản nhưng toát lên sự thanh tao không ai sánh được. Một cuộc sống dường như chỉ có tác giả và thiên nhiên, mối quan hệ tâm giao hòa hợp nhau.

Đến hai câu thơ kết dường như đúc kết được tinh thần, cốt cách cũng như suy nghĩ của Nguyễn Bình Khiêm:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Hai câu thơ này là triết lý và sự đúc rút Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thời gian ở ẩn. Đối với một con người tài hoa, có trí tuệ lớn như thế này thì thực sự phú quý không hề là giấc chiêm bao. Ông từng đỗ Trạng nguyên thì tiền bạc, của cải đối với ông thực ra mà nói không hề thiếu nhưng đó lại không phải là điều ông nghĩ đến và tham vọng. Với ông phú quý chỉ "tựa chiêm bao", như một giấc mơ, khi tỉnh dậy thì sẽ tan, sẽ hết mà thôi. Có thể xem đây chính là cách nhìn nhận sâu sắc, đầy triết lý nhất. Với một con người thanh tao và ưa sống an nhàn thì phú quý chỉ như hư vô mà thôi, ông yêu nước nhưng yêu theo một cách thầm lặng nhất. Cách so sánh độc đáo đã mang đến cho hai câu kết một tứ thơ hoàn hảo nhất.

Như vậy với 8 câu thơ, bài thơ "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến người đọc ngưỡng mộ và khâm phục cốt cách, tinh thần và phong thái của ông. Là một người yêu nước, thích sự thanh bình và coi trọng cốt cách xứng đáng là tấm gương đáng học hỏi. Bài thơ đường luật kết cấu chặt chẽ, tứ thơ đơn giản nhưng hàm ý sâu xa đã làm toát lên tâm hồn và cốt cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cho đến bây giờ, ông vẫn được rất nhiều người ngưỡng mộ

4. Phân tích bốn câu thơ sau Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao - Mẫu 4

Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm, từng làm quan nhưng vì cảnh quan trường nhiều bất công nên ông đã cáo quan về ở ẩn; sống cuộc sống an nhàn, thanh thơi. Ông còn được biết đến là nhà thơ nổi tiếng với hai tập thơ tiếng Hán Bạch Vân am thi tập và tập thơ tiếng Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi. Bài thơ Nhàn được rút trong tập thơ Bạch Vân am thi tập. Bài thơ đựợc viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật, là tiếng lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về một cuộc sống nhiều niềm vui, an nhàn và thanh thản nơi đồng quê.

Xuyên suốt bài thơ Nhàn là tâm hồn tràn ngập niềm vui và sự thanh tịnh trong tâm hồn tác giả. Có thể xem đây là điểm nhấn, là tinh thần chủ đạo của bài thơ. Chỉ với 8 câu thơ đường luật nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang đến cho người đọc một cuộc sống an nhàn nơi đồng quê êm ả.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ đề rất mộc mạc:

Một mai một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Với phép lăp một-một đã vẽ lên trước mắt người đọc một khung cảnh bình dị, đơn sơ nơi quê nghèo, dù một mình nhưng không hề đơn độc. Hai câu thơ toát lên sự thanh tịnh của tâm hồn và êm đềm của thiên nhiên ở vùng quê Bắc Bộ. Một cuốc, một cần câu gợi lên sự bình dị, mộc mạc của một người nông dân chất phác. Hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên là một lão nông an nhàn, thảnh thơi với thú vui tao nhã là câu cá và làm vườn. Đây có thể nói là cuộc sống đáng mơ ước của rất nhiều người ở thời kỳ phòng kiến ngày xưa nhưng không phải ai cũng có thể dứt bỏ được chốn quan trường về với đồng quê như thế này. Động từ thơ thẩn ở câu thơ thứ hai đã tạo nên nhịp điệu khoan thai, êm ái cho người đọc. Dù ngoai kia người ta vui vẻ nơi chốn đông người thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn mặc kệ, vẫn bỏ mặc để an phận với cuộc sống của mình hiện tại. Cuộc sống của ông khiến nhiều người ngưỡng mộ.

