Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích hình tượng con Sông Đà

Phân tích hình tượng con sông Đà

Bài Phân tích hình tượng con sông Đà được VnDoc tập hợp và biên soạn chi tiết gồm dàn ý và bài mẫu. Mời các em tham khảo để có thêm tài liệu học Ngữ văn 12 nhé!

I. Dàn ý phân tích hình tượng con sông Đà

Dàn ý phân tích hình tượng con sông Đà mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà.

2. Thân bài

a. Con sông Đà hung bạo

Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và ở quãng sông hẹp:

Có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu.

Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.

Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.

→ Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận.

Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng:

Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà...

Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

→ Sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.

Cảnh ở quãng Tà Mường Vát:

Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu.

Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.

Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống.

→ Sử dụng các biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo gợi lên cảm giác về những mối nguy hiểm của sông Đà.

Cuộc thủy chiến giữa con sông Đà và người lái đò:

Một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một.

Tiếng nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo...rống lên như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.

Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, nó bày thạch trận trên sông: Đám tảng đám hòn, chia làm ba hàng chặng ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa,....

Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong, lẫm liệt, thách thức chiếc thuyền.

Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt.

Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá...

→ Sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, đầy sáng tạo để khắc họa sự hung bạo, dữ dằn trong trận thủy chiến gay go, quyết liệt.

Sông Đà hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân không phải là con sông vô tri, vô giác mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng, không chỉ hung hãn mà nó còn rất xảo huyệt, mưu ma để lừa người lá đò vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử.

Hình tượng con sông Đà hiện lên thật kì vĩ, hiểm trở, dữ dội và rất hung bạo… Sông Đà biểu tượng cho sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.

b. Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình

Từ trên tàu bay nhìn xuống "con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo.

"Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với sông Gâm, sông Lô "màu xanh canh hến". Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa"

→ Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.

Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương" Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa.

→ Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.

Hình ảnh người lái đò

- Về lai lịch: một ông lão gần 70 tuổi, làm nghề lái đò nhiều năm.

- Ngoại hình: “tay lêu nghêu ... chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.

- Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo..

- Tài năng và tâm hồn:

Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ... những luồng nước”...

Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo...”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác...”

Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.

Dàn ý phân tích hình tượng con sông Đà mẫu 2

I. Mở bài:

  • Là một nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước
  • Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên đất nước mình. Bút kí "Người lái đò sông Đà" đã thể hiện đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà "hung bạo và trữ tình" chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc.

II. Thân bài:

1. Khái quát:

  • "Người lái đò sông Đà" rút từ tập tùy bút "Sông Đà" của Nguyễn Tuân.
  • Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958.
  • Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới đã đem lại cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
  • Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân là ta đang đến với một tâm hồn vô cùng phong phú, với những phát hiện hết sức tinh tế, độc đáo về quê hương. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng chính là tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông. Chỉ có N.T mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước N.T có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ. Cũng không có ai như Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng 3 câu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay ngang qua miền sông ấy. Dòng sông Đà trong cảm nhận của nhà văn có hai nét tính cách đối lập: hung bạo và trữ tình.

2. Phân tích:

a. Sông Đà hung bạo:

  • Vách đá "đá bờ sông dựng vách thành" và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách:
    • "Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời"
    • Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách
    • "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện"

-> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như N.T luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng nay ăm ắp để tìm cho được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.

  • Gió trên sông Đà: "Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm " -> bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.
  • Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: "nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", "chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác" -> Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.
  • Âm thanh thác nước sông Đà:
    • Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá.
    • Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang "oán trách", "van xin", "khiêu khích", "giọng gằn mà chế nhạo". Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: "nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…" -> Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, N.T quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật.
  • Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: "Cả một chân trời đá mặt hòn nào trông cũng "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó" -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.
    • Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì "hất hàm" đứa thì "thách thức", "mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo", sóng nước "đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền"
    • Trùng vi thạch trận thứ II: Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn
    • Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.

-> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì "kẻ thù số một của con người". Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút VN.

b. Sông Đà trữ tình:

  • Dòng sông Đà không chỉ có những "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá" mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống "con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo"
  • Màu sắc dòng sông thay đổi theo mùa:
    • "Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với sông Gâm, sông Lô "màu xanh canh hến".
    • Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa" -> Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.
  • Đến với sông Đà, hăm hở, say mê đến nỗi tác giả như thấy mình như đang "sắp đổ ra sông Đà". Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương" Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa… lặng tờ "như từ Lí, đời Trần, đời Lê".

-> Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt Nam.

III. Kết bài:

Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú. Ở tùy bút "Người lái đò sông Đà" chúng ta thấy phong cách giá trị của ông thể hiện rõ nhất là sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, lối văn rất mực tài hoa. Dòng sông Đà "hung bạo và trữ tình" chảy mãi trong dòng văn học nước nhà như niềm yêu mến và tự hào về cỏ cây sông núi quê hương của nhà văn Nguyễn Tuân.

II. Văn mẫu Phân tích hình tượng con sông Đà

Phân tích hình tượng con sông Đà mẫu 1

Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến cây bút “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa” (quý ở sự tinh xảo, hiếm có chứ không quý ở sự nhiều). Có điều ấy bởi lẽ ông là một người cầm bút khá kén chọn, những câu văn của ông luôn phức tạp cả về hình thức thể hiện lẫn nội dung cảm xúc. Với vị thế của một con người “đi tìm và sáng tạo cái đẹp”, Nguyễn Tuân đã thể hiện rất sinh động hình tượng con sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”.

Hình tượng con sông Đà hung bạo được tác giả tập trung miêu tả ở thượng nguồn. Ở phần mở đầu thiên tùy bút, nhà văn đã liệt kê một loạt con thác để làm nổi bật sự dữ dằn của dòng sông. Tuy nhiên, cái đáng sợ của sông Đà còn nằm ở những vách đá, ghềnh đá, những con sóng,... Sự dữ dội, hung hãn của con sông hòa với cái hoang sơ, hùng vĩ của núi từng Tây Bắc, sông Đà khiến Nguyễn Tuân vô cùng ấn tượng. Sông Đà có nhiều quãng hiểm trở ở thượng nguồn, hai bên là “Đá bờ sông dựng vách thành”. Những vách đá hiểm trở cao hun hút, dựng đứng khiến cả ngày mặt sông không có ánh nắng. Phải đợi đến giữa trưa, khi mặt trời đã lên cao, ta mới có thể thấy những ánh nắng chiếu xuống theo phương thẳng đứng. Ngòi bút tài hoa của nhà văn đã đem đến cho người đọc một cảm giác chân thực về cái cao, sâu, nguy hiểm của sông Đà. Sự hiểm trở của những vách đá còn được Nguyễn Tuân miêu tả cụ thể hơn bởi có chỗ “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu” khiến dòng chảy của con sông bị thu hẹp. Hai chi tiết “Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách” và “Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia” được đặt cạnh nhau càng tô đậm thêm trong tâm trí người đọc ấn tượng về sự nhỏ, hẹp của dòng chảy. Chi tiết liên tưởng đầy thú vị:”Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện” vừa mang đến cảm giác gẫn gũi giữa thiên nhiên với con người, vừa khiến người đọc dễ dàng hình dung về cái lạnh lẽo, âm u, sâu hun hút, cao thăm thẳm của không gian. Nhà văn đã kết hợp giữa thị giác, xúc giác, thính giác cùng những lối so sánh, nhân hóa, liên tưởng rất táo bạo. Để miêu tả được toàn vẹn, dường như không thiếu một ngóc ngách nào của con sông, Nguyễn Tuân đã phối hợp nhiều điểm nhìn: từ trên cao xuống, từ dưới lên, nhìn sang từ đôi bờ, ... và truyền những xúc cảm rất thực, rất dữ dội ấy bằng cách sử dụng sáng tạo những hình ảnh của cuộc sống hiện đại như hè phố, tòa nhà cao tầng, đèn điện,...

Ngòi bút của Nguyễn Tuân được thỏa chí tung hoành ở những ghềnh sông vô cùng dữ dằn. “Lại như quăng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió. Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.” Ở đây, câu văn bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn, diễn đạt theo lối điệp từ, điệp cấu trúc và tăng tiến tạo nên âm điệu dồn dập, khẩn trương. Thiên nhiên như cùng bắt tay phốt hợp để thị uy, dọa dẫm, cản bước con người. Cách miêu tả “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” cho thấy tính chất trùng điệp của sóng, nước, đá nơi này. Chúng đùn đẩy nhau, cùng nhau tạo thành vòng vây bao chặt lấy con người. Cụm từ “đòi nợ xuýt” có nghĩa là đòi nợ người không mắc nợ gì với mình. Người dân Tây Bắc xưa nay không nợ nần gì dòng sông nhưng dòng sông vẫn gùn ghè, hăm dọa con người. Sông Đà hiện lên như một ác thần hung tợn.

Những cái hút nước ở quang Tà Mường Vát phía Sơn La là thử thách tiếp theo mà người lái đò và Nguyễn Tuân phải vượt qua. “Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực.” Độ xoáy, độ hút của sông Đà thật khủng khiếp! Chỉ cần lơ đễnh là con người có thể bị cuốn vào những cái hút nước không đáy, xoáy ầm ầm dữ dội ấy. Sức hút của nước quá mạnh, tạo ra âm thanh “như cửa cống cái bị sặc”. Tác giả nhân hóa làn nước “thở và kêu” và so sánh “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào” tạo nên ấn tượng dòng nước như có sinh khí, linh hồn, đang đưa bàn tay chờ đợi bắt ấy kẻ nào sơ hở ngã xuống. Quả thực, Nguyễn Tuân là nhà văn ghét những gì qua loa, mờ nhạt, nhàm chán. Ông luôn sống hết mình với những gì mình hứng thú và mô tả. Không dừng lại ở những cái hút nước, nhà văn còn tăng khả năng diễn đạt của ngôn từ bằng cách nhân hóa có một không hai:”Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.” Với sự đa tài, uyên bác, tác giả đã lồng ghép con mắt của nghệ thuật điện ảnh để đặc tả sự hung hãn, dữ dội đến tận cùng của sông Đà: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh”. Tác phẩm như một bộ phim kí sự hiện lên ngay trước mắt người đọc với những cảnh quay sắc bén nhất, cảm giác chân thực nhất. Người xem phải “ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.” Câu văn đem đến cho ta cảm giác rợn ngợp, vừa trầm trồ, thán phục vì cảnh sắc thiên nhiên độc đáo, lại vừa sợ hãi, căng thẳng vì sự dữ dội của nó. Sóng, gió như nổi lên trong từng câu từng chữ của Nguyễn Tuân.

