Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được VnDoc.com sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc. Nội dung tài liệu sẽ là nguồn thông tin hữu ích để phục vụ các bạn có kết quả Ngữ văn 12 cao hơn. Mời các bạn học sinh theo dõi bài viết.

I. Dàn ý Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng

Dàn ý Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng - Bài mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu nhà văn Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng.

2. Thân bài

a. Phát hiện thứ nhất

Nguyên nhân: trưởng phòng yêu cầu Phùng chụp tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển, Phùng đã tới một vùng biển từng là chiến trường cũ mà anh từng tham gia chiến đấu để phục kích.

Phát hiện ra một vẻ đẹp trời cho trên mặt biển sớm mờ sương, một cảnh đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ bắt gặp được một lần: con thuyền kéo lưới đang tiến vào bờ, vài bóng người im phăng phắc. → Tất cả bức tranh đó từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thật đơn giản và toàn bích.

→ Bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim với cảm giác hạnh phúc tràn ngập tâm hồn. Dường như anh đã bắt gặp cái thiện, mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn của cuộc đời.

b. Phát hiện thứ hai

Khi con thuyền tiến vào bờ, Phùng chứng kiến nghịch lí, đằng sau vẻ đẹp của con thuyền khi nãy là cảnh tượng gã thuyền chài lôi vợ mình lên bò đánh đập dã man, vừa đánh vừa hết lời mắng nhiếc, chửi rủa. → Chẳng phải là đạo đức, là chân lý của sự toàn thiện.

Nhưng chưa kịp thì ra can ngăn thì thằng Phác - con trai lão đàn ông đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương. Nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.

→ Phùng cay đắng nhận ra rằng, đằng sau cái vẻ đẹp toàn bích, toàn thiện kia là những điều hết sức ngang trái, xấu xa và những nghịch cảnh trớ trêu của cuộc đời.

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản cũng như ý nghĩa hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng.

Mời bạn đọc tham khảo thêm bài viết: Tóm tắt Chiếc thuyền ngoài xa siêu ngắn

Dàn ý Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng - Bài mẫu 2

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề: Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, thông qua hai phát hiện của nhân vật Phùng, tác giả Nguyễn Minh Châu đã thể hiện được những đánh giá, quan điểm về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ và nhân dân.

2. Thân bài

- Phát hiện đầu tiên của nhiếp ảnh gia Phùng là việc chứng kiến khung cảnh biển buổi sáng trong sương mai, đó là khung cảnh đẹp đẽ, tuyệt bích như bức họa mực tàu.

- Khung cảnh rộng lớn của biển với chiếc thuyền ngoài xa mà “mái thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào hầu sương mù màu trắng như có sữa pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”, trên thuyền là vài bóng người ồm im phăng phắc.

- Trong giây lát, Phùng đã nhận ra được chân lí của sự hoàn mĩ, thì ra đứng trước cảnh đẹp, trước sự hoàn mĩ của cuộc sống, tâm hồn người nghệ sĩ có thể được thanh lọc để trở nên trong trẻo hơn.

- Trong khung cảnh lung linh, tuyệt mĩ của cảnh biển Phùng ngỡ ngàng phát hiện ra cảnh bạo lực gia đình – sự thật tàn nhẫn trong góc khuất cuộc sống của những con người nghèo khổ.

- Từ một trong những chiếc thuyền bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi với vẻ ngoài cam chịu cùng một người đàn ông ung dữ, độc ác lấy việc đánh vợ làm phương thức giải tỏa mọi đau khổ.

→ Phùng đã cay đắng nhận ra rằng đằng sau vẻ đẹp toàn bích, hoàn thiện kia lại là những góc khuất đầy ngang trái, đau khổ của cuộc sống.

→ Phùng ý thức được trách nhiệm của người nghệ sĩ, người nghệ sĩ đích thực không phải chỉ nhìn cuộc sống như chiếc thuyền ngoài xa mà cần thực sự thấu hiểu, đi sâu khám phá cuộc sống của con người

3. Kết bài

Thông qua hai phát hiện của nhân vật Phùng, tác giả Nguyễn Minh Châu đã đặt ra mối trăn trở về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa người nghệ sĩ và người dân.

Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

II. Văn mẫu Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng

Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng - Bài mẫu 1

Nguyễn Minh Châu (1930-1989) được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Ông “thuộc một trong số nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Sự tinh anh và tài năng của Nguyễn Minh Châu được thể hiện qua quá trình tư duy nghệ thuật.

Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là một phát hiện về đời sống con người theo hướng đổi mới tư duy ấy. Bao nghịch lí cuộc đời, bao nghiệt ngã của cuộc sống được mở ra, được vỡ lẽ từ một tờ lịch “tĩnh vật” thuần tuý của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong một chuyến đi thực tế. Qua đó, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời.

Trước năm 1975 trong văn học cách mạng, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự cống hiến hi sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thể hiện trong các mối quan hệ với kẻ thù, đồng chí đồng bào.

Nhưng sau năm 1975 văn học có cái nhìn mới, trở về với đời thường, đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức, thế sự.

Người nghệ sĩ phải nhìn cho ra, phát hiện, nhận diện những mối quan hệ xã hội phức tạp, chằng chịt để từ đó hướng người đọc nhận thức cuộc sống, hình thành nhân cách. Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn như thế, ông đã gửi gắm ý tưởng của mình, những chiêm nghiệm sâu sắc về nghệ thuật và cuộc sống qua nhân vật Phùng - một nghệ sĩ nhiếp ảnh: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.

Trở lại vùng biển nơi chiến trường xưa, Phùng đã từng chiến đấu, anh có nhiệm vụ hoàn thành một tấm ảnh nghệ thuật: thuyền và biển vào bộ lịch năm ấy. Phùng đã “phục kích” mấy buổi sáng sớm anh mới “chộp” được một cảnh “đắt” như trời cho.

Trên mặt biển còn mờ sương, một chiếc thuyền thu lưới đang tiến vào bờ mới đẹp làm sao! Nó đẹp, thơ mộng như “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”. Hình ảnh chiếc thuyền “in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào…” Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà đẹp đến mê hồn. Có lẽ đây là cảnh đẹp có một không hai trong cuộc đời cầm máy của anh. Trái tim anh rung động, niềm hạnh phúc tràn ngập tâm hồn trước cảnh đẹp tạo hoá ban tặng. Dường như ngắm nhìn hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa trong mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận thiện tận mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi. Trong khoảnh khắc hạnh phúc tuyệt đỉnh ấy, người nghệ sĩ bấm liên thanh một hồi một phần tư cuốn phim. Và có thể gác máy trở về ngay cơ quan không còn muốn “săn” thêm một cảnh nào nữa.

Nhưng một tình huống bất ngờ, trớ trêu xảy ra, dường như tạo hoá cũng như một trò đùa quái ác. Từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ kia bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, cam chịu cùng một gã đàn ông thô kệch, dáng độc dữ. Hắn đã rút thắt lưng của lính ngụy ngày xưa ra đánh vợ một cách tàn bạo, cốt để giải toả những ấm ức, cơ cực của cuộc sống. Phùng còn chứng kiến thằng Phác, đứa con trai của gia đình giật chiếc thắt lưng mà quật lại cha vì quá thương mẹ. Phút chốc Phùng xót xa, cay đắng nhận ra: cái xấu, cái ác, cái bi kịch trong gia đình thuyền chài kia, nó giống như một thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công săn đuổi, bỗng hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ.

Ba hôm sau, Phùng lại chứng kiến tiếp cảnh đánh vợ của gã đàn ông lần thứ hai. Như một phản xạ tự nhiên, anh vứt máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới, phải chấm dứt hành động độc ác của gã đàn ông ấy. Thế rồi chính anh cũng trở thành nạn nhân.

→ Thực tế phũ phàng đã cho Phùng nhận ra nhiều điều:

+ Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa - một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thực cuộc đời lại rất gần, rất phũ phàng, đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời.

+ Phùng vốn là người lính vào sinh ra tử, anh căm ghét mọi áp bức, bất công, sẵn sàng vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh thực sự xúc động trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền và biển trong buổi ban mai, trái tim anh cũng nhạy cảm, thắt lại trước nỗi đau của con người. Cái khoảnh khắc tràn ngập hạnh phúc trong tâm hồn kia, cái anh đã từng chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, bỗng chốc trong anh đã hoá thành nghịch cảnh. Thế ra đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” của thiên nhiên tạo hoá mà anh bắt gặp trên biển ngoài xa lại chẳng phải là “đạo đức”, là “chân lí của sự toàn thiện” mà người nghệ sĩ vẫn thường nhìn bằng đôi mắt mộng mơ của mình. Thật trớ trêu, cái ác vẫn hiện hữu ngay bên trong cái đẹp; hạnh phúc vẫn luôn tiềm ẩn những bi kịch, bất hạnh.

Những trăn trở, khúc mắc sẽ mãi theo Phùng nếu như anh không được chứng kiến câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại toà án huyện cùng người bạn chiến đấu của mình là anh Đẩu. Sự thật về một cuộc đời, những suy nghĩ và sự chịu đựng của người đàn bà đã giúp Phùng và Đẩu hoá giải được nguyên do của những điều tưởng như là vô lí.

Nếu chỉ nhìn bề ngoài của người đàn bà xấu xí, thô kệch luôn bị chồng đánh đập hành hạ, ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, lại kèm theo những lời chửi rủa độc địa, phũ phàng thì người ta có thể nghĩ: người đàn bà đó không bình thường chăng?

+ Tại toà án bà còn quỳ lạy xin quý toà bắt tội, phạt tù cũng được nhưng “đừng bắt con phải bỏ nó”, vì sao vậy?

+ Nguyên căn của mọi sự nhẫn nhục, chịu đựng ấy chính là lòng nhân hậu, vị tha, bao dung, đức hi sinh vô bờ bến của người đàn bà đôi vối những đứa con: “Phải sống cho con chứ không phải sống cho mình”. Hơn nữa: “Các chú đâu phải người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ, khó nhọc”, “các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…” Thì ra những người đàn bà sống nhờ biển, họ rất cần có người đàn ông để chèo chống với phong ba, “để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con”… chứ không phải vì một lí do nào khác. Trong khổ đau cũng có lúc họ thấy hạnh phúc, vui nhất là khi nhìn thấy đàn con được ăn no và vợ chồng cũng có lúc hoà thuận.

Qua lời lẽ của người đàn bà hàng chài, Phùng đã hiểu:

+ “Tình thương con cũng như nỗi đau cũng như cái sự thăng trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra ngoài”, mà chỉ âm thầm nhẫn nhục chịu đựng, ở trong tình cảnh ấy, suy nghĩ và cách xử sự của bà là không thể nào khác được. Đó là sự hi sinh lớn lao của người mẹ đối với đàn con của mình mà không bút mực nào tả xiết. Đó là “hạt ngọc ẩn giấu” trong tâm hồn mỗi người mà người nghệ sĩ phải đào xới vào các tầng sâu lịch sử để kiếm tìm, ngợi ca, nâng đỡ.

+ Qua đó Phùng và Đẩu cũng phải nhìn lại chính mình: không thể đánh giá bản chất con người, sự việc từ bề ngoài. Nếu cứ nhìn bề ngoài mà khuyên họ theo chủ quan của mình thì chẳng phải chính mình là người sống hời hợt, thiếu sâu sắc, thiếu thực tế? Người nghệ sĩ phải biết nhìn thấu suốt vấn đề, không thể đơn giản, dễ dãi trong mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.

+ Với người đàn ông độc dữ, Phùng cũng có phần cảm thông: có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh với bao lo toan cực nhọc đã biến “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa thành người chồng vũ phu, độc ác. Hắn vừa là nạn nhân của cuộc sống đói nghèo, khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao khổ đau cho chính những người thân trong gia đình của mình, đáng thương mà cũng đáng trách. Phải làm sao để nâng cao cái phần người, phần thiện trong kẻ thô bạo ấy đây? Đó là câu hỏi cần phải có giải pháp thiết thực để giải quyết nguyên nhân tận gốc, thay vì khuyên người ta bỏ nhau.

