Phân tích hình ảnh chiến đấu gian lao trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà để thấy vẻ đẹp hình tượng người lái đò sông Đà
Hình tượng người lái đò sông Đà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình ảnh chiến đấu gian lao trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà để thấy vẻ đẹp hình tượng người lái đò sông Đà được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh cùng quý thầy cô tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
Dàn ý Phân tích hình ảnh chiến đấu gian lao trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút Người lái đò sông Đà và hình tượng người lái đò.
2. Thân bài
a. Khái quát chung về hình ảnh ông đò
Lai lịch: một ông lão gần 70 tuổi, làm nghề lái đò nhiều năm.
Ngoại hình: “tay lêu nghêu... chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.
Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.
Tài năng và tâm hồn: Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ... những luồng nước”…
b. Cuộc thủy chiến giữa con sông Đà và người lái đò
Tiếng nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… rống lên như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.
Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, nó bày thạch trận trên sông: Đám tảng đám hòn, chia làm ba hàng chặng ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa,....
Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong, lẫm liệt, thách thức chiếc thuyền.
Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt.
Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá...
→ Sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, đầy sáng tạo để khắc họa sự hung bạo, dữ dằn trong trận thủy chiến gay go, quyết liệt.
Ông lái đò là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo...”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác...”
Ông còn là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.
3. Kết bài
Khái quát lại vẻ đẹp của người lái đò.
Phân tích hình ảnh chiến đấu gian lao trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà mẫu 1
Nền văn học Việt Nam đã ghi danh tên tuổi của bao nhà văn nhà thơ với những đóng góp to lớn, một trong số đó chúng ta không thể không nhắc đến tác giả Nguyễn Tuân. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm nổi tiếng nhờ tài năng uyên bác của mình, trong đó có tùy bút Người lái đò sông Đà. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.
Người lái đò qua ngòi bút của Nguyễn Tuân là một ông lão ngoài bảy mươi tuổi, cũng là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một: "Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn..." Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. "Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất", người lái đò "phá luôn vòng vây thứ hai". Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động "tấn công": Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.
Người lái đò sông Đà không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.
Phân tích hình ảnh chiến đấu gian lao trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà mẫu 2
Người lái đò sông Đà là một tùy bút nổi tiếng thể hiện tài năng uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ giúp cho bạn đọc hiểu hơn, có cái nhìn đa chiều về sông Đà mà còn giúp bạn đọc thêm yêu quý con người lao động nơi đây mà đại diện là hình ảnh người lái đò.
Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một: "Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn..."
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. "Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất", người lái đò "phá luôn vòng vây thứ hai". Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động "tấn công": Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.
Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện của con người. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ. Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân.
Phân tích hình ảnh chiến đấu gian lao trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà mẫu 3
Tùy bút nổi tiếng "Người lái đò sông Đà" của nhà văn Nguyễn Tuân là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc thể hiện tài năng uyên bác của tác giả. Tác phẩm này không chỉ giúp bạn đọc hiểu sâu hơn về cuộc sống và môi trường ở vùng sông Đà mà còn đặc biệt thể hiện sự tôn trọng và yêu quý của tác giả đối với người lái đò, người lao động vùng Tây Bắc.
Tài hoa của người lái đò được tác giả vẽ nên qua cách mô tả sáng tạo, đặc biệt trong các trận chiến gian nan trên sông Đà. Người lái đò không chỉ là một người lao động thông thường mà còn là một nghệ sĩ tài hoa. Tác giả biến tài năng và tinh thần uyên bác của người này thành một loại nghệ thuật, nơi họ đã chiến đấu không chỉ với sự khắc nghiệt của thiên nhiên mà còn với bản thân họ.
Tài hoa của người lái đò bắt nguồn từ những phẩm chất như lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và quyết đoán. Tác giả đưa nhân vật này vào môi trường khốc liệt của sông Đà, nơi mọi sự bất cẩn có thể dẫn đến cái chết. Cuộc chiến đấu trên sông Đà trở thành một thách thức khốc liệt, trong đó người lái đò phải đối mặt với nguy hiểm và sự tử thần liên tục.