Sông Đà còn hung bạo ở những thác nước. Sự dữ tợn của con sông được thể hiện rõ nhất qua trận đấu với người lái đò. Đầu tiên, tiếng nước thác sông Đà gầm réo dữ dội, nhiều thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn sàng chặn đánh bất cứ ai. Con sông như hóa thành cả một bầy thủy quái, hình dáng và âm thanh đều đáng sợ vô cùng: “tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.” Thủ pháp nghệ thuật đối lập lấy lửa tả nước cùng những kiến thức về nghệ thuật âm nhạc đã giúp Nguyễn Tuân miêu tả một cách ấn tượng sức mạnh, khí thế bừng bừng của sông Đà. Con người càng tới gần, dòng sông càng ra sức gầm thét. Những từ chỉ thời gian “đã thấy”, “rồi lại”, “thế rồi” cùng những so sánh độc đáo cho thấy rõ cảm giác phấn khích, mong chờ nhưng cũng căng thẳng và sợ hãi của con người. Nếu thác nước là bầy thủy quái thì đá sông Đà là những thạch trận chứa đựng đầy hiểm họa. Sự mưu mô, hung bạo của chúng được Nguyễn Tuân mô tả rất chi tiết, tỉ mỉ. Đá sông Đà giăng bẫy khắp lòng sông, “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”. Sự trập trùng, dày đặc kia đâu phải ngẫu nhiên mà chính là tâm địa vô cùng gian xảo, xấu xa của đá sông Đà, theo Nguyễn Tuân là bởi “hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền.” Ngắm nghía hình dạng của chúng, nhà văn cũng nhận thấy rõ vẻ hung hăng, táo tợn. Điều này được thể hiện sống động qua biện pháp nhân hóa: “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Tư thế của binh đoàn đá thì thật hỗn loạn, nhốn nháo. Chúng tự do đứng, ngồi, nằm “tuỳ theo sở thích tự động của đá to đá bé” nhưng thực chất đã bày binh bố trận kĩ lưỡng. “Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng với đánh khuỷu quật vu hồi lại Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thuỷ thủ ngay ở chân thác”. Nhà văn rất dụng công miêu tả thạch trận sông Đà, khiến cho niềm hăng say, hứng thú ở người đọc mãi không dứt. Đá sông Đà được chia thành nhiều hàng với những nhiệm vụ riêng hòng không cho con người thoát. Tất cả được bố trí tinh vi, khôn khéo, cho thấy dã tâm của con sông hung bạo. Con thuyền vừa mới tới, chúng lao ra tấn công đầy khí thế: "Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình.”.

Nước thác sông Đà chính là yếu tố làm tăng thêm gấp vạn lần sức mạnh của con sông hung bạo. Nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, khiến những hòn đá càng thêm bệ vệ, oai phong trước con người nhỏ bé. Sóng sông Đà là sóng trận địan nên vô cùng thiện chiến, chúng không ngừng tấn công, phô thương thanh thế và sức mạnh. Sóng thác cũng hung bạo đến tột cùng, truy đuổi con người gắt gao: “Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò".

Qua ngòi bút chân thực, sinh động, độc đáo, tài tình của Nguyễn Tuân, vẻ đẹp hung bạo của sông Đà hiện lên vô cùng ấn tượng. Đây quả là con sông đời đời khiến con người e sợ. Qua đó, nhà văn đã cho thấy vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ, hiểm trở cùng sức mạnh diệu kì của thiên nhiên Tây Bắc và thể hiện được cái tôi tài hoa của mình. Vẻ dữ dội ấy còn là cái nền tuyệt mĩ để làm nổi bật hình ảnh ông lái đò.

Nguyễn Tuân không chỉ hứng thú với nét dữ tợn của sông Đà mà còn vô cùng mặn mà với vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của nó ở hạ lưu. Khi ấy, dòng sông trở nên hiền hòa, dịu dàng. Bằng điểm nhìn trên cao từ máy bay nhìn xuống, sau một chuyến đi rừng và khi đi thuyền trên sông, Nguyễn Tuân đã cảm nhận hình dáng của dòng sông tự như “cái dây thừng ngoằn ngoèo” rất mềm mại, uyển chuyển. Vẻ đẹp ấy thấp thoáng ẩn hiện giữa mây trời Tây Bắc, như dải lụa mềm điểm tô đất trời, nó “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa Ban, hoa Gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Sông Đà e lệ, ôm ấp núi rừng và gần gũi với con người biết mấy. Dòng sông mới hồi nào hung bạo nay lạ thay, bỗng hóa thành nàng thiếu nữ yêu kiều, duyên dáng. Lời văn vừa giàu chất thơ, chất họa và chất nhạc. Vẻ đẹp rất mực trữ tình ấy khiến Nguyễn Tuân không thể rời mắt, ông “nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà ... xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Từ đó, nhà văn đã nảy sinh những phát hiện thú vị về màu sắc của sông theo mùa. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một nguời bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về.” Dòng sông như một cô gái, dịu dàng, duyên dáng mà pha chút đỏng đảnh, dỗi hờn.

Với Nguyễn Tuân, con sông ấy là một “cố nhân” gắn với “màu nắng tháng ba Đường thi của “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu””. Người cố nhân ấy là người bạn tri kỷ, thân thiết. Sau một chuyến đi rừng, nhà văn thấy “trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nốii lại chiêm bao đứt quãng.” Từ cảm thán “Chao ôi!” thốt lên cho thấy cảm xúc hanh phúc, mừng rỡ, xúc động vô cùng. Cảm giác “đằm đằm ấm ấm” của nhà văn dành cho con sông là cảm giác chỉ có thể dành cho người tri âm tri kỉ. Dù người cố nhân ấy “lắm bệnh mà chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy” nhưng vẫn khiến ta thương yêu, mong nhớ.

Khi đi thuyền trên sông, tác giả lại thấy sông Đà giống như “một người tình nhân chưa quen biết”. Những câu văn chuyên chở quá nhiều cảm xúc, mang nặng ấn tượng về cả không gian và thời gian. Dòng sông ấy đã có từ xa xưa, là nhân chứng lịch sử nên cũng mang vẻ đẹp của miền hồng hoang cổ tích: “Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tinh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hưu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ song hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ song hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.” Trước vẻ đẹp cổ điển, nên thơ ấy, nhà thơ bộc bạch khao khát: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu.” Hình ảnh “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò.” đẹp huyền ảo, lung linh như bước ra từ trong trang sách. Cái nhìn của hươu như dẫn lối tác giả vào cõi mộng: “Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Tất cả tạo nên một bức tranh tuyệt sắc. Cuối cùng, cảm xúc được lắng đọng lại, thiên nhiên và con người hòa quyện, quấn quýt. Dòng sông “lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.”

Như vậy, hình tượng con sông Đà với hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình là đại diện cho vẻ đẹp của thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc. Hình tượng con sông còn là phông nền hoàn hảo để tác giả khắc họa hình ảnh con người, cho thấy “Chất vàng mười” mà nhà văn tìm kiếm. Ngoài ra, qua hình tượng con sông, ta còn thấy tình yêu quê hương, đất nước mãnh liệt và sự độc đáo trong quan niệm nghê thuật, sáng tạo cái đẹp của Nguyễn Tuân.

Phân tích hình tượng con sông Đà mẫu 2

Thiên nhiên và con người Việt Nam vốn tươi đẹp, thân thương và đáng yêu. Có rất nhiều tác giả lấy thiên nhiên và con người làm chủ đề chính cho tác phẩm của mình. Một trong số các tác giả thành công ở đề tài này không thể không nhắc đến Nguyễn Tuân cùng tùy bút Người lái đò sông Đà. Với thể loại tùy bút đặc trưng, tác giả đã khắc họa thành công hình tượng con sông Đà hung bạo, dữ tợn nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình.

Nguyễn Tuân là nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch có rất nhiều tác phẩm thành công dù ở bất cứ giai đoạn nào và gây ấn tượng sâu sắc với người đọc. Trước cách mạng tháng Tám Năm 1945, phong cách sáng tác của ông được gói gọn trong một chữ "Ngông". Ở giai đoạn này, do xã hội lúc bấy giờ chìm trong kiếp lầm than, nô lệ thối nát nên Nguyễn Tuân đắm chìm trong những vẻ đẹp của quá khứ. Ông luôn sống với những hoài niệm, những cái đẹp “vang bóng” của một thời đã xa để quên đi thực tại. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, khi miền Bắc giành lại được độc lập và đi lên xây dựng CNXH thì phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân đã có nhiều chuyển biến quan trọng. Các tác phẩm của ông giai đoạn này mang giá trị nghệ thuật cao, ông viết nhiều về đề tài quê hương đất nước, nhân dân lao động trong chiến đấu, sản xuất. Ông tìm tòi, khám phá vẻ đẹp của con người ngay trong chính cuộc sống đời thường, trong những công việc bình dị nhất. Tâm hồn của tác giả hòa cùng thiên nhiên và sự phát triển của đất nước tạo nên những tác phẩm tươi mới khác hẳn giai đoạn trước. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” ra đời ở giai đoạn này, là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến vùng núi Tây Bắc để tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa”. Bài tùy bút mang đến cho chúng ta hai vẻ đẹp đối lập của con sông Đà: hùng vĩ, dữ dội và thơ mộng, trữ tình.