+ Với chị em thằng Phác, thằng Phác trở thành đứa con lỗi đạo với cha cũng chính từ nguyên nhân đói nghèo, thất học, từ những lục đục của cha mẹ mà chúng phải gánh chịu hậu quả. Chúng là những đứa trẻ đáng thương. Trong lòng chúng cũng tan nát vì đau đớn, thương tích sẽ hằn sâu kí ức tuổi thơ, lớn lên rồi chúng sẽ ra sao? Biết bao trăn trở trong lòng Phùng sau câu chuyện! Phải làm sao để những đứa trẻ ấy được no cơm, ấm áo, được học hành đầy đủ? Có như vậy, bi kịch trong mỗi gia đình mới không còn xảy ra, xã hội mới bớt đi những gánh nặng.

+ Tấm ảnh của Phùng mang về đã làm hoàn thiện bộ lịch năm ấy, dâng tặng cho bao gia đình sành chơi nghệ thuật niềm hạnh phúc. Nhưng với Phùng, mỗi khi ngắm lại, hình ảnh người đàn bà làng chài lam lũ, khổ đau lại hiện ra đầy ám ảnh.

Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu mang đến cho người đọc một bài học triết lí về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: cuộc sống thật phức tạp, đa chiều, đòi hỏi mỗi người cần có cái nhìn toàn diện, phát hiện ra bản chất sau bề ngoài hiện tượng. Đối với người nghệ sĩ, chuyến đi thực tế đã cho Phùng một bài học đúng đắn: chiếc thuyền nghệ thuật, chiếc thuyền mộng mơ thì ở ngoài xa, nhưng sự thật cuộc đời trong chiếc thuyền cụ thể lại rất gần. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đòi, bởi lẽ nghệ thuật chân chính là nghệ thuật phục vụ con người, vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét, buồn vui trước mọi lẽ đời. Biết hành động để có cuộc sống xứng đáng với con người, chứ không chỉ biết săn đuổi một thứ nghệ thuật cao siêu, thuần tuý.

Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng - Bài mẫu 2

Nguyễn Minh Châu là nhà văn nổi bật của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Những tác phẩm của ông luôn chứa đựng nhiều triết lí nhân sinh sâu sắc. Ông luôn trăn trở về cuộc đời con người và sứ mệnh của người nghệ sĩ. “Chiếc thuyền ngoài xa” được xem là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương của tác giả. Bằng việc phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng, ta sẽ thấy được cái nhìn đa chiều của chính tác giả về cuộc đời và con nghệ thuật.

“Chiếc thuyền ngoài xa” được sáng tác vào năm 1983, tiêu biểu cho hướng đi và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn đổi mới. Tác phẩm mang đậm yếu tố tự sự đi cùng với nhiều triết lí nhân sinh sâu sắc. Trong truyện, ông đã để nhân vật Phùng phát hiện ra 2 vấn đề tưởng chừng không liên quan đến nhau nhưng lại có mối quan hệ rất mật thiết.

Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo hóa đầy thơ mộng, ảo diệu; trái ngược với cảnh bạo lực, những góc khuất của cuộc đời bình thường. Điều đó đã khiến nhân vật, bản thân tác giả và cả độc giả vỡ lẽ ra nhiều điều thú vị về cuộc đời và nghệ thuật.

Nghệ sĩ Phùng được biết đến là nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy thơ mộng và tâm huyết với nghề nghiệp. Để có được tấm ảnh lịch về biển đẹp nhất, anh đã quay lại vùng biển cũ nơi anh từng tham gia chiến đấu. Nhiều ngày trời, anh đã bố trí, phục kích để có thể chụp được bức ảnh ưng ý nhất. Và rồi sau cùng, “vẻ đẹp” trời cho ấy đã tới. Một cảnh đẹp mà có lẽ, anh chỉ có thể gặp được một lần duy nhất trong cuộc đời. Dưới đôi mắt của người nghệ sĩ, cảnh tượng ấy hiện lên đẹp “như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”.

Đó là khung cảnh buổi sớm tinh sương, xa xa có chiếc thuyền chài đang thu lưới giữa mặt biển: “mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa… đang hướng mặt vào bờ”. Cảnh sắc ấy đúng là có một không hai, kì diệu, tưởng chừng như chỉ là ảo ảnh. Từ không gian mênh mông của biển đến con người; từ màu sắc, đường nét đến ánh sáng,… tất cả đều hòa quyện với nhau rất hài hòa, tinh tế.

Đứng trước khung cảnh đẹp như mơ ấy, nghệ sĩ Phùng trở nên “bối rối”, “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa ấy đã tác động mạnh mẽ vào tâm trí và trái tim của người nghệ sĩ. Nó khơi dậy những cảm xúc thăng hoa diệu kì mà bất cứ người làm nghệ thuật nào cũng đều khao khát.

Trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, nhân vật đã khám phá ra chân lí của sự hoàn hảo, cảm thấy tâm hồn trở nên trong ngần. Người nghệ sĩ như được thanh lọc tâm hồn, dành toàn bộ trái tim và khối óc để thưởng thức và lưu giữ “khoảnh khắc trời cho” ấy.

Sau những say đắm với khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, người nghệ sĩ chưa hết bàng hoàng ấy đã đối mặt với phát hiện thứ hai. Giữa sự lung linh, ảo diệu của không gian, cảnh bạo lực gia đình hiện lên ngay trước mắt anh, khiến anh ngỡ ngàng và không kịp phản ứng. Từ chiếc ngư phủ tuyệt đẹp mà anh thầm cảm thán ấy, bước ra một người đàn bà xấu xí, cam chịu, theo sau là người đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác. Lão ta rút chiếc thắt lưng ra, quật tới tấp vào người đàn bà với những lời nguyền rủa đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”.

Cảnh tượng ấy đến bất ngờ, khiến cho nhân vật Phùng chỉ biết “đứng há mồm ra mà nhìn”. Bởi lẽ chính bản thân anh cũng không thể tin được sự phũ phàng của hiện thực đang diễn ra phía trước. Anh vừa mới được chiêm ngưỡng một vẻ đẹp tuyệt vời trong cuộc đời người nghệ sĩ, khám phá ra chân lí của sự hoàn thiện; ấy vậy mà đằng sau vẻ đẹp đó lại là cảnh bạo lực dã man, tàn ác, vô đạo đức.

Sau những giây phút ngỡ ngàng, Phùng đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới” để can ngăn. Là một người lính bước ra từ khói lửa, anh hiểu và trân trọng sự bình yên của hiện tại. Do vậy, đối mặt với cái xấu xa trước mắt, anh đã không màng tới thành quả nghệ thuật mình phải cất công tìm kiếm để bảo vệ cho sự bình yên ấy.

Thế nhưng chưa kịp can ngăn, anh đã chứng kiến cảnh thằng Phác, con trai của người đàn bà xấu xí kia lao ra, giật lấy thắt lưng từ người đàn ông, “dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của cha nó. Để rồi chính nó lại bị cha tát hai cái, “ngã dúi xuống cát”. Nó lặng lẽ đưa tay lau những giọt nước mắt trên gương mặt “đầy những nốt rỗ chằng chịt” của người mẹ. Tình thương giản dị, bản năng của người con đối với mẹ mình đã khiến nhân vật Phùng cảm động, xót xa.

Ngỡ tưởng chỉ phải chứng kiến cảnh tượng đó một lần, thế nhưng bai ngày sau, nghệ sĩ Phùng tận mắt thấy được cảnh bạo lực ấy một lần nữa. Lần này, thằng Phác không còn chỉ lao ra che chở mẹ như trước, mà trên tay còn lăm lăm con dao, muốn xông vào người cha độc ác của mình.

Chị nó, một cô bé yếu ớt đã tước đoạt con dao ấy, vật lộn với nó để ngăn em làm việc trái với luân thường đạo lí. Dù phải ngăn em, trơ mắt nhìn mẹ chịu bạo lực nhưng chắc hẳn cô bé ấy cũng rất đau đớn, xót xa tột cùng. Không thể để bạo lực tiếp diễn, nhân vật Phùng đã lao ra can ngăn và bị người đàn ông đánh cho bị thương. Anh phải đến trạm y tế để băng bó vết thương, chứng kiến thêm sự cam chịu, nhún nhường của người đàn bà ấy.

Sau tất cả, anh nhận ra rằng đằng sau cái vẻ đẹp của tạo hóa mà anh tưởng là vô cùng hoàn hảo kia là hiện thực rất đỗi phũ phàng. Hòa bình đã lập lại, thế nhưng hạnh phúc của từng con người, số phận với những nghịch cảnh riêng thì vẫn còn tồn tại. Thông qua cái nhìn của người nhiếp ảnh ấy, tác giả Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm nhiều triết lí nhân sinh về nghệ thuật và cuộc đời. Nghệ thuật, không phải chỉ là nhìn nhận ra vẻ đẹp trước mắt mà cần phải gắn với tình thương và hạnh phúc.

Chúng ta không thể chỉ nhìn ngắm vẻ bề ngoài mà bỏ đi bản chất của cuộc đời. Đôi khi đằng sau cái hào nhoáng, lấp lánh lại ẩn chứa biết bao nghịch cảnh trớ trêu. Đồng thời tác giả cũng nhắn nhủ con người không nên nhầm lẫn, đánh đồng vẻ bên ngoài với bản chất bên trong của sự việc mà phải có cái nhìn đa chiều, đa diện về cuộc sống. Nghệ thuật vốn bắt nguồn và nảy sinh từ cuộc sống nhưng cuộc sống luôn biến động, nhiều chiều, không phải lúc nào cũng đẹp và hoàn hảo như nghệ thuật.

Qua đây cho chúng ta thấy được sự nghiêm túc với nghề, trái tim ấm nóng luôn yêu thương và thấu hiểu con người của tác giả Nguyễn Minh Châu. Đó là “quá trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu bên trong tâm hồn người” của ông, với những trăn trở sâu sắc về cuộc đời và con người, về ý nghĩa của nghệ thuật chân chính. Tác giả Nguyễn Minh Châu xứng đáng là “người mở đường tinh anh và tài năng của văn học Việt Nam thời kì đổi mới”.

Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng - Bài mẫu 3

Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà. Xuyên suốt quá trình sáng tác của mình, ông đã cho thấy một ngòi bút tài năng với quá trình sáng tạo không ngừng nghỉ. Bằng lối văn nhẹ nhàng mà sâu sắc, ông đã gửi gắm vào các hình tượng nhân vật của mình những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc sống, cuộc đời. Tác phẩm thành công và tiêu biểu nhất cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu phải kể đến Chiếc thuyền ngoài xa, một truyện ngắn được sáng tác vào năm 1983, viết về số phận con người giữa cuộc sống những ngày sau cách mạng. Trong tác phẩm, hai phát hiện độc đáo của nghệ sĩ Phùng được xem là chi tiết tiêu biểu để tác giả gửi gắm tư tưởng mình một cách sâu sắc và đầy đủ nhất.

Phùng là một người lính trở về từ cuộc chiến “vào sinh ra tử” của đất nước. Sau cách mạng, anh làm nghề nhiếp ảnh. Nhiệm vụ của Phùng được trưởng phòng giao phó là tạo ra được một tác phẩm nghệ thuật về thuyền và biển để hoàn thiện đủ cho bộ lịch năm sau. Theo yêu cầu đó, Phùng đã bắt tay vào công việc, trở lại chiến trường cũ miền Trung Trung Bộ, anh bắt đầu hành trình tìm kiếm một tấm ảnh nghệ thuật đắt giá. Cũng từ đây, Phùng có những phát hiện mới mẻ về nghệ thuật và cuộc đời.

Phát hiện đầu tiên của Phùng là một bức tranh đẹp từ cuộc sống tựa "bức họa cổ thời tàu". Dưới cặp mặt tinh tế và nhạy cảm của người nghệ sĩ, Phùng đã phát hiện một vẻ đẹp tận thiện, tận mỹ, đó là cảnh biển với "Mái thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum, đang hướng mặt vào bờ". Đó là một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ, một khung cảnh “đắt trời cho” mà khi Phùng thấy được như vỡ òa trong hạnh phúc.

