Phân tích chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ
Phân tích hai chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ
- 1. Dàn ý phân tích chi tiết nụ cười của Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ
- 2. Phân tích chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ Nhặt mẫu 1
- 3. Phân tích chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ Nhặt mẫu 2
- 4. Phân tích chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ Nhặt mẫu 3
- 5. Phân tích chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ Nhặt mẫu 4
- 6. Phân tích chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ Nhặt mẫu 5
VnDoc.com xin gửi tới bạn đọc bài viết Phân tích chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ để bạn đọc cùng tham khảo và có thêm tài liệu học tập Ngữ văn 12 nhé. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết tại đây.
1. Dàn ý phân tích chi tiết nụ cười của Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ
I. Mở bài:
Chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ đã để lại nhiều nỗi niềm trong lòng người đọc Trong "Vợ nhặt" của Kim Lân
II. Thân bài:
- Nụ cười của Tràng xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm
- Khi đẩy xe bọ
- Khi cùng thị về
- Trong căn nhà đơn sơ, nghèo nàn
- Nụ cười làm vơi bớt những cây đắng của thực tại
- Nụ cười trong niềm hạnh phúc thực sự->mang hy vọng và niềm tin vào ngày mai.
- Giọt nước mắt của bà cụ Tứ khiến lòng ta thổn thức, trăn trở khôn nguôi
- Đó là giọt nước mắt của tình thương mang tấm lòng bao la của một người mẹ
- Giọt nước mắt chứa chan nỗi niềm, vừa mừng vừa tủi của cụ khi con mình lấy được vợ
- Giọt nước mắt của cụ là niềm đớn đau khôn tả, nỗi lòng đắng cay
- Giọt nước mắt tố cáo tội ác chiến tranh
III. Kết bài:
- Bằng cảm quan của một nghệ sĩ đầy nhạy cảm, Kim Lân đã đưa nụ cười và giọt nước mắt vào tác phẩm trở nên đầy ý nghĩa và giàu giá trị.
2. Phân tích chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ Nhặt mẫu 1
Nhắc đến nhà văn Kim Lân, người đọc sẽ nghĩ đến một nhà văn của những người nông dân. Với người lao động, Kim Lân luôn dành cho họ những tình cảm vô cùng đặc biệt, thiết tha. Tác phẩm "Vợ nhặt" là một thành tựu xuất sắc của ông trong dòng văn học hiện thực. Thành công của truyện ngắn này có được là nhờ vào ngòi bút đầy sáng tạo trong việc đưa ra một tình huống đầy éo le và các chi tiết, hình ảnh truyện giàu ý nghĩa. Bên cạnh nồi cháo cám, bát bánh đúc hay câu đùa vô tình thì chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ đã để lại nhiều nỗi niềm trong lòng người đọc.
Nụ cười của Tràng xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, đó là nụ cười bình dị, giản đơn của anh nông dân có phần ngốc nghếch, thô kệch. Khi đang lao động, đẩy chiếc xe bò dù mệt nhọc nhưng anh cu Tràng vẫn lâu đi những giọt mồ hôi đẫm trên khuôn mặt với nụ cười nhẹ nhàng. Đó là nụ cười thân thương, chân chất bình yên của những người nông dân nghèo. Khi được Thị theo về, cậu cu Tràng cũng tủm tỉm cùng đôi mắt lấp lánh, phải chăng đó là niềm vui, niềm hạnh phúc nhỏ bé mà bấy lâu cậu đã mong đợi, một khát khao hạnh phúc gia đình, có người vợ thương yêu. Lúc qua xóm ngụ cư, Tràng bật cười ranh mãnh trong lòng có vẻ gì đó rất đắc chí, khi về nhà sum họp với người mẹ già, anh cu Tràng cũng bật cười khi nhìn thị, nhìn mẹ. Giữa gian nhà đơn sơ, nghèo khổ, ta vẫn thấy nụ cười ánh lên mạng một niềm hy vọng, niềm tin ở tương lai dẫu chỉ là nhỏ bé. Nụ cười của anh cu Tràng như xua tan đi những lo lắng tủn mủn, cái đói khát cùng cực của đời. Nụ cười đó tưởng như đơn giản mà ai cũng có thể làm được ấy thôi nhưng trong cảnh khốn cùng mới thấy đáng trân trọng và quý giá biết bao. Nụ cười như một nốt nhạc an yên giữa những sự ngột ngạt, tù túng, khi mà " cái đói "đang ngập tràn cả xóm ngụ cư, đó là nụ cười làm vơi bớt những cây đắng của thực tại. Tràng bật cười trong niềm hạnh phúc, sự bất ngờ khi mình bỗng dưng có vợ, hắn thương thị biết bao, phải chăng chỉ có tình thương ,sự cưu mang của những con người dành cho nhau mới mang lại niềm vui chân chính, một nụ cười hạnh phúc thực sự len lỏi trong tâm hồn.
