Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ
Phân tích nhân vật Mị trong đêm giải cứu A Phủ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 12 hay dành cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 12 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
1. Phân tích đề
- Yêu cầu: phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ.
- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
- Phương pháp lập luận chính: phân tích.
2. Hệ thống luận điểm
- Luận điểm 1: Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ
- Luận điểm 2: Thương người cùng cảnh ngộ
- Luận điểm 3: Tình thương lớn hơn cái chết
- Luận điểm 4: Từ cứu người đến cứu mình.
3. Dàn ý Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Tô Hoài, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ và dẫn dắt vào nhân vật Mị trong đêm giải cứu cho A Phủ.
2. Thân bài
Nhìn những giọt nước mắt của A Phủ, Mị xúc động thấy thương cho A Phủ và nhớ lại nỗi đau chính mình: “Mị trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước lấp lánh đã bò xuống hai hõm má đã xám đen lại; Mị chợt nhớ đến đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia.”
Mị với thái độ căm phẫn, nhận thức rõ bản chất độc ác của bọn thống lí Pá Tra: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đền chết, nó bắt mình cũng chết thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng trong cái nhà này; Chúng nó thật độc ác; Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi, người kia việc gì mà phải chết”.
Sức sống cùng sự đánh thức tâm hồn, lòng thương người cùng cảnh ngộ đã giúp Mị vượt qua nỗi sợ, Mị quyết định cởi dây trói cho A Phủ và tự giải thoát mình.
Mị nhớ lại đời mình, Mị tưởng tượng như có thể một lúc nào đó, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra bảo là Mị đã cởi trói cho nó làm sao Mị không thấy sợ, rồi Mị cũng vụt chạy theo A Phủ.
→ Sức sống luôn tiềm tàng trong tâm hồn Mị dẫn đến sức phản kháng mãnh liệt, táo bạo để giành lại tự do ở Mị. Khi sức sống tiềm tàng trong tâm hồn con người được hồi sinh, nó tất yếu chuyển hóa thành hành động phản kháng táo bạo.
3. Kết bài
Khái quát lại giá trị của đoạn trích đồng thời đánh giá nội dung, nghệ thuật của câu chuyện.
4. Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ - Bài mẫu 1
“Đất nước và con người miền Tây Bắc để thương để nhớ cho tôi nhiều quá” (Tô Hoài). Là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Tô Hoài thu hoạch được sau chuyến đi bộ đội vào giải phóng Tây Bắc dài tám tháng, tập truyện “Truyện Tây Bắc” là nỗi nhớ niềm thương bồi hồi xúc động, là lời tri ân sâu sắc mà nhà văn dành tặng cho mảnh đất con người Tây Bắc đau thương mà anh dũng, đẫm nước mắt tủi hờn mà vời vợi chất thơ. Là truyện ngắn đặc sắc hơn cả của tập truyện, “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh chân thực, cảm động về cuộc sống tối tăm, tủi nhục và sức mạnh vùng lên vươn tới chân trời tự do hạnh phúc của đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc. Giá trị của tác phẩm được kết tinh ở hình tượng nhân vật Mị.
Nếu những nhà văn hiện thực phê phán chỉ thấy con người là nạn nhân bất lực của hoàn cảnh thì các nhà văn cách mạng bao giờ cũng phát thiện hiện ra sức mạnh phục sinh trong tâm hồn của những con người cùng khổ. Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học cách mạng Việt Nam, chẳng những rất thành công khi diễn tả cái chết dần chết mòn của Mị – một cô gái tràn đầy sức sống mà còn rất tinh tế khi khám phá quá trình hồi sinh của Mị. Nếu như có một hoàn cảnh làm tê liệt bóp chết sức sống của Mị thì tất cũng có một hoàn cảnh giúp Mị hồi sinh. Và hoàn cảnh đó chính là đêm đông Mị cắt dây trói cứu A Phủ đầy éo le, kịch tính.
A Phủ là chàng trai nghèo khổ cả cha lẫn mẹ, vì đánh A Sử, A Phủ bị bắt phạt vạ trở thành đứa ở trừ nợ của nhà thống lí Pá tra, cùng chung thân phận nô lệ trâu ngựa với Mị. Một lần sơ ý để hổ vồ mất bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói bỏ ăn mấy ngày liền giữa mùa đông giá rét.
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa hơ tay. Đã mấy lần rồi, mỗi khi dậy thổi lửa hơ tay, Mị lại thấy cảnh A Phủ bị trói nhưng Mị vẫn thản nhiên dửng dưng thờ ơ. “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Quá quen với cái tàn bạo của cha con thống lí Pá Tra, tâm hồn Mị tê dại đến vô cảm. Và tâm hồn Mị có lẽ sẽ mãi mãi hóa đá nếu như Mị không bắt gặp giọt nước mắt của A Phủ. Như mọi đêm, Mị dậy thổi lửa hơ tay, ngọn lửa bập bùng sáng lên, lé mắt trông sang, Mị bỗng bắt gặp dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má tuyệt vọng của A Phủ – một chàng trai vốn can trường dũng cảm. Nước mắt gọi nước mắt: Mị nhớ lại đêm tình mùa xuân bị A Sử trói, nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng cổ mà không sao lau đi được. Niềm đồng cảm trỗi dậy, thương thân bao nhiêu, Mị thương A Phủ bấy nhiêu. Thương mình, thương A Phủ, lòng Mị sục sôi niềm căm hờn phẫn uất với cha con thống lí Pá Tra. “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác.”. Lần đầu tiên, sau bao năm tháng câm lặng, Mị dõng dạc cất lên lời kết án đanh thép cha con thống lí. Mị như lột xác, trở lại làm cô gái dũng cảm, khát khao tự do, sục sôi tinh thần phản kháng. Rồi Mị nghĩ đến tình cảnh nguy khốn đang ập đến với A Phủ: “cỡ chừng này, chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết… Người kia thì việc gì mà phải chết thế?”. A Phủ sẽ phải chết, chết oan uổng, vô lí. Nghĩ đến điều ấy, trái tim Mị như thắt lại, cõi lòng nhói đau. “A Phủ” tiếng gọi buông ra hay tiếng nấc nghẹn ngào xót xa. Rồi Mị miên man nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tưởng có thể một lúc nào đó, biết đâu A Phủ chẳng đã chốn được, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo Mị cởi trói cho A Phủ, Mị liền phải trói thay, phải chết trên cái cọc này. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ. Tình thương người ngày càng mạnh, nó lớn hơn niềm thương thân và giúp Mị chiến thắng mọi nỗi sợ hãi, nó thôi thúc Mị hành động một cách táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ.
5. Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ - Bài mẫu 2
Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mà nhà văn Tô Hoài đã dành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong “Vợ chồng A Phủ” không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật của một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lí và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lí và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái “dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đó là nét tâm lí của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lí Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.
Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.
Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa… Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể “trói” được thân xác Mị chứ không thể “trói” được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó.
Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay “dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lí Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị.
Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. lí trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi.
Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò!
Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư?
Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng…
Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân – hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài – một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn – giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 – 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.
Truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp độc giả cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp chúng ta ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.
6. Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ - Bài mẫu 3
Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài được giải nhất tiểu thuyết, giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. Tác phẩm ra đời từ kết quả cuộc thâm nhập đời sống đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc, kể về cuộc đời khốn khó trăm chiều của người dân vùng cao khi chưa có ánh sáng của Đảng. Đọc Vợ chồng A Phủ, ta không thể quên được chi tiết Mị cắt dây trói cứu A Phủ – một chi tiết làm nên mọi giá trị tác phẩm. Và đúng như ai đó đã từng nói, khi cắt dây cứu A Phủ, Mị đã tự cắt dây trói buộc cuộc đời mình với nhà thống lí Pá Tra.
Câu chuyện về Mị, được bắt đầu từ một hình ảnh rất giàu sức gợi: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra, thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi gai, thái cỏ ngựa, vải, chẻ củi hay cõng nước dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rượi”, chỉ với hai câu văn giản dị ấy thôi, bản chất sự việc đã hiện lên khá nét. Câu văn cũng như dài thêm ra để độc giả lĩnh hội một cách thấu đáo. Vị trí xuất hiện của Mị đã nói lên tất cả, ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa, thậm chí còn như gắn liền với chúng.
Mị vốn là một cô gái con nhà nghèo – “nghèo từ trong trứng”; cô trẻ giàu lòng yêu đời, ham sống và có tài thổi sáo; Mị còn là một cô gái chăm chỉ, một đứa con hiếu thảo… Nhưng, một thứ “nợ gia truyền” của người nghèo, cô phải “đi tù khổ sai” trong nhà thống lí Pá Tra, dưới hình thức làm dâu gạt nợ. Biết bao thân phận người dân miền núi, đã bị trả giá bằng cả đời người như bởi hình thức cho vay nặng lãi.
Thời gian đầu, khi mới ở “nhà tù Pá Tra”. Mị đau đớn, uất ức, phản kháng quyết liệt. “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cô không thể chấp nhận làm thân phận nô lệ cho nhà giàu. Nhưng, tất cả đã thành định mệnh, nàng Kiều của Nguyễn Du, trước khi dấn thân vào cuộc đời ô nhục, cũng một lần nghĩ đến quyên sinh, mà cũng không thoát khỏi kiếp đọa đày 15 năm đây, Mị còn khổ hơn, bởi món nợ vẫn còn đây, đổ lên đầu bố già.