Cuộc chiến đấu trên sông Đà được mô tả như một trận đánh, với đối thủ chính là những tảng đá gian nan và nước dữ. Mỗi lần người lái đò xuất phát, họ phải vượt qua một cuộc chiến đấu mới, một trận thách thức khác nhau. Sông Đà được mô tả như một môi trường đầy kỳ quái và đáng sợ, nơi đá và nước đối đầu với thuyền như những kẻ thù số một. Một chi tiết quan trọng là "Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông," thể hiện tính thủ đoạn, gian trá của sông Đà và đáng sợ hơn là sự xuất hiện của những bãi đá chờ sẵn để tấn công thuyền.
Tuy nhiên, người lái đò không bao giờ nao núng hoặc sợ hãi. Họ có kiến thức sâu sắc về quy luật của sông Đà và biết cách đối phó với nó. Đối mặt với thác nước dữ, họ vẫn duy trì bình tĩnh, mưu trí như một chỉ huy, dẫn dắt con thuyền qua những trận thác nguy hiểm. Khi bị thương, họ cũng không ngừng cố nén vết thương và tiếp tục chiến đấu. Tài hoa của họ là khả năng nắm chắc binh pháp của sông Đà và thần sông thần đá.
Đặc biệt, người lái đò được miêu tả như một nghệ sĩ tài hoa. Tài hoa ở đây không chỉ đề cập đến khía cạnh nghệ thuật truyền thống mà còn bao gồm sự tinh vi, siêu phàm trong công việc hàng ngày. Người lái đò được coi như một nghệ sĩ bởi họ nắm chắc các quy luật của sông Đà và biết cách tận dụng chúng để tự do. Sự tinh vi, sáng tạo của họ thể hiện trong việc xử lý mọi tình huống phức tạp trên sông.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã tôn trọng và yêu quý con người lao động trong tác phẩm này. Người lái đò không chỉ là người lao động vô danh mà còn là một nghệ sĩ tài hoa, làm lụng âm thầm để đối đầu với sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Điều này thể hiện sự tôn trọng và sự thần thánh của công việc của họ.
Tóm lại, "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, mô tả một người lái đò không chỉ là một người lao động thông thường mà còn là một nghệ sĩ tài hoa, đối mặt với sự khắc nghiệt của sông Đà và chiến thắng nó bằng kiến thức, tinh thần dũng cảm và tài năng. Tác phẩm này thể hiện sự tôn trọng và tình yêu của tác giả đối với con người lao động vùng Tây Bắc, đặc biệt là người lái đò.
Phân tích hình ảnh chiến đấu gian lao trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà mẫu 4
Trong tác phẩm "Người lái đò sông Đà," Nguyễn Tuân đã vẽ nên một bức tranh rất sống động về cuộc chiến đấu gian lao trên mặt trận sông Đà. Hình ảnh người lái đò chiến đấu trên quãng thủy chiến này thể hiện sự dũng cảm, gan dạ, và sự quyết đoán của họ trong cuộc vượt thác đầy nguy hiểm.
Nguyễn Tuân (1910-1987) là một nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam. Ông sinh ra trong một gia đình nhà Nho, trong một gia đình hàn học, nhưng sau cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, ông lựa chọn bước vào thế giới của văn học và ngày càng đóng góp cho nền văn học Việt Nam. Nguyễn Tuân quê quán tại làng Mộc, nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Những nơi này đã ảnh hưởng đến tác phẩm của ông, đặc biệt là tác phẩm "Người lái đò sông Đà." Từ năm 1948 đến năm 1968, ông đã đảm nhận vị trí Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, với vai trò quan trọng trong việc phát triển và định hình văn học Việt Nam trong thời kỳ đó. Năm 1996, Nguyễn Tuân được nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật, một tôn vinh đáng giá cho sự đóng góp của ông vào văn học Việt Nam. Về quan điểm sáng tác và sự nghiệp văn chương, Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, luôn tìm kiếm cái đẹp trong cuộc sống và tự nhiên. Ông có tầm nhìn sáng tạo và một vai trò lớn đối với văn học Việt Nam. Sau thành công của Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân dấn thân vào việc phục vụ cuộc kháng chiến bằng ngòi bút của mình. Các tác phẩm chính của ông bao gồm "Vang bóng một thời," "Một chuyến đi," "Thiều quê hương," "Sông Đà," "Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi," và nhiều tác phẩm khác.