Đến hai câu thơ thực tiếp theo càng khắc họa rõ nét hơn chân dung của lão nông Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

Đây có thể xem là tuyên ngôn sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm những năm tháng sau khi cáo quan về ở ẩn. Ông tự nhận mình dại khi tìm nơi vắng vẻ đến sống, nhưng đây là cái dại khiến nhiều người ghen tỵ và ngưỡng mộ. Ông rất khéo léo trong việc dùng từ ngữ độc đáo, lột tả được hết phong thái của ông. Ông bảo rằng những người chọn chốn quan trường là những người khôn. Một cách khen rất tinh tế, khen mà chê, cũng có thể là khen mình và chê người. Tứ thơ ở hai câu này hoàn toàn đối lập nhau từ ngôn ngữ đến dụng ý dại khôn, vắng vẻ lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về nơi vắng vẻ để ở có phải là trốn tránh trách nhiệm với nước hay không? Với thời thế như vậy giờ và với cốt cách của ông thì nơi vắng vẻ mới thực sự là nơi để ông sống đến suốt cuộc đời. Một cốt cách thanh cao, một tâm hồn đáng ngưỡng mộ.
Hai câu thơ luận đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Một cặp câu đã lột tả hết tất cả cuộc sống sinh hoạt và thức ăn hằng ngày của lão nông nghèo. Mùa nào đều tương ứng với thức ăn đấy, tuy không có sơn hào hải vị nhưng những thức ăn có sẵn này lại đậm đà hương vị quê nhà, khiến tác giả an phận và hài lòng. Mùa thu có măng trúc ở trên rừng, mùa đông ăn giá. Chỉ với vài nét chấm phá Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khéo khen thiên nhiên đất Bắc rất hào phòng, đầy đủ thức ăn. Đặc biệt câu thơ Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao phác họa vài đường nét nhẹ nhàng, đơn giản nhưng toát lên sự thanh tao không ai sánh được. Một cuộc sống dường như chỉ có tác giả và thiên nhiên, mối quan hệ tâm giao hòa hợp nhau.

Đến hai câu thơ kết dường như đúc kết được tinh thần, cốt cách cũng như suy nghĩ của Nguyễn Bình Khiêm:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Hai câu thơ này là triết lý và sự đúc rút Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thời gian ở ẩn. Đối với một con người tài hoa, có trí tuệ lớn như thế này thì thực sự phú quý không hề là giấc chiêm bao. Ông từng đỗ Trạng nguyên thì tiền bạc, của cải đối với ông thực ra mà nói không hề thiếu nhưng đó lại không phải là điều ông nghĩ đến và tham vọng. Với ông phú quý chỉ tựa chiêm bao, như một giấc mơ, khi tỉnh dậy thì sẽ tan, sẽ hết mà thôi. Có thể xem đây chính là cách nhìn nhận sâu sắc, đầy triết lý nhất. Với một con người thanh tao và ưa sống an nhàn thì phú quý chỉ như hư vô mà thôi, ông yêu nước nhưng yêu theo một cách thầm lặng nhất. Cách so sánh độc đáo đã mang đến cho hai câu kết một tứ thơ hoàn hảo nhất.

Như vậy với 8 câu thơ, bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến người đọc ngưỡng mộ và khâm phục cốt cách, tinh thần và phong thái của ông. Là một người yêu nước, thích sự thanh bình và coi trọng cốt cách xứng đáng là tấm gương đáng học hỏi. Bài thơ đường luật kết cấu chặt chẽ, tứ thơ đơn giản nhưng hàm ý sâu xa đã làm toát lên tâm hồn và cốt cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cho đến bây giờ, ông vẫn được rất nhiều người ngưỡng mộ.

-----------------------------------------

VnDoc hy vọng rằng bài viết trên đã góp phần củng cố kiến thức cho bạn đọc. Để đón đọc những tài liệu mới mẻ, chất lượng khác trên VnDoc, mời bạn truy cập vào: Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo, Ngữ văn 10 Kết nối tri thức, Ngữ văn 10 Cánh Diều. VnDoc rất hân hạnh được trở thành người đồng hành với các bạn trong quá trình học tập. Chúc các bạn học tập tốt và đạt được kết quả cao!

Chia sẻ, đánh giá bài viết
14
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Học tốt Ngữ Văn lớp 10

    Xem thêm