Khung cảnh không chỉ tác động đến thị giác mà còn tác động đến lý trí và tâm hồn Phùng. Sợ lỡ mất giây phút diệu kỳ ấy, Phùng đã vội đưa chiếc máy ảnh của mình lên bấm liên hồi để thu lấy tất cả những khoảnh khắc đẹp nhất của bức tranh cuộc sống. Khung cảnh đẹp đẽ được phát hiện sau bấy lâu tìm kiếm đã làm trái tim Phùng thực sự rung động và hạnh phúc. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa không gian mờ sương của biển cả khiến lòng người nghệ sĩ trở nên trong trẻo, tinh khôi, trong giây phút đó, Phùng cảm nhận được sự trong ngần của chính tâm hồn mình, anh nhận ra rằng "cái đẹp chính là đạo đức". Có thể thấy qua phát hiện đầu tiên của Phùng, tác giả đã gửi gắm một thông điệp về nghệ thuật sâu sắc: Để làm nên một tác phẩm nghệ thuật ý nghĩa đòi hỏi mỗi người nghệ sĩ phải cất công tìm tòi, khám phá, bỏ công sức và quá trình lâu dài, bền bỉ. Tác phẩm nghệ thuật có giá trị phải là một tác phẩm có tác động đến tư tưởng, tình cảm và tâm hồn con người, khiến cho "con người gần người hơn".

Phát hiện thứ hai của Phùng là phát hiện về một cuộc đời đau thương ẩn sau sự hoàn mỹ, toàn bích của bức tranh nghệ thuật được Phùng khám phá trước đó. Một sự thật nghiệt ngã được phơi bày khi chiếc thuyền từ xa tiến lại gần bờ. Một người đàn bà ấy có ngoại hình cao lớn, thô kệch, khuôn mặt mệt mỏi bước ra từ chiếc thuyền, đi cùng một người đàn ông mái tóc tổ quạ, hai con mắt tràn đầy vẻ giận dữ, độc ác. Họ bước xuống thuyền, đi nhanh vào bãi bờ, người đàn ông nhanh chóng lấy chiếc thắt lưng lo bản quất tới tấp vào người vợ của mình. Hành động hùng hổ, người đàn giáng xuống tấm thân người đàn bà những nhát quất đầy hung bạo. Vừa đánh hắn vừa nghiến răng ken két, con mắt tràn ngập sự giận dữ. Vừa đánh hắn vừa quát: “Mày chết đi. cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”, cứ mỗi nhát danh của hắn là một tiếng rên rỉ đầy đau đớn cất lên. Nhưng kỳ lạ là người đàn bà ấy không hề phản kháng, trách móc hay chạy trốn để thoát khỏi trận đòn roi tàn nhẫn mà lặng lẽ cam chịu.

Đứng trước cảnh tượng đó, Phùng không khỏi ngạc nhiên, bất ngờ, ngỡ ngàng há hốc mồm như không hiểu chuyện gì đang xảy ra trước mắt mình. Với một người từng chiến đấu nơi chiến trận để giành lại độc lập, yên vui cho nhân dân, bắt gặp cảnh bất công khiến Phùng không chịu được, Phùng cũng không thể nào chấp nhận một hiện thực nghiệt ngã, cuộc sống và số phận con người sau chiến tranh lại trớ trêu, khổ cực đến như vậy. Cũng vừa mới đây thôi, bức tranh nghệ thuật đẹp đẽ đã khiến anh nhận ra cái đẹp chính là đạo đức, vậy mà một hiện thực "phi đạo đức" lại vừa xảy đến trước mắt , điều đó khiến Phùng không khỏi chua xót, cay đắng. Với phát hiện thứ hai, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc một thông điệp đầy ý nghĩa về nghệ thuật và cuộc sống, giống như nhà văn Nam Cao từng nói “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc sống và vì cuộc sống.

Hai phát hiện của Phùng đều gắn liền với hình ảnh chiếc thuyền chài vùng biển. Ở khoảng cách xa, trong màn sương sớm, chiếc thuyền hiện lên thật đẹp, đó là vẻ đẹp của nghệ thuật. Khi tiến lại gần, một hiện thực trần trụi được hiện ra, đó là thực tế của cuộc sống. Nghệ thuật không thể che giấu những thô ráp, nghiệt ngã của cuộc sống, nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc sống, phản ánh cuộc sống. Để có được điều ấy, đòi hỏi người nghệ sĩ phải dành tâm sức tìm kiếm, sáng tạo, phải đặt cả trí tuệ và tâm hồn mình vào mỗi tác phẩm. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa trở thành chi tiết đầy ý nghĩa trong hai phát hiện độc đáo của Phùng.

Có thể nói, hai phát hiện của Phùng là yếu tố quyết định và làm nên tầng giá trị tư tưởng cho truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Bằng vốn sống phong phú cùng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Minh Châu làm nên thành công của tác phẩm.

Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng - Bài mẫu 4

Nói về Nguyễn Minh Châu và những sáng tác của ông Tô Hoài đã có những lời thật đúng đắn rằng “Đọc Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng đường đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên trang giấy của tài năng. Những cái tưởng như bình thường lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày dưới con mắt và ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý”. Quả thực đúng vậy, đọc nhiều những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là các tác phẩm thời kỳ hậu chiến, từ những năm 80 trở đi, khi nhà văn từ giã đề tài chiến tranh để đi sâu vào vấn đề đạo đức thế sự, và số phận con người trong xã hội thời kỳ đổi mới, ta thấy trong những câu chuyện bình thường, luôn ẩn hiện nhiều tầng triết lý. Đặc biệt là lối kể, lối viết đi sâu vào nội tâm, cũng như những câu chuyện riêng của từng nhân vật, đã mang đến cho người đọc nhiều trải nghiệm ấn tượng. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất trong đời sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Thông qua bước chân và hai phát hiện đặc sắc của nhiếp ảnh gia Phùng, tác giả đã mang đến cho người đọc những triết lý nhân sinh sâu sắc về cách nhìn nhận vấn đề trong cuộc sống, mối tương quan giữa cuộc đời và nghệ thuật, đồng thời cũng bộc lộ nhưng niềm trăn trở của ông về số phận của con người trong xã hội những năm tháng sau chiến tranh.

Nhân vật Phùng trong câu chuyện của Nguyễn Minh Châu vốn từng là một người lính tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, sau khi hòa bình lập lại Phùng đảm nhận vị trí một nhiếp ảnh trong một tòa soạn báo. Để có được một bức ảnh về miền biển in trong cuốn lịch cuối năm mà trưởng phòng giao phó, Phùng đã tìm về một vùng biển miền Trung, nơi đã từng là chiến trường cũ, đồng thời cũng là dịp để anh ghé thăm Đẩu- người đồng đội cũ của mình. Sau suốt nhiều ngày chờ đợi, săn tìm, nhưng Phùng vẫn chưa có cho mình một bức ảnh thật ưng ý, bởi lẽ anh là một người yêu nghệ thuật và luôn có những yêu cầu rất cao về thẩm mỹ, chính vì vậy Phùng không cho phép mình sơ sài, hời hợt. Phùng phải chờ đợi suốt hơn tuần liền mà cuộn phim trong máy vẫn chẳng xê dịch mấy. Nhưng may mắn thay, dường như ông thời biết được tấm lòng của người nghệ sĩ nên đã để anh chứng kiến được một khung cảnh hoàn mỹ, cái mà Phùng ví như cảnh “đắt” trời cho, cả đời người nghệ sĩ khéo cũng chưa thấy được một lần. Đây cũng chính là phát hiện đầu tiên của Phùng trong chuyến đi công tác.

Buổi sớm định mệnh hôm ấy, khi Phùng đang loay hoay núp sau chiếc xe tăng cũ để trú cơn mưa phùn lất phất, thì từ đằng xa bỗng có một con thuyền lưới cá dần dần cập bến trong ánh sương lẫn ban mai mờ mờ tựa như một “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Vẻ đẹp ấy được Nguyễn Minh Châu phác lại bằng những nét vẽ thật giản đơn và cổ điển “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ…”. Người nghệ sĩ với tấm lòng tôn thờ sự hoàn mỹ trong nghệ thuật đã không thể kiềm lòng mà nhận định rằng khung cảnh trước mắt anh quả thực là một vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích”. Phùng đứng trước phát hiện bất ngờ này hoàn toàn trở nên bối rối, tựa như một chàng trai khi đối diện với tình đầu, “trái tim như có gì đó bóp thắt vào”, một cảm giác mà trước đây Phùng chưa thấy bao giờ. Tất cả đều bộc lộ niềm sung sướng, hạnh phúc đến tột cùng của người nghệ sĩ khi may mắn bắt gặp được cảnh tượng quý giá nhất trong đời cầm máy.

Ngay trước phát hiện tuyệt vời về cảnh “đắt” trời cho lúc buổi sương sớm, Phùng đã tưởng như mình vừa khám phá được một định nghĩa mới của cái đẹp rằng “bản thân cái đẹp là đạo đức”, thậm chí đầu óc Phùng lúc này chỉ toàn những xúc cảm tuyệt vời khi tưởng như mình vừa phát hiện ra chân lý của sự toàn thiện, tuyệt mỹ, khám phá ra cái “khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Phải nói rằng trước cảnh đẹp trời ban, trái tim Phùng dường như vừa được khai mở và có một vầng sáng vĩ đại soi chiếu, khiến tâm hồn của người nghệ sĩ trở nên rộng mở và thăng hoa đến tột cùng của xúc cảm. Không chần chừ lâu, Phùng lập tức đưa máy lên bấm “liên thanh” hết ba phần tư cuốn phim mà chẳng cần “xê dịch” gì nữa, dường như anh đã thu vào chiếc máy ảnh của mình tất cả cái “khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn mình, do cái đẹp ngoại cảnh mang lại”.

Có thể nói rằng đối với nghệ sĩ Phùng, cũng như đối với tất cả những người yêu nghệ thuật, hết lòng vì cái đẹp, thì việc bắt được một cảnh “đắt” trời cho như vậy là niềm hạnh phúc không gì có thể sánh bằng. Cảnh một chiếc thuyền lưới cá, cũ, nhỏ và đơn sơ, cùng với những ngư dân từ từ cập bến có thể nói là một cảnh tượng khá quen thuộc và bình thường ở miền biển. Tuy nhiên chính những thứ tưởng chừng nhỏ nhặt, giản đơn ấy, khi kết hợp với nhau, lại trở thành bức tranh mỹ cảnh hiếm có trong đôi mắt đa cảm của người nghệ sĩ. Phát hiện đầu tiên của Phùng trong chuyến công tác dài ngày có nhiều ẩn ý, đầu tiên là quan niệm về cái đẹp trong vũ trụ của Nguyễn Minh Châu hầu như đều xuất phát từ những sự vật, sự việc thực bình thường, mà người nghệ sĩ chân chính phải dùng tấm lòng chân thành, tinh tế và nhạy cảm để phát hiện và ghi nhận.

Thứ hai nữa, phát hiện của Phùng còn là tượng trưng cho những vẻ đẹp duy mỹ, không tỳ vết, là những thứ mà con người hằng theo đuổi ao ước đạt được, tuy nhiên để đạt được nó con người ta đều phải trải qua quá trình lao động miệt mài, lòng kiên nhẫn thì mới nhận được quả ngọt. Không chỉ vậy, bằng ngòi bút tinh anh Nguyễn Minh Châu còn thông qua nhân vật Phùng để thể hiện tấm lòng yêu nghệ thuật sâu sắc của một người nghệ sĩ chân chính, nhất quyết không chịu chấp nhận những thứ nghệ thuật sơ sài, gượng ép, đồng thời cũng bộc lộ quan điểm “bản chất của cái đẹp là đạo đức”, dù rằng trong phát hiện đầu tiên, triết lý này vẫn chưa được khai mở rõ ràng, mà chỉ được nêu ra thông qua nhân vật Phùng, trong lúc anh mải mê bối rối, say mê với cảnh đẹp tuyệt đỉnh trước mắt. Cuối cùng tổng kết lại sau tất cả những ẩn ý về phát hiện đầu tiên của Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn chỉ ra rằng đằng sau những cái đẹp vốn có của tự nhiên đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của con người. Bởi lẽ nếu không có một tâm hồn nhạy cảm trước cái đẹp, lòng kiên nhẫn, say mê với công việc, bất chấp thời gian, thời tiết có lẽ Phùng đã chẳng thể bắt lấy cái cảnh toàn bích như một bức tranh của danh họa thời cổ, để rồi phải ngây người vì quá đỗi sung sướng trước thành quả mà mình đạt được.