Mở đầu tùy bút là hai lời đề từ vô cùng đặc sắc và độc đáo: “Đẹp vậy sao tiếng hát trên dòng sông”: ca ngợi vẻ đẹp của sông Đà và tiếng hát của những con người cần mẫn lao động, làm việc ở nơi đây. “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu” mang ý nghĩa mọi con sông đều chảy về phía Đông, riêng sông Đà chảy về phương Bắc để nói lên sự khác biệt độc nhất vô nhị của sông Đà, gợi ra những cá tính riêng của con sông. Chỉ với hai lời đề từ ngắn gọn, Nguyễn Tuân đã mang đến cho bạn đọc những vẻ đẹp vô cùng khác biệt của sông Đà với những con sông khác giúp bạn đọc phần nào thêm thích thú và muốn tìm hiểu về con sông này.

Sau lời đề từ, tác giả đi vào cụ thể vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của con sông: “Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành; có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu; đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách; có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia; mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.” bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân mang đến cho bạn đọc nhiều liên tưởng thú vị về con sông Đà: nghệ thuật ẩn dụ những khối đá bờ sông được ví như những thành trì kiên cố, vững chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe dọa trực chờ. Tác giả đã sử dụng nhiều giác quan để cảm nhận được hết vẻ đẹp hung tợn ở quãng này của con sông: nó vừa hẹp lại nhiều đá dựng cao ngang ngược nhưng tiềm ẩn những sự nguy hiểm khiến con người không thể lường trước được.

Không chỉ quãng này của con sông nguy hiểm mà quãng mặt ghềnh Hát Loóng cũng nhiều hiểm nguy không kém: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà…; quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Đến đây, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều câu văn ngắn móc xích với nhau, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau để “hoành hành” tạo thêm nét hung bạo của sông Đà; không chỉ có đá dựng thành vách hăm dọa con người nữa mà ngay cả mặt nước cũng tạo sóng hung tợn để đe dọa bất cứ con thuyền hay người nào qua đấy cho ta thấy một con sông Đà ngang ngược, bá đạo và vô cùng bướng bỉnh.

Quãng Tà Mường Vát con sông cũng hung tợn không kém: “Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu; nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào; nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống” Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của Nguyễn Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc sông này nguy hiểm đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần, nếu không sẽ bị hút vào trong, bị dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.

Không chỉ riêng những quãng trên con sông Đà mới hung tợn mà dòng chảy của nó cũng vô cùng hung tợn: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Sự hung dữ này được Nguyễn Tuân liên tưởng đến một anh quay phim bạo dạn dám ngồi vào trong cái thuyền thúng tròn vành rồi cả người cả thúng cùng theo dòng xoáy xuống dưới cùng của xoáy nước và lia máy ảnh lên, thu vào tầm mắt tất cả xoáy nước như “một cái giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp cả vào máy vào người quay phim cả người đang xem.” Sự liên tưởng đặc sắc, thú vị này không chỉ giúp bạn đọc hình dung ra sự hung tàn của con sông mà còn làm cho vẻ hung tàn đó trở nên đa sắc màu hơn.

Bên cạnh sự hung tàn như một con thủy quái, sông Đà cũng hết sức mưu mẹo khi bày ra nhiều trùng vi thạch trận hòng cướp đi sinh mạng của những người lái đò qua đây. Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi thạch trận nguy hiểm. Ở trùng vi thứ nhất sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: "Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò".

Vượt qua trùng vây thứ nhất, người lái đò lại tiếp tục chiến đấu với trùng vi thạch trận thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.

Đến trùng vi thạch trận thứ ba: “Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác” nhưng vẫn không thắng nổi người lái đò dũng cảm, mưu trí. Cuối cùng sông Đà vẫn nhận lấy cái kết đắng trong trận chiến thiên nhiên - con người. Qua đây ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” nhưng cũng mang một màu sắc riêng biệt không thể nhầm lẫn với bất kì con sông nào khác.

Nếu vẻ đẹp của sông Đà chỉ dừng lại ở sự hung bạo thì chẳng có gì đáng để tác giả yêu quý, chính dòng sông này lại mang vẻ đẹp khác biệt vô cùng thơ mộng, trữ tình làm người ta xao xuyến: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đến đây, Nguyễn Tuân giúp bạn đọc hình dung ra con sông Đà như một người thiếu nữ của Tây Bắc với mái tóc tuôn dài giữa núi rừng mộng mơ mang màu sắc thay đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.

Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ, bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”.

Vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn đen xen cùng thơ mộng, trữ tình đã làm cho Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông ấy với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, một tình yêu thiên nhiên đất nước sâu nặng. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu, tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã giúp Nguyễn Tuân tạo nên những trang văn đẹp hiếm có qua ngôn từ uyên bác và những liên tưởng thú vị.

Nhiều năm tháng qua đi nhưng bạn đọc chưa bao giờ quên phong cách sáng tác “ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân cùng tùy bút và hình ảnh con sông Đà. Tác phẩm đã đóng góp không nhỏ vào nền văn học Việt Nam và được nhiều thế hệ con người đón nhận.

Phân tích hình tượng con sông Đà​ mẫu 3

Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Những tác phẩm của ông viết bằng cái “ngông” và bằng tình yêu tha thiết. “Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế. Hình ảnh con sông Đà được nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sỹ với nhiều vẻ đẹp khác nhau mang lại ấn tượng độc đáo đối với người đọc. Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng hình tượng sông Đà bằng chất liệu ngôn ngữ và tình cảm phong phú.

Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, sóng Đà “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. Có thể nói phải thật tinh tế và khéo léo mới có thể nhận ra sự chuyển đổi của sông đà như vậy.

Sông đà hiện lên là dòng sông hung bạo, lắm thác ghềnh, ngỗ ngược, không chảy theo khuôn khổ. Vẻ đẹp hiểm trở, nguy hiểm của sông đà được tác giả viết “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng giờ ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Chỉ với vài chi tiết phác họa con sông đà hiện lên với nhiều phức tạp, khó khăn, nguy hiểm khôn lường. Tác giả đã diễn tả cảm xúc khi đi qua đoạn sông này “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mất vừa vụt tắt điện”. Một lối so sánh độc đáo, đầy táo bạo và cũng không kém phần tinh tế. Sông Đà đẹp, nhưng đẹp vẻ đẹp hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm.

Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn khiến người đọc bất ngờ hơn nữa khi miêu tả sự hùng vĩ, hung dữ đó “quãng mặt ghềnh hát loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”. Sông Đà hiện lên như một kẻ bất chấp hết, có thể lấy đi tính mạng của những ai vô tình đi qua đây. Thật táo bạo, mãnh liệt và mạnh mẽ.

Khi Nguyễn Tuân miêu tả tiếng thác réo, người đọc có cảm tưởng như đang đứng trước sông đà hùng vĩ chiêm ngưỡng vẻ đẹp khó cưỡng đó “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Những câu văn với giọng điệu dồn dập, gay cấn, đầy cảm xúc. Một cảnh tượng hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Một cách so sánh, tuyệt vời, hiếm thấy trong văn học. Nguyễn Tuân thực sự là bậc thầy của ngôn ngữ, ông thổi hồn vào những con chữ, khiến con chữ như biết nói, biết rung động.

Đặc biệt hơn nữa, sông Đà hình thành ba trận chiến, người lái đò muốn vượt qua dòng chảy này thì phải vượt qua ba trận chiến hiểm trở, táo bạo này. Với giọng văn dồn dập, tác giả kéo người đọc vào cùng vượt thác với người lái đò. Trận thứ nhất “mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách…” Sang đến trận thứ hai “tăng thêm nhiều của tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua bên phía bờ hữu ngạn”. Sang đến trận thứ ba dường như ít cửa hơn nhưng lại quyết liệt và mãnh liệt hơn. Sông Đà hiện lên không khác nào một con thủy quái đang đòi nuốt chửng người lái đò và chiếc thuyền bất cứ lúc nào có thể. Con sống chính là “kẻ thù số một” của người lái đò, với tất cả đặc tính nham hiểm, thâm độc nhất.

Tuy nhiên bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, nguy hiểm, sông Đà còn hiện lên thật nên thơ và trữ tình biết bao nhiêu. Qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân “sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói mèo đốt nương xuân”. Thật tài hoa và thật trữ tĩnh, một hình ảnh tuyệt đẹp hiện lên giữa rừng núi hiểm trở Tây bắc. Đặc biệt khi tác giả miêu tả nước của dòng sông mới thật tuyệt vời và thi vị biết bao “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông đà không xanh màu canh hến của sông Gâm sông lô. Mùa thu nước sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Những từ ngữ mượt mà, tươi đẹp đã làm nên vẻ đẹp hiếm có của một dòng sông tưởng chừng chỉ có giận dỗi và hung dữ.

Sông Đà có những lúc buồn mênh mang và hoang sơ đến lạ kỳ “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn như như một nỗi niềm cổ tích xưa”. Thật là một vẻ đẹp nhẹ nhàng, chân chất và tươi mới biết bao nhiêu.

Qua đôi mắt người lái đò, hay là đôi mắt của tác giả sông Đà tạo nên những dòng cảm xúc thật lạ kì, thần tiên và mộng mơ quá đỗi. Có lẽ khi yêu mảnh đất này, cảm nhận nó ở mọi khía cạnh đều toát lên vẻ đẹp không phải nơi nào cũng có được. Và sông Đà cũng vậy, một vẻ đẹp khiến người đọc phải ngỡ ngàng.

Gấp trang sách lại nhưng hình ảnh con sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” lại ám ảnh người đọc cho đến sau này. Một vẻ đẹp hùng vĩ, hung dữ của thiên nhiên đan xen sự thơ mộng, nhẹ nhàng như chốn bồng lai. Đó chính là sự thành công của Nguyễn Tuân.