Ở địa ngục trần gian nhà Pá Tra, bao vất vả, cực nhọc nhất đổ lên đầu. Mấy năm sau khi bố qua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì “Mị quen cái khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng như mình cũng là con trâu, con ngựa(…) biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Đời Mị chí là công việc nối tiếp nhau, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại: tết xong thì hái thuốc phiện, năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa thì bẻ bắp… thêm vào sự đọa đày thể xác ấy còn là ách áp chế về tinh thần mê tín, thần quyền đã hỗ trợ rất đắc lực cho giai cấp thống trị. Nó thực sự là thứ “thuốc phiện tinh thần” như lời Mác nói.
Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thực đau lòng: con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” thật không ở đâu mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ đến thế! Cũng không ở đâu, con người lại tự mình coi rẻ mình một cách tuyệt vọng như vậy. Mị cam chịu thân phận con rùa trong xó chỉ biết ngồi trong cái buồng kín mít, trông ra cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, “đến bao giờ chết thì thôi”.
Như đã nói ở phần đầu, Mị có một tuổi trẻ hạnh phúc, một khát khao làm chủ cuộc sống tính cách ấy, phẩm chất ấy không bao giờ chết, nó chỉ tạm thời bị đè nén xuống. Và ngọn gió để thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị, là hoàn cảnh điển hình: mùa xuân về trên vùng cao: “Hồng Ngài năm ấy, ăn tết vào lúc gió thổi cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”. Dẫu trong thời tiết khắc nghiệt, mùa xuân về cũng đem đến cho người dân vùng cao một niềm vui sống, được sức sống của tạo vật và con người như bừng tỉnh: “trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra treo trên các mỏm đá, xoè ra như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng, lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thẫm, rồi sang màu tím man mát. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà…” Sức mạnh của ngòi bút nhân đạo Tô Hoài không chỉ dừng lại ở tình cảm xót thương Mị, ở sự tố cáo tính tàn bạo của giai cấp thống trị, mà còn ở chỗ nhìn ra con người bên trong của nhân vật. Ông đã tìm sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu của tiềm thức nhân vật, cho thấy vẫn còn le lói chút ánh sáng, hơi ấm của niềm ham sống, khát khao hạnh phúc, như lớp tro dày nguội lạnh vẫn còn ủ chút than hồng, lớp than ấy chỉ cần ngọn gió thoáng qua là bùng lên. Tô Hoài đã góp thêm vào truyền thống nhân đạo trong nền văn học dân tộc một tiếng nói có quyền năng và sức tái tạo riêng.
Hoàn cảnh ấy không thể tác động vào tâm hồn Mị. Trong các yếu tố “ngoại của mùa xuân, phải kể đến tiếng sáo: “ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai sáo gọi bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi…”. Như vậy, với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của tình yêu, khát vọng ham sống. Trong không khí ấy Mị lại được kích động bởi men rượu: “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cách uống rượu ấy như báo trước sự nổi loạn mà chính Mị cũng chưa ý thức rõ: “Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng (…), còn Mị thì đang sống về ngày trước”.
Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống “phi thời gian” lâu nay của mình. Tiếp đó, lòng ham sống trong cô trỗi dậy mãnh liệt: “Mị thấy phơi phới trở lại”. Phản ứng đầu tiên đến trong tâm trí Mị là một ý nghĩ: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho hết ngay, chứ không thèm nhớ lại nữa…” ý nghĩ về cái chết lúc này, là sự phản kháng quyết liệt với hoàn cảnh.
Trong khi ấy, tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, quyến rũ Mị. Nó là biểu tượng của sự sống mà bấy lâu nay Mị đã quên, giờ đang trở lại. Tiếng sáo theo sát diễn biến tâm trạng nhân vật. Tiếng sáo từ chỗ là một sự việc của thực tại bên ngoài (lơ lửng bay ngoài đường), đã trở thành sự hiện hữu của đời sống bên trong (rập rờn trong đầu).
Từ những chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã có một hành động thật ý nghĩa “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ vào đèn cho thêm sáng”. Hành động này có ý nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ.
Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt, cũng là lúc nó bị vùi dập một cách tàn bạo. A Sử bước vào, thản nhiên xách ra một thúng sợi đay, trói đứng Mị vào cột nhà.
Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột nhà ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo, lạnh lùng. Lúc mới bị trói, Mị vẫn còn như sống trong tâm trạng mê say với tiếng sáo ngoài kia. Mị như quên mình đang bị trói, quên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút khát khao cuộc sống mãnh liệt, Mị đã “vùng bước đi”. Như thực tế phũ phàng là vòng dây trói đang thít chặt, dẫu mong ước mãnh liệt đến mấy, Mị cũng không vượt qua được. Hai biểu tượng của ước mơ và thực tại hiện ra trong hai âm thanh trái ngược, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khan.
“Mị không nghe tiếng sáo nữa, chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách(…) Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”- thực tại phũ phàng đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết cục ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát, nhân vật không tự giải thoát cho mình; đồng thời nó cũng hứa hẹn những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.
Sau đêm xuân bị trói đứng, tình cảm u mê của Mị có phần trầm trọng. Trước cảnh A Phủ bị trói đứng, lúc đầu Mị là người hoàn toàn vô cảm, vô hồn, cô vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. A Phủ có là cái xác chết đứng đây, Mị cũng thế thôi. Đôi mắt mở trừng trừng của A Phủ chẳng gợi lên cho Mị một điều gì. Nhưng như đã nói ở đoạn trên, khát vọng đi theo tiếng gọi tự do hãy còn đó hồn Mị. Không phải ngẫu nhiên, hình ảnh ngọn lửa được tác giả lặp đi lặp nhiều lần trong một đoạn văn miêu tả tâm lí nhân vật khá sâu sắc, tinh tế.
Nhưng, cái gì đã khiến Mị trở lại với con người thật của mình? Một lần trở dậy, “ngọn lửa bập bừng sáng lên, Mị hé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ: vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai gò má đã xám đen lại”. Chao ôi! nước mắt. Cái giọt đau, giọt khổ ấy đã làm Mị “chợt nhớ lại” việc Mị bị trói đứng năm trước, cũng nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được; Mị lại nhớ đến người đàn bà đã bị trói chết trong nhà này, và A Phủ chỉ đêm nay là chết thôi. Tết năm trước đã thế, lần này, trí nhớ của Mị lại loé lên cách vô thức. Và như một phản ứng dây chuyền, nó nối lại ba số phận. Mị không còn sống với ngọn lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng tượng. Mị nghĩ mình có thể chết thay cho A Phủ. Cô đã đứng lên trong một ý thức chấp nhận sự hi sinh về mình: lấy con dao nhỏ cắt cho A Phủ. Đó là đỉnh cao của đời Mị và cũng là nơi tập trung giá trị nhân văn. Hành động của Mị, tuy không thể đoán trước nhưng vẫn nằm trong sức sống nội tại nhân vật. Mị nguyện làm rẫy, chịu khổ để trả nợ cho bố, đã toan chết để tìm sự giải thoát thì lẽ nào lại không dám chết để cứu một con người vô tội?
Nhưng, tính cách Mị có sự hợp lí, quy luật mà vẫn gây cho ta sự bất ngờ, ngạc nhiên thú vị. Vừa mới nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối rồi cũng chạy theo. Một kết cấu chặt chẽ: Mị đã cứu A Phủ, thì tại sao lại không tự cứu mình? và “hai người lẳng lặng đỡ nhau lao xuống núi”.
Thực chất, quá trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ là một quá trình tự nhận thức: Nhận thức thực tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết một con người vô tội và nhận thức “người” cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng “mình” cho nên, có thể nói, Mị cắt dây trói cứu A Phủ, cũng là Mị đã tự cắt dây trói buộc cô với nhà thống lí Pá Tra. Điều đó hoàn toàn đúng với lí luận cũng như thực tiễn thời đại. Dòng đầu liên của tuyên ngôn các Đảng cộng sản F. Ăng ghen từng khẳng định: “Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp, áp bức bóc lột của giai cấp thống trị càng nặng nề, sự vùng lên đấu tranh càng mạnh mẽ.”
7. Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ - Bài mẫu 4
Để tạo nên một truyện ngắn xuất sắc, mỗi nhà văn lại lựa chọn cho mình những yếu tố then chốt riêng, người chọn tô điểm cho tình huống, người chọn nhấn mạnh cốt truyện và cũng có nhiều người dành tâm sức mình chú trọng xây dựng những nhân vật điển hình, góp phần tạo nên những tác phẩm để đời. Tô Hoài trong “Vợ chồng A Phủ” đã xây dựng thành công hình tượng Mị và A Phủ. Từ việc phân tích diễn biến tâm lý, hành động Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ, nhà văn đã gửi gắm những cái nhìn nhân đạo mới mẻ của mình tới người đọc.
Ngồi bên bếp lửa, Mị nhớ lại ngày mình cũng bị A Sử trói trước kia, thấy thương thân, thương người rồi thành ra Mị căm giận những con người ấy, cái ác cái khổ đau đọa đầy lên những người lao động bé mọn như Mị.