Nếu nụ cười của cu Tràng mang đến cho ta sự nhẹ nhàng ủi an trong tâm hồn khi đọc câu chuyện thì những giọt nước mắt của bà cụ Tứ khiến lòng ta thổn thức, trăn trở khôn nguôi. Lúc đầu là "Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt" rồi dần chảy ròng ròng, tuôn rơi khôn thấu: "bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng". Đó là giọt nước mắt của tình thương, trong dòng nước mắt ấy có niềm vui khi còn mình có được vợ, nhưng hơn hết đó là nỗi thương con vô bờ bến. Trong cảnh nghèo khó, túng quẫn ,khi mà cái ăn không lo nổi thì con bà có vượt qua cái kiếp nạn này không, cụ xót xa, niềm vui mừng hòa trong nỗi lo lắng, buồn tủi. Bao nhiêu tình yêu thương tha thiết nhất cụ dành cho cụ Tràng và người con dâu mới. Những ngổn ngang trong lòng đã cho thấy cụ là người đầy trách nhiệm, một người mẹ lo lắng cho con mình. Hơn ai hết, là một người từng trải, cụ hiểu hơn ai hết những khó khăn của cuộc sống gia đình, đặc biệt là khi đói khát đang hoành hành, mạng người như sợi tóc mỏng manh. Giọt nước mắt của cụ là niềm đớn đau khôn tả, nỗi lòng đắng cay, qua đó còn tố cáo tội ác chiến tranh đã khiến cho bao cảnh gia đình đầy ngang trái. Lẽ ra trong cảnh gia đình cưới vợ cho con phải tràn đầy niềm vui, đầy những lời chúc phúc cùng nụ cười mãn nguyện, hạnh phúc thì lúc này còn có cả những dòng nước mắt chảy dài trong mỗi xót xa, lo lắng. Đó là giọt nước mắt chứng minh cho tình mẫu tử đầy thiêng liêng, lo lắng cho hạnh phúc của đứa con mình.
3. Phân tích chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ Nhặt mẫu 2
Nhắc đến nhà văn Kim Lân, người ta thường liên tưởng đến một tác giả xuất thân từ giới nông dân. Trong tác phẩm của ông, có một sự gắn kết đặc biệt với người lao động, nơi mà Kim Lân luôn truyền đạt những tình cảm đặc biệt và sâu sắc. Trong số những tác phẩm nổi bật, "Vợ Nhặt" nổi lên như một tuyệt phẩm của ông trong thể loại văn học hiện thực. Điểm mạnh của truyện ngắn này nằm ở ngòi bút sáng tạo, mô tả tình huống độc đáo và việc tạo ra những chi tiết, hình ảnh mang ý nghĩa sâu sắc. Trong "Vợ Nhặt," không chỉ những chi tiết như nồi cháo cám, bát bánh đúc, hay câu đùa vô tình, mà còn những chi tiết nhỏ như nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ đã tạo nên nhiều ấn tượng mạnh mẽ trong tâm trí độc giả.
Nụ cười của Tràng xuất hiện như một biểu tượng của sự bình dị và giản đơn. Đó không chỉ là nụ cười của một người nông dân chất phác, thô kệch, mà còn là niềm vui, niềm hạnh phúc nhỏ bé trong cuộc sống hàng ngày. Trong những khoảnh khắc lao động mệt nhọc, Tràng vẫn giữ được nụ cười nhẹ nhàng, thể hiện lòng biết ơn với cuộc sống. Khi có Thị theo về, nụ cười của Tràng trở nên ấm áp và hạnh phúc, là sự thể hiện của niềm vui gia đình và tình yêu thương. Mỗi lần bước qua xóm ngụ cư, nụ cười của Tràng mang theo sự hạnh phúc và tự hào, là nguồn động viên trong cuộc sống khó khăn.