Phân tích hình tượng con sông Đà​ mẫu 4

Thiên nhiên và con người Việt Nam vốn tươi đẹp, thân thương và đáng yêu. Có rất nhiều tác giả lấy thiên nhiên và con người làm chủ đề chính cho tác phẩm của mình. Một trong số các tác giả thành công ở đề tài này không thể không nhắc đến Nguyễn Tuân cùng tùy bút Người lái đò sông Đà. Với thể loại tùy bút đặc trưng, tác giả đã khắc họa thành công hình tượng con sông Đà hung bạo, dữ tợn nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình.

Nguyễn Tuân là nhà văn theo chủ nghĩa xê dịch có rất nhiều tác phẩm thành công dù ở bất cứ giai đoạn nào và gây ấn tượng sâu sắc với người đọc. Trước cách mạng tháng Tám Năm 1945, phong cách sáng tác của ông được gói gọn trong một chữ "Ngông". Ở giai đoạn này, do xã hội lúc bấy giờ chìm trong kiếp lầm than, nô lệ thối nát nên Nguyễn Tuân đắm chìm trong những vẻ đẹp của quá khứ. Ông luôn sống với những hoài niệm, những cái đẹp “vang bóng” của một thời đã xa để quên đi thực tại. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, khi miền Bắc giành lại được độc lập và đi lên xây dựng CNXH thì phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân đã có nhiều chuyển biến quan trọng. Các tác phẩm của ông giai đoạn này mang giá trị nghệ thuật cao, ông viết nhiều về đề tài quê hương đất nước, nhân dân lao động trong chiến đấu, sản xuất. Ông tìm tòi, khám phá vẻ đẹp của con người ngay trong chính cuộc sống đời thường, trong những công việc bình dị nhất. Tâm hồn của tác giả hòa cùng thiên nhiên và sự phát triển của đất nước tạo nên những tác phẩm tươi mới khác hẳn giai đoạn trước. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” ra đời ở giai đoạn này, là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến vùng núi Tây Bắc để tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa”. Bài tùy bút mang đến cho chúng ta hai vẻ đẹp đối lập của con sông Đà: hùng vĩ, dữ dội và thơ mộng, trữ tình.

Mở đầu tùy bút là hai lời đề từ vô cùng đặc sắc và độc đáo: “Đẹp vậy sao tiếng hát trên dòng sông”: ca ngợi vẻ đẹp của sông Đà và tiếng hát của những con người cần mẫn lao động, làm việc ở nơi đây. “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu” mang ý nghĩa mọi con sông đều chảy về phía Đông, riêng sông Đà chảy về phương Bắc để nói lên sự khác biệt độc nhất vô nhị của sông Đà, gợi ra những cá tính riêng của con sông. Chỉ với hai lời đề từ ngắn gọn, Nguyễn Tuân đã mang đến cho bạn đọc những vẻ đẹp vô cùng khác biệt của sông Đà với những con sông khác giúp bạn đọc phần nào thêm thích thú và muốn tìm hiểu về con sông này.

Sau lời đề từ, tác giả đi vào cụ thể vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của con sông: “Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành; có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu; đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách; có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia; mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.” bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân mang đến cho bạn đọc nhiều liên tưởng thú vị về con sông Đà: nghệ thuật ẩn dụ những khối đá bờ sông được ví như những thành trì kiên cố, vững chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe dọa trực chờ. Tác giả đã sử dụng nhiều giác quan để cảm nhận được hết vẻ đẹp hung tợn ở quãng này của con sông: nó vừa hẹp lại nhiều đá dựng cao ngang ngược nhưng tiềm ẩn những sự nguy hiểm khiến con người không thể lường trước được.

Không chỉ quãng này của con sông nguy hiểm mà quãng mặt ghềnh Hát Loóng cũng nhiều hiểm nguy không kém: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà…; quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Đến đây, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều câu văn ngắn móc xích với nhau, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau để “hoành hành” tạo thêm nét hung bạo của sông Đà; không chỉ có đá dựng thành vách hăm dọa con người nữa mà ngay cả mặt nước cũng tạo sóng hung tợn để đe dọa bất cứ con thuyền hay người nào qua đấy cho ta thấy một con sông Đà ngang ngược, bá đạo và vô cùng bướng bỉnh.

Quãng Tà Mường Vát con sông cũng hung tợn không kém: “Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu; nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào; nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống” Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của Nguyễn Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc sông này nguy hiểm đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần, nếu không sẽ bị hút vào trong, bị dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.

Không chỉ riêng những quãng trên con sông Đà mới hung tợn mà dòng chảy của nó cũng vô cùng hung tợn: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Sự hung dữ này được Nguyễn Tuân liên tưởng đến một anh quay phim bạo dạn dám ngồi vào trong cái thuyền thúng tròn vành rồi cả người cả thúng cùng theo dòng xoáy xuống dưới cùng của xoáy nước và lia máy ảnh lên, thu vào tầm mắt tất cả xoáy nước như “một cái giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp cả vào máy vào người quay phim cả người đang xem.” Sự liên tưởng đặc sắc, thú vị này không chỉ giúp bạn đọc hình dung ra sự hung tàn của con sông mà còn làm cho vẻ hung tàn đó trở nên đa sắc màu hơn.

Bên cạnh sự hung tàn như một con thủy quái, sông Đà cũng hết sức mưu mẹo khi bày ra nhiều trùng vi thạch trận hòng cướp đi sinh mạng của những người lái đò qua đây. Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi thạch trận nguy hiểm. Ở trùng vi thứ nhất sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: "Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò".

Vượt qua trùng vây thứ nhất, người lái đò lại tiếp tục chiến đấu với trùng vi thạch trận thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.

Đến trùng vi thạch trận thứ ba: “Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác” nhưng vẫn không thắng nổi người lái đò dũng cảm, mưu trí. Cuối cùng sông Đà vẫn nhận lấy cái kết đắng trong trận chiến thiên nhiên - con người. Qua đây ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” nhưng cũng mang một màu sắc riêng biệt không thể nhầm lẫn với bất kì con sông nào khác.

Nếu vẻ đẹp của sông Đà chỉ dừng lại ở sự hung bạo thì chẳng có gì đáng để tác giả yêu quý, chính dòng sông này lại mang vẻ đẹp khác biệt vô cùng thơ mộng, trữ tình làm người ta xao xuyến: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đến đây, Nguyễn Tuân giúp bạn đọc hình dung ra con sông Đà như một người thiếu nữ của Tây Bắc với mái tóc tuôn dài giữa núi rừng mộng mơ mang màu sắc thay đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.

Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ, bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”.

Vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn đen xen cùng thơ mộng, trữ tình đã làm cho Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông ấy với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, một tình yêu thiên nhiên đất nước sâu nặng. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu, tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã giúp Nguyễn Tuân tạo nên những trang văn đẹp hiếm có qua ngôn từ uyên bác và những liên tưởng thú vị.

Nhiều năm tháng qua đi nhưng bạn đọc chưa bao giờ quên phong cách sáng tác “ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân cùng tùy bút và hình ảnh con sông Đà. Tác phẩm đã đóng góp không nhỏ vào nền văn học Việt Nam và được nhiều thế hệ con người đón nhận.

Phân tích hình tượng con sông Đà​ mẫu 5

Nguyễn Tuân đi nhiều, thăm thú cảnh vật khắp nơi, nhưng lần ấy đến thăm Tây Bắc, ông ưng con sông Đà lắm! Hình như ông tìm được ở sông Đà một cái gì đó giống ông: vừa bàng bạc, cao cường bí ẩn nhưng cũng vừa rất nhuần nhụy trữ tình. Thế là hành trình khám phá sông Đà chẳng khác gì hành trình khám phá những bí ẩn của bản thân. Ông nói thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ lắm nhưng cũng thơ mộng lắm! Tất cả dồn tụ lại hợp nên hình ảnh sông Đà. Nguyễn Tuân ham khám phá. Thế nên vào thời điểm năm 1960, còn gì thú vị hơn khi được đến với sông Đà. Con sông vừa nguyên sơ lại đầy tính cách (Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu).

Nguyễn Tuân gặp sông Đà như hai người tri kỉ gặp nhau. Và như trên đã nói, viết về sông Đà có một cái gì đó khiến ta liên tưởng Nguyễn Tuân đang viết về chính mình. Phải chăng vì thế mà con sông hiện lên trong những trang tùy bút của nhà văn Nguyễn cá tính vô cùng? Hung bạo là hung bạo nhất, còn thơ mộng thì cũng thơ mộng đến ngọn bến bờ. Sông Đà là cái tên thượng nguồn của con sông (đoạn chảy đến Việt Nam). Đó là con sông tiền sử nhất, nguyên sơ nhất ở miền Bắc nước ta. Đoạn thượng nguồn con sông dữ dội và hung bạo lắm! Không chạy dọc cả con sông, Nguyễn Tuân chỉ dành hết bút lực mà miêu tả sông Đà ở thượng nguồn. Nơi ấy sông Đà hiện lên sục sôi, nghiệt ngã và đầy thử thách.

Dữ dội của sông Đà không phải chỉ có thác đá mà nó còn là cảnh đá bờ sông dựng vách thành hiềm trở. Ở khía cạnh này, con sông như một bờ hoang thời tiền sử. Chỗ ấy hai bên bờ sông hẹp lại ngồi trong khoang đò qua quãng ấy... chỉ lúc đúng Ngọ mới có mặt trời. Có chỗ, con nai con hổ đã từng có lần vọt qua bờ bên kia. Hay đại loại ta cứ tưởng tượng như đang đi giữa một con phố hẹp ngóng vọng lên khung cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện. Con sông trở nên hoang vắng cổ xưa và có cái gì đó bí hiểm vô cùng.

Hùng vĩ của sông Đà còn ở tiếng gầm của thác: hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gầm ghè suốt năm. Âm thanh của tiếng nước đổ nghe như tiếng người. Cũng oán trách, cũng kêu van rồi lại khiêu khích giọng gằn mà chế nhạo. Nguyễn Tuân tả sóng mà nghe như tác giả đang tả người vậy. Hay dòng sông kia chính là nỗi niềm của dân tộc, là lời của cha ông vọng về từ phía quá khứ, vọng về từ không biết bao nhiêu trận kịch chiến đã có trên sông?