Khi tưởng tượng ra cảnh mình cởi trói cho A Phủ, A Phủ trốn được rồi mình bị đổ tội cứu nó và phải chết thay, Mị không thấy sợ. Và suy nghĩ đó đã dẫn Mị đến quyết định lấy dao cắt dây cởi trói cho A Phủ. Khi A Phủ chạy đi rồi, Mị ở lại, “đứng lặng trong bóng tối”. Câu văn lúc này ngắn và chậm tạo sự căng thẳng, hồi hộp trước giờ phút quyết định của cuộc đời Mị, một là tiếp tục cam chịu làm tôi đòi nhà thống lí, hai là đến với cuộc sống tự do, hạnh phúc của riêng mình. Ngay sau đó, Mị đã chạy theo A Phủ nói: “A Phủ cho tôi đi. Ở đây thì chết mất”. Hành động đó chứng tỏ Mị đang chạy trốn khỏi cái chết và khát khao chạm tay tới cuộc sống tự do. Mị cởi trói cho A Phủ để A Phủ được tự do, nhưng đó cũng là hành động tự giải phóng cho bản thân mình. Phải chăng, chính khát vọng sống cháy bỏng đã chắp cánh để Mị vượt thoát khỏi cuộc sống nhiều gông sắt trói buộc mình.
Giá trị nhân đạo, giá trị nhân văn và giá trị nhân bản là những nguyên tắc ứng xử tốt đẹp của con người với con người mà hạt nhân là lòng yêu thương con người. Trong đó, tinh thần nhân đạo xuất hiện nhiều hơn cả. Tinh thần nhân đạo trong văn học có thể được ví như “dòng quán thông kim cổ của văn học dân tộc” (Đặng Thai Mai). Nhân đạo, đó là sự cảm thông, sẻ chia với những nỗi khổ đau, là tiếng nói trân trọng, ngợi ca những nét đẹp tâm hồn con người, những khát vọng, niềm tin ấp ủ trong trái tim họ. Nhân đạo là một trong hai tư tưởng chủ đạo, truyền thống của văn học Việt Nam (cùng với tinh thần yêu nước). Và qua đó cũng thể hiện tình yêu của nhà văn đối với con người. “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm văn học Cách mạng đặc sắc. Vả lại, thời điểm bài thơ ra đời, văn chương được xem là vũ khí, còn nhà văn, nhà thơ là chiến sĩ trên mặt trận văn học. Có lẽ chính vì vậy mà tác phẩm mang những giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Trước hết, đó là sự cảm thông, xót thương số phận khổ đau, tủi nhục của người lao động dưới ách thống trị của chúa đất chúa mường. Thêm vào đó, tinh thần nhân đạo trong tác phẩm còn là sự ngợi ca, trân trọng sức sống, khát vọng sống tiềm tàng, mãnh liệt của con người. Và cuối cùng là sự tin tưởng của nhà văn vào khả năng và cơ hội người lao động như Mị, như A Phủ tự vượt lên giải phóng chính mình để đến với tự do, làm chủ cuộc đời. Để có thể gửi gắm những giá trị nhân đạo mới mẻ đó, chính nhãn quan thời đại cách mạng đã cho nhà văn chiến sĩ cái nhìn tích cực về quần chúng nhân dân.
Qua diễn biến tâm lý, hành động nhân vật Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã gửi gắm những nội dung giá trị nhân đạo mới mẻ tới người đọc. Qua đó thể hiện niềm tin của nhà văn và gieo niềm tin nơi người đọc vào quần chúng nhân dân – những nạn nhân đau khổ của thời cuộc nhưng mang trong mình khả năng, cơ hội trở thành chủ nhân của cuộc đời, đi từ bóng tối đến ánh sáng, từ nô lệ đến tự do, hạnh phúc.
8. Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ - Bài mẫu 5
Với tác phẩm Vợ chồng A Phủ, tác giả Tô Hoài đã rất thành công khi phản ánh đời sống của người dân tộc miền núi một cách chân thực, sâu sắc nhất. Bước tiến của nhà văn Tô Hoài là hướng người dân đến với ánh sáng cách mạng sau khi tự giải thoát khỏi ách thống trị của chế độ phong kiến cổ hủ, tàn bạo. Họ tự nguyện gắn bó cuộc đời chính mình với cách mạng và từ đó trở về giải phóng những con người khác. Diễn biến tâm trạng, hành động của nhân vật Mị trong cái đêm giải thoát chàng A Phủ khỏi vùng đất Hồng Ngải là một minh chứng sinh động và đầy tính nhân văn.
Nhà văn đã xây dựng một không gian, thời gian phù hợp, có vai trò tạo điều kiện thuận lợi cho nhân vật hành động và biểu lộ cảm xúc. Đó là tạo nên một đêm đông với cách miều tả “dài và buồn” khi A Phủ bị trói vào cây cọc trong tình trạng số phận đang cận kề cái chết. Mỗi buổi tối, như thường lệ, Mị dậy sớm đốt lửa sưởi ấm, để chia sẻ tâm tình với ngọn lửa. Qua ngọn lửa bếp ấy, Mị thấy A Phủ trừng mắt, lúc ấy Mị biết hắn còn sống. Mấy đêm nay ngày nào cũng thế, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa vào tay nếu A Phủ là xác chết đứng thì cũng vậy thôi. Mị thấy dửng dưng trước con người đang tàn tạ ấy, lạnh lùng trước số phận con người, trước đau khổ của họ.
Bởi lẽ, chuyện có người bị trói là chuyện quen thuộc, rất đỗi bình thường trong cái gia đình này. Bản thân Mị cũng đã từng là nạn nhân của cái thực tế tàn nhẫn và phi nhân tính cay độc đó. Mị vẫn còn đang đắm chìm và chết dần trong sự đau khổ của hoàn cảnh đó. Hơn nữa, nỗi đau của đời Mị quá lớn, nó như núi đè nặng khiến Mị không còn khả năng, sức lực quan tâm hay chú ý đến người khác. Vì thế Mị lại rơi vào trạng thái lạnh lùng, thờ ơ.
Rồi như bao ngày khác một đêm khuya nữa lại đến, Mị tiếp tục dậy thổi lửa sưởi ấm bàn tay. Cùng với ánh bếp lửa bập bùng cháy sáng Mị nheo mắt nhìn thấy A Phủ đang mở mắt với một dòng nước mắt long lanh lăn dài trên gò má đã sạm đen. Đây là những giọt nước mắt tận cùng bất lực của người đàn ông dũng cảm, nghị lực. Đó là dòng nước mắt vô cùng đau thương gửi gắm bao nỗi lòng và thông điệp. Nó vừa là sự tuyệt vọng, vừa là sự khẩn thiết cầu xin. Và quả thật, những giọt nước mắt ấy của A Phủ đã gợi lên những nỗi đau của năm trước, khi ấy Mị cũng bị trói Mị cũng nhiều lần khóc, nước mắt chảy dài xuống miệng, xuống cổ mà không sao lau được. Nó làm Mị nhớ đến câu chuyện bi thảm được truyền ở trong ngôi nhà này về cái chết của một người phụ nữ gầy gò và nó cũng đánh thức trong Mị những suy nghĩ rất mới mà trước đây chưa từng có hoặc đã bị đáng lụi.
Giờ đây, Mị càng thấy rõ hơn sự tàn ác của những con người trong nhà thống lý Pá Tra. Với tất cả sự đau đớn và xót thương cho những con người đang phải gánh chịu đau khổ bên ngoài, Mị có thể dũng cảm kết luận: Chúng thật độc ác. Mị cũng nhận thấy cái chết cận kề trong với A Phủ: chúng nó bắt “người ta chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị muốn hành động và cứu A Phủ, giải thoát cho những con người bất hạnh. Và rồi, tình người trỗi dậy nó chiến thắng nỗi sợ, Mị dũng cảm rút con dao nhỏ để cắt lúa, cắt nút dây mây giải thoát A Phủ khỏi lưỡi hái của tử thần khỏi cái địa ngục trần gian này. Đây có thể nói là giây phút thiêng liêng, đẹp đẽ trong cuộc đời Mị. Hành động cao đẹp ấy xuất phát từ lòng nhân ái, tấm lòng yêu thương đồng loại, hay có thể nói việc đánh thức ý thức sống không chỉ cho mình mà còn cho người khác. Nhà văn đã khám phá ra nét đẹp này một cách cao thượng và nhân văn.
Khi A Phủ đã được giải thoát giờ chỉ còn lại Mị và bóng tối, điều đó khiến Mị “đứng lặng trong bóng tối”. Trong cái ranh giới mong manh giữa sự sống với cái chết, Mị thức tỉnh và nhận ra chính mình đang ở trong một tình thế của đường cùng. Mị thúc giục A Phủ “đi ngay…”, và Mị cũng vội đi theo, đuổi kịp A Phủ “A Phủ cho tôi đi” và được A Phủ đồng ý: “đi với tôi”. Bước đi của Mị chỉ đơn giản thể hiện một điều rằng Mị muốn sống, tồn tại, được là chính mình dù không biết cuộc sống sau này sẽ ra sao, hay đơn giản hơn là có thể thoát khỏi Hồng Ngải hay không. .
Giờ đây, Mị đã có thể dũng cảm vượt qua thế lực của con ma nhà thống lí, quên đi ách thống trị của cha con thống lí Pá Tra. Cô đã mạnh mẽ thoát ra khỏi “ngục tù”, của sự tủi nhục khốn khổ. Và hai con người cùng khổ ấy đã giúp nhau vượt qua bóng tối, vượt qua ranh giới giữa sự sống với cái chết. Họ hướng về phía trước về thế giới của tự do về một ngày mai tươi sáng huy hoàng. Dẫu còn nhiều gian nan thử thách, nhưng tự do, tình yêu và hạnh phúc rồi sẽ đến, chân trời tươi sáng của cuộc đời, ánh hồng của bình minh. Và cuối cùng cả hai người họ đã tìm đến con người để cứu cuộc đời họ đó chính là ánh sáng của cách mạnh.