Tuy nhiên tình huống truyện trở nên đặc sắc hơn khi Phùng tiếp tục có phát hiện thứ hai, một phát hiện dường như đã đánh vỡ nát cái mộng tưởng, cũng như niềm sung sướng tự hào khi bản thân phát hiện ra cái đẹp toàn bích và chân lý của cuộc đời người nghệ sĩ. Ngay lúc Phùng thu máy, chuẩn bị đi về để hoàn thành báo cáo, thì chiếc thuyền cũng cập bến, bức tranh dần tan đi cái vẻ tĩnh lặng, yên bình, thay vào đó là sự vận động đến từ những con người trên chiếc thuyền. Cái “đạo đức” mà Phùng hằng tâm niệm bỗng chốc bị câu nói “Cứ ngồi im đấy. Động đậy tao giết cả mày bây giờ” phá nát, một câu hăm dọa ghê gớm, đã xé toang bức tranh hiền hòa người nghệ sĩ vừa kịp thu vào trong máy, trước sự ngỡ ngàng của anh.

Ngay sau đó, Phùng thấy bước xuống từ chiếc thuyền đó một người đàn bà cao lớn, đường nét thô kệch xấu xí, khuôn mặt rỗ và xám xịt vì thức đêm, người đàn ông đi sau, lưng còng, tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, khuôn mặt dữ tợn nhìn chòng chọc như muốn đâm thủng tấm lưng rách rưới của người đàn bà. Tất cả cảnh tượng ấy, đều chỉ có thể tóm gọn lại bằng hai chữ “thảm hại”, và chắc chắn khác xa so với những gì Phùng tưởng tượng về hình tượng người dân chài kéo lưới, nhưng thực tế thì luôn sẵn sàng tát vào mặt kẻ mộng mơ là thế. Tuy nhiên điều khủng khiếp hơn còn ở phía sau, khi Phùng tận mắt chứng kiến một cuộc ẩu đả đơn phương, một cuộc bạo lực gia đình ghê gớm, khi gã đàn ông rút chiếc thắt lưng liên tiếp quất vào người đàn bà, vừa đánh vừa rít lên những tiếng oán hận, mà có lẽ chỉ có kẻ thù mới dành cho nhau “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ. Còn người đàn bà lại cam chịu, không chống trả, cứ mặc cho người đàn ông chửi rủa đánh đập.

Phùng khi chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng ấy đã không thể tin vào mắt mình, bởi lẽ trước đó cái cảnh gia đình yên ấm, sum họp trên chiếc thuyền nhỏ vào buổi bình minh còn khiến anh ngây ngất, say mê chưa dứt, thì những gì diễn ra dường như khiến anh không kịp trở tay. Phùng kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu chỉ biết đứng há hốc mồm ra nhìn, điều đó khiến ta liên tưởng đến cảm giác của Phùng trong phát hiện đầu tiên, Phùng cũng ngỡ ngàng như thế. Có thể nói rằng trong một buổi sáng Phùng đã hai lần gây ra, não bộ không kịp tiếp thu những gì mà anh nhìn thấy, một lần là vì choáng ngợp trước vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hóa, còn một lần khác là cảm giác không thể tin nổi trước khi buộc phải chứng kiến những cảnh tượng xấu xí nhất của cuộc sống. Gia đình vốn là hạt giống là điển hình của một xã hội, nó có tốt đẹp thì đất nước mới có thể đi lên. Một con người có nhiều năm tháng buôn ba trên khắp các chiến trường, chiến đấu vì lý tưởng giải phóng đất nước và con người, thâm tâm Phùng những tưởng sau chiến tranh đất nước yên bình, sẽ chẳng còn những cảnh tượng khủng khiếp và đau lòng, mà chỉ còn những cảnh đẹp của thế gian. Thế nhưng hiện thực đã chứng minh rằng, suy nghĩ của Phùng thực còn quá nông cạn, cuộc sống và số phận của nhiều con người vẫn còn đang chìm trong đau thương, trước đây họ đau khổ vì chia ly vì chiến tranh, mất mát, thì đến hôm nay dù hòa bình đã lập lại nhưng gánh nặng của họ lại là đói nghèo, sự khuyết thiếu văn hóa. Hai vợ chồng người đàn bà làng chài là những điển hình rõ rệt nhất, đói nghèo bức ép khiến họ phải vật lộn mưu sinh, trình độ thấp dẫn tới cảnh tượng bạo lực gia đình và phải đối mặt với sự vỡ kế hoạch, làm gánh nặng trên đôi vai hai vợ chồng càng tăng thêm, điều đó đã trở thành một vòng luẩn quẩn không lối thoát.

Như vậy trong phát hiện thứ hai của nhân vật Phùng, thông qua cảnh tượng khủng khiếp ấy, Nguyễn Minh Châu đã vén ra bức màn đang che mắt những con người làm nghệ thuật, ông chỉ ra rằng đằng sau những vẻ đẹp tuyệt mỹ, toàn bích nhiều khi lại chính là những cảnh tượng đau thương nhất. Người nông cạn chỉ nhìn thấy cái đẹp, cái hoàn hảo như lòng mình mong ước, nhưng người nghệ sĩ thực sự lại phải là người đào sâu tìm kỹ, phát hiện được cả những góc khuất và đặc biệt là có tấm lòng nhân hậu, quan tâm đến số phận những con người tội nghiệp đang bị che lấp bởi vỏ bọc đẹp đẽ. Nghệ thuật không chỉ là nghệ thuật mà nó còn phải gắn liền với cuộc đời, vẫn biết rằng cái đẹp đều xuất phát từ cuộc đời, nhưng chẳng phải cuộc đời nào cũng đẹp và hoàn toàn đẹp, người ta vẫn nhìn thấy đâu đó những sự sứt sẹo, những cái xấu xa đang hiện diện đầy rẫy và đôi khi chỉ cách cái đẹp toàn mỹ một bức màn thật mỏng, và sẵn sàng đánh vỡ những cái đẹp tưởng như trong ngần, tuyệt diệu nhất. Điều đó chỉ ra một con đường mới cho những người làm nghệ thuật, có lẽ rằng họ phải thay đổi cách nhìn nhận về cái đẹp, thay vì đi mãi một lối mòn săn tìm cái đẹp của tạo hóa, của trời ban, phải chăng họ còn nên nhìn vào cuộc đời, vào thực tế để khai thác những hạt ngọc quý trong tâm hồn con người, như cái cách mà Nguyễn Minh Châu đã khai thác vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà làng chài. Nếu ví cái đẹp như lớp màng mỏng che lấp cái xấu, thì ngược lại cái xấu xí lại như lớp vỏ xù xì, thô ráp bao bọc lấy cái đẹp, mà không phải người nghệ sĩ nào cũng đủ sự tinh tế, nhạy cảm và lòng yêu thương để khai thác và cảm nhận được nó.

Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm đặc sắc với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, lồng ghép nhiều triết lý nhân sinh và quan niệm làm nghệ thuật. Đặc biệt trong tình huống truyện trên bãi biển, hai phát hiện của Phùng với sự đối lập nhau rõ nét đã làm nổi bật chủ đề câu chuyện cũng như dụng ý mà tác giả muốn hướng tới – việc tìm kiếm cái đẹp trong tâm hồn con người, cũng như đi tìm câu hỏi cho mối liên quan giữa nghệ thuật và cuộc sống.

Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng - Bài mẫu 5

Nguyễn Minh Châu là một nhà văn quân đội, ông là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn. Từ sau 1975, ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. Ông được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến của thi sĩ.

Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng tác năm 1983, in lần đầu trong tập “Bến quê” 1985, sau đó được tác giả lấy làm tên chung cho tuyển tập truyện ngắn in năm 1987. Dưới đây là hai phát hiện của người nghệ sĩ Phùng được Nguyễn Minh Châu bộc lộ rõ nét.

Đến với phát hiện thứ nhất, câu chuyện được kể qua lời của Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh được phân công chụp lại một bức ảnh về thuyền và biển cho bộ lịch tết. Anh về một làng chài ven biển – nơi anh từng chiến đấu trước đây. Sau nhiều ngày chờ đợi, Phùng đã chụp được “một cảnh đắt trời cho”, cảnh một chiếc thuyền ngoài xa trong biển sớm mờ sương: “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đừng nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp…”.

Đoạn văn vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, thể hiện sự nhạy cảm trước cái đẹp của một con người tài hoa, am hiểu sâu sắc về hội họa. Câu đầu là ước lệ, là cảm nhận chung về “bức tranh mực Tàu” có cận cảnh là “những mắt lưới”, viễn cảnh là “chiếc thuyền ngoài xa”. Tiếp theo là hình ảnh vụ thể với mũi thuyền trôi trong bầu sương mù, có bóng người lẫn trẻ con, có những tấm lưới… Cảnh huyền ảo bởi “bầu sương mù trắng như sữa”, tinh khiết với “màu hồng hồng” của ánh mặt trời, vừa tĩnh tại với bóng người “im phăng phắc”, vừa sống động với “mũi thuyền” đang hướng vào bờ. Các từ láy “lòe nhòe”, “hồng hồng”, “phăng phắc”, “khum khum” khiến cho khung cảnh thêm huyền ảo như hư như thực. Các so sánh “trắng như sữa”, “im phăng phắc như tượng” tô đậm chất tạo hình của bức tranh. Tất cả tạo nên cái đẹp tuyệt đỉnh mà tạo hóa ban tặng.

Đứng trước cái đẹp tuyệt đỉnh của thiên nhiên, người nghệ sĩ thấy lòng mình rung động mãnh liệt “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Phùng như nghiệm ra rằng “bản thân cái đẹp là đạo đức”, nó giúp ta “khám phá thấy cái toàn thiện, toàn mỹ”, có tác dụng thanh lọc tâm hồn để con người trở nên cao khiết, thánh thiện. Phùng “bấm liên thanh hết một phần tư cuốn phim” để vĩnh cửu hóa cảnh tuyệt vời đó.

Hạnh phúc của nghệ sĩ Phùng là hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Để có được niềm hạnh phúc ấy, người nghệ sĩ phải kiên trì, phải vượt khó, phải đam mê hết mình vì nghệ thuật. Và cái đẹp kì diệu có khi lại đến với người nghệ sĩ vào lúc không ngờ nhất. Đó là cái đẹp tự nhiên, hòa hợp kỳ lạ giữa cảnh vật và con người, đơn giản và hoàn mỹ.

Đến với phát hiện thứ hai đó là cảnh bạo hành trong gia đình người đàn bà hàng chài. Đang ngây ngất trước vẻ đẹp của thiên nhiên, Phùng ngỡ ngàng khi chiếc thuyền đẹp như mơ tiến đến gần, từ chỗ chiếc thuyền vọng lại tiếng quát quá dữ tợn của người đàn ông “Cứ ngồi nguyện đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Từ trên thuyền bước xuống là đôi vợ chồng hàng chài. Người vợ đi trước, chị ta “trạc ngoài bốn mươi”, “thân hình cao lớn với những đường nét thô kệch”, “mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Người chồng đi sau “tấm lưng rộng và cong”, “mái tóc tổ quạ, đi chân chữ bát…người đàn bà”. Gã đàn ông thô bạo, cộc cằn, tàn nhẫn với sức khỏe như gấu, hình dáng cổ quái, “trút cơn giận như lửa cháy” vào việc đánh vợ bằng chiếc thắt lưng to bản như đánh kẻ thù, “vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két”, vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”

Điều kì lạ là người đàn bà đứng yên cho chồng đánh “không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn”. Phùng chưa hết bàng hoàng thì thằng Phắc, đứa con của cặp vợ chồng này lao tới “như một viên đạn”. Nó giật chiếc thắt lưng quật vào ngực cha để rồi nhận lại hai cái tát, ngã dúi xuống bờ cát. Lão đàn ông, cả hai trở lại chiếc thuyền… Tất cả như một vở kịch câm, chứa đầy những nghịch lý, không chú giải, không một lời thoại, kịch tính đến nghẹt thở với những hình ảnh khô khốc, bạo liệt, phi nhân tính, nó phũ phàng xâm lấn cái giây phút hạnh phúc của người nghệ sĩ, khiến phùng hụt hẫng, bàng hoàng, cứ đứng “há mồm ra mà nhìn!”.