Cả đoạn văn hầu như chỉ thấy Nguyễn Tuân sử dụng thủ pháp đối lập của văn học lãng mạn để khơi gợi cho người đọc hết những hình dung về sự dữ dội của dòng sông. Lúc ấy dòng sông không khác gì dòng lửa, bức bối, khó chịu, bứt rứt vô cùng. Tiếng gầm thét của thác nước ngoài kia đang rống lên ầm ĩ như những ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa. Rồi những xoáy nước giống như những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có khi lại như hàng ngàn con đom đóm đang châm lửa vào đầu ngọn sóng. Dòng sông dữ dội phi thường thật nhưng nghe sao nó như đang gợi lên cái bất an của con người. Dòng sông cuộn mình dữ dội như cuộc sống, như lịch sử nước Việt ta chẳng mấy lúc bình yên. Sau cách mạng, cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Tuân thường gắn liền với cài nhìn con người, cái nhìn lịch sử và dân tôc. Tùy bút này là một cái nhìn như thế.

Nói cái dữ dội, nghiệt ngã của dòng thác sông Đà, ta không thể quên những bãi đá. Mà nói chính xác hơn, đó phải được coi là những thạch trận. Mỗi hòn có một tâm thế riêng, một nhiệm vụ, một tính cách như chính con người vậy. Đá cũng chia thành ba hàng mà chặn ở trên sông. Có hòn làm nhiệm vụ như mồi nhử các thuyền. Hòn khác lại là một boong ke. Rồi hòn làm nhiệm vụ tấn công bệ vệ oai phong lẫm liệt. Tất cả tạo thành một thế trận không chỉ để đe dọa nhà đò mà khiến cả chúng ta, mỗi khi đọc đến đây hẳn không ít thì nhiều đều nghĩ nó như một chiến trường cổ xưa thực sự. Vậy phải chăng những hòn đá với nhiều tâm thế kia chính là những người lính biên cương luôn nhấp nhổm lo lắng chẳng bao giờ yên được? Dòng sông càng miêu tả, càng giống thế giới con người. Càng giống như tiếng nói của cha ông đang vọng về từ quá khứ bốn ngàn năm đấu tranh dựng và giữ nước. Phải chăng đó chính là cái tạo nên phần hồn cho dòng thác sông Đà? Tạo cho con sông không chỉ là một thực thể của thiên nhiên mà lúc này nó giống như một chứng nhân lịch sử vậy.

Sông Đà dữ dội khiến nhà đò ngay cả những ai non tay lái, yếu thần kinh chỉ cần nghe thấy đã phát hoảng lên rồi. Ấy vậy mà đoạn sông nước hiền hòa, nó lại đẹp như một cố nhân. Ngồi trên máy bay mà nhìn xuống con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói Mèo đốt nương xuân. Đúng là một khung cảnh hết sức mơ mộng, diệu huyền. Rồi sông Đà không giống như sông Gâm, hay sông Lô lúc nào cũng chỉ xanh xanh màu canh hến. Sông Đà đẹp bởi màu xanh ngọc bích vào mùa xuân. Sang thu nước sông lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về. Với tác giả có lúc con sông còn giống như một cố nhân. Trong một lần lạc đường, tác giả vô tình nhìn ngắm nó mà nhớ lại một tứ thơ Đường của Lý Bạch xưa. Đến đây dòng sông Đà khiến người ta quên hẳn đi cái dữ dội nghiệt ngã của mình. Dòng sông gần gũi như con người và xinh đẹp trẻ trung như thiếu nữ.

Còn nữa, nhìn cảnh bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông mà vui như nắng giòn tan sau một kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Có chỗ, đoạn sông lặng như tờ gợi một miền cổ tích xa xưa hay có lúc ngồi đò, ta bắt gặp hình ảnh một con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò... Đúng là nhìn cảnh ấy chẳng ai dám nghĩ dòng sông ở quãng trên lúc nào cũng sẵn sàng ăn chết bất cứ một cái thuyền nào sơ hở. Cảnh về đoạn sông này trữ tình thơ mộng và huyền diệu xiết bao.

Hình như Tùy bút Sông Đà đọc nhiều mà vẫn còn hấp dẫn lắm! Ai mới đọc e còn cảm thấy ngại ngùng nhưng đọc rồi lại thấy cuốn hút. Đọc để cảm nhận thế giới của dòng sông nhưng lần nào tôi cũng thấy nó vọng ra bao điều mới mẻ của thế giới con người. Tôi băn khoăn tự hỏi, phải chăng đó là điều tạo nên tính hấp dẫn đa chiều của hình ảnh dòng sông? Có thể nói khẳng định rằng, Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu quê hương đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên.

Phân tích hình tượng con sông Đà​ mẫu 6

Nguyễn Tuân là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại nước ta. Những tác phẩm của ông thường viết bằng ngòi bút khá độc đáo bằng tình yêu dành cho những số phận con người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội

Tác giả Nguyễn Tuân đã xây dựng hình ảnh con sông Đà bằng chất liệu ngôn ngữ độc đáo, phong cách có chút “ngông” thể hiện sự quan sát tinh tế của mình với thiên nhiên, và con người. Thông qua sự quan sát của tác giả người đọc thấy hiện lên hình ảnh con sông Đà “lắm bệnh, lắm chứng, chốc dịu dàng…chốc lại bản tính và gắt gỏng thác lũ…”

Trong thực tế con sông Đà là dòng sông nhiều hung dữ, thác ghềnh nước chảy không theo một dòng nào cả. Nó như một con ngựa bất kham lúc thế này lúc thế khác khiến cho người điều khiển phải vô cùng hiểu tính nết của nó. Tuy nhiên, sông Đà hiện lên vô cùng sinh động và đẹp lạnh lùng, vừa hiểm trở, ác liệt, nhiều nguy hiểm vừa hiền hòa, dịu êm với những dòng thác ghềnh hùng vĩ, những vách núi đá sừng sững.

Đặc biệt là ở sông Đà phải đúng 12 giờ trưa mới nhìn thấy mặt trời . Tác giả đã miêu tả hình ảnh con sông Đà như thế nào “Đá bờ sông, dựng vách thành…Có vách đá thành chẹt lòng sông đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”.

Khi tác giả miêu tả tiếng thác chảy, người đọc cảm thấy như chính mình đang được ngắm nhìn dòng thác hùng vĩ ở sông Đà. Nó thật sự là một bức tranh thiên nhiên vô cùng hùng vĩ, tươi đẹp mang chút gì đó hoang sơ khiến cho con người say đắm. Tiếng thác nhiều khi ai oán, như đang than trách điều gì, khi thì lại giống như con trâu mộng lồng lộn điên cuồng, khiến người ta khiếp sợ.

Qua những lời văn của tác giả người đọc cảm nhận thấy sự tinh tế của tác giả. Ông đúng là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ vô cùng độc đáo bởi là một dòng sông nhưng ông có thể miêu tả nó với nhiều phương diện, trạng thái cảm xúc khác nhau dẫn dắt người đọc đi hết từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác.

Ông đã thổi linh hồn cho những câu chữ của mình làm cho tác phẩm vô cùng sinh động, có sức truyền cảm vô cùng mãnh liệt, khiến người đọc khi thì hồi hộp lo lắng, khi thì nhẹ bẫng khoan thai, sung sướng.

Trong tác phẩm của mình tác giả đã chia con sông Đà thành ba trận chiến vô cùng cam go khốc liệt. Người lái đò muốn vượt qua con sông nguy hiểm này thì phải vượt qua ba trận chiến đó.

Trận chiến đầu tiên đó chính là mặt nước của sông Đà vô cùng mạnh mẽ nó có thể ùa đến và làm gãy cán chèo của người lái đò bất kỳ lúc nào. Một người lái đò mà mất cây chèo thuyền thì coi nhưng thua. Trận chiến thứ hai đó chính là việc con sông Đà có rất nhiều cửa ngõ có thể dẫn con người tới chỗ nguy hiểm tới tính mạng, để tìm được đúng cửa đi thật sự là việc vô cùng cam go, chỉ có những con người hiểu sông Đà nhiều lắm mới nắm rõ được quy luật của nó.

Trong trận chiến cuối cùng sông Đà hiện ra ít cửa hơn không làm cho người lái đò hoang mang nhưng mọi thứ lại tập trung đánh toàn diện khiến cho mọi thứ trở nên quyết liệt hơn.

Qua những lời văn miêu tả của mình ta thấy hình ảnh con sông Đà hiện lên không khác gì một con quái thú vô cùng hung dữ, nhiều âm mưu thâm hiểm, có thể giết chết tính mạng con người bất cứ lúc nào . Nó là kẻ thù nguy hiểm cũng những người làm nghề lái đò qua sông.

Qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà” người đọc cảm nhận được sự thần tiên trong công việc thầm lặng của những người chèo thuyền qua sông Đà. Đó tưởng chừng như một công việc vô cùng đơn giản, nhưng thực chất lại chứa rất nhiều hiểm nguy.

Phân tích hình tượng con sông Đà​ mẫu 7

Người lái đò Sông Đà có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân. Thể hiện những nét đặc trưng phong cách của ông. Đặc biệt là qua hình tượng con sông Đà Nguyễn Tuân đã cho người đọc thấy một nhà thám hiểm, một nhà văn, một nhà thơ, một nhà ngôn ngữ đại tài. Ở mỗi trường đoạn khác nhau, vẻ đẹp của sông Đà lại hiện lên với những nét riêng biệt, đầy sống động, đầy sức sống.

Người Lái Đò Sông Đà nói riêng cũng như tập tùy bút Sông Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ miền Bắc sau ngày giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc đang dấy lên phong trào tình nguyện đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.