Phong cách văn chương của Nguyễn Tuân được biểu hiện qua sự dùng ngôn ngữ phong phú và hài hòa, cấu trúc câu văn xuôi sáng tạo, sử dụng thủ pháp nghệ thuật độc đáo như liên tưởng, tưởng tượng thú vị, và so sánh nhân hóa quái dị. Nguyễn Tuân cũng thể hiện khả năng tài hoa và uyên bác trong việc dùng chữ nghĩa để tái hiện những kì quan của thiên nhiên và những kì tích lao động của con người.
Ở những đoạn sông Đà dữ dội, người lái đò đã phải đối mặt với một sự hiểm nguy tột cùng. Trận chiến với dòng sông và với những khúc cua nguy hiểm trên mặt nước đòi họ phải sử dụng tất cả tài năng và kinh nghiệm của mình. Họ đã chiến đấu với sự dũng cảm và bình tĩnh, thậm chí khi mà sóng sông Đà dồn đòn, nước bám lấy thuyền như một thế lực hung ác. Người lái đò đã hiện thực hoá binh pháp của thần sông và thần đá, nắm vững cách thức của con sông ngoằn nghoèo và đá đầy chông gai. Mặc cho những vết thương trên cơ thể, họ vẫn tiếp tục chiến đấu, hai tay giữ mái chèo một cách mạnh mẽ, vượt qua những thác đầy hiểm nguy.
Trong cuộc chiến này, người lái đò chỉ có một cái chèo và một chiếc thuyền nhỏ. Dòng sông mạnh mẽ và tàn bạo, nhưng họ đã hiểu rõ nó và vận dụng tri thức để vượt qua mọi khó khăn. Họ không bao giờ nản lòng, và dù rất ít cơ hội để lùi lại, họ vẫn tiến lên "tấn công" cách tài ba, chọc thủng cửa ải đáng sợ giữa dòng sông. Cuối cùng, thuyền đã vượt qua thành công và chống lại sự phản kháng của những khối đá dữ tợn.
Đây là một cuộc chiến đấu không cân sức, nhưng người lái đò đã thể hiện tài hoa và khả năng tinh thần siêu việt. Kết cục của cuộc chiến đấu này đã thể hiện sự gan dạ và uyên bác của họ, khiến cho bọn đá tướng tiu phải thua trước sự quyết tâm và khả năng của một con thuyền nhỏ bé. Hình ảnh người lái đò chiến đấu trên mặt trận sông Đà trở nên mạnh mẽ, ấn tượng và thể hiện sự tài hoa, uyên bác của họ.
Phân tích hình ảnh chiến đấu gian lao trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà mẫu 5
Nhà văn Nguyễn Tuân, thông qua tác phẩm "Người Lái Đò Sông Đà", đã tạo ra một hình ảnh ấn tượng về người lái đò và cuộc sống xung quanh sông Đà. Tác phẩm này không chỉ là một bức tranh sâu sắc về cảnh vật núi rừng và con sông hùng vĩ, mà còn là một lời tôn vinh và kính trọng đối với những con người dũng cảm sống giữa thiên nhiên hoang dã.