Nụ cười của Tràng không chỉ đơn thuần là biểu hiện của niềm vui cá nhân mà còn là điểm sáng trong cảnh khốn cùng. Nó như một nốt nhạc êm dịu giữa những khó khăn, làm dịu đi những nỗi đau và lo lắng. Trong gian nhà đơn sơ, nụ cười của Tràng trở thành một nguồn an ủi và động viên cho bản thân và gia đình, thể hiện lòng lạc quan và hy vọng trong cuộc sống. Nụ cười của Tràng không chỉ là một biểu hiện nông dân giản dị, mà còn là biểu tượng của tình thương và sự cưu mang. Nó là điểm nhấn cho sự hạnh phúc chân chính, làm cho độc giả cảm nhận được vẻ đẹp của những giá trị nhỏ bé trong cuộc sống hàng ngày.
Nếu nụ cười của cu Tràng là nguồn động viên và lạc quan, thì những giọt nước mắt của bà cụ Tứ lại là nguồn cảm xúc sâu sắc và thổn thức trong lòng độc giả. Cảnh bà cụ Tứ rơi nước mắt không chỉ là một hiện thực về cảm xúc, mà còn là một cách tác giả diễn đạt sự đau xót và lo lắng đậm sâu. Ban đầu, đôi mắt của bà cụ Tứ bắt đầu "kèm nhèm" một dòng nước mắt, sau đó dần trở thành một "tuôn rơi khôn thấu." Những giọt nước mắt ấy không chỉ là biểu hiện của niềm vui khi có vợ mới, mà còn là thể hiện của tình thương mẹ con và nỗi lo lắng bất tận. Bà cụ Tứ không thể nói lên những tâm tư của mình, nhưng những giọt nước mắt ấy thay lời kể cho độc giả về một bi kịch đầy cảm xúc.
Trong đó, nước mắt của bà cụ Tứ chứa đựng niềm vui và hạnh phúc khi con trai có được hạnh phúc gia đình mới. Tuy nhiên, chúng cũng mang theo nỗi lo lắng về tương lai, về khả năng con trai vượt qua những khó khăn của cuộc sống. Cụ Tứ là một người mẹ đầy trách nhiệm, lo lắng cho con cái trước những khó khăn và thách thức của cuộc sống. Những giọt nước mắt của bà cụ Tứ còn là tuyên ngôn chống lại sự ác độc của chiến tranh. Trong từng giọt nước mắt ấy, có sự đau xót không tả được, là nỗi lòng đắng cay về những mất mát và khó khăn mà chiến tranh đã mang lại cho gia đình và xã hội. Điều này làm cho câu chuyện không chỉ là một cuộc cưới đơn giản, mà còn là một cuộc chiến tranh khác, chiến tranh mà người dân phải đối mặt và vượt qua để bảo vệ hạnh phúc và sự sống. Với những dòng nước mắt này, tác giả không chỉ kể một câu chuyện hạnh phúc, mà còn truyền đạt một thông điệp sâu sắc về tình mẫu tử, lo lắng cho con cái, và sự chống lại sự bất công và đau khổ của chiến tranh.
4. Phân tích chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ Nhặt mẫu 3
Nạn đói năm 1945 - trang sử bi thương nhất của lịch sử dân tộc" là bối cảnh đẫm chất đau thương mà Kim Lân đã lựa chọn để xây dựng câu chuyện độc đáo về anh chàng Tràng. Trong những ngày tối sầm vì đói khát, tình huống độc đáo xuất hiện khi Tràng bất ngờ có người đàn bà đến trong những khoảnh khắc khó khăn nhất. Chính sự kỳ lạ và đầy éo le của tình huống này đã tạo nên một bức tranh đặc sắc về tâm lý con người. Hình ảnh nụ cười xuất hiện như một đặc điểm nổi bật khi nhà văn mô tả nhân vật Tràng. Trong những khoảnh khắc đẩy xe bò thóc, Tràng không chỉ vuốt mồ hôi trên mặt mà còn nở nụ cười. Trên đường dẫn người vợ về, hình ảnh hai con mắt sáng lên lấp lánh trong nụ cười của Tràng đã tạo ra một bức tranh sống động. Thậm chí, khi trẻ con trêu chọc Tràng, anh chàng bật cười vui vẻ với cái biệt danh "Bố ranh". Hình ảnh này không chỉ là một chi tiết văn hóa mà còn là một cách thể hiện tính cách thuần phác và yêu đời của Tràng.