Tất cả những cảnh trên là mặt trái của bức ảnh đẹp tuyệt vời mà Phùng đã chứng kiến. Tuy nhiên, đó mới là một phần bên ngoài của sự thật. Lần thứ hai, Phùng lại phải chứng kiến cảnh bạo hành trong gia đình thuyền chài này. Vốn là người lính, Phùng không thể làm ngơ trước cái ác, anh xông vào ngăn và bị thương nhẹ. Anh cay đắng nhận ra những ngang trái, xấu xa, bi kịch gia đình hàng chài kia là thứ thuốc rửa quái đản làm cho những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ…

Từ hai phát hiện của người nghệ sĩ, nhà văn muốn chuyển đến người đọc thông điệp: Cuộc sống luôn chứa đựng nhiều nghịch lý, mâu thuẫn không dễ lí giải. Khi đánh giá con người trong cuộc sống không thể chỉ nhìn ở dáng vẻ bề ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong.

Trong văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự cống hiến, hy sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thể hiện chủ yếu trong mối quan hệ với đồng chí, đồng bào, với kẻ thù. Sau năm 1975, văn chương trở về với đời thường và Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kỳ đổi mới đã đi sâu khám phá đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Khi làm cho người đọc ý thức về sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, chằng chịt, thì văn chương đã ít nhiều đáp ứng được nhu cầu nhìn nhận và hoàn thiện nhiều mặt của nhân cách con người. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là phát hiện về đời sống và con người theo hướng đó.

Phát hiện thứ nhất của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh là một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh, nơi anh đã dự tính bố cục, đã “phục kích” mấy buổi sáng để “chụp” được một cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: “Trước mặt tôi là bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới… toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp… Tôi tưởng thấy chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh về chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mỹ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời.

Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lý, nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã từng có “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”, anh đã từng chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, vậy mà hoá ra đằng sau cái đẹp “toàn bích… toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là “đạo đức”, là “chân lý của sự toàn thiện”. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn và độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để giải tỏa những uất ức, khổ đau. Phùng đã từng là người lính cầm súng chiến đấu để có vẻ đẹp thanh bình của thuyền biển mênh mông, anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lý và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác, con lão đàn ông đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ hai, khi lại phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thể hiện được bản chất người lính không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện, ở đó có chánh án Đẩu, bạn chiến đấu cũ của anh. Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ.

Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người như Phùng và Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô lý. Bề ngoài đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, vậy mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy. Chỉ qua những lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng thương đó mới thấy nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hy sinh của bà là tình thương vô bờ với những đứa con: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có những người đàn ông ở thuyền để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa… phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không thể khác được. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no… trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”; “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn…”. Qua câu chuyện của người đàn bà càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.

Tư tưởng nghệ thuật đó của Nguyễn Minh Châu thấm sâu trong hầu hết các nhân vật của truyện ngắn: người đàn bà vùng biển, lão đàn ông độc ác, chị em thằng Phác, người nghệ sĩ nhiếp ảnh.

Tác giả chỉ gọi là “người đàn bà” một cách phiếm định. Tuy không có tên tuổi cụ thể, chỉ là một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này. Trạc ngoài bốn mươi, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, người đàn bà ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ. Bà thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau, khi bị chồng đánh “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách trốn chạy”, bà coi đó là lẽ đương nhiên, chỉ đơn giản trong cuộc mưu sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khỏe mạnh và biết nghề, chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên. “Tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài” – một sự cam chịu nhẫn nhục như thế thật đáng để chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hy sinh.

Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác. Cứ khi nào thấy khổ quá là lão đánh vợ, đánh như để giải tỏa uất ức, để trút cho sạch nỗi tức tối, buồn phiền: “lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong đời vẫn có những kẻ như thế, nói như Nam Cao trước kia, chỉ để thoả mãn lòng ích kỷ, chúng tự cho mình cái quyền được hành hạ mọi người. Lão đàn ông “chân chữ bát”, “mái tóc tổ quạ”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ”, vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình.

Trong một gia đình mà bố mẹ có chuyện lục đục, đáng thương nhất là những đứa trẻ. Chúng bị đẩy vào tình thế thật khó xử: biết đứng về phía ai, biết làm thế nào để trọn đạo làm con? Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lý. Chắc trong lòng cô bé tan nát vì đau đớn: bố điên cuồng hành hạ mẹ; chỉ vì thương mẹ mà thằng em định cầm dao ngắn bố… Cô bé lúc ấy là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương, cô đã hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi mẹ phải đến toà án huyện. Còn thằng Phác lại thương mẹ theo kiểu một đứa con còn nhỏ, theo cái cách một đứa con trai vùng biển: nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”, nó “tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Mặc dù thật khó chấp nhận kiểu bảo vệ mẹ của nó, nhưng hình ảnh thằng Phác vẫn khiến người ta cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào.

Vốn là người lính chiến từng vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra ngay sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác. Mới đầu, chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ và người vợ nhẫn nhục chịu đựng, Phùng hết sức “kinh ngạc”, anh “há mồm ra mà nhìn”, rồi sau như một phản xạ tự nhiên, anh “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Hành động ấy nói được nhiều điều. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.

Ở tác phẩm này, nét độc đáo trong xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu là cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Nếu coi tình huống là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người, thì với Phùng, việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ là một sự kiện như thế. Trước đó, Phùng nhìn đời bằng con mắt của một nghệ sĩ, anh rung động, say mê trước vẻ đẹp “trời cho” của thuyền biển sớm mai. Chính trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn nhất, anh bất ngờ chứng kiến đôi vợ chồng từ con thuyền “thơ mộng” bước xuống, rồi lão đàn ông đánh vợ một cách dã man và vô lý. Tình huống đó được lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ chứng kiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng mà còn thấy được thái độ, hành động của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha với mẹ. Từ đó đến cuối truyện, Phùng đã có cách nhìn đời khác hẳn. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài ấy, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu sâu thêm bản chất người đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình. Tình huống truyện đã được Nguyễn Minh Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn nữa để phát hiện tính cách con người, phát hiện sự thật cuộc đời.

Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn này cũng rất đáng chú ý. Người kể chuyện ở đây là nhân vật Phùng, hay nói đúng hơn, đó là sự hoá thân của tác giả vào nhân vật Phùng. Việc chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huống truyện, lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ các nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu lão đàn ông thật thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ đầy vẻ tục tĩu, hung bạo; những lời của người đàn bà thật dịu dàng và xót xa khi nói với con, thật đớn đau và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của mình; những lời của Đẩu ở toà án huyện rõ là giọng điệu của một người tốt bụng, nhiệt thành… Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần khắc sâu thêm chủ đề- tư tưởng của truyện ngắn.

Có thể thấy cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 là cảm hứng anh hùng cách mạng, còn sau năm 1975 là cảm hứng về nhân cách con người, là hành trình “khám phá con người bên trong con người” (Bakhtin). Theo mạch cảm hứng ấy, năm 1982 Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn Bức tranh; trong ý nghĩ tự phán xét, nhân vật hoạ sĩ đã vẽ một bức chân dung tự hoạ nhằm thể hiện “khuôn mặt bên trong của chính mình”. Đáng lưu ý là, nếu trong truyện Bức tranh, Nguyễn Minh Châu hướng cái nhìn nghệ thuật vào thế giới nội tâm thì trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu lại hướng cái nhìn nghệ thuật ra thế giới bên ngoài, ra cuộc sống đời thường. Nếu truyện Bức tranh là sự tự nhận thức, tự phê phán của con người dưới ánh sáng của lương tâm, đạo đức, thì truyện Chiếc thuyền ngoài xa là sự nhận thức và phê phán cái xấu, cái ác trong cuộc sống thường ngày. Cả hai tác phẩm đều được viết dưới sự chỉ đạo của quan điểm nghệ thuật: chỉ ra mặt xấu, mặt tối để góp phần hoàn thiện nhân cách con người, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đặc biệt, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, thật đúng như Nguyễn Minh Châu từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.

Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng - Bài mẫu 6

Người nghệ sĩ là người luôn kiếm tìm cái đẹp, trân trọng và giữ gìn chúng. Thế nhưng, không phải cái đẹp nào cũng “đơn giản và toàn bích” mà đôi khi chứa đựng sau vẻ đẹp “toàn bích” ấy là cả một sự thật đau đớn đến ngỡ ngàng. Và câu chuyện của nhiếp ảnh gia Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu là một câu chuyện như thế. Khi mà người nghệ sĩ Phùng tưởng chừng như đã tìm ra được vẻ đẹp chân lý của cuộc đời mình thì một sự thật không ngờ về cuộc đời và số phận những người lao động nghèo ở làng chài đã khiến anh phải suy nghĩ lại. Đó có lẽ là hai phát hiện lớn nhất của cuộc đời anh.

Câu chuyện bắt đầu khi Phùng được trưởng phòng yêu cầu chụp một bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển cho bộ lịch mới. Vậy là anh được đề nghị đi thực tế để bổ sung và anh đã chọn nơi chiến trường xưa mình đã từng chiến đấu để vừa lấy tư liệu vừa thăm người bạn thân tên Đẩu đang làm chánh án tòa án huyện ở đây.

Sau bao ngày “phục kích” trên bãi biển thế nhưng Phùng chưa có bức ảnh nào làm anh ưng ý. Cho đến một hôm khi trời còn mù sương và lác đác mưa, Phùng đã phát hiện ra một con thuyền tuyệt đẹp ở ngoài xa đang dần tiến vào bờ. Đó là phát hiện đầu tiên của Phùng ở chuyến đi này, một phát hiện đã khiến anh “ngẩn” người bởi vẻ đẹp của nó.

Khung cảnh biển rộng lớn, bao trùm bởi ánh ban mai, một chiếc thuyền với những đường nét mờ ảo dần tiến lại. Vẻ đẹp ấy tuyệt mỹ đến nỗi mà Phùng phải thốt lên “có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy”. Con thuyền chầm chậm tiến vào “mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum hướng mặt vào bờ...”.Bức ảnh tuyệt đẹp đến nỗi Phùng đã so sánh nó “như một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” với một sự trân trọng đầy quý giá.

Cái đẹp của bức tranh ấy được nhìn qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ lại càng đẹp đẽ, lộng lẫy hơn bội phần. Và chính Phùng đã phải xúc động trước vẻ đẹp đó. Anh cảm thấy “bối rối”, cảm thấy như “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Bởi lẽ anh cho rằng, giây phút anh chứng kiến cái đẹp kia chính là giây phút anh tìm được “cái chân lý của sự toàn thiện”, “cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đúng, đó là bởi vì người nghệ sĩ cả đời chuyên tâm kiếm tìm cái đẹp, cái đẹp khiến tâm hồn họ rung động, khiến họ “bối rối” và bức tranh kia lại “đơn giản và toán bích” quá đỗi, khiến Phùng không thể cưỡng lại được. Anh cảm tưởng như tâm hồn mình đã được cái đẹp đó “thanh lọc”, trở nên trong ngân hơn bao giờ hết.

Ít có người nghệ sĩ nào lại có được những phút giây thăng hoa như thế trong cuộc đời của mình. Và Phùng là số ít người bắt gặp được cái đẹp mà đôi khi cả đời người cũng không thể tìm thấy. Anh đã thực sự hạnh phúc khi bắt gặp được cái đẹp tuyệt mỹ kia, một phần bởi sự may mắn, nhưng cũng là bởi sự tinh tế, nhạy bén của tâm hồn nghệ sĩ trong anh. Phát hiện đó có thể được coi là một quan niệm về cái đẹp trong vũ trụ của Nguyễn Minh Châu, ông cho rằng cái đẹp đều xuất phát từ những sự vật, sự việc bình thường trong đời sống. Ý nghĩa thứ hai của vẻ đẹp ấy đó là thứ con người ta đạt được qua quá trình lao động với lòng kiên nhẫn kiên trì mới có được thành quả nhường ấy!

Thông qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn thể hiện một tấm lòng yêu nghệ thuật, say mê cái đẹp, không chấp nhận thứ nghệ thuật sơ sài, đồng thời ông cũng khẳng định “cái đẹp chính là đạo đức”. Và người nghệ sĩ chân chính, với lòng say mê của mình sẽ có được kết quả như mong muốn.

Cái đẹp không kéo dài, vậy nên Phùng đã “gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc pra-ti-ca cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại”. Thế nhưng, anh lại không biết rằng, sau vẻ đẹp đó lại không “đơn giản”. Vẻ đẹp đó chứa đựng một sự thật đau đớn về số phận của những con người lao động nghèo nơi làng chài này. Và đó chính là phát hiện thứ hai của anh trong chuyến đi này, mang lại cho anh một cái nhìn mới về cuộc đời, bài học về trách nhiệm của người nghệ sĩ.