Dòng sông Đà hiện lên trong trang văn Nguyễn Tuân trước hết mang dáng vẻ của sự hung bạo, dữ dội, nó dường như chính là kẻ thù số một của con người. Sông Đà lạnh lẽo, thâm u, mà khi người ta đứng dưới đó dường như không cảm nhận đường ánh nắng lọt xuống, cái lạnh thấu xương dường như xâm chiếm vào những người ngồi trên thuyền. Đặc biệt hình ảnh so sánh: “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu"đã diễn tả tận cùng sự chật hẹp của dòng sông, và những hiểm nguy rình rập con người khi mùa nước lên. Sự độc ác đó tiếp tục được Nguyễn Tuân nhấn mạnh ở những phần tiếp theo như cái hút nước chết người, chỉ rình người lái đò đến đó hút vào, rồi cho tan xác ở đoạn sông phía dưới. Những người lái đò không ai dám đến gần: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu…".

Nhưng sự hung bạo của con sông Đà được thể hiện rõ nhất chính là trong trận chiến với người lái đò trên sông, với trùng trùng những trùng vi thạch trận được bố trí vô cùng bài bản. Sự hung bạo của chúng được dự báo ở tiếng thác nước từ phía xa. Chúng khi oán trách, khi van xin, khi lại gầm rống lên khiến cho bất cứ ai cũng phải sợ hãi. Và dần dần khuôn mặt của chúng mới lộ diện. Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, những khối đá với muôn vàn khuôn mặt khác nhau, méo mó, rúm ró, tàn ác vô cùng ngỗ ngược, dàn đan thế trận. Trong thế trận đó có đến bốn cửa tử nhưng chỉ có duy nhất một cửa sinh. Không chỉ vậy, đá còn phối hợp với sóng, với nước tạo nên những cơn cuồng phong dữ dội nhằm nhấn chìm con thuyền. Ở trùng vi thạch trận thứ hai, cửa tử cứ thế nhiều mãi lên, “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá"và lũ thủy quân xô như trực nuốt chửng con thuyền. Khí thế của chúng vô cùng mạnh mẽ và hung hãn. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng Ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả", chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác". Với sự bày binh bố trận vô cùng linh họa, sông Đà chỉ với mục đích duy nhất ấy là lấy mạng của những người đi thuyền. Đồng thời những câu văn miêu tả này cũng cho thấy nghệ thuật dùng từ tài tình, sự quan sát tinh tế, nhạy bén của Nguyễn Tuân.

Nhưng đẹp đẽ nhất, lưu lại nhiều ấn tượng trong lòng chúng ta nhất không phải con sông Đà hung bạo kia, mà chính là dòng sông hiền hòa, thấm đẫm chất trữ tình. Ở một góc nhìn khác, từ trên cao trông xuống sông Đà thật dịu dàng, đằm thắm: con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Đoạn văn quả như một khúc nhạc nhẹ nhàng, êm ái, lại tựa như một bức tranh thủy mặc. Nét vẽ đơn sơ, chấm phá kết hợp với những làn sương khói khiến cho bức tranh đó càng trở nên mơ hồ, huyền ảo hơn. Nhìn ngắm sông Đà ở những thời điểm khác nhau, ông còn phát hiện, mỗi một mùa sông Đà sẽ mang trong mình những dấu ấn riêng. Và dấu ấn đó được thể hiện qua màu sắc của nước thay đổi theo các mùa trong năm. Mùa xuân nước xanh màu ngọc bích, lấp lánh, trong trẻo, dường như có thể soi gương được. Nhưng đến mùa thu, mùa nước lũ, với lượng phù sa đổ về, sông Đà lại mang một diện mạo khác hẳn: “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về". Thật nhạy cảm mà cũng rất đỗi tinh tế, bằng sự kết hợp giữa sự tìm tòi, khám phá với tình yêu thiên nhiên sông Đà đã được Nguyễn Tuân cảm nhận một cách trọn vẹn và đầy đủ nhất.

Không chỉ cảm nhận sông Đà là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ, mà ông còn coi sông Đà như một con người, đặc biệt là một cố nhân: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sống Đà. Chao ôi trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân". Bờ bãi sông Đà gợi nhắc ta nhớ đến thế giới đường thi cổ kính, lại vừa gợi nhớ đến thế giới cổ tích đầy diệu kì. Nỗi nhớ sông Đà không chỉ đơn thuần là nhớ tới một địa danh, một nơi đã từng đi qua, mà nỗi nhớ ấy như dành cho một người cố nhân, người bạn cũ. Bởi vậy mà càng trở nên thâm trầm, sâu sắc hơn.

Sông Đà mang trong mình vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, hoang sơ như thời tiền sử. Cảnh đẹp quá nên đã gợi cảm hứng cho thi ca bao đời. Vẻ đẹp ấy đã cùng với sông Đà chảy qua không gian, thời gian, và đặc biệt là chảy qua cả những áng thơ ca bao đời, thơ Nguyễn Quang Bích rồi Tản Đà… để trở thành bất tử. Trong cái nhìn của thi sĩ Tản Đà, Sông Đà đã trở thành “một người tình nhân chưa quen biết".

Phân tích hình tượng con sông Đà​ mẫu 8

Nói đến Nguyễn Tuân là người ta nghĩ ngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Cái đẹp trong các tác phẩm của ông phải là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Tuân đạt được rất nhiều thành tựu kể cả trước và sau cách mạng. “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tùy bút “Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.

Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây.

Ngay ở những câu văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện rất rõ sự hung bạo của sông Đà. Dòng sông không trôi giữa đôi bờ “cát trắng phẳng lì” thơ mộng mà bờ sông “dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng. Quãng sông thì hẹp đến nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”. “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”, cái lạnh của từng lớp da thịt, của sự sợ hãi trước thiên nhiên nơi đây. Khi đi qua quãng này, người ta cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng một loạt hình ảnh miêu tả, Nguyễn Tuân đã đẩy người đọc từ phố xá đô thị về khung cảnh hoang sơ đến đáng sợ của thiên nhiên sông nước. Người ta thấy hiện ra trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.

Đi qua bảy mươi ba cái ghềnh, có thể kể tên đến năm mươi cái ghềnh nhưng sợ hãi nhất là ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Kết cấu trùng điệp, nhịp văn nhanh mạnh khiến người đọc không khỏi hãi hùng trước những âm thanh của sóng, gió, nước, đá. Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh ghê rợn vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây. Sông Đà được miêu tả như những kẻ sẵn sàng “đòi nợ xuýt” những người trên sông. Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được.

Nhiêu đó vẫn chưa kể hết những sự đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt thủ pháp nghệ thuật khác nhau để lột tả hết cái vẻ hung bạo của hút nước sông Đà. Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái nhưng nó lại không hề duyên dáng, dễ thương, thay vào đó nó có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn so sánh những cái hút nước với những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Hình ảnh so sánh này vừa gợi độ sâu hun hút của những cái xoáy nước vừa khiến người đọc khiếp sợ khi hình dung ra nó. Càng sợ hãi hơn khi đọc những câu văn miêu tả âm thanh của những cái hút nước. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”. Nước không chỉ dồn về nhiều và nhanh mà còn ặc ặc lên như mới rót dầu sôi vào. Từ láy “ặc ặc” gợi cảm giác sông Đà giống như một loài thuỷ quái bị bóp chặt yết hầu đang quằn quại giãy giụa. Sự hung bạo này khiến nhà văn liên tưởng đến hình ảnh một anh quay phim táo tợn nào đó mang máy quay ngồi trên thuyền thúng xuống tận cái hút sông Đà rồi từ đó lia ngược ống kính để ghi lại cảnh tượng ghê sợ: một cái giếng như xanh toàn bằng thuỷ tinh như sắp vỡ tan đổ ụp xuống cả người, cả máy quay phim. Con thuyền xoáy tít, những thước phim màu cũng quay tít. Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc cảm giác như đang được xem một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.

Sự hung bạo của sông Đà còn được miêu tả qua những cái thác nước. Nhà văn hướng người đọc chú ý vào âm thanh của chúng và miêu tả lần lượt theo trình tự từ xa đến gần. “Còn xa lắm mới đến cái thác” nhưng tâm địa và diện mạo thứ “kẻ thù số một của con người” đã dần hiện ra. Chúng vẳng tới bằng âm thanh “réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”. Cách kết hợp khéo léo giữa so sánh và nhân hoá này đã khiến sông Đà hiện lên với một tâm địa phức tạp. “Thế rồi nó rống lên”, âm thanh được phóng to hết cỡ giống như đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích man dại. Nguyễn Tuân còn so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.

Và để tăng thêm sự hung dữ của sông Đà, Nguyễn Tuân còn hướng ngòi bút của mình vào miêu tả đá sông. Hình ảnh ẩn dụ “cả một chân trời đá” gợi cảm giác đá sông Đà nhiều vô kể. Những tảng Đá sông Đà đã được Nguyễn Tuân thổi hồn vào đó với từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.

Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông hung bạo này chẳng khác gì kẻ thù số một của con người. Thế nhưng ngay sau đó, khi sự hung bạo trôi qua, nó lại hiện lên với cả vẽ trữ tình, thơ mộng đến khó tin.

Từ trên máy bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”. Với việc so sánh sông Đà “như một áng tóc trữ tình”, nhà văn đã khiến dòng sông hiện lên với cái vẻ kiều diễm của một người phụ nữ. Thông thường người ta sẽ thấy chữ “áng” hay được dùng để chỉ những tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn Tuân đã dùng để chỉ sông Đà. Có thể thấy trong suy nghĩ của tác giả, sông Đà giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo ra.

Sông Đà không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước. Tác giả đã quan sát dòng sông ở những không gian và thời gian khác nhau. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Bằng việc miêu tả chi tiết, cụ thể cùng những so sánh độc đáo sông Đà hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng và qua đây ta cũng thấy được sự hiểu biết sâu rộng cũng như khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.

Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Câu văn ngắt thành nhiều đoạn đã tạo nên nhịp văn hối hả, mau lẹ. Rồi khi nhìn từ trên thuyền xuống, sông Đà mang dáng vẻ “lặng tờ”, tĩnh lặng tuyệt đối. Sự tĩnh lặng của dòng sông ẩn chứa trong đó là một sức sống dạt dào. Nhà văn còn dùng những so sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn đã sử dụng những khái niệm trừu tượng để miêu tả vẻ đẹp cụ thể của sông Đà khiến sông Đà hiện ra không chỉ là dòng không của không gian mà còn là dòng sông của thời gian. Câu văn “thuyền tôi trôi trên sông Đà” đã gợi ra cái vẻ tĩnh lặng của sông Đà và sự thanh thản trong tâm hồn con người. Giữa cái khung cảnh thơ mộng ấy nhà văn nghe thấy một tiếng còi sương - tiếng còi xúp lê của một chuyến tàu đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu, đó là âm thanh của một cuộc sống hiện đại, đủ đầy.

Có thể thấy những câu văn miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo nên một đoạn văn giàu chất thơ. Chất thơ ở cảnh sắc sông Đà, chất thơ của tâm hồn con người.

Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sắc sảo của mình, Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đi hết từ sợ hãi này đến bất ngờ khác khi miêu tả hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.

Đọc “Người lái đò sông Đà” người ta càng hiểu hơn lý do vì sao cái đẹp trong văn của Nguyễn Tuân được gọi là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Tác phẩm một lần nữa khẳng định tài năng bậc thầy của Nguyễn Tuân trong việc sử dụng ngôn từ vừa giúp người đọc thấy được tình yêu quê hương, đất nước mà ông gửi gắm trong các tác phẩm của mình.

Phân tích hình tượng con sông Đà​ mẫu 9

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật muôn đời. Đặc biệt trong những năm miền Bắc đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội Nhiều nhà thơ nhà văn đã đến với nơi đây Để tìm cho mình Những nguồn cảm hứng mới trong đó có Nguyễn tuân. Ông đã thăng hoa trên chính mảnh đất này với tập "Tùy bút Sông Đà" với linh hồn là bút chì người lái đò Sông Đà. Bài văn Được dệt nên bằng thứ ngôn ngữ điêu luyện, Những đoạn tả đèo cao vực sâu, thác nước dữ dội hòa quyện kết hợp cùng về đẹp thiên nhiên hùng vĩ thơ mộng trữ tình. Và lấp lánh giữa bao vẻ đẹp đó chính là hình ảnh con Sông Đà mang nét hung bạo, dữ dội mà hùng vĩ, đầy cá tính.

Vẻ đẹp sông Đà trước tiên được thể hiện ở dòng chảy của con Sông Đà. Như lời đề từ ngay phần mở đầu bài văn "Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc Bắc lưu". Mọi con sông đều chảy về hướng Đông, chỉ riêng con sông Đà là theo hướng Bắc mà chảy. Chính đặc điểm thú vị này đã tạo nên nét cá tính rất riêng, rất ngang ngược và đầy độc đáo cho Đà giang.

Vẻ hùng vĩ, dữ dội của dòng sông Đà còn biểu hiện ở những vách đá đầy hiểm trở và đáng sợ đối với con người. Tác giả miêu tả cụ thể, sống động với nhiều chi tiết đặc sắc những vách đá hẹp và cao chót vót "dựng vách thành, chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời"gợi cảm giác âm u, lạnh lẽo đến mức "đang mùa hè mà cũng thấy lạnh".

Qua cách miêu tả của tác giả người đọc Được truyền một cảm giác chân thực Đến mức như đang đứng ở ngay trước mặt con Sông Đà ấy, Dường như chính họ cũng cảm thấy sờn sợn và sợ hãi khi phải qua quãng ấy: "vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu"rồi "cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào.. vừa tắt phụt đèn điện". Bằng nghệ thuật miêu tả cùng các biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh liên tưởng tưởng tượng, Nguyễn tuân Đã khiến người đọc cảm nhận rõ hơn bao giờ hết sự nguy hiểm của vách đá Sông Đà

Con Sông Đà với vẻ đẹp hùng vĩ được gợi lên qua những nét miêu tả ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm". Câu văn dài, nhiều về các vế móc xích nối lên nhau đặc biệt nhịp thơ nhanh mạnh kết hợp với các từ động từ mạnh, Từ láy, Nghệ thuật điệp "xô ", "cuồn cuộn “, "gùn ghè"đã đặc tả bức tranh sông nước quả thật vô cùng chân thực gợi lên một cuộc truy đuổi dữ dội, quyết liệt của sóng nước Sông Đà hòng cướp đi sinh mạng của bao con người Sông Đà đã phát huy hết sức mạnh của mình nhằm tấn công con người.

Đặc biệt nét hung bạo dữ dội của con Sông Đà được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết ở hình ảnh những cái hút nước xoáy tít cả đáy với biện pháp so sánh kết hợp với trí tưởng tượng phong phú của mình, Nguyễn Tuân Đã có những phát hiện vô cùng thú vị khi miêu tả những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát.

Đó là "Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông", Âm thanh của nước thì được nhân hoá Lên thành "thở và kêu như cửa cống cái bị sặc". Đặc biệt cách dùng từ độc đáo "xoáy tít đáy"đã gợi tả một cách cụ thể, ấn tượng những hút nước sâu và nguy hiểm, mặt sông có những vòng xoáy nhanh và mạnh. Cái cảm giác đầy gay cấn, hồi hộp khi trèo qua quãng sông ấy "y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh"xuất phát từ những liên tưởng thật độc đáo và thú vị. Tác giả đặt mình vào vị trí của con người trên thuyền khi đi qua quãng ấy, sự nguy hiểm còn được Minh họa bằng những dẫn chứng rất sinh động có những thuyền đã bị cái hút đổ xuống thuyền trồng ngay cây chuối ngược … tan xác ở khuỷnh sông dưới.

Để có được những góc nhìn Đầy đủ và đa chiều, tác giả đã mượn góc nhìn điện ảnh để chuyển lại cho người đọc những cảm nhận Vô cùng chân thực về con Sông Đà, nguyễn tuân hình dung về một anh quay phim nào dám ngồi vào một thuyền "rồi cho cả thuyền cả mình cầm máy quay xuống đây cái hồ Sông Đà "rồi nhìn ngược lên"làm cho hình ảnh về những cái hút hiện lên rõ nét như miệng con thuỷ quái khổng lồ cố nuốt chửng bất cứ thứ gì đi qua đó. Hình ảnh những cái hút nước được miêu tả cụ thể, tỉ mỉ từ hình dáng, màu sắc, âm thanh, sự vận động dữ dội. Bằng vốn sống phong phú và trí tưởng tượng sáng tạo, Nguyễn Tuân đã tô đậm mức độ khủng khiếp của những cái hút qua hàng loạt các hình ảnh so sánh, liên tưởng độc đáo vừa giúp người đọc hình dung về những cái hút như những hung thần tàn bạo vừa khiến họ cảm thấy ghê sợ, khó bứt thoát khỏi những ghê người mà ma lực ngôn từ Nguyễn Tuân đã truyền đến cho họ.

Nét hoang sơ của con sông Đà đã được Nguyễn Tuân khắc họa qua những nét đặc tả về thác đá. Âm thanh thác nước được cảm nhận từ xa tới gần với thủ pháp nhân hoá "oán trách", "van xin", "khiêu khích", "giọng găng mà chế nhạo"kết hợp với phép so sánh "rống lên như tiếng 1 ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa… gầm thét với đàn trâu da cháy bùm bùm". Dòng thác dường như đã mở hết âm lượng, tiếng thét của thiên nhiên bừng bừng, phấn khích, mạnh mẽ và man dại. Từ những âm thanh đó, tác giả giúp người đọc cảm nhận được tính cách hung dữ y như 1 con thuỷ quái khổng lồ với những âm thanh cuồng loạn, khiêu khích.

Đặc biệt tác giả sử dụng phép so sánh với những hình ảnh ở thế hoàn toàn đối lập. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, lấy trâu mộng để tả thác nước như réo, oán trách, van xin… Cách miêu tả của tác giả rất độc đáo nhờ thủ pháp so sánh kết hợp với lối viết riêng đã gợi ra nhiều trường liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Nhờ đó, ta thấy được, Nguyễn Tuân quả là 1 nhà văn có tầm.

Qua thủ pháp nhân hoá, Nguyễn Tuân đã thổi hồn cho đá, biến chúng thành những gương mặt với hành động rất “tướng"với chân dung, diện mạo "ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó", hình dáng, phong thái thì "bệ vệ oai phong lẫm liệt"rồi còn "hất hàm", "thách thức", mỗi lần xuất hiện bóng dáng cái thuyền nào là chúng bèn "nhổm cả dậy", "vồ", "chặn ngang", “đánh tan","tiêu diệt"cho bằng được cái thuyền. Thủ pháp nhân hóa đã phát huy tính độ tác dụng để làm nổi bật tính cách đầy hung bạo độc ác yêu chiến. Hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn với nhiệm vụ tiêu diệt con người. Những hòn đảo ấy trong cảm nhận của Nguyễn tuân là những tên chiến binh với nhiệm vụ khác nhau nhằm giúp con chuyển vào để tiêu diệt. Chỉ vài dòng đặc tả thôi cũng đủ khiến nơi đây trở thành nỗi sợ khủng khiếp đối với những kẻ yếu bóng vía.

Đá kết hợp với nước bày binh bố trận thành 3 tuyến tấn công: hàng tiền vệ, tuyến giữa, boongke chìm và pháo đài nổi. Sóng nước hò la thanh viện Để uy hiếp tinh thần con người. Sông Đà đã huy động sức mạnh tổng lực của mình "ùa vào mà bẻ gãy cán chèo", "Sông nước như thể quân liều mạng", đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền", "Đội cả thuyền lên bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng ông đò".

Qua những dòng văn miêu tả về trận thạch thuỷ sông Đà, Nguyễn Tuân lại một lần nữa làm người đọc rùng mình trước tâm địa hiểm độc, đáng sợ của con sông Đà.