Nụ cười của Tràng không chỉ là biểu hiện của niềm hạnh phúc cá nhân mà còn làm nổi bật tính nhân hậu và lòng yêu thương. Trong những tình huống khó khăn, nụ cười của Tràng như là một dòng suối tươi mát làm dịu đi cái căng thẳng và khó khăn. Trong bối cảnh đói khát năm 1945, nụ cười của Tràng trở thành như một gió mát lành, mang lại hy vọng và lạc quan. Nhà văn Kim Lân, thông qua những nụ cười lặp đi lặp lại tám lần, đã gửi gắm một thông điệp sâu sắc về tình yêu thương là nguồn động viên mạnh mẽ nhất giúp con người vượt qua khó khăn và tìm thấy niềm vui, hạnh phúc trong cuộc sống.
Bên cạnh việc Kim Lân khắc họa tâm lý của Tràng qua nụ cười, ông cũng tập trung vào nét tâm lý của nhân vật bà cụ Tứ thông qua chi tiết của giọt nước mắt. Khi nhận ra hành động nhặt vợ của con trai, "kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt." Sự lo lắng trước cảnh đói khát của gia đình làm cho bà không thể nói lên lời, nước mắt chảy xuống ròng ròng. Ngay cả khi nghe thấy tiếng trống thúc thuế, bà nhanh chóng ngoảnh mặt đi, không muốn con dâu thấy bà khóc.
Giọt nước mắt của bà cụ Tứ không chỉ là biểu hiện của nỗi đau xót của người mẹ trước tình hình cảnh đói giữa "tao đoạn" và số phận không công bằng. Việc lấy vợ của con trai có thể mang lại niềm vui, nhưng vì đói khát và cái chết, nó cũng gây ra sự xót xa, tủi thân và tủi phận cho bà. Giọt nước mắt đau khổ đó như là lời kết án sâu sắc về thực dân Pháp và phát xít Nhật, những thế lực đã đẩy dân ta vào thảm cảnh khốc liệt. Những giọt nước mắt cho thấy tấm lòng ấm áp và yêu thương của người mẹ, những giọt nước mắt như là cố gắng kìm nén (rỉ xuống hai dòng nước mắt, ngoảnh vội ra ngoài). Bà chôn chặt lo lắng, nỗi lo lắng, và nước mắt chảy mạnh khi thấy con trai mình phải đối mặt với những khó khăn. Thương con, hạnh phúc trước niềm vui của con, bà giữ nước mắt bí mật, khóc thầm để sau đó chỉ nói những lời yêu thương, động viên con.
Nụ cười và nước mắt trở thành biểu hiện của hai trạng thái cảm xúc đối lập nhau, nhưng cùng lúc lấp lánh ánh sáng của tình người và tình yêu thương giữa những ngày đói khát. Chúng đóng góp vào việc thể hiện sự éo le của tình huống truyện, làm nổi bật giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Kim Lân thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về tâm lý nhân vật và khả năng xây dựng chi tiết nhỏ mang đầy ý nghĩa, thể hiện tầm tưởng sáng tạo trong sáng tác "quý hồ tinh, bất quý hồ đa".