Nguyễn Tuân đã dùng ngôn ngữ tinh tế và mô tả sắc bén để khắc họa nhân vật chính, một người lái đò ngoài bảy mươi tuổi. Đó là một người lao động trải qua bao sóng gió cuộc đời, một người đã sống và làm việc bên con sông Đà suốt đời. Tài năng của ông lão không chỉ nằm ở khả năng điều khiển con thuyền trên dòng sông nguy hiểm mà còn ở lòng gan dạ, sự mưu trí và quyết đoán.
Dưới bàn tay của Nguyễn Tuân, nhân vật này trở thành một chiến binh trên chiến trường sông Đà. Cuộc vượt thác, trong tác phẩm được mô tả, là một cuộc chiến đấu đầy nguy hiểm và đầy khắc nghiệt. Dòng sông trở thành một trận đánh gắp diện mạo của kẻ thù. Một thời khắc có thể quyết định sống chết của người lái đò.
Nhưng như một chỉ huy điều khiển binh đoàn, ông lão ngoài bảy mươi tuổi này không bao giờ mất bình tĩnh. Ông đưa thuyền qua các khúc sông nguy hiểm, né tránh những đá ngầm cạnh tranh nước. Ngay cả khi thuyền bị thương, người lái đò vẫn không bao giờ bất chấp. Mọi động tác, mỗi cử động của ông lão đều phản ánh sự hiểm nguy và lòng gan dạ của người lao động.
Cuộc vượt thác thách thức này không dành cho những kẻ yếu đuối. Đó là một cuộc chiến đấu chống lại sự hung bạo của dòng sông. Tuy nhiên, người lái đò đã chiến thắng, đánh bại bản thân và thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên. Tác phẩm này là một hình ảnh hùng cường và đầy cảm hứng về người lao động Việt Nam, người không bao giờ khuất phục trước bất kỳ khó khăn nào.
Từ tác phẩm "Người Lái Đò Sông Đà", chúng ta thấy tình yêu và tôn trọng đối với đất nước, sự tự hào về người lao động Việt Nam, và sự gắn bó mạnh mẽ với non sông quê hương. Nguyễn Tuân đã thành công trong việc truyền đạt những giá trị này thông qua câu chuyện về một người lái đò và cuộc vượt thác đầy gian nan.
Phân tích hình ảnh chiến đấu gian lao trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà mẫu 6
Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa, ông luôn đi tìm những cái khác người, những cái độc đáo. Đọc tùy bút, người lái đò sông Đà ta thấy được hết sự tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân trong việc khắc họa hình tượng người lái đò sông Đà. Chúng ta bắt gặp hình tượng con người lao động mới không chỉ thông minh, sáng tạo cần cù mà còn tài hoa nghệ sĩ.
Cuộc chiến thật không cân sức giữa một con người nhỏ bé không hề có phép màu gì kì diệu, không có vũ khí lợi hại trong tay chỉ với chiếc cán chèo trên một con đò đơn độc với một tên hung bạo của núi rừng (dòng sông hiểm trở khó lường), thạch trận đủ 3 lớp trùng vi vây bủa, được trấn giữ bởi những hòn đá ngỗ ngược, hỗn hào và thật nham hiểm, dữ dội…
Người lái đò với tài năng và trí thông minh của mình vượt thác như cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp khác của trùng vi thạch trận, nắm chặt cái bờm sóng mà vượt qua, mà chinh phục sự hung hãn của dòng sông.
Những thằng đá tướng phải lộ sự tiu nghỉu, thất vọng qua bộ mặt xanh lè.
Người lái đò là người chiến thắng trong trận chiến cam go ấy bằng sự ngoan cường, sung cảm. tài trí, chí quyết tâm và nhất là kinh nghiệm lên thác xuống ghềnh của ông bao nhiêu năm nay, từng khúc từng đoạn sông ông nắm trong lòng bàn tay, ông biết chỗ nào là cửa sinh, chỗ nào là cửa tử và khéo léo xử lý như một nghệ nhân.