Thời gian xoay vần, bức tranh không còn sự tĩnh lặng nữa, thay vào đó là sự chuyển động. Và cái đẹp mà Phùng vừa tưởng là “đạo đức” kia chợt bị câu quát “Cứ ngồi im đấy. Động đậy tao giết cả mày giờ” phá tan nát. Bức tranh “toàn bích” kia lại bị xé toang bởi hình ảnh của hai con người bước ra từ chiếc thuyền trong mơ ấy. Hai con người mang đầy dáng vẻ “thô kệch, xấu xỉ”, điển hình của những con người vùng biển bước đi chậm rãi tiến vào bờ. Người đàn bà “cao lớn, với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt”, khuôn mặt xám xịt “mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt”,còn người đàn ông với “tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát” và “đôi mắt đầy vẻ độc dữ” dường như muốn đâm thủng tấm lưng của người đàn bà đi trước. So với vẻ đẹp của con thuyền thì cảnh tượng ấy thật “thảm hại” làm sao!

Thế nhưng, đó chẳng phải là điều khủng khiếp nhất mà Phùng thấy sau vẻ đẹp như mơ kia, điều khủng khiếp nhất là khi Phùng phải chứng kiến một cảnh bạo lực tưởng chừng như thời trung cổ. Người đàn ông “rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa” rồi thẳng tay “quật tới tấp vào lưng người đàn bà” và rít lên những tiếng oán hận “mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Một cảnh tượng khủng khiếp cứ thế diễn ra trước mắt người nghệ sĩ, ngay sau bức tranh đẹp tuyệt vời mà anh vừa định nghĩa bằng “đạo đức”. Thế nhưng, mặc người đàn ông đánh đập, gào thét trong oán hận, người đàn bà vẫn cam chịu đến nhẫn nhục “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”.

Lúc đó, Phùng đã kinh ngạc tới mức “đứng há mồm ra nhìn” bởi lẽ khung cảnh tĩnh lặng trên con thuyền của buổi bình minh vẫn còn khiến anh ngây ngất. Và có lẽ, khi chứng kiến cảnh tượng đó, Phùng đã ngỡ ngàng đến mức không kịp trở tay như thế. Và càng ngạc nhiên tột độ hơn, khi cái bóng của thằng bé Phác – con của vợ chồng người đàn bà hàng chài chạy đến bên mẹ “như một viên đạn trên đường lao tới đích nhắm”. Nó đã dùng hết sức lực của mình “giành lấy chiếc thắt lưng, (…) vung chiếc khoá sắt quật vào khuôn ngực trần” của cha nó.

Chỉ vừa mới choáng ngợp trước cảnh đẹp của thiên nhiên, thì giờ đây là cảm giác không thể tin nổi khi phải chứng kiến một cảnh tượng khủng khiếp nhất trong đời sống. Một người lính như Phùng có gì chưa từng chứng kiến, kể cả cái chết, nhưng những cảnh tượng đau lòng chồng đánh vợ, con đánh cha diễn ra trước mắt khiến anh không thể tin được lại vẫn còn ngay cả khi đất nước đã hoà bình.

Thế nhưng, hiện thực vẫn là hiện thực, chiến tranh đã qua đi, ác liệt đã qua đi nhưng cái đói, cái nghèo thì vẫn còn. Hai vợ chồng người đàn bà hàng chài ấy đã bị cuộc sống mưu sinh bức ép mà dẫn tới cảnh tượng bạo lực khủng khiếp như Phùng đã chứng kiến. Thêm vào đó, việc sinh đẻ nhiều làm cho cái vòng đói nghèo mãi luẩn quẩn, không có lối thoát.

Phát hiện thứ hai của Phùng là cảnh tượng bạo lực gia đình, một cảnh tượng mà những tưởng đã dần dần chấm dứt sau chiến tranh. Từ đó, Nguyễn Minh Châu muốn chỉ ra rằng đằng sau vẻ đẹp tuyệt bích, đôi khi lại là những cảnh tượng đau lòng vô cùng. Người nghệ sĩ phải là người đi sâu, tìm tòi được cái góc khuất phía sau vẻ đẹp đó, chứ không phải hời hợt, nông cạn trong cái đẹp bề ngoài. Cái đẹp và cái xấu xa đôi khi chỉ cách nhau một tấm màng mỏng và người làm nghệ thuật phải biết khai thác cả những vấn đề xấu xa để đi sâu tìm hiểu con người, số phận và tâm hồn của họ.

Hai phát hiện của nhân vật Phùng là hai phát hiện mang tính trái ngược. Thế nhưng chính điều đó lại làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm cũng như dụng ý mà tác giả muốn gửi gắm. Cuộc sống là một bài học mà chúng ta phải lật giở từng trang, hiểu sâu về nó, chứ không phải chỉ ngắm nhìn qua cái vẻ ngoài đẹp tuyệt mỹ. Và người nghệ sĩ là người có trách nhiệm khám phá mọi góc cạnh của cuộc đời, của con người để hiểu thấu họ.

Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng - Bài mẫu 7

Nguyễn Minh Châu là nhà văn gắn với những sáng tác thể hiện niềm đam mê đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người Việt Nam. Trong đó, tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" là tiêu biểu cho quan điểm của ông rằng văn học phải gắn bó, gần gũi với cuộc sống. Nhân vật Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh có niềm đam mê nghệ thuật, trong chuyến đi công tác của mình, anh đã có được hai phát hiện độc đáo về nghệ thuật và cuộc đời.

Đầu tiên là phát hiện của Phùng về cảnh đẹp trong nghệ thuật. Đó là cảnh đất trời cho "mui thuyền in một nét mơ hồ, loè nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào". Đối với người nghệ sĩ như anh, cảnh tượng ấy như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, đạt đến độ mẫu mực của nghệ thuật. Từ đường nét đến màu sắc đều hài hòa và lại đẹp hơn nữa khi nhìn qua mắt lưới, tấm lưới. Cái đẹp được cảm nhận qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ với niềm đam mê nên vẻ đẹp ấy càng thêm phần lung linh, huyền ảo. Đứng trước cảnh đẹp ấy, Phùng đã có sự xúc động đến tận cùng, mấy phút đầu anh cảm thấy bối rối, rồi mấy phút sau anh thấy trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Đó là giây phút anh đã phát hiện ra chân lý của sự toàn diện - cái đẹp chính là đạo đức, khi ấy anh đã được sống trong khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn, anh thực sự hạnh phúc khi tìm kiếm được cái đẹp để sáng tạo cho nghệ thuật.

Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ Phùng chính là phát hiện về sự thật cuộc đời. Sự thật cuộc sống của người dân hàng chài được hiện ra khi chiếc thuyền tiến sát vào bờ với hình ảnh người đàn ông bà người đàn bà lam lũ. Người đàn bà cao lớn, thô kệch, lưng áo bạc phếch và khuôn mặt đầy mệt mỏi. Người đàn ông với mái tóc tổ quạ, tấm lưng rộng, hai con mắt của lão đầy vẻ độc dữ. Họ lầm lũi bước từ trên thuyền xuống, và chẳng nói chẳng rằng lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, rút chiếc thắt lưng rồi quất tới tấp vào lưng người đàn bà. Vừa quạt vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, mỗi nhát bóp là tiếng rên rỉ đau đớn. Kì quái thật, nhưng kì quái hơn là người đàn bà không hề kêu hay chống trả, chạy trốn mà nhẫn nhục chịu trận đòn. Thấy cảnh tượng đó, Phùng vô cùng kinh ngạc, chỉ biết há hốc mồm đứng nhìn, anh sững sờ đến ngỡ ngàng và bất bình vì cuộc đời vẫn tồn tại những ngang trái, đối với anh đây như câu chuyện cổ đầy quái đản.

Để có được phát hiện thứ nhất, người nghệ sĩ phải trăn trở tìm kiếm và lựa chọn, cảnh đẹp ở rất xa nhưng vì niềm đam mê và khát vọng cống hiến cho nghệ thuật nên phải đi tìm kiếm. Phát hiện thứ hai lại ở rất gần, ngay bên cạnh cuộc sống mỗi người, nhưng đó lại là sự thật trần trụi và thô ráp, chỉ mang những nỗi khổ đau, bất bình. Đôi khi ta cứ mải miết theo đuổi những thứ xa vời mà bỏ qua những sự thật ngay trước mắt. Ở cả hai phát hiện đều có hình ảnh chiếc thuyền, khi ở ngoài xa, chiếc thuyền là vẻ đẹp của nghệ thuật lung linh, huyền ảo, khi về gần cũng là lúc sự thật cuộc đời hiện ra.

Như vậy, qua hai phát hiện của nhân vật Phùng, ta đã thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa nghệ thuật và cuộc sống mà chiếc thuyền chính là hiện thân. Nghệ thuật phải về gần với cuộc sống, ngược lại cuộc sống là chất liệu, nguồn cung cấp cái đẹp cho nghệ thuật, để rồi nghệ thuật quay trở lại làm đẹp cho cuộc đời.

Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng - Bài mẫu 8

Nguyễn Minh Châu là nhà văn điển hình nổi bật của văn học Nước Ta thời kì thay đổi. Những tác phẩm của ông luôn tiềm ẩn nhiều triết lí nhân sinh thâm thúy. Ông luôn trăn trở về cuộc sống con người và thiên chức của người nghệ sĩ. "Chiếc thuyền ngoài xa" được xem là tác phẩm tiêu biểu vượt trội cho phong thái văn chương của tác giả. Bằng việc phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng, ta sẽ thấy được cái nhìn đa chiều của chính tác giả về cuộc sống và con nghệ thuật và thẩm mỹ.

"Chiếc thuyền ngoài xa" được sáng tác vào năm 1983, tiêu biểu vượt trội cho hướng đi và phong thái thẩm mỹ và nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu ở tiến trình thay đổi. Tác phẩm mang đậm yếu tố tự sự đi cùng với nhiều triết lí nhân sinh thâm thúy. Trong truyện, ông đã để nhân vật Phùng phát hiện ra 2 yếu tố tưởng chừng không tương quan đến nhau nhưng lại có mối quan hệ rất mật thiết. Đó là vẻ đẹp của vạn vật thiên nhiên, tạo hóa đầy thơ mộng, ảo diệu ; trái ngược với cảnh đấm đá bạo lực, những góc khuất của cuộc sống thông thường. Điều đó đã khiến nhân vật, bản thân tác giả và cả fan hâm mộ vỡ lẽ ra nhiều điều mê hoặc về cuộc sống và thẩm mỹ và nghệ thuật.

Nghệ sĩ Phùng được biết đến là nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy thơ mộng và tâm huyết với nghề nghiệp. Để có được tấm ảnh lịch về biển đẹp nhất, anh đã quay lại vùng biển cũ nơi anh từng tham gia chiến đấu. Nhiều ngày trời, anh đã bố trí, phục kích để có thể chụp được bức ảnh ưng ý nhất. Và rồi sau cùng, “vẻ đẹp” trời cho ấy đã tới. Một cảnh đẹp mà có lẽ, anh chỉ có thể gặp được một lần duy nhất trong cuộc đời. Dưới đôi mắt của người nghệ sĩ, cảnh tượng ấy hiện lên đẹp "như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ” .

Đó là khung cảnh buổi sớm tinh sương,xa xa có chiếc thuyền chài đang thu lưới giữa mặt biển: “mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa… đang hướng mặt vào bờ”. Cảnh sắc ấy đúng là có một không hai, kì diệu, tưởng chừng như chỉ là ảo ảnh. Từ không gian mênh mông của biển đến con người; từ màu sắc, đường nét đến ánh sáng,… tất cả đều hòa quyện với nhau rất hài hòa, tinh tế.

Đứng trước khung cảnh đẹp như mơ ấy, nghệ sĩ Phùng trở nên "hoảng sợ", "trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào". Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa ấy đã tác động ảnh hưởng can đảm và mạnh mẽ vào tâm lý và trái tim của người nghệ sĩ. Nó khơi dậy những cảm hứng thăng hoa diệu kì mà bất kỳ người làm nghệ thuật và thẩm mỹ nào cũng đều khao khát. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, nhân vật đã tò mò ra chân lí của sự tuyệt đối, cảm thấy tâm hồn trở nên trong ngần. Người nghệ sĩ như được thanh lọc tâm hồn, dành hàng loạt trái tim và khối óc để chiêm ngưỡng và thưởng thức và lưu giữ "khoảnh khắc trời cho" ấy.