Binh pháp thần sông thần đá đầy bí hiểm, thạch trận được bố trí thành ba trùng vi. Ở các trùng vi nhiều cửa tử mà chỉ có một cửa sinh và đặc biệt vị trí của sinh thường xuyên thay đổi. Đọc đến đây, ta nghĩ ngay đến trận đồ bát quái của Khổng Minh khi xưa chỉ có điều trận địa nay đã chuyển xuống mặt nước Sông Đà.

Nguyễn Tuân sử dụng hàng loạt thuật ngữ quân sự như binh pháp, pháo đài, cửa sinh cửa tử, đánh khuýp quật vu hồi, mai phục, trùng vi thạch trận, hậu vệ, boong-ke chìm, pháo đài nổi…. tạo không khí căng thẳng, kịch tính như 1 trận chiến thực sự giữa con người và thiên nhiên đã diễn ra hàng bao thế kỷ.

Con Sông Đà không chỉ mang vẻ đẹp hung bạo dữ dằn kẻ thù số một của con người mà con sông ấy còn hiện lên với một bức chân dung hoàn toàn đối lập, một nét vẽ tương phản cùng tồn tại trong một chỉnh thể, chính vì vậy mà nét đẹp của nó càng trở nên độc đáo ấn tượng, hấp dẫn. Vẻ đẹp trữ tình của con Sông Đà hiện lên dưới nhiều khía cạnh được Nguyễn Tuân cảm nhận theo những góc nhìn khác nhau.

Con Sông Đà từ trên cao nhìn xuống với hình dáng thướt tha và màu sắc biến đổi vô cùng phong phú. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống, trông con Sông Đà như “cái dây thừng ngoằn ngoèo… tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Điệp từ tuôn dài cùng với Nhịp thơ nhẹ nhàng như ru như ngân tạo nên về được Lững lờ thướt tha,đầy chất thơ cho con Sông Đà. Phép so sánh con sông như một áng tóc trữ tình là một nét nghệ thuật độc đáo mới mẻ. Chính lối so sánh giàu chất thơ, chất hoạ này vừa giúp phô ra vẻ đẹp dịu dàng đằm thắm kiều diễm kiêu sa vừa bộc lộ được chất phong tình hào hoa của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân. Qua phép so sánh, sông Đà mang dáng vẻ của 1 người thiếu nữ đầy xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm duyên giữa cánh rừng hoa bồng bềnh màu khói. Bao nhiêu vẻ đẹp quyến rũ, thơ mộng của đất trời bỗng ùa về thức dậy trong những câu văn của Nguyễn Tuân.

Đà Giang hiện lên với đủ màu sắc biến hoá theo từng mùa. Mùa xuân sông xanh ngọc bích mùa thu nước sông lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Tác giả còn so sánh màu xanh ngọc bích của Sông Đà Với màu xanh cánh hiện của sông Gâm sông lô. Đồng thời, nhà văn còn đặt sông Đà trong dòng chảy lịch sử, ông bày tỏ sự bất bình trước cách gọi tên đầy lếu láo của bọn thực dân gọi Sông Đà là sông đen. Đoạn văn không chỉ thể hiện những cảm nhận tinh tế của 1 ngòi bút tài hoa mà còn bộc lộ được 1 cái tôi đầy uyên bác của nhà văn.

Con sông Đà dưới cái nhìn của 1 người rừng lâu ngày trở nên đầy mới mẻ và gợi cảm. Với Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như 1 “cố nhân". 2 chữ “cố nhân"vang lên cùng biết bao tình cảm trìu mến, niềm xúc động của tác giả khi gặp lại sông Đà đã cho thấy mối quan hệ gắn bó vô cùng sâu nặng, tâm tình, tri kỉ.

Khoảnh khắc mà tác giả phát hiện vẻ đẹp cổ kính của dòng sông, mặt sông loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt, sáng lóe lên 1 màu nắng tháng 3 Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu"( Lý Bạch ). Dòng sông như đang chảy về từ quá khứ xa xưa mang vẻ đẹp cổ kính như những câu thơ của tiền nhân. Bờ bãi sông Đà ngập tràn chuồn chuồn, bươm bướm, dệt nên 1 bức tranh rực rỡ sắc màu, tô điểm thêm cho vẻ đẹp dòng sông.

Bên cạnh việc miêu tả dòng sông, nhà văn còn trực tiếp giãi bày, bộc lộ niềm xúc động và hạnh phúc của mình khi gặp lại cố nhân. Những câu văn đầy tính nhạc và cảm xúc: “Chao ôi, trông dòng sông vui như thấy nắng giòn tan sau khi kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Thán từ “chao ôi"mở đầu câu thơ thể hiện bao niềm xúc động ngỡ ngàng, trầm trồ,đầy hân hoan mà "đằm đằm ấm ấm "của tác giả khi gặp lại người "cố nhân "ấy. Cách dùng từ và diễn đạt mới mẻ, đầy ấn tượng "đằm đằm ấm ấm". Nguyễn tuân với góc nhìn của người ngồi trên thuyền thả trôi trên sông đã cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp thơ mộng hoang sơ, tĩnh lặng nhưng đầy sức sống của đà Giang. Câu văn "Thuyền tôi trôi trên sông Đà"là 1 câu toàn thanh bằng gợi âm điệu nhẹ nhàng dịp trôi êm ả, khoan thai của con thuyền đồng thời gợi hình ảnh con người thoải mái khoan khoái, tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên.

Điệp từ lặng từ được lập lại hai lần diễn tả sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối thậm chí là Tịnh không một bóng người. Sự tĩnh lặng dường như đưa ta trở về quá khứ đến đời lý đời trên đời lê, Đó là một vẻ đẹp cổ kính hoang sơ như một bờ tiền sử và hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đặc biệt tác giả còn sử dụng nghệ thuật lấy động tả tính, từ những âm thanh trong tâm tưởng như tiếng còi súp lê của một chuyến xe lửa cho đến âm thanh của hiện tại tiền cả đất nước sông, tất cả đều có phần gợi ra một không gian được bao phủ bởi một sự tĩnh lặng đến tuyệt đối.

Vẻ hoang dại, mộng mơ được thể hiện đầy ấn tượng qua hình ảnh “hoang dại như 1 bờ tiền sử", “hồn nhiên như 1 nỗi niềm cổ tích tuổi xưa", thường người ta so sánh cái trừu tượng với cái cụ thể, cái lạ với cái quen vậy mà ở đây, Nguyễn Tuân đã làm ngược lại. Qua cách so sánh này, tác giả vừa vẽ nên bức tranh sông Đà hoang sơ, thơ mộng vừa thể hiện được tình cảm vô cùng trìu mến và thân thương mà ông dành cho cô gái sông Đà. Hình ảnh con yêu thơ ngộ lần đầu nhung khỏi ai có xương đã tô thêm nét thơ mộng cho cảnh dòng sông

Hình ảnh những nương ngô nhú lên mấy là ngô non đầu mùa rồi là cỏ gianh ra những nõn búp, "Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi"gửi hình ảnh một con Sông Đà thoát ra khỏi cuộc sống nhiều bề lắng đọng bâng khuâng cùng với đó tiếng còi trong tâm tưởng của tác giả diễn tả khát khao của con người hứa hẹn về một tương lai giàu tiềm năng du lịch của Tây Bắc

Nguyễn tuân đã miêu tả con Sông Đà vô cùng ấn tượng với những đặc điểm và tính chất đối nghịch vừa hùng vĩ hung bạo lại kết hợp với nét thơ mộng trữ tình. Về đẹp ấy được khắc họa qua các hình thức nghệ thuật tiêu biểu như thủ pháp tương phản các biện pháp tu từ quen thuộc đặc biệt hình tượng con Sông Đà à được cảm nhận dưới nhiều góc nhìn khác nhau mang đến một Về đẹp cụ thể đa chiều Cho dòng sông. Qua hình tượng con Sông Đà, tác giả đã gửi gắm tình yêu sự gắn bó sâu sắc với quê hương xứ sở và niềm tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên Đất nước.

Phân tích hình tượng con sông Đà​ mẫu 10

Trong tùy bút Người lái đò sông Đà, tác giả đã khắc họa nên hình tượng con sông Đà với hai nét tính cách trái ngược nhau, vừa hung bạo dữ dằn lại vừa trữ tình thơ mộng. Cùng cảm nhận về hình tượng này qua bài phân tích dưới đây:

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về quê mình thì bắt lên câu hát

Người ta đến hát khi trèo đò vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

(Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm).

Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm gợi ta nhớ tới dòng sông Đà trong thiên tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân. Bằng tình yêu sông núi của con người tài hoa, Sông Đà được nhà văn phác họa độc đáo với hai nét tính cách hung bạo, trữ tình để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.

Mỗi nơi trên lãnh thổ của Tổ quốc đều có tên những dòng sông. Cuồn cuộn đỏ nặng phù sa như sông Hồng, nhẹ nhàng thơ mộng như sông Hương. Sông Đà trong trang văn Nguyễn Tuân hiện lên như một nhân vật có nguồn gốc, có tính cách. Nguyễn Tuân luôn viết hoa hai chữ “Sông Đà”. Theo tác giả, Sông Đà khai sinh từ tỉnh Vân Nam Trung Quốc qua nhiều núi ác đến nửa đường xin nhập quốc tịch Việt Nam. Mở đầu tùy bút, tác giả đã có hai câu thơ đề từ giới thiệu hai đặc điểm của con sông “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” và “Chúng thủy giai đông tẩu-Đà giang độc bắc lưu”. Câu thứ nhất gợi vẻ đẹp thơ mộng, kiều diễm của dòng sông. Câu thứ hai giới thiệu cá tính khác biệt của sông Đà, mọi con sông đều chảy theo hướng Đông riêng sông Đà chảy ngược về hướng Bắc. Cái “bắc lưu” cưỡng lại cái “đông khẩu” khiến dòng sông trở nên ngỗ ngược dữ tợn nhiều guồng xoáy guồng chết sóng thác đá ghềnh. Vậy dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là một vật vô giác mà là một thân thể có hành động, tâm trạng, tính cách. Và nổi bật là hung bạo và trữ