Nguyễn Tuân một nhà văn có tài ông khắc họa độc đáo những hình ảnh, từng cử chỉ nhân vật, thể hiện nét tài hoa nghệ sĩ của mình, thêm nữa ông tạo tình huống đầy thử thách để nhân vật của mình bộc lộ được phẩm chất. Nguyễn Tuân sử dụng ngông từ đầy cá tính, giàu chất tạo hình. Tất cả đã vẽ nên một khúc ca ca ngợi con người: ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi sự lao động là vinh quang. Đó là những vẻ đẹp của con người vùng Tây Bắc nói riêng và nhân dân lao động Việt Nam nói chung. Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.
Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hóa và những kì tích lao động của con người.
Cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà mẫu 7
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tùy bút này, Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Điều đó được khắc hoạ thật ấn tượng mang cảm giác thật mãnh liệt qua cảnh vượt thác “có một không hai”.
Ông lái đò sinh ra và lớn lên bên bờ sông Đà, ngay ngã ba sông Đà nên con sông là máu thịt của quê hương đã ngấm vào trái tim, khối óc nên ông lái gắn bó, yêu thương và thấu hiểu tường tận, cặn kẽ dòng sông.
Khi Nguyễn Tuân có dịp kiến diện với người lái đò thì cũng là lúc người lái đò đã 70 tuổi, cái tuổi của buổi xế chiều. Ông làm nghề lái đò dọc sông Đà mười năm liền và đã nghỉ đôi chục năm. Ấy thế mà ông có ngoại hình thật đặc biệt «ông có thân hình quắc thước sánh như chất sừng, chất mun trông trẻ tráng quá ». Những nét ngoại hình ấy vì đâu mà có, phải chăng mười năm trong nghề, dấu ấn của công việc đã in đậm trên ngoại hình ông lão: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Bả vai của ông có vết củ nâu tròn, dấu tích tì sào của nghề lái đò mười năm liền trên sông nước, vượt qua bao ghềnh thác mà Nguyễn Tuân đã ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.
Ông lái đò đã từng ngược xuôi trên ghềnh thác sông Đà nhiều năm trong cuộc đời nên ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, và thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước, để rồi từ đó mưu trí, dũng cảm vượt qua và chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã để tồn tại, lao động và sáng tạo. Ông lái đò hiện lên khác nào vị thần Thủy Tinh trong thần thoại VN, nhưng có điều ông không có phép tiên mà chỉ đơn thuần là con người lao động bình dị, đời thường tiêu biểu cho phẩm chất của người lao động mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới ở miền Bắc.
Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào trong hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.
Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của người lái đò được thể hiện rõ nét nhất trong cuộc đối đầu với đám đá đang bày binh bố trận trên sông. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Với những từ ngữ : mai phục, vồ lấy thuyền khiến cho lũ đá nơi ải nước như những kẻ thù nham hiểm và hung ác. Chúng có thể bất thình lình tấn công con người bất cứ khi nào và tai họa sẽ ập đến mà không báo trước. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Nguyễn đã miêu tả lũ đá ở đây mỗi hòn mang một vẻ mặt khác nhau: hòn thì ngỗ ngược, hòn méo mó, hòn mặt xanh lè, hòn hất hàm như thách thức… mỗi hòn mỗi dáng vẻ, nhưng nhìn những bộ mặt ấy thì không có chút nào thiện cảm bởi vẻ lạnh lùng, hung ác và giữ tợn.