Nhà văn Tô Hoài không tô vẽ hay lý tưởng hóa nhân vật của mình trong hoàn cảnh này mà để nhân vật tự hành động cố gắng hiểu và đi theo nó. Nhân vật Mị hành động bằng chính nghị lực, sức sống của mình. Mị dám chấp nhận nghịch cảnh, vượt qua nó để chiến thắng và khẳng định mình làm chủ cuộc đời mình. Đó là thành công lớn nhất của tác giả Tô Hoài khi xây dựng hình tượng con người mới của thời đại cách mạng, giác ngộ và dẫn dắt họ đến tương lai bằng chính sức mạnh vốn có của chính mình.
9. Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ - Bài mẫu 6
Đề tài về cuộc sống của người nông dân nghèo khổ trước cách mạng tháng 8 vẫn luôn là một đề tài được nhiều nhà văn lựa chọn viết. Ví như Nam Cao có Lão Hạc, chị Dậu thì Kim Lân lại nổi tiếng với tác phẩm Làng. Nhưng đến với Tô Hoài, ta lại thấy một góc nhìn mới về số phận của những người dân tộc, đồng bào thiểu số trên vùng cao. Cho dù là người dân ở dưới đồng bằng hay vùng núi thì trong họ vẫn luôn tồn tại những khát vọng sống mãnh liệt, sự tự do và lòng trắn ẩn yêu thương giữa con người với con người. Điều này đã được Tô Hoài khắc họa thành công qua nhân vật Mị.
Mị là một cô gái con nhà nông dân có món nợ truyền kiếp với nhà thống lý Pá Tra từ đời cha mẹ Mị, rồi cuối cùng cô phải chịu làm vợ lẽ cho con trai của nhà đó là A Sử. Mang tiếng làm vợ cho nhà giàu có nhất vùng thế nhưng cuộc đời của cô lại là một chuỗi ngày bi kịch và khổ đau. Mị không có hạnh phúc, Mị phải sống những tháng ngày như địa ngục, Mị muốn ăn lá ngón rồi chết quách đi, thế nhưng Mị lại không thể chết, bởi cô chết rồi món nợ của cha ai sẽ trả. Đến khi cha Mị đã mất thì Mị lại không còn thiết tha đến việc chết nữa bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Mị sống dưới danh phận con dâu gán nợ nhưng thực tế là làm nô lệ suốt kiếp cho nhà thống lý Pá Tra, phải làm lụng quanh năm suốt tháng quần quật không ngày nghỉ ngơi. Đến độ Mị cảm thấy mình không còn là con người nữa bởi “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”, đắng cay đến cùng cực. Cuộc đời của Mị lầm lũi giống như con rùa trong xó cửa, im lặng và tù túng, trơ lì trong lớp mai dày vô tri vô giác, không thiết tha đếm xỉa gì cuộc đời này nữa.
Cứ ngỡ rằng cái tâm hồn vốn chai sạn vì cái khổ ấy đã chết hẳn, thế nhưng cuộc đời của Mị lại lần nữa được sống lại, sống lại những cảm xúc của một người con gái đang độ xuân sắc, xinh đẹp và có tài thổi sáo. Đêm tình mùa xuân ấy, Mị nghe thấy tiếng sáo thổi của ai đang gọi bạn, đã làm sống dậy trong lòng Mị những ký ức xa xăm thuở Mị còn là con gái, với tiếng sáo say lòng người “có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác”. Tiếng sáo lảnh lót mùi mẫn văng vẳng trong đêm tối, khiến Mị thấy thổn thức, rồi Mị khóc, nước mắt Mị ứa ra từng hàng, chẳng biết đã từ bao lâu rồi Mị không khóc như vậy. Mị xót xa, Mị ấm ức, tức tưởi cho cái cuộc đời đầy rẫy bất hạnh của mình, Mị thấy đắng cay, thấy tức giận, Mị muốn vùng lên phản kháng, Mị không muốn sống cái kiếp người như cỗ máy làm lụng biết nói này thêm ngày nào nữa. Mị muốn được sống như một con người, biết đớn đau, biết mệt mỏi, cũng được yêu thương, được có niềm vui như bao con người ngoài kia. Điều ấy chứng tỏ điều gì? Chứng tỏ rằng tâm hồn tưởng đã chết của Mị đã sống lại, nồng nàn, mãnh liệt bởi tiếng sáo - âm thanh sự sống, đã thức tỉnh tâm hồn và trái tim vốn còn tươi đẹp và khao khát cuộc đời của Mị sau những tháng năm bị chôn vùi, chai sạn bởi cái khổ, cái đắng cay. Mị bắt đầu vùng lên, Mị làm việc mà từ khi về làm dâu Mị không dám làm, không được làm, Mị uống rượu “ừng ực từng bát”, uống như chưa từng được uống bao giờ, uống đến say khướt, rồi lấy lá làm kèn để thổi, để quay về những tháng ngày xa xăm, những ngày tháng hạnh phúc nhất cuộc đời Mị. Thế rồi, vài chum rượu, với tiếng kèn lá làm sao có thể bù đắp được cái thiếu hụt trong lòng Mị bao năm qua, cái nỗi khao khát sự sống mãnh liệt trong lòng của Mị. Mị muốn đi chơi, Mị muốn mặc quần áo đẹp, muốn thổi sáo, nhảy múa, bởi Mị nhận thức được một cách rất rõ ràng rằng “Mị vẫn còn trẻ”, Mị không muốn chôn vùi thanh xuân của Mình trong căn buồng chỉ có một ô cửa sổ bé bằng bàn tay như nhà tù ấy. Mị muốn sống như một con người đàng hoàng, thế nhưng thật xót xa, thật đắng cay tủi nhục, giữa lúc niềm khao khát sống mãnh liệt, lòng yêu cuộc đời của Mị đang phơi phới. Thì A Sử như một kẻ sát nhân, hắn muốn giết chết tâm hồn Mị một lần nữa, nó không muốn Mị được làm người, được vui sống, nó trói Mị vào cột nhà bằng cả rổ dây gai, rồi bỏ đi chơi, để lại Mị với nỗi tủi hờn, đớn đau cùng cực. Rồi Mị nhớ đến việc nhà này đã từng có một người đàn bà bị trói đến chết, Mị bàng hoàng, sợ hãi, chưa lúc nào Mị lại khao khát sự sống như lúc này “Mị sợ quá, Mị cựa quậy. Xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt”. Cái nỗi sợ, cái đau đớn xác thịt ấy chứng minh rằng Mị vẫn còn sống, cả tâm hồn lẫn thể xác, cái ý chí sống còn trong lòng Mị đã mạnh mẽ trở lại, không còn chai lì, lầm lũi nữa. Nó đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Mị, từ việc muốn ăn lá ngón để chết quách đi cho đến việc sợ hãi cái chết và khao khát được sống sót một cách mãnh liệt. Là tiền đề để Mị giải cứu A Phủ và chính cuộc đời mình ra khỏi đống bế tắc và áp bức của cường quyền và thần quyền.
Khi đối diện với A Phủ một chàng trai bị đánh, bị trói đứng giữa sân ngay gần đống lửa Mị vẫn thường hay sưởi ấm, nhưng Mị “vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết đấy, cũng thế thôi”. Nhưng có lẽ ít ai biết được bên ngoài cái vẻ thờ ơ, mặc kệ sống chết ấy, trong lòng Mị đã có những thay đổi lớn, Mị đã không còn là người đàn bà lầm lũi, trơ lì với cái khổ, cái đớn đau thể xác tinh thần bắt đầu từ đêm tình mùa xuân ấy, từ khi Mị nghe thấy tiếng sáo cất lên, khi Mị thấy đau đớn, thấy sợ cái chết. Mị đồng cảm và xót thương cho số phận của A Phủ như chính cuộc đời mình, những con người không có quyền quyết định số phận cuộc đời, để biết mặc cho người ta chà đạp áp bức, rồi chết đi trong tay của bè lũ thống trị tàn ác. Đặc biệt khi mị trông thấy giọt nước mắt của người đàn ông ấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen”, Mị lại nhớ đến cuộc đời đầy vết sẹo của mình, Mị phẫn nộ, Mị căm tức nhà thống lý Pá Tra, những kẻ độc ác, chúng nó bắt “người ta chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị thấy xót xa, Mị thấy thương cảm cho A Phủ, bởi Mị đã là dâu con, chết ở đây cũng dành, còn A Phủ có tội gì mà phải chịu cảnh như Mị. Mị càng nghĩ lại càng thấy không cam lòng, thấy đau đớn thay cho một kiếp người. Và có lẽ rằng giọt nước mắt của A Phủ, giọt nước mắt của một con người vô tội, một con người khao khát sự sống, tựa như giọt nước tràn ly đã thôi thúc sự phản kháng, lòng trắc ẩn trong tâm hồn Mị. Mị đâu phải lũ người độc ác kia, Mị không chai lì và tàn nhẫn như thế, Mị phải cứu người đàn ông này, A Phủ xứng đáng được sống một cuộc đời tốt đẹp chứ không phải là chết ở đây vì làm mất một con bò. Lúc này đây Mị không còn sợ nữa, không sợ cường quyền, thần quyền gì nữa, Mị trở nên mạnh mẽ, như một người hùng cắt dây trói cho A Phủ, Mị bất chấp tính mạng mình để anh được sống, bởi Mị nhìn thấy ở chàng trai ấy chính là cuộc đời bất hạnh của Mị. Cứu A Phủ cũng là cứu chính tâm hồn, cứu cuộc đời của Mị. Cảnh cuối có lẽ Mị đã thông suốt, Mị đã thật sự phản kháng, Mị vùng dậy chống lại số phận, Mị muốn làm chủ số phận của mình, Mị quyết định bỏ trốn theo A Phủ, bởi Mị biết rằng ở lại nếu không chết về thể xác, thì cũng là cái chết về tâm hồn, đều đớn đau và tủi nhục vô cùng. Chỉ có cách thoát khỏi nơi quỷ quái ấy thì Mị mới có thể được sống sống thật sự, được làm một con người thật sự. Đây chính là biểu hiện rõ nét nhất về khao khát được sống, niềm ham sống, khao khát tự do mãnh liệt của Mị, một con người vốn tưởng tâm hồn đã trơ lì như gỗ đá. Đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, dẫu có bị cái khổ, cái tuyệt vọng, sự tàn ác của tầng lớp thống trị chà đạp đến gần như chỉ còn một tàn than đỏ, thì chỉ còn một ngọn gió xuân, một tiếng sáo, một niềm thương cảm cho kiếp người đồng cảnh ngộ nó cũng có thể bùng lên mãnh liệt hơn bao giờ hết.
Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Tô Hoài, cũng như nền văn học Việt Nam khi viết về các đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc. Với tấm lòng yêu thương, trân trọng tha thiết, Tô Hoài đã khai thác một cách triệt để cuộc đời, số phận của những con người phải chịu sự thống trị tàn ác của thần quyền và cường quyền dưới chế độ thực dân phong kiến, thông qua biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật một cách tỉ mỉ và tinh tế. Đồng thời ông cũng bộc lộ được những vẻ đẹp đáng quý trong tâm hồn của nhân vật ấy là sức sống tiềm tàng mãnh liệt, khao khát tự do cháy bỏng, sức phản kháng, sự vùng dậy mạnh mẽ trong những con người nhỏ bé, tưởng như cam chịu số phận.
10. Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ - Bài mẫu 7
Tố Hữu, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, từng nói: “Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học”. Cũng chính vì thế, ta hiểu rằng văn học và đời sống luôn song hành với nhau - văn chương chính là tấm gương phản chiếu rõ nét nhất những hiện thực của đời sống thường ngày. Với ý niệm này, nhà văn Tô Hoài đã chấp bút viết nên “Vợ chồng A Phủ” để tái hiện lại bức chân dung chân thực về các dân tộc ở Tây Bắc xuyên suốt những năm tháng cách mạng. Được tác giả miêu tả sâu sắc nhất, nhân vật Mị - bông hoa ban núi rừng hiện lên như một biểu tượng cho người phụ nữ Tây Bắc lúc bấy giờ: hoàn cảnh ngặt nghèo, đau khổ nhưng vẫn luôn giữ được sức sống tiềm tàng. Điều đó đặc biệt được Tô Hoài diễn tả qua đoạn trích đêm đông Mị cởi trói cho A Phủ và bỏ trốn cùng anh: “Lúc ấy trong nhà đã tối bưng… thì thào một tiếng “Đi ngay!”.... Qua đoạn trích, tư tưởng nhân đạo đầy tiến bộ của “cuốn từ điển sống nghề văn” này đã được thể hiện sâu sắc, sáng rõ.
Nhắc đến nhà văn Tô Hoài là nhắc đến một trong những cây đại thụ của nền văn học cận đại Việt Nam. Xuyên suốt sự nghiệp sáng tác trải dài hơn 60 năm, Tô Hoài đã cho ra gần 200 đầu sách khác nhau và gặt hái vô số thành công ở nhiều thể loại. Thế nhưng tiêu biểu hơn cả là những trang văn chân thực, sâu sắc của ông về cuộc sống và con người vùng Tây Bắc qua tập “Truyện Tây Bắc”. Qua tập truyện, nhà văn đã khắc họa bức chân dung sinh động, xúc động về những nỗi đau thương, khổ cực mà nhân dân miền núi phải gánh chịu dưới ách áp bức nặng nề của chế độ thực dân phong kiến, đồng thời tác phẩm cũng là lời ngợi ca, trân trọng ông dành cho tinh thần kiên cường, bất khuất của họ khi đã vùng lên đấu tranh, tham gia cả nước cùng kháng chiến. Tinh thần, ý niệm này của Tô Hoài được bộc lộ rõ nhất, sáng ngời nhất qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.
“Vợ chồng A Phủ” được chắp bút năm 1952, đây là kết quả của chuyến đi thực tế của Tô Hoài đến các bản làng mới giải phóng và dành tám tháng cùng ăn, cùng ở, cùng gắn bó với đồng bào các dân tộc miền núi nơi đây. Với quan niệm “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật”. Ông đã chưng cất những “sự thật” xù xì, thô nhám nơi đây để tạo nên một các hình tượng đẹp đẽ, là đại diện cho tinh thần, quan niệm nhân sinh của mình, điển hình là nhân vật Mị, trung tâm của câu chuyện. Ẩn sau hình ảnh người con gái tài năng, xinh đẹp là sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ và tinh thần bất chấp những gông xiềng của hủ tục lạc hậu và ách áp bức, bóc lột của cường quyền - thần quyền.
Không phải ngẫu nhiên mà câu chuyện của Mị được bắt đầu bằng một nốt trầm: “dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Mới không lâu, Mị còn là một bông hoa ban thuần khiết, tươi mới, mới nở rộ của ngôi làng mà giờ đây Mị hiện lên với cuộc sống lầm lũi, buồn khổ, tủi nhục trong thân phận vợ của A Sử, con dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra. Cuộc sống tươi đẹp, tự do trước kia giờ chỉ còn là những giọt nước mắt lăn dài, những mảnh hồi ức rời rạc, xa xăm, ngoài tầm với của Mị. Cô không chỉ đánh mất cuộc đời cũ của mình mà còn bị cha con nhà Pá Tra đày đọa cả thể xác và tinh thần: phải làm việc cả ngày lẫn đêm; bị giam hãm trong căn buồng kín mít; bị chồng đánh, bị phạt, bị trói,... Đến nỗi mà Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Tâm hồn Mị, vốn thuộc về một cô gái trẻ trung, vui tươi, yêu đời, đã dần tan nát, vụn vỡ dưới bàn tay hung bạo, áp chế của cha con nhà thống lý.
Những tưởng cuộc đời của Mị đã chấm hết, tinh thần của Mị rồi cũng sẽ héo mòn dưới gông xiềng của hủ tục lạc hậu và nạn áp bức bóc lột tàn bạo nhưng không, ẩn sâu dưới vẻ lầm lũi, câm lặng đó vẫn le lói một ánh lửa của sức sống, của khát khao hạnh phúc, của mong muốn được tự do, luôn âm ỉ cháy chỉ chờ ngày bùng lên mãnh liệt. Trái với các nhà văn cùng thời, dù viết về những tội ác của bọn thống trị và nỗi thống khổ của dân nghèo, Tô Hoài bằng ngòi bút của mình đã không để cho các nhân vật của mình chìm trong đau khổ, trong tuyệt vọng, bị cái ác, cái tàn độc dồn đến chân đường cùng, đến cái chết. Thay vào đó, với tình thương yêu và sự trân trọng sâu sắc ông dành cho người dân Tây Bắc, Tô Hoài đã khéo léo tận dụng tối đa nghệ thuật xây dựng, khai thác nội tâm nhân vật để nêu bật hành trình hồi sinh, lấy lại khát vọng sống của Mị. Đến đây độc giả chợt hiểu rằng: “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn.” (Thạch Lam).
Sự chuyển biến trong tâm hồn Mị được đánh dấu bằng đêm hội mùa xuân. Sau những tháng ngày bị giày vò, bị bóc lột đến mức chai sạn, trơ lì, thế nhưng trái tim Mị vẫn không khỏi rung động trước vang âm của tiếng sáo, tiếng gọi bạn đánh pao từ trai gái Hồng Ngài. Cái xác không hồn” ngày ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” như bừng tỉnh khỏi cơn ác mộng, Mị bỗng thấy “thiết tha bồi hồi”, trái tim khô quạnh của cô được hồi sinh. Tiếng sáo trong trẻo đưa Mị tới bình rượu, tới hơi ấm của bếp sưởi, tới niềm tin vào một cuộc sống tươi đẹp hơn. Thế nhưng chẳng mấy chốc, hy vọng đó đã bị dập tắt bởi sợi dây trói của A Sử. Cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành, nhưng đốm lửa vẫn còn đó, chực chờ cơ hội bùng cháy và thiêu rụi màn đêm của gia đình thống lý. “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám chảy ngày mai” (Lỗ Tấn), ở đây Tô Hoài không chỉ báo hiệu trước cho độc giả về số phận của Mị, mà từ đó còn cho ta thêm hy vọng về sự hồi sinh, giải phóng hoàn toàn của Mị, đỉnh điểm là vào đêm đông Mị cởi trói cho A Phủ.