Sau những say đắm với khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, người nghệ sĩ chưa hết bàng hoàng ấy đã đối mặt với phát hiện thứ hai. Giữa sự lung linh, ảo diệu của không gian, cảnh bạo lực gia đình hiện lên ngay trước mắt anh, khiến anh ngỡ ngàng và không kịp phản ứng. Từ chiếc ngư phủ tuyệt đẹp mà anh thầm cảm thán ấy, bước ra một người đàn bà xấu xí, cam chịu, theo sau là người đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác. Lão ta rút chiếc thắt lưng ra, quất tới tấp vào người đàn bà với những lời nguyền rủa đau đớn: "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Cảnh tượng ấy đến bất ngờ, khiến cho nhân vật Phùng chỉ biết “đứng há mồm ra mà nhìn”. Bởi lẽ chính bản thân anh cũng không thể tin được sự phũ phàng của hiện thực đang diễn ra phía trước. Anh vừa mới được chiêm ngưỡng một vẻ đẹp tuyệt vời trong cuộc đời người nghệ sĩ, khám phá ra chân lí của sự hoàn thiện; ấy vậy mà đằng sau vẻ đẹp đó lại là cảnh bạo lực dã man, tàn ác, vô đạo đức.

Sau những khoảng thời gian ngắn ngỡ ngàng, Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng để thấy nghệ sĩ Phùng đã "vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới" để can ngăn. Là một người lính bước ra từ khói lửa, anh hiểu và trân trọng sự bình yên của hiện tại. Do vậy, đương đầu với cái xấu xa trước mắt, anh đã không màng tới thành quả nghệ thuật và thẩm mỹ mình phải cất công tìm kiếm để bảo vệ cho sự bình yên ấy. Thế nhưng chưa kịp can ngăn, anh đã tận mắt chứng kiến cảnh thằng Phác, con trai của người đàn bà xấu xí kia lao ra, giật lấy thắt lưng từ người đàn ông, "rướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng" của cha nó. Để rồi chính nó lại bị cha tát hai cái, "ngã dúi xuống cát". Nó lặng lẽ đưa tay lau những giọt nước mắt trên khuôn mặt "đầy những nốt rỗ chằng chịt" của người mẹ. Tình thương đơn giản và giản dị, bản năng của người con so với mẹ mình đã khiến nhân vật Phùng cảm động, xót xa .

Ngỡ tưởng chỉ phải chứng kiến cảnh tượng đó một lần, thế nhưng bai ngày sau, nghệ sĩ Phùng tận mắt thấy được cảnh bạo lực ấy một lần nữa. Lần này, thằng Phác không còn chỉ lao ra che chở mẹ như trước, mà trên tay còn lăm lăm con dao, muốn xông vào người cha độc ác của mình. Chị nó, một cô bé yếu ớt đã tước đoạt con dao ấy, vật lộn với nó để ngăn em làm việc trái với luân thường đạo lí. Dù phải ngăn em, trơ mắt nhìn mẹ chịu bạo lực nhưng chắc hẳn cô bé ấy cũng rất đau đớn, xót xa tột cùng. Không thể để bạo lực tiếp diễn, nhân vật Phùng đã lao ra can ngăn và bị người đàn ông đánh cho bị thương. Anh phải đến trạm y tế để băng bó vết thương, chứng kiến thêm sự cam chịu, nhún nhường của người đàn bà ấy.

Sau toàn bộ, anh nhận ra rằng đằng sau cái vẻ đẹp của tạo hóa mà anh tưởng là vô cùng tuyệt vời và hoàn hảo nhất kia là hiện thực rất đỗi phũ phàng. Hòa bình đã lập lại, thế nhưng niềm hạnh phúc của từng con người, số phận với những nghịch cảnh riêng thì vẫn còn sống sót. Thông qua cái nhìn của người nhiếp ảnh ấy, tác giả Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm nhiều triết lí nhân sinh về thẩm mỹ và nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật, không phải chỉ là nhìn nhận ra vẻ đẹp trước mắt mà cần phải gắn với tình thương và niềm hạnh phúc. Chúng ta không hề chỉ nhìn ngắm vẻ hình thức bề ngoài mà bỏ đi thực chất của cuộc sống. Đôi khi đằng sau cái hào nhoáng, lấp lánh lung linh lại chứa đựng biết bao nghịch cảnh trớ trêu. Đồng thời tác giả cũng nhắn nhủ con người không nên nhầm lẫn, đánh đồng vẻ bên ngoài với thực chất bên trong của vấn đề mà phải có cái nhìn đa chiều, đa diện về đời sống. Nghệ thuật vốn bắt nguồn và phát sinh từ đời sống nhưng đời sống luôn dịch chuyển, nhiều chiều, không phải khi nào cũng đẹp và tuyệt đối như nghệ thuật và thẩm mỹ.

Dù là phát hiện về thẩm mỹ và nghệ thuật hay cuộc sống, Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng thông qua nhân vật Phùng, tất cả chúng ta đều thấy được sự tráng lệ với nghề, trái tim ấm nóng luôn yêu thương và đồng cảm con người của tác giả Nguyễn Minh Châu. Đó là "quy trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu bên trong tâm hồn người" của ông, với những trăn trở thâm thúy về cuộc sống và con người, về ý nghĩa của thẩm mỹ và nghệ thuật chân chính. Tác giả Nguyễn Minh Châu xứng danh là "người mở đường tinh anh và kĩ năng của văn học Nước Ta thời kì thay đổi".

Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng - Bài mẫu 9

Để có tấm lịch nghệ thuật, nhiếp ảnh Phùng tới vùng biển từng là chiến trường cũ của anh. Anh không quản nhọc nhằn kiếm tìm, tưởng đã chụp được một cảnh thật ưng ý. Tại vùng biển, anh đã phát hiện ra nghịch lí của cuộc đời. Ẩn đằng sau bức tranh đẹp đẽ là những số phận cay đắng, lầm than, phi thẩm mĩ,… hai phát hiện của nhân vật Phùng cũng là tư tưởng của tác phẩm.

Phát hiện thứ nhất: Cảnh một chiếc thuyền lưới vó ẩn hiện trong biển sớm mờ sương có pha chút màu hồng hồng do mặt trời chiếu vào. Đó là một cái “cảnh trời cho”. Như Phùng nhận xét, thật khó mà được trông thấy lại lần thứ hai. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Ánh sáng mở hồ, con thuyền trầm tư trên biển, không khí nhẹ nhàng, yên tĩnh thật khiến cho ai nhìn vào cũng thấy dễ chịu. Cảnh mang vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng và tuyệt mĩ. Cảnh đẹp giống như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ.

Ngay lúc ấy, người nghệ sĩ thấy “trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Anh thấy như “vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó chính là niềm hạnh phúc tột cùng của khám phá và sáng tạo nghệ thuật. Thế nên, ngay lập tức,anh “gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”.

Phát hiện thứ hai: Phía sau cảnh đẹp ấy là một cảnh tượng phi thẩm mĩ. Người đàn bà xấu xí, mệt mỏi. Một gã đàn ông dữ dằn, độc ác, uất ức, khổ đau… với những hành động phi nhân tính. Người chồng đánh vợ một cách thô bạo. Gã “chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà …”. Còn người đàn bà kia, vợ của gã thì “nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách trốn chạy”.

Đứa con thương mẹ đánh lại cha. Nó “rướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào khuôn ngực trần vạm vỡ, cháy nắng” của người cha. Sau phút giải cứu, nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt…”.

Cảnh bạo hành dữ dội, một bi kịch đau lòng diễn ra trong tích tắc. Người đàn ông trở về thuyền. Người đàn bà cũng vội đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về chiếc thuyền. Tất cả lại trở nên yên tĩnh sau phút nó động kinh hoàng. Cái đẹp lại tiếp tục bao phủ len mọi thứ, lung linh, mơ hồ và yên tĩnh. Bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và hoang sơ. Giữa tiếng sóng ngoài khơi dội những tiếng kêu ồ ồ vào cõi im lặng.

Chứng kiến tất cả những điều ấy, người nghệ sĩ “kinh ngạc” tột cùng. Khi nhìn thấy gã đàn ông tàn bạo đấm vào người đàn bà, anh quyết liệt: “vứt máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Anh tỏ ra giận dữ trước sự bạo hành của cái ác. Anh muốn can ngăn và chấm dứt. Thế nhưng, tự nó cũng đã chấm dứt dù anh có can thiệp vào hay không. Như trong câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất sau đó. tất cả lại đi vào quy luật của nó.

Qua tình huống, người nghệ sĩ phùng bỗng phát hiện ra cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí, mâu thuẫn. Không thể đánh giá con người, cuộc sống ở dáng vẽ bề ngoài phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong. Thực sự, mọi thứ có giá trị đều được giấu kín ở bên trong. Anh nhận ra một chân lí khác nữa khi chứng kiến câu chuyện của người đàn bà ở tòa án.

Phân tích 2 phát hiện của nghệ sĩ Phùng - Bài mẫu 10

Người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Minh Châu đã từng tâm niệm thế này: “Không có một thứ nghề nào mà kết quả công việc lại có thể cắt nghĩa rõ rệt chân giá trị của người làm ra nó như nghề viết văn”. Quả thực, sứ mệnh của người cầm bút không phải chỉ là viết mà hơn cả qua mỗi trang viết người nghệ sĩ còn cần ôm vào lòng mình cuộc sống, con người của hiện thực. Và có lẽ, với “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã tô đậm lên cái “chân giá trị” ấy, những sự thực, chân xác của cuộc sống hiện lên thật rõ nét. Qua hai phát hiện của nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện rõ quan niệm nghệ thuật của mình, mối quan hệ giữa cuộc đời với nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ và nhân dân.

Nguyễn Minh Châu - một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”, người nghệ sĩ ấy luôn trăn trở về sứ mệnh của một nhà văn, mang trong mình một khát khao tìm kiếm “những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”, để nâng đỡ và yêu thương con người nhiều hơn. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được sáng tác năm 1983, khi đất nước ta bắt đầu bước vào thời kì độc lập. Thế nhưng, cuộc sống thời bình với biết bao nhiêu vấn đề cần đặt ra. Đằng sau cái vẻ đẹp lộng lẫy của một đất nước bước vào hòa bình ấy là cuộc sống con người còn nhiều khó khăn, gian khổ. Chính vì vậy, tác phẩm vừa là hồi chuông cảnh báo đồng thời mở đường cho cảm hứng đời tư thế sự, một xu hướng chung cho văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Khi gấp lại những trang văn của “Chiếc thuyền ngoài xa” người đọc không thể nào quên được hai hình ảnh đối lập của cảnh đẹp nơi bờ biển sương sớm và bức tranh hiện thực của người dân làng chài nghèo khổ. Đến với vùng đất biển ấy, nhiếp ảnh gia Phùng đã từng rất say mê với cảnh đẹp sớm mai. Thế nhưng, có lẽ bài học nghệ thuật đẹp nhất mà người nghệ sĩ ấy nhận được chính là cách nhìn nhận cuộc sống, nhìn nhận những góc khuất mà con người vẫn thường hay bỏ lỡ. Nguyễn Minh Châu đã rất khéo léo khi lồng ghép hai phát hiện của nhân vật Phùng ấy để từ đó thể hiện được những quan điểm nghệ thuật của mình.

Bước chân vào câu chuyện của Nguyễn Minh Châu, hiện lên ngay trước mắt người đọc chính là bức tranh tuyệt đẹp bên bờ biển sớm mai. Không bằng quá nhiều câu từ, ngôn ngữ cũng đủ để nhà văn đưa người đọc hòa vào cảm xúc của nhân vật Phùng. Theo yêu cầu của trưởng phòng, để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển, Phùng đã quay trở lại vùng biển nơi từng là chiến trường cũ của anh. Tại đây, người nghệ sĩ như gặp được chân lý của nghệ thuật, một vẻ đẹp toàn bích của thiên nhiên. Trước cái đẹp, có người nghệ sĩ nào mà không rung động, mà không say mê. Trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng của buổi sương sớm mai, hiện lên trước mắt người nghệ sĩ ngay lúc này chính là một bức tranh thiên nhiên hoàn mỹ với cảnh chiếc thuyền ngoài xa thấp thoáng, ẩn hiện trong biển sớm mờ sương “thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Và bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ.” Người nghệ sĩ Phùng đã trực chờ ở bờ biển suốt mấy hôm chỉ để chờ đợi cảnh đẹp này, ngay lúc này, còn gì hạnh phúc hơn khi chính anh đã tìm ra được cảnh đẹp ấy. Phùng cảm thấy trước mặt mình là “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, tạo nên “một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Đứng trước khung cảnh đấy, anh xúc động “bối rối” và trái tim của anh “như có cái gì bóp thắt vào”. Quả thực, đứng trước cái đẹp người nghệ sĩ nào cũng nhạy cảm và bồi hồi như vậy đấy. Ngay lúc đó, anh “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đứng trước cảnh đẹp mà tưởng chừng như chẳng bao giờ anh có thể chạm tới ấy, Phùng hạnh phúc vô cùng, anh bấm “liên thanh một hồi hết một phần tư cuộn phim”. Trong khoảnh khắc ấy anh mới thấm thía “bản thân trong cái đẹp chính là đạo đức”.