Người đọc như đang chứng kiến thạch trận đá trên sông Đà như bày ra một trận địa chiến đấu mà mỗi vị trí và nhiệm vụ được cân nhắc và tính toán kỹ lưỡng. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Có bọn đá tiền vệ, hậu vệ, đá cũng biết mai phục, biết đánh trận. Tất cả gợi lên sự hung tợn và dữ dội, quyết liệt của con sông Đà hung bạo này. Hàng tiền vệ : Có hai hòn cánh cửa thoạt nhìn tưởng chúng như sơ hở nhưng thực chất đang đóng vai trò dụ cái thuyền tiến sâu vào bên trong. Khi con thuyền đã bị dụ vào trong thì nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nhưng con thuyền của ông đò đã dễ dàng vượt qua nên tuyến thứ ba là các boongke chìm và pháo đài đá nổi là phải đánh tan con thuyền. Cùng với thạch trận đá là sự tiếp ứng, phối hợp của cả sóng nước biết tung ra bao đòn đánh hiểm độc : khuýp quật vu hồi, đưa ra những đòn độc : đá trái, thúc gối, đội thuyền, túm thắt lưng, bóp chặt hạ bộ người lái đò…rồi liên tiếp các đòn trùng điệp : đánh đòn tỉa, đòn âm, hồi lùng…
Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh để diễn tả hết sự hung hăng, dữ tợn và hiểm nguy của con sông Đà. Nhưng càng hung dữ bao nhiêu thì lại càng tôn lên vẻ đẹp của ông lái đò bấy nhiêu vì con sông coi như một hình ảnh làm nền cho người lái đò hiện lên anh dũng, kiên cường, đầy hiên ngang, kiêu hãnh, hào hoa tìm sự sống trên dòng sông chết. Hay chúng ta gọi là nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng, lấy bóng mà lộ được hình.
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước thì hò la vang dậy như muốn bẻ gãy cán chèo, vũ khí duy nhất có trên tay ông lái đò. Sóng nước chiến đấu như một kẻ liều mạng, không do dự mà xông thẳng vào người lái đò tiến sát nách mà đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đang lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lái đò vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Đặc biệt trên con thuyền có đến sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn mà tỉnh táo của người cầm lái. “Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Trong trận đánh người lái đò đã hiện lên thật gan dạ, dũng cảm và đầy sức dẻo dai và một trí tuệ của người chỉ huy con thuyền sáng suốt.
Không một phút giây nghỉ tay, nghỉ mắt, người lái đò phải tiếp tục “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Biết ở vòng vây thứ hai con sông đã bố trí tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. Với vòng vây thứ hai không phải chiến đấu với đá, sóng như cửa thứ nhất mà là đương đầu với dòng thác sông Đà. Bằng nghệ thuật liên tưởng độc đáo Nguyễn như thấy ông lái đò không phải chèo thuyền vượt thác mà là cưỡi lên thác nước sông Đà. Hơn nữa bằng nghệ thuật miêu tả đòn bẩy tác giả đã ví thác sông Đà như một con hổ hung bạo đã vào cuộc chiến sinh tử với người lái đò. Nên ông lái đã cưỡi lên thác thì phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ. Nhằm đúng con sóng mà lướt thì cũng như nắm được cái bờm của con hổ để có chỗ bám, chỗ ghì tay. Rồi ông đò ghì cương lái của con thuyền, chắc đôi bàn tay để bám chắc lấy luồng nước mà lái miết một đường vào cửa Sinh. Nhưng con sông thật nham hiểm bởi nó không để chút sơ hở cho con thuyền có lối thoát. Luồng nước chứa cửa sinh cũng là chỗ lũ đá đang mai phục. Không chỉ có thế, một bọn thủy quân đang chờ sẵn chỗ ải nước chỉ chờ con thuyền đến là xô ra để níu con thuyền vào cửa tử. Nhưng ông đò đã nhớ mặt từng đứa một, đứa thì ông tránh để bơi chèo nhanh, đứa thì ông đè sấn lên, chặt đôi ra để lấy đường tiến. Và cứ như vậy con thuyền đã bỏ qua hết những cửa tử, và chỉ nghe bên tai tiếng reo hò của sóng nước luồng sinh. Trong trận chiến thứ hai phẩm chất nổi bật của ông lái đò lại anh hùng, linh hoạt và chủ động đối phó với thác nước sông Đà.