Có lẽ tâm hồn Mị sẽ mãi là tảng băng lạnh lùng, vô cảm, Mị vẫn sẽ tiếp tục trơ lì trước cảnh tượng A Phủ bị trói nếu như không bắt gặp “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Giọt nước mắt lăn dài xuống khuôn mặt hốc hác, phờ phạc của A Phủ gợi lại cho Mị về chính mình vào đêm tình mùa xuân, về nỗi thống khổ, tuyệt vọng cùng khát khao vùng dậy, phản kháng mãnh liệt mà cả hai cùng sẻ chia. Bất chấp cái giá rét của cường quyền - thần quyền, dòng nước mắt đã kết nối hai tâm hồn đồng điệu, cho họ một chút hơi ấm giữa đêm đông lạnh lẽo, khắc nghiệt này. Trái tim Mị tan chảy khi tiếc thương thân phận chính mình, để rồi cháy rực lên khi Mị nghĩ về A Phủ, nghĩ về hoàn cảnh tương đồng giữa hai người. Nếu bát cháo hành đơn sơ của Thị Nở đã thức tỉnh Chí Phèo khởi cơn mê thuốc, khỏi sự tàn ác, đưa hắn quay trở lại với cuộc đời thiện lương thì giọt nước mắt của A Phủ đã đánh thức khát vọng tự do vốn bị vùi dập bấy lâu trong Mị, tiếp thêm cho cô sức mạnh để vùng lên phản kháng. Lớp xiềng xích tàn bạo của cha con nhà thống lý cũng phải khuất phục trước niềm căm phẫn sục sôi và sức sống mãnh liệt của Mị.
Ngọn lửa bếp đã tàn, thế nhưng một ngọn lửa mới đang trỗi dậy, xua tan bóng đêm của ngôi nhà thống lý và đánh dấu sự thay đổi trong tâm hồn Mị. Thay vì nhóm lửa lại theo thói quen, lòng trắc ẩn và sự đồng cảm đã thúc đẩy Mị vượt qua nỗi sợ ban đầu để tiến đến hành động bột phát, mạnh bạo - Mị “rón rén bước lại”, “cắt nút dây mây”, cởi trói cho A Phủ. Sau hàng năm trời phải sống im lặng, lủi thủi và cô độc như “con rùa nuôi trong xó cửa”, trái tim của cô cuối cùng đã lên tiếng, không chỉ vì bản thân mà còn vì A Phủ, vì những người dân Tây Bắc đang phải chịu sự bóc lột tàn bạo từ bọn thực dân phong kiến lúc bấy giờ. Nỗi sợ xen lẫn sự quyết liệt mới mẻ này đã tạo thành hai tiếng thì thào “đi ngay” của Mị dành cho A Phủ.
Thật ý nghĩa khi Tô Hoài dành lời nói đầu tiên của Mị trong tác phẩm này, là lời nói thúc giục, giải thoát cho A Phủ. Chỉ hai chữ thôi nhưng câu nói ấy chứa đầy sự quyết liệt & sức sống mạnh mẽ sau những tháng ngày sống lầm lũi, câm lặng trong đày đọa của nhà thống lý Pá Tra. Hai chữ “đi ngay” không chỉ là tiếng thúc giục A Phủ mà còn là lời nói Mị dành cho chính mình để sau đó cô bỏ trốn cùng anh. Tô Hoài đã rất tinh tế khi miêu tả dòng chảy tâm lý của Mị. Bằng một loạt câu văn ngắn cùng nhịp điệu gấp rút, dồn dập, nhà văn đã xuất sắc khắc họa chân dung người con gái Tây Bắc trong đêm đông giá rét với những vẻ đẹp phi thường. Cái đêm “định mệnh” ấy chính là nguồn động lực vô song giúp Mị chiến thắng tất cả mọi nỗi lo sợ, mọi cường quyền và thần quyền để giải phóng cho chính mình và A Phủ, thay đổi cuộc sống của họ cho những ngày tươi đẹp hơn.
Nhà văn Sê-khốp từng có lời nhận xét rằng: “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Khi sáng tạo, người nghệ sĩ không chỉ cần cẩn trọng với nét cọ hay những lớp màu mà họ còn phải thành tâm khắc họa, truyền tải những thông điệp thông điệp nhân đạo ý nghĩa nhất tới mọi người. Ở nhân vật Mị, bên cạnh những ngợi ca, những cảm thông, thương xót cho người con gái Tây Bắc ấy, tác giả còn lên tiếng tố cáo chế động phong kiến miền núi đã đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần của con người, dùng cường quyền và thần quyền để đẩy họ xuống những bùn đen của cuộc đời. Đặc biệt, trong quá trình tạo dựng nhân vật trung tâm, thay vì lựa chọn một hình tượng gần gũi, quen thuộc mà độc giả chúng ta thường thấy ở thôn quê, đồng bằng thì trái lại, ông đã miêu tả chân dung một cô gái vùng núi Tây Bắc. Tinh thần nhân đạo của Tô Hoài đã tỏa sáng ở sự đổi mới trong việc tìm kiếm đối tượng văn học, và cả ở cách ông miêu tả diễn biến tâm trạng, hành động của Mị. Không dừng lại ở hành động phản kháng, tự phát của cô (cởi trói cho A Phủ) mà Tô Hoài còn mở ra một hướng đi mới cho cả hai - con đường giác ngộ lý tưởng Đảng, đi theo tiếng gọi của Tổ quốc để góp công giải phóng các dân tộc vùng Tây Bắc, tiến đến một tương lai tốt đẹp hơn. Chính tư tưởng, tinh thần nhân đạo tiến bộ của Tô Hoài đã góp phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm và khẳng định tên tuổi của ông trong làng văn chương Việt Nam.
Qua đoạn trích từ “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã khẳng định được ngòi bút tài hoa cùng vị thế của mình trong thể loại truyện ngắn. Từ lối kể chuyện tự nhiên, sinh động, đến vốn hiểu biết phong phú về phong tục tập quán đặc sắc, riêng biệt của Tây Bắc, và đặc biệt là nghệ thuật xây dựng, miêu tả nội tâm nhân vật, tất cả đã tạo nên một cõi văn rất riêng mang tên Tô Hoài - vừa tinh tế, khéo léo, vừa đậm đà chất trữ tình, thơ mộng. Với sự xuất hiện của “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài không chỉ đứng từ phía ngoài quan sát mà còn hòa làm một với thế giới nội tâm của các nhân vật làng Hồng Ngài, để đồng cảm, để thấu hiểu, để yêu thương. Dòng chảy dạt dào của tình cảm, của sự trân trọng trìu mến và da diết ông dành cho người dân miền Tây Bắc đã kết tinh qua nhân vật Mị - người con gái phải chịu ách áp bức bóc lột nặng nề nhưng luôn mang trong mình một sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt.
Niềm ham sống cùng khát khao được tự do không chỉ hiện diện trong tâm hồn Mị mà còn có thể được tìm thấy ở nhiều sáng tác khác, trong đó phải kể đến nhân vật thị từ truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Hai nhà văn với những nét bút riêng biệt, thế nhưng cả Tô Hoài và Kim Lân đều đã xuất sắc khắc họa bức chân dung người phụ nữ Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến. Mị đại diện cho dân tộc Tây Bắc dưới những xiềng xích của cường quyền - thần quyền, còn thị là hình mẫu tiêu biểu cho nhân dân nước nhà dưới nạn đói năm 1945. Họ đều là những người con gái bị bóc lột, bị áp bức, bị ách thống trị, đô hộ của bọn địa chủ - thực dân phong kiến dày vò đến độ chai sạn, tê liệt tinh thần, nội tâm ngày càng trống rỗng, cõi lòng cả hai cứ thế mà chết dần, chết mòn. Thế nhưng bất chấp những nghịch cảnh cuộc đời giáng xuống, cả Mị và thị đều nuôi dưỡng trong mình ngọn lửa của sự sống, ngọn lửa của niềm tin, của hy vọng vào một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn, vào một buổi bình minh của độc lập, tự do trên khắp mọi miền đất nước.
Để nói về Mị, Tô Hoài từng có lời nhận xét: “Số phận của cô là sự hồi sinh mãnh liệt của con người cô. Sự hồi sinh của một con người là vô cùng quý giá.” Quả đúng như vậy, bằng ngòi bút tài năng và tình cảm chân thành, sâu đậm ông dành cho các dân tộc vùng núi, tác giả đã khắc họa bức chân dung Mị, từ đó gợi cho độc giả bức tranh toàn cảnh về vẻ đẹp người dân Tây Bắc những năm tháng kháng chiến. Dẫu Mị phải chịu đựng nhiều lớp xiềng xích - sự tàn bạo của A Sử, của gia đình nhà chồng cho đến những hủ tục lạc hậu - thế nhưng tinh thần bất khuất cùng tình yêu đời, yêu cuộc sống đã thắp sáng ngọn lửa của sức sống tiềm tàng bên trong chị, đặc biệt ở đêm đông năm đó. Ngọn lửa của sức sống thầm lặng vào đêm xuân đã tiếp thêm cho Mị sức mạnh, ý chí để vùng lên đấu tranh, giành lại tự do không chỉ cho chính mình hay A Phủ mà còn biết bao người dân Tây Bắc khác đang phải chống chịu với ách xâm lược. Hình tượng Mị nói riêng và nhân dân vùng núi nói chung trong “Vợ chồng A Phủ” đã trở thành điểm sáng trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, đồng thời là tấm gương cho các thế hệ sau noi theo và học tập để ngày mai chúng ta dựng xây một đất nước tươi đẹp, hạnh phúc, tiến bộ hơn.
11. Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ - Bài mẫu 8
Nhà văn Nam Cao từng nói: "Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là những tiếng nói đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than'' Đúng như Nam Cao nói một tác phẩm văn học có giá trị khi nó lên tiếng vì con người, ca ngợi và bảo vệ con người, nhận thức được điều này, Tô Hoài đã cho ra đời tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" với hiện thực cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức bóc lột của người dân vùng cao. Đặc biệt với Mị - nhân vật trung tâm xoay quanh câu chuyện đại diện cho cả một tầng lớp, số phận con người bất hạnh. Cũng chính Mị đã cho chúng ta thấy rằng sức sống mạnh mẽ, sự phản kháng không cam chịu số phận của con người nơi đây, điều đó được thể hiện chi tiết qua hình ảnh Mị trong đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ.