Nguyễn Minh Châu tài thật, không bằng quá nhiều câu từ, ngôn ngữ nhưng cũng đủ để người đọc hòa vào từng cảm xúc của nhân vật, hòa vào cảnh đẹp của biển trong buổi sớm sương mai. Phải chăng ngay lúc này, người đọc cũng đang mang trong mình những suy nghĩ của Phùng, cho rằng vẻ đẹp ngay trước mắt là vẻ đẹp toàn bích nhất. Quả thực, cảnh đẹp đó chính là nghệ thuật đấy, từng ánh sáng, từng con thuyền, từng hạt cát bên bờ biển ấy chính là nghệ thuật đấy, nhưng nó không phải là nghệ thuật trọn vẹn. Cảnh đẹp ấy chính là minh chứng cho một cuộc sống hòa bình, cho một đất nước hòa bình, nhưng nơi mà nghệ thuật hướng đến chính là con người, vậy mà con người hiện lên trong bức tranh đó không hề rõ nét. Không những vậy, vẻ đẹp toàn bích trong mắt Phùng ấy cũng chỉ đang thu gọn vào trong một bức hình thôi sao. Phùng quên mất rằng, nơi anh đang đứng chẳng phải là Lầu Hoàng Lạc hay chốn Bồng Lai, nơi anh đứng chính là chiến trường cũ, nơi đây còn đầy những tàn tích với bao xác xe tăng, xe rà phá mìn. Ngay cả việc anh ngồi bấm máy cũng là phải “rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa”. Ngay lúc này, trong quan niệm nghệ thuật của người nghệ sĩ chính là quan niệm về nghệ thuật vị nghệ thuật mà thôi.

Nguyễn Văn Siêu đã từng nói: “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.”, đúng là như vậy, chỉ khi hướng đến con người, Nguyễn Minh Châu mới thực sự hoàn thành được sứ mệnh của bút của chính mình. Khép lại bức tranh thiên nhiên cảnh biển trong buổi sương sớm, cũng là lúc con người hiện ra. Và chính trong phát hiện thứ hai này mới thực sự là phát hiện của nghệ thuật trọn vẹn. Ngay lúc này, trong vẻ đẹp toàn mỹ ấy, hiện thực cuộc sống con người hiện lên thật tàn khốc, trước mắt người nghệ sĩ là cảnh bạo lực trong gia đình hàng chài - một sự thật tàn nhẫn trong góc khuất cuộc sống của những con người nghèo khổ. Cái bóng lưng ngồi im phăng phắc mà Phùng nhìn thấy trước đó bước ra, mang theo biết bao nhiêu gánh nặng, khổ cực. Một người đàn bà cao lớn, xấu xí, thô kệch với tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới xuất hiện. Ôi, cớ sao giữa bức tranh thiên nhiên tuyệt bích ấy, con người lại hiện lên đầy đáng thương như vậy. Và rồi ngay sau đó, một người đàn ông cao lớn, với tấm lưng rộng, đi chân chữ bát, hai con mắt đầy vẻ giận dữ. Có lẽ, ngay khi đọc đến đây, ai trong chúng ta cũng sẽ tự đặt câu hỏi: “Rốt cuộc họ đã phải trải qua một cuộc sống như thế nào chứ? Chẳng phải đất nước đã hòa bình rồi sao?”. Ngay sau đó, người chồng hùng hổ rút chiếc thắt lưng, “chẳng nói chẳng rằng quất tới tấp vào lưng người đàn bà”, thế nhưng điều làm chúng ta ngạc nhiên hơn cả chính là hành động của người vợ, bà ta không hề có chút phản ứng nào, không kêu lên một tiếng cũng chẳng chống trả hay tìm cách chạy trốn. Lão nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn:“Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ!”. Mày và chúng mày mà lão nói đến là vợ con của lão.

Chẳng phải ngay vừa phút giây trước thôi, khung cảnh yên bình tuyệt mĩ mà Phùng cho là toàn bích ấy sao, nhưng không, chỉ khi con người xuất hiện, đó mới thực sự là cuộc sống. Chứng kiến cảnh đó Phùng vô cùng kinh ngạc, “đứng há mồm ra mà nhìn”. Khi anh định vứt chiếc máy ảnh xuống mà chạy đến cũng là lúc thằng Phác xuất hiện, nó “như một viên đạn lao tới đích đã nhắm” lao thẳng vào người đàn ông. Nó giằng chiếc thắt lưng quật vào giữa ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen loăn xoăn của người đàn ông. Ngay sau đó, hắn dang thẳng cánh tay tát thằng bé hai phát khiến nó ngã dúi xuống cát. “Phác, con ơi!”, ngay sao đó là tiếng gọi xé lòng của người mẹ, bà ta ôm chầm lấy thằng bé, rồi buông ra chắp tay vái lấy vái để thật sự để lại quá nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Và rồi thằng bé “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ” để lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt. Có lẽ, chính ngay lúc này đây, người nghệ sĩ Phùng mới thực sự nhận ra, đây mới chính là cuộc sống đằng sau bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ ấy.

Tất cả những sự việc ấy cứ nối tiếp diễn ra trước mắt mà Phùng không thể làm gì khác được. Nhưng cũng chính hiện thức ấy mới giúp Phùng vỡ lẽ ra được hiện thực cuộc sống không phải chỉ luôn toàn màu hồng, cảnh sắc thiên nhiên đẹp thật đấy nhưng nó chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống hạnh phúc để tận hưởng trọn vẹn khung cảnh ấy. Cuộc sống của gia đình hàng chài hiện lên đầy bất hạnh, khó khăn trái ngược hoàn toàn với vẻ đẹp toàn bích, bình yên trong bức ảnh của người nghệ sĩ Phùng. Nguyễn Minh Châu đã từng nói: “Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” Đất nước đã bước vào hòa bình, nhưng sự thật là con người chưa được ấm no. Ở đây, Nguyễn Minh Châu đã hoàn thành tốt sứ mệnh của mình, cất tiếng “bênh vực cho những người không có ai để bênh vực”. Nghệ thuật vốn bắt đầu từ cuộc đời nhưng cuộc đời không phải lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật. Cuộc sống có rất nhiều những ngang trái, nghịch lí, người nghệ sĩ muốn thực sự khám phá cái vẻ đẹp toàn bích ấy thì cần có cái nhìn đa chiều, đừng chỉ nhìn cuộc sống dưới góc nhìn của một khung hình chữ nhật, hãy biết sống thực với nó, hãy hiểu chứ đừng chỉ biết. Câu chuyện của người nghệ sĩ Phùng cũng là câu chuyện của biết bao người nghệ sĩ khác. Đọc xong câu chuyện, tự nhìn lại bản thân tự hỏi, liệu mình có thật sự hiểu được thế nào là cái đẹp tuyệt bích của cuộc đời hay chưa?

Nguyễn Minh Châu đã xây dựng lên sự đối lập giữa vẻ đẹp của thiên nhiên cảnh biển sương sớm với tấn bi kịch cuộc sống của người dân làng chài nghèo khổ. Chính ở đó, Nguyễn Minh Châu đã tô đậm quan điểm nghệ thuật của mình. “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” (Tố Hữu) Quả thực, bức tranh cảnh biển sương sớm đẹp thật đấy, nhưng nó không thật sự trọn vẹn, con người hiện lên trong đó quá mờ nhạt. Nghệ thuật chỉ là nghệ thuật khi nó hướng đến con người, phải thể hiện được bản chất sâu xa, sự thật ẩn sâu trong cuộc sống. Nguyễn Minh Châu đã từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự thật một cách đơn giản, nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử.” Nó đã trở thành thiên chức, thành sứ mệnh của người nghệ sĩ. Nghệ thuật chỉ thực sự là nghệ thuật khi nó khai thác ở cuộc sống với cái nhìn đa chiều, nhìn nhận cuộc đời ở bình diện đạo đức, thế sự để thực sự hiểu bản chất bên trong của hiện thực. Nghệ thuật ở đây không chỉ là nghệ thuật vị nghệ thuật mà đó phải là nghệ thuật vị nhân sinh. Không chỉ vậy, nhà văn cần viết về “những vùng tối của hiện thực đời sống để góp phần hoàn thiện nhân cách làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn”. Hiện thực cuộc sống thực sự rất nhiều trái ngang, nhưng không phải người nghệ sĩ nào cũng dám cầm bút về vẽ nó lên trong những trang văn của mình. Chính vì vậy, người nghệ sĩ cần có lòng dũng cảm, chân thực, một trái tim nhân hậu để “nâng niu những cái đẹp ở đời”, để “bênh vực cho những người không có ai để bênh vực”. Nhà văn phải tự ý thức cho chính mình hoàn thiện hơn, cho văn chương sâu sắc hơn để phục vụ con người, hướng đến con người. Có lẽ, trong thời kì ấy, chúng ta chưa từng bắt gặp bất cứ người nghệ sĩ nào mang màu sắc quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Chính những điều mới mẻ ấy, những đóng góp ấy trong công cuộc đổi mới văn học mà trước hết là về quan niệm nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu được đánh giá là “người mở đường tinh anh và tài năng” của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Có thể thấy ngay từ trong cách đặt tên nhan đề Nguyễn Minh Châu để phần nào bộc lộ ra quan điểm nghệ thuật của mình. Tại sao lại là “ngoài xa”? Khi ở xa, người nghệ sĩ không thể nào thấy được hết những mảng tối, những góc khuất trong cuộc sống của con người. Đó chỉ là những bóng lưng ngồi im phăng phắc. Nghệ thuật chỉ thật sự là nghệ thuật khi nó ôm trọn vào lòng con người, hiện thức cuộc sống, nâng niu những giá trị tốt đẹp của con người. Chỉ khi người nghệ sĩ thực sự sống cuộc sống, thực sự hiểu con người thì nghệ thuật mà họ tạo ra mới có giá trị đích thực, góp phần cải tạo cuộc sống, nâng cao giá trị của con người.

Sứ mệnh của nhà văn được Nguyễn Minh Châu hoàn thiện một cách thật trọn vẹn. Một hiện thực cuộc sống đen tối sau thời bình của nhân dân ta hiện lên rõ hơn bao giờ hết, một góc nhìn mới mẻ, một bài học mới về nghệ thuật cho những người nghệ sĩ, tất cả bắt đầu từ cuộc đời, từ con người, phục vụ con người, hướng đến con người và vì con người. Chính những điều đó đã kết tinh lại thành một nguồn sức mạnh kì diệu, một sức sống mãnh liệt cho tác phẩm trong dòng chảy khắc nghiệt của thời gian, đúng như lời nhận định: “Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại, mình nó không chấp nhận quy luật của cái chết.

Mời bạn đọc cùng tải về bản DOC hoặc PDF để xem đầy đủ nội dung nhé

Chia sẻ, đánh giá bài viết
53
3 Bình luận
Sắp xếp theo
  • Captain
    Captain

    Tks bạn nhiều nhé, tài liệu rất bổ ích

    Thích Phản hồi 10/06/22
    • Gà Bông
      Gà Bông

      Cho mình tài liệu ôn thi THPT môn Văn nhé ad

      Thích Phản hồi 10/06/22
      • Ẩn Danh
        Ẩn Danh

        Mình cần dàn ý phân tích tác phẩm này ạ

        Thích Phản hồi 10/06/22
        🖼️

        Gợi ý cho bạn

        Xem thêm
        🖼️

        Ngữ văn 12

        Xem thêm