Nếu trong hai trận chiến trên chúng ta có thể đã đủ để ngưỡng mộ người lái đò, nhưng với Nguyễn, tìm đến con người thì con người ấy phải được miêu tả đến tài hoa tột bậc, phải trở thành nghệ sĩ. Và Nguyễn đã phải tiếp tục miêu tả người lái đò trong cuộc chiến thứ ba với con sông Đà. Và cũng đến vòng vây thứ ba với nghệ thuật miêu tả sắc nét vô cùng thì ông lái hiện lên như một tay lái nở hoa, đạt đến mức độ nghệ sĩ trong nghề lái đò của mình. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Khung cảnh giao tranh dù rất quyết liệt, một mất một còn nhưng Nguyễn đã miêu tả như một cuộc chiến của giới thần tiên. Màn hơi nước mờ trắng hư ảo, con thuyền không bơi trên sóng nước sông Đà mà nó như đang bay trên dòng sông hư ảo ấy. Con thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước. Còn người lái đò như một tiên ông với phép lạ, chỉ vẩy tay chèo mà con thuyền vút vút xuyên đi như có một mãnh lực siêu hình. Phải chăng đó là tuyệt tài của một tay lái nở hoa. Thế là kết thúc.
Nổi bật trong trang văn của Nguyễn là nhân vật luôn được nhà văn miêu tả ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu trước CMT8 -1945, Nguyễn Tuân chỉ tập trung vào lớp nhà nho quá vãng thì nay sau CM, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc sống hàng ngày của người dân lao động. Cuộc đời của người lái đò vô danh, không tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” của con người, thì cũng chính thiên nhiên, qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào lao động.
Cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà mẫu 8
Trong tùy bút Người lái đò sông Đà, cảnh vượt thác được Nguyễn Tuân khắc họa vô cùng sinh động, độc đáo.
Mở đầu, nhà văn miêu tả thác đá sông Đà: “ Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Ở trùng vi thạch thạch trận đầu tiên, sông Đà bố trí chiến trận với “bốn cửa tử, một cửa sinh”. Nhà văn sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa: “Mặt hòn đá nào trông cũng “ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó”. Trước thạch trận được bố trí, ông lái đò cũng trong tư thế sẵn sàng: “thạch trận dàn bày vừa xong thì cũng là lúc con thuyền vụt tới”. Thác đá sông Đà rất khôn ngoan, không đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo” cùng với “nước thác làm thanh viện cho đá”. Sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc: “ Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá” . Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Trước tình thế đó, ông lái đò vẫn không hề nao núng, đề ra chiến thuật phòng ngự để giữ sức cho vòng đấu tiếp theo: “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính phải miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, còn “mặt méo bệch đi”. Dù vậy, ông vẫn nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Trùng vi thạch trận thứ hai, sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn, “bố trí cửa sinh lệch về phía hữu ngạn” nhằm đánh lừa con thuyền. Nhà văn còn bình luận rằng: “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Ông lái đò với kinh nghiệm hơn mười năm vượt thác tràn đầy tự tin: “Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Ở trận này, ông lái đò quyết định đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Ông “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Con sông Đà đáp trả chẳng hề thua kém. “Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Vẫn còn nhớ mặt kẻ thù quen thuộc, ông lái đò “tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cửa tử đã bị bỏ lại hết phía sau, chỉ nghe thấy tiếng thác đá không ngừng khiêu khích.
Trùng vi thạch trận cuối cùng, sông Đà ra đòn quyết định. Cửa tử ít hơn hơn nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan”. Ông lái đò nhanh chóng chỉ huy cho con thuyền “phóng thẳng chọc thủng cửa giữa”. Và kết quả là thuyền “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Ông lái đò đã chiến thắng.
Cảnh vượt thác của Nguyễn Tuân cho thấy sự tài tình của Nguyễn Tuân trong cách sử dụng từ ngữ, vốn am hiểu phong phú về nhiều lĩnh vực. Đây là một trong những cảnh hấp dẫn nhất của tùy bút.