Tô Hoài - nhà văn được mệnh danh là "hạt ngọc của văn học Việt Nam", ông có tuổi thơ và thời trai trẻ phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề và nhiều khi thất nghiệp, điều đó đã tạo cho ông một vốn sống, sự trải nghiệm vô cùng phong phú, đó là nền tảng để ông cho ra đời những đứa con tinh thần gần gũi, chân thật với cuộc sống đời thường.
Trần Hữu Tá từng nhận xét Tô Hoài rằng: " có thể nói Tô Hoài có một nhãn quan phong tục đặc biệt nhạy bén, sắc sảo. Trước cách mạng tháng Tám, viết về nông thôn, ông đã cho độc giả biết thế nào là tục tảo hôn, nạn nặc nô đòi nợ, cách chữa bệnh theo lối mê tín, tục lệ giỗ, tết, ma chay,... Sau cách mạng tháng Tám, Tô Hoài đặc biệt chú ý đến những phong tục độc đáo của các dân tộc miền núi Tây Bắc, Đặc biệt là dân tộc H'mông: những phong tục đầu xuân như cách ăn mặc, lối vui chơi, những tục lệ kỳ quái man rợ có tính chất trung cổ do đế quốc, phong kiến duy trì... Tuy nhiên việc mô tả phong tục dù quan trọng thế nào đi nữa cũng không lấn át được ý nghĩa xã hội." Thật vậy, hầu như các tác phẩm trước cách mạng của ông chủ yếu là về người nông dân nơi vùng quê sống trong cảnh nghèo khổ, đói khát như: Dế Mèn phiêu lưu kí (1941); Quê người (1941); O chuột (1942); Nhà nghèo (1943); Sau cách mạng, ông có những bước chuyển mạnh mẽ về cả phong cách và tư tưởng với những trang văn phản ánh cuộc sống cơ cực của nhân dân dưới ách thống trị tàn bạo của giặc xâm lược như: Xuống làng (1950); Truyện Tây Bắc (1953); Quê nhà (1981);
Tập "Truyện Tây Bắc" được sáng tác vào năm 1953, ra đời trong chuyến đi của ông với bộ đội trên Tây Bắc, ở đây ông đã có dịp ăn ở cùng đồng bào miền núi Tây Bắc chính điều này đã giúp ông tìm được cảm hứng khi cho ra đời tác phẩm. Từ hiện thực cuộc sống, bức tranh xã hội trong cảm quan của Tô Hoài đã trở nên hiện thực hơn với những nét đẹp văn hóa truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc pha lẫn những phong tục tập quán, tập quán lạc hậu là nguyên do dẫn đến bao cảnh đời cơ cực. Tuy nhiên không vì thế mà Tô Hoài lựa chọn né tránh sự thật thay vào đó ông còn tái hiện lại một cách chân thực nhất những khổ nhục, những nỗi đau thương của người lao động vùng cao dưới ách thống trị của bọn phong kiến tay sai.
"Vợ chồng A Phủ" là một trong ba tác phẩm được in trong tập "Truyện Tây Bắc". Đây là câu chuyện xoay quanh về cuộc đời nhân vật Mị - một cô gái người Mông xinh đẹp và tài hoa. Nhưng trớ trêu thay, khi lớn lên vì món nợ của bố mẹ mãi chưa trả dứt, Mị bị A Sử bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Mị định tự tử nhưng vì thương cha, Mị không đành lòng chết. Cuộc sống trâu ngựa ở nơi đây đã làm héo mòn một cô Mị xinh đẹp, vui tươi trở nên vô cảm và chai lì. Rồi lại đến mùa xuân năm nay Mị đã nghe thấy tiếng sáo gọi bạn, Mị uống rượu, hơi rượu đã làm cho tâm hồn Mị phơi phới trở lại nhưng nó đã bị dập tắt ngay khi Mị bị A Sử trói. A Sử không biết rằng, hắn chỉ trói được thể xác Mị còn tâm hồn Mị vẫn đung đưa theo tiếng sáo gọi bạn,và rồi hành động tự phát và quyết định nhất của Mị là cởi trói cho A Phủ tự giải thoát lấy mình.
Trước khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí, Mị dù sống trong hoàn cảnh nghèo khổ, nhưng cô vẫn lớn lên khỏe mạnh và xinh đẹp, vẻ đẹp ấy khiến bao chàng trai phải gục ngã, si mê: "trai đứng nhẵn vách đầu buồng Mị'. Không chỉ xinh đẹp Mị còn biết thổi sáo: "Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo". Tiếng sáo của Mị như tiếng lòng trong trẻo, có biết bao người ngày đêm thổi sáo theo sau Mị. Tô Hoài đã vẽ ra hình ảnh người con gái dân tộc với vẻ đẹp đắm say, nhưng "hồng nhan bạc phận" có phải những người con gái tài sắc thường chịu chung một phận đắng cay? Ngay tư đầu câu chuyện hình ảnh Mị hiện lên vô cùng não nề, kiếp phận không bằng con trâu, con ngựa. Xây dựng hình ảnh một cô gái xinh đẹp ắt hẳn tác giả phải có chủ đích, bởi nhà văn mong muốn tái hiện những mảnh hồn riêng biệt của nơi đây mà ông may mắn gắn bó đồng thời qua nhân vật Mị ông cũng khéo léo cất lên tiếng nói công bằng cho những cô gái nơi đây. Nhưng quan trọng hơn hết ông muốn tôn lên nét đẹp tính cách, tâm hồn và sức phản kháng mãnh liệt bên trong của nhân vật. Vậy mà tại sao một con người xinh đẹp tài hoa lại hiếu thảo như vậy lại mang trong mình sức sống tiềm tàng,kỳ lạ? Không chỉ xuất hiện với vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn, Mị còn là người con gái tài đức với khát khao tự chủ, tự do và tình yêu đến từ trái tim mình. Mị đã sớm ý thức được rằng chỉ có tình yêu mới mang lại hạnh phúc thật sự. Mị không tham lam vật chất, không muốn " một bước lên mây" làm dâu nhà giàu, bởi cô hiểu rằng, cả cuộc đời còn lại sẽ cầm roi chạy theo đuôi ngựa nhà chồng. Mị cũng đã thẳng thắn nói với bố mình rằng " Con nay đã biết cuốc nương làm ngô giả nợ cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu".
Sau khi trở thành dâu gạt nợ, Mị muốn tự giải thoát cho mình bằng cái chết, đây có thể là lối thoát "đen", suy cho cùng đây là một hành động tiêu cực, nhưng trong trường hợp của Mị thì đây đã là sự phản kháng len lỏi trong đầu cô. Những ngày về làm dâu, đêm nào Mị cũng khóc. Cuộc đời nào đâu dễ dàng như ý nghĩ của ta, dẫu khát khao được tự chủ và mong muốn lấy được người mình yêu, Mị vẫn phải cúi đầu trước số phận cuộc đời mình. Người Mị yêu là một chàng trai ngón tay có đeo nhẫn với tình yêu đó Mị được là chính mình, Mị được tự do và hạnh phúc,. Nhưng Mị không được sống với tình yêu đó, Mị lấy người mình không yêu làm chồng. Nhưng đó chưa phải bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời Mị,bởi cuộc hôn nhân không có tình yêu này đã cướp đi tuổi xuân, cướp đi cuộc đời Mị. Sau khi về làm dâu nhà giàu Mị bị bóc lột sức lao động đến cạn kiệt, sống không bằng con trâu , con ngựa trong nhà chồng. Nhưng đó chỉ là nỗi đau về thể xác, Mị bị chính người chồng của mình đánh đập, hành hạ, tâm hồn Mị héo úa như con rùa rúc trong xó bếp. Vậy là chỉ sau một đêm, cuộc đời của người con gái ấy đã đi vào bế tắc, từ một cô gái trẻ trung, xinh đẹp trở thành con dâu nhà giàu nhưng cuộc đời lại éo le, ngang trái. Sợi xích của cái nghèo đã thôi đeo bám có, thay vào đó là sợi xích của hôn nhân không hạnh phúc và người chồng vũ phu.
Tưởng chừng như cuộc đời của Mị sẽ kết thúc ở đây, nhưng chính những âm thanh, màu sắc của mùa xuân đã làm cho người con gái ấy phơi phới trở lại. Sau những năm dài nằm nghe tiếng sáo văng vẳng bên tai, mùa xuân năm nay Mị đã uống rượu, hơi men đã làm Mị nghe được tiếng tim mình đập vẫn nóng hổi và thổn thức. Hơi men như chất xúc tác tâm hồn đã kéo Mị về những ngày tháng tươi đẹp trước kia. Ngày đó cô còn là một người yêu đời, yêu tự do và khát khao tình yêu, giờ đây cô giam mình trong căn buồng chỉ bé bằng bàn tay trông ra ngoài còn không biết là sương hay là nắng. Âm thanh và cảnh vật mùa xuân đã thôi thúc trái tim Mị sống lại một lần nữa. Mị dần mở lòng mình ra sau bao nhiêu năm tháng không được là chính mình. Tâm hồn Mị hòa quyện vào tiếng sáo và hơi men, Mị muốn đi chơi,Mị muốn trở về những ngày tháng trước đây. Nhưng suy nghĩ đó đã bị dập tắt bởi A Sử đã trói cô vào cột nhà, sợi dây thừng đã kéo thể xác cô về hiện tại nhưng tâm hồn Mị thì vẫn mơ màng về tiếng sáo gọi bạn ngoài kia. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô như cái xác không hồn, đêm ấy là đêm mà cô vượt lên uy quyền và bạo lực để sống theo tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục cuộc sống của kiếp trâu ngựa, nhưng chi tiết này lại được đánh giá rất " đắt" nó được ví như "đốm than hồng" chỉ cần một làn gió nhẹ thổi qua là có thể bùng lên cháy bất cứ lúc nào.