Không chỉ thành công ở chi tiết của nụ cười và nước mắt, Kim Lân còn để lại ấn tượng mạnh mẽ với độc giả qua hình tượng nồi cháo cám. Ông để cho cái đói quấy rối tạo ra một tình yêu, nhưng cũng đẩy họ đến bờ vực: liệu họ có thể vượt qua thử thách này hay không. Bữa ăn đón nàng dâu mới minh họa rõ hình ảnh bi thảm của những người khốn khó: giữa cái mẹt rách chỉ có niêu cháo loãng, một lùm rau chuối thái rối, đĩa muối trắng và nồi cháo cám. Cháo cám, mặc dù được mẹ già gọi là chè khoán, nhưng vẫn không thể che đi cảm giác đắng ngắt và chát xít trong cổ họng, không thể nén được nỗi tủi hờn nổi lên trong tâm trí mỗi người. Bát cháo cám như một cú sốc đập tan không khí vui tươi từ đầu bữa ăn. Sự thực về cái đói quyến rũ và khó chịu lại xuất hiện, đe dọa hạnh phúc mong manh của con người. Nỗi đau xót, nước mắt làm cho tâm trạng của Kim Lân chạm sâu vào độc giả, tạo nên một tác phẩm với độ chân thực và đau lòng.
Bát cháo cám, mặc dù chỉ là một chi tiết nhỏ trong câu chuyện, nhưng lại là biểu tượng to lớn của tình cảm, lòng nhân ái và tinh thần sống lạc quan giữa những ngày khốn khó. Kim Lân không chỉ diễn đạt nghệ thuật mô tả về nói đói một cách chân thực mà còn chứng minh tầm quan trọng của tình yêu thương và hy vọng trong cuộc sống. Bà cụ Tứ, một người mẹ già khốn khó, vừa múc cháo vừa đùa vui, gọi đó là "Chè khoán đây, ngon đáo để cơ." Bà không chỉ hiểu rõ vị đắng ngắt, chát xít của cháo cám, mà còn hiểu về tương lai mù mịt của đứa con trai và con dâu. Bằng cách này, bà đã nén lại nỗi lo lắng để tạo ra một chút niềm vui cho gia đình, vượt qua mọi khó khăn và ngần ngại để chấp nhận người con dâu vào gia đình.
Người mẹ già ấy, trong nỗ lực kiên trì và tận tâm, truyền đạt thông điệp về niềm tin và khát vọng sống. Kim Lân, thông qua chi tiết bát cháo cám, đưa ra một hình ảnh toàn cảnh về lòng tin và sự sống động của con người giữa những khó khăn. Chi tiết này cũng phản ánh khát khao hạnh phúc gia đình của người phụ nữ khi thấy Tràng và con dâu. Cử chỉ "điềm nhiên và vào miệng miếng cháo cám" không chỉ là việc ăn uống, mà là biểu hiện của sự hiểu biết và sẵn sàng chia sẻ khó khăn với gia đình Tràng. Sự mộc mạc, tự nhiên trong hành động này là cách Kim Lân thể hiện sự chăm sóc, quan tâm của những người phụ nữ giữ gìn và bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Sự sáng tạo trong chi tiết bát cháo cám không chỉ là để tái hiện một thời kỳ khó khăn mà còn là để ca ngợi tình người, lòng nhân ái, và tinh thần lạc quan của con người trong bối cảnh đen tối. Trong những khó khăn đó, tình yêu thương và hy vọng vẫn tồn tại, và đó là điều Kim Lân muốn chú trọng và chia sẻ trong tác phẩm của mình.
5. Phân tích chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ Nhặt mẫu 4
Nhắc đến nhà văn Kim Lân, tưởng nhớ về những câu chuyện sâu sắc về cuộc sống nông thôn và tình cảm nhân văn đặc biệt của ông dành cho người lao động. Trong tác phẩm "Vợ Nhặt," Kim Lân đã chứng minh tài năng văn chương của mình, tạo ra một kiệt tác trong thể loại văn học hiện thực.
Nụ cười của nhân vật Tràng trở thành điểm nhấn, làm đầy ấm lòng độc giả. Đó không chỉ là một nụ cười bình dị, mà còn là biểu tượng của sự giản đơn và hạnh phúc trong cuộc sống nông thôn. Khi anh đẩy chiếc xe bò mệt nhọc, những giọt mồ hôi trên khuôn mặt không làm mất đi nụ cười nhẹ nhàng của Tràng. Đây là nụ cười thân thiện, chân chất, là nguồn động viên cho những người nông dân nghèo đang vất vả với cuộc sống. Khi cu Tràng được Thị theo về, nụ cười của anh không chỉ là biểu hiện của niềm vui cá nhân mà còn là sự hạnh phúc của một người đã tìm thấy niềm vui gia đình. Trong gian nhà đơn sơ, nụ cười của Tràng trở nên quý giá hơn, ánh lên niềm hy vọng và lòng tin vào tương lai nhỏ bé nhưng mãnh liệt. Nụ cười ấy như một đóa hoa nở giữa cảnh khó khăn, là điểm sáng vô cùng trân trọng giữa cuộc sống đầy gian khổ.
Qua xóm ngụ cư, Tràng không chỉ là người đơn giản bật cười mạnh mẽ, mà còn là biểu tượng của sự kiên nhẫn và lạc quan giữa những khó khăn. Khi sum họp với mẹ già, nụ cười của Tràng trở nên đặc biệt, là sự diễm lệ trong đau thương và nghèo đói. Đó không chỉ là niềm vui của chính anh, mà còn là niềm hạnh phúc của cả gia đình nông dân khi tận hưởng những khoảnh khắc bình yên. Nụ cười của Tràng không chỉ là sự thể hiện của hạnh phúc cá nhân, mà còn là tác động tích cực đối với cả cộng đồng xung quanh, làm dịu đi những góc tối của cuộc sống. Tràng bật cười không chỉ là vì hạnh phúc cá nhân mà còn là dấu hiệu của tình thương và sự cưu mang, tạo nên một tác phẩm văn học đầy nghệ thuật và ý nghĩa.
Những giọt nước mắt của bà cụ Tứ trở thành bức tranh đầy xúc cảm, làm cho trái tim độc giả thổn thức, trăn trở, và cảm nhận rõ sự đắng cay và hạnh phúc đan xen trong cuộc sống. Bức tranh bắt đầu với kẽ mắt của bà cụ, nơi những giọt nước mắt đầu tiên bắt đầu hiện hình. Khi những giọt nước mắt đó rơi xuống, chúng không chỉ là dấu hiệu của niềm vui khi bà cụ Tứ chứng kiến hạnh phúc của con trai, mà còn là biểu tượng của tình thương mẹ con và nỗi lo lắng vô hạn. Sự kết hợp giữa niềm vui và nỗi lo lắng tạo nên một thước phim cảm xúc phong phú, làm đậm thêm sự sống động và chân thực cho câu chuyện.
Trong cảnh nghèo khó và túng quẫn, khi cái ăn trở nên xa xỉ, giọt nước mắt của bà cụ Tứ trở thành lời kể về nỗi lo lắng sâu sắc và buồn tủi. Sự hòa mình giữa niềm vui mừng của cuộc hôn nhân mới và lo sợ về tương lai của đứa con làm nổi bật sự nhân văn và tình cảm đan xen trong mỗi giọt nước mắt. Tình yêu thương tha thiết của bà cụ đối với cụ Tràng và người con dâu mới trở thành điểm nhấn đầy ý nghĩa. Những ngổn ngang trong lòng bà cụ là dấu hiệu của trách nhiệm và lòng mẹ lo lắng. Bà cụ Tứ, một người từng trải, hiểu rõ những khó khăn của cuộc sống gia đình, đặc biệt là khi đói khát đang tràn ngập và đe dọa mạng sống.
Giọt nước mắt của bà cụ là một lời kể đắng cay, làm tăng thêm sự đau đớn và tuyệt vọng của những ngày chiến tranh gặp gia đình. Bức tranh này không chỉ là cuộc cưới đơn thuần, mà còn là tác phẩm nghệ thuật nổi bật về tình mẫu tử và sự lo lắng cho hạnh phúc của đứa con. Giọt nước mắt của bà cụ trở thành bằng chứng cho sự thiêng liêng của tình mẫu tử và niềm hy sinh không ngừng cho hạnh phúc gia đình.
6. Phân tích chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ Nhặt mẫu 5
Chọn nạn đói năm 1945 – trang sử bi thương nhất của lịch sử dân tộc làm bối cảnh của câu chuyện, Kim Lân đã kể cho ta nghe một câu chuyện lạ lùng nhất trong cuộc sống : chuyện anh Tràng bỗng nhiên có người đàn bà về trong những ngày tối sầm vì đói khát ấy. Chính tình huống độc đáo và éo le ấy đã nảy sinh bao nét tâm lý ngổn ngang, bao niềm vui, nỗi buồn. Và hình ảnh nụ cười, nước mắt trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm được coi là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc góp phần thể hiện tài năng của Kim Lân trong việc khắc họa tâm lí nhân vật và thể hiện tư tưởng nhà văn, chủ đề tác phẩm.
Hình ảnh nụ cười được nhà văn nhắc đến nhiều lần khi khắc họa chân dung nhân vật Tràng. Khi đẩy xe bò thóc hắn vuốt mồ hôi trên mặt cười, trên đường dẫn người vợ nhặt về: hắn tủm tỉm cười, hai con mắt sáng lên lấp lánh,khi trẻ con trêu chọc Tràng bật cười Bố ranh. Khi người vợ nén tiếng thở dài trước quang cảnh của nhà Tràng, hắn “quay lại nhìn thị cười cười”. Bà cụ Tứ về, Tràng tươi cười mời mẹ ngồi lên giường…
Nụ cười của Tràng đã góp phần khắc họa tính cách, tâm lý tính cách thuần phác, nhân hậu, yêu đời của gã trai quê mùa, thô kệch; nói cùng ta niềm hạnh phúc, sung sướng của con người trong tận cùng đói khát vẫn không thôi khao khát tình yêu, tổ ấm gia đình. Đặt trong bối cảnh của câu truyện viết về nạn đói thảm thương 1945, hình ảnh nụ cười của Tràng (lặp lại 8 lần) giống như cơn gió mát lành làm dịu đi cái căng thẳng ngột ngạt, cái trăm đắng ngàn cay của con người ngày đói, thể hiện cái nhìn lạc quan, niềm hy vọng của nhà văn vào cuộc sống. Phải chăng, nhà văn đã gửi gắm một thông điệp giản dị: chỉ có tình yêu thương mới có thể mang đến niềm vui, nụ cười hạnh phúc cho con người.
Bên cạnh việc khắc họa tâm lí của Tràng qua nụ cười, Kim Lân cũng chú ý nét tâm lí của nhân vật bà cụ Tứ qua chi tiết giọt nước mắt. Khi hiểu ra cơ sự nhặt vợ của con “ kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”.Khi lo lắng cho cảnh ngộ đói khát của chúng: bà cụ nghẹn lời không nói, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Khi nghe thấy tiếng trống thúc thuế, bà vội ngoảnh mặt đi, bà không muốn để con dâu nhìn thấy bà khóc.
Giọt nước mắt của bà cụ Tứ góp phần thể hiện nỗi xót xa của người mẹ trước cảnh ngộ của con lấy vợ giữa “tao đoạn” và số phận không được bằng người. Việc lấy vợ của con là vui nhưng vì cái cái đói, cái chết mà khiến bà xót xa, tủi thân, tủi phận. Giọt nước mắt khổ đau ấy như lời kết án sâu sắc thực dân Pháp, phát xít Nhật đẩy dân ta đến thảm cảnh cùng cực đó.
Giọt nước mắt cho thấy tấm lòng chan chứa yêu thương con của người mẹ, những giọt nước mắt như cố kìm nén ( rỉ ra hai dòng nước mắt, ngoảnh vội ra ngoài). Thương con, mừng lòng trước hạnh phúc của con, bà đào sâu chôn chặt, dấu đi nỗi lo lắng, bà khóc thầm, khóc vụng, để rồi chỉ nói những lời yêu thương, động viên con.
Nụ cười – nước mắt là biểu hiện của hai trạng thái cảm xúc đối lập nhau nhưng cùng lấp lánh ánh sáng của tình người, của tình yêu thương giữa những ngày đói khát, chúng góp phần thể hiện sự éo le của tình huống truyện, làm nên giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo sâu sắc. Khắc họa hình ảnh giàu ý nghĩa đó, Kim Lân chứng tỏ là nhà văn thấu hiểu tâm lí nhân vật, biệt tài xây dựng những chi tiết nghệ thuật nhỏ nhưng hàm chứa tầng ý nghĩa sâu xa, thể hiện quan niệm sáng tác “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”
Không chỉ thành công ở chi tiết nụ cười, nước mắt, Kim Lân cũng để lại trong ấn tượng đậm nét trong tâm trí người đọc ở hình tượng nồi cháo cám. Nhà văn đã để cho cái đói quay quắt se duyên cho một mối tình nhưng cũng đẩy họ đến bên bờ vực: liệu có nuôi nổi nhau qua cái thì tao đoạn này không. Bữa cơm đón nàng dâu mới minh họa rõ nét hơn cho cái thực trạng thảm thương của những con người khốn khó đó: giữa cái mẹt rách chỉ có niêu cháo loãng, một lùm rau chuối thái rối, đĩa muối trắng và nồi cháo cám. Cháo cám dẫu được mẹ già sang trọng gọi là chè khoán nhưng vẫn không sao xua được cảm giác đắng ngắt, chát xít nơi cổ họng, không sao nén được nỗi tủi hờn dâng lên trong tâm trí mỗi người. Bát cháo cám như đập tan cái không khí vui tươi ở phần đầu bữa ăn. Hiện thực về cái đói vô cùng khốc liệt và ám ảnh một lần nữa xuất hiện, đe dọa hạnh phúc của con người. Thứ hạnh phúc bé nhỏ, mong manh vừa mới nhen nhúm ngay lập tức bị đe dọa bởi cái đói. Nỗi xót xa, buồn tủi thấm trong trang văn của Kim Lân như lan sang người đọc.
Nhưng vượt lên trên nghĩa tả thực, bát cháo cám còn làm ngời sáng trước mắt ta tấm lòng, tình cảm của người mẹ già khốn khó. Bà cụ Tứ vừa múc cháo, vừa đùa vui: “ Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Nào phải bà không thấu cái vị đắng ngắt, chát xít của cháo cám, đâu phải bà không hay về tương lai mù xám của những đứa con mình? Người mẹ già ấy đã có nén lại nỗi lo lắng thắt lòng cho tương lai đôi trẻ, đã vượt qua mọi sượng sùng, ngần ngại với người con dâu về gia cảnh nhà mình để khơi dậy chút nguồn vui cho không khí gia đình. Bên tận cùng nỗi xót xa, ta lại cảm động vô cùng trước mênh mông tấm lòng người mẹ. Hơn nữa, chẳng phải ngẫu nhiên Kim Lân lại để cho người mẹ già nua tuổi tác, xế bóng ngả chiều lại là người khơi niềm vui trong thảm cảnh ngày đói. Là Kim Lân thấy lửa, khơi lửa và tin rằng có lửa ngay trong đống tro tưởng sắp lụi tàn, thấy mầm xanh sự sống chẳng những vươn lên từ thân non hay một đời cây cường tráng mà còn khỏe khoắn vươn lên từ chính một gốc cây sắp tròn cổ thục. Không nghi ngờ gì nữa, món chè khoán của bà cụ Tứ làm một chi tiết Kim Lân trọn vẹn gởi trao niềm tin và khát vọng sống của con người.
Chi tiết bát cháo cám cũng thể hiện khát khao hạnh phúc gia đình của người đàn bà vô danh. Ta hiểu thị nhắm mắt đưa chân không đơn thuần vì miếng ăn, thị không bỏ đi khi chứng kiến gia cảnh bần hàn của Tràng, nay ta càng thấu hiểu sâu sắc hơn cái khát vọng có một bến đỗ cho con thuyền phiêu dạt, một tổ ấm dừng chân nơi thị trong cái cử chỉ “ điềm nhiên và vào miệng miếng cháo cám”. Cái cử chỉ và thái độ ấy cho thấy thị thật ý tứ, sẵn sàng đồng cam cộng khổ với gia đình Tràng. Hạnh phúc mong manh vừa nhen nhóm ấy, phải chăng cần lắm những đôi bàn tay nâng niu như vậy. Lời nói của bà cụ Tứ và hành động của người con dâu chính là cách những người phụ nữ giữ gìn, bảo vệ và vun đắp cho niềm hạnh phúc vừa mới chớm nở.
Sáng tạo chi tiết bát cháo cám, Kim Lân không chỉ gợi lại sinh động thảm trạng ngày đói năm nào mà nhà văn còn muốn ca ngợi tình người nồng thắm nơi những tấm lòng thuần hậu, chất phác. Trong cảnh đói bi thương ấy, họ vẫn không thôi yêu thương, vẫn nương tựa vào nhau cùng sẻ chia và cùng hy vọng.