Và rồi luồng gió ấy cũng đã xuất hiện, đó chính là những đêm mùa đông dài lạnh lẽo Tây Bắc đang về. Đối với người khác đêm nào Mị cũng vào bếp để thổi lửa hơ tay, gần với nơi mà A Phủ bị nhà thống lí bắt trói đứng đây, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay bên cạnh một người sắp chết, thậm chí cô còn nghĩ rằng "nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi". Mị thản nhiên đến lạnh lùng, sự vô tâm của Mị như đang tiếp tay cho gia đình thống lí, cho chồng mình hãm hại người vô tội, liệu Mị đã trở thành một người nhẫn tâm? Sự thực thì Mị còn đang vô cảm với chính Mị, bởi chính cô còn là người bị chồng đánh ngã ở cửa bếp thế nhưng hôm sau vẫn ra thổi lửa hơ tay. Mị thậm chí còn chai sạn hơn, gan lì hơn và chẳng còn sợ những trận đòn roi nữa. Cô không còn đau, không còn oán thán, không còn rơi nước mắt cho mình nữa. Tác giả không khỏi xót xa cho nhân vật của mình, ông quá tinh tế khi miêu tả nội tâm Mị chuyển biến sâu sắc qua từng giai đoạn cuộc đời, để rồi qua đó, ta nhận ra rằng thế lực cường quyền và thần quyền đã giết chết hạnh phúc của biết bao người.
Tuy nhiên đã có một chi tiết làm thay đổi suy nghĩ của Mị, đó chính là dòng nước mắt của A Phủ đã làm hồi sinh lòng thương mình rồi đến thương người trong Mị. Nhờ ngọn lửa đêm ấy, Mị lén trông sang và nhìn thấy "một dòng lấp lánh bò xuống hai hõm má đá xám đen lại" của A Phủ. Nếu như trước đó, A Phủ là một chàng trai cường tráng, khỏe mạnh thì giờ đây sau nhiều đêm bị trói, dòng nước mắt kia mang lại sự đắng chát của một thân phận nô lệ bất lực, tủi nhục trước cường quyền và thậm chí là tiền quyền. Những lưỡi dao vô hình đã cứa vào cuộc đời chàng trai trẻ, vết cắt ấy đã trở thành "chí mạng" khiến A Phủ bất lực trước tử thần. Bờ vực giữa sống và chết sao mong manh quá? A Phủ rơi nước mắt khẽ thương xót cho cuộc đời mình. Và kỳ diệu thay khi Mị nhìn thấy dòng nước mắt ấy, dòng nước mắt đã gột rửa trái tim băng giá của Mị, khiến lòng Mị xót xa. A Phủ đã chạm đến trái tim Mị, lòng thương người cùng cảnh ngộ trỗi dậy mạnh mẽ trong Mị. Tâm lý của Mi đã chuyển biến từ một con người vô cảm sang đồng cảm, nhìn A Phủ, Mị lại nghĩ đến chính mình. Mị thì có khác gì hơn? Mị lại nhớ đến lần A Sử trói Mị, "Mị cũng bị trói đứng như thế, nhiều lần khóc nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được".Cảm giác giờ đây đã sang A Phủ, Mị ngẫm nghĩ, rồi lại "hồi sinh" trong tâm thức.
Mùa xuân năm trước, Mị bị trói và nghĩ phận mình cũng sẽ như những người đàn bà ngày trước đã chết ở đây. Mùa đông năm nay, Mị nhìn A Phủ bị trói, cô đã căm phẫn nhớ lại những phận người ấy một lần nữa. "Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó cũng bắt mình chết thôi". Mị nhận ra rằng tình hình A Phủ đang rất nguy khốn "cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết', Mị tự hỏi mình rằng Mị đang chứng kiến một người bằng xương, bằng thịt từng bước chết trước mặt mình, điều đó đã ngộ ra cho Mị sự vô lý và bất công rằng "người kia việc gì phải chết, chính chúng nó, chúng nó thật độc ác - những bọn chúa đất miền núi, những kẻ thống trị ngang tàn, bọn chúng đã đày đọa, ức hiếp và đối xử tàn bạo với những người lương thiện như Mị, như A Phủ và còn rất nhiều người khác nữa.Tình thương đã chiến thắng nỗi sợ hãi, nỗi đồng cảm ấy đã thôi thúc người con gái vô tâm ấy đi đến hành động cởi trói cho A Phủ. Sự tàn ác của bọn giai cấp thống trị đã trở thành động lực để Mị dũng cảm " Mị rút con dao găm cắt lúa, cắt nút dây mây" giải cứu A Phủ. Nhưng Mị sẽ ra sao sau khi cứu A Phủ? Giong văn của Tô Hoài mạnh mẽ, một loạt hành động nối tiếp nhau, từ đó cho độc giả thêm tin vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người, tin rằng nó sẽ được thức tỉnh, nó sẽ không ngừng hành động hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Sau khi cứu A Phủ để đi đến hành động cứu mình, Mị đã phải đấu tranh tư tưởng một cách quyết liệt "Mị đứng lặng trong bóng tối" Câu văn ngắn được tách thành một đoạn riêng biệt tạo nên một điểm dừng. Tâm trí Mị lúc này chỉ xoay quanh những lựa chọn giữa đi và ở lại, giữa sự sống và cái chết, giữa cuộc sống tự do và cuộc đời nô lệ. Chính Mị đã mở ra con đường sống, khai thông ánh sáng cho A Phủ. Lúc này đây ngay trước mặt Mị là ánh sáng của tự do, của hạnh phúc mà từ lâu cô vẫn hằng mong ước. Hành động giờ đây của Mị sẽ quyết định cuộc sống của cô sau này.
Khát khao tự do đã thôi thúc Mị chạy theo A Phủ, đạp đổ cường quyền và thần quyền, vùng lên giải phóng bản thân " ồi Mị cũng chạy vụt ra". Mị lựa chọn nhanh chóng, dứt khoát biến đó thành hành động tự cứu lấy mình. Mị bỏ lại tất cả và chạy theo A Phủ, đây không phải tiếng gọi của tình yêu mà là khát khao của hạnh phúc, khát khao của tự do. "Trời tối lắm" tối như cuộc đời, số phận của Mị "nhưng Mị vẫn băng đi". Mị đã tự giải thoát khỏi gông xiềng bạo lực. Mị vốn là một cô gái mạnh mẽ, bản lĩnh và đầy quyết đoán, Mị nhận thức được rõ về thực tại, Mị biết mình cần phải làm gì. Cảm xúc của Mị hoàn toàn rõ ràng,hành động của Mị được dẫn dắt bằng lý trí chứ không phải là "tiếng sáo " hay ''men rượu", lý trí Mị mách bảo rằng xã hội này quá bất công điều cần làm là phải đứng lên tự giải thoát cho mình khỏi cuộc sống lạnh lùng, tàn bạo này.
Rõ ràng trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng vai trò quan trọng tạo nên bước ngoặt trong nhân vật. Điều này đã giúp Mị vượt lên khỏi số phận đen tối của mình, việc cứu A Phủ đồng nghĩa với việc tự cứu lấy mình. Qua đoạn trích trên, tác giả đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Ông đã xót thương, cảm thông cho số phận hẩm hiu, bất hạnh không lối thoát của nhân vật, thế những ông cũng không ngừng ca ngợi đốm lửa nhỏ còn sót lại trong trái tim băng giá của cô. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó, đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng khẳng định được chân lý ở đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh.
Có một điều đặc biệt ở tác phẩm này khác với những tác phẩm trước năm 1945, nếu như trước năm 1945 hầu như các sáng tác của các nhà văn đều hướng nhân vật của mình đến đường cùng, không lối thoát như "Lão Hạc", "Tắt đèn"..thì sang đến giai đoạn này, các nhân vật đã được mở ra một hướng đi mới, tìm được lối thoát cho bản thân, như " Vợ nhặt". Đây là một chi tiết nổi bật, hấp dẫn và rất mới mẻ có trong những sáng tác sau 1945.
Bằng các bút pháp tả thực sắc sảo, nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mị với sức sống tiềm tàng nhưng mãnh liệt. Nhân vật Mị chính là điểm sáng trong toàn bộ bức tranh tiềm tàng, vươn lên mạnh mẽ.
Việc miêu tả số phận của các nhân vật nhà văn đã làm sống lại trước mắt người đọc quãng đời tủi nhục, cơ cực của người lao động miền núi dưới áp bức của bọn phong kiến tay sai, qua đó ca ngợi tinh thần phản kháng mãnh liệt, biết đứng dậy đấu tranh giành lại cuộc sống tự do của họ. Khép lại những trang văn của Tô Hoài, người đọc như vẫn cảm nhận được hình ảnh của Mị với bề ngoài tiều tụy , vô hồn nhưng bên trong lại chứa đựng một tinh thần phản kháng mãnh liệt, niềm tin vào bản thân, vào cuộc sống dù cuộc sống có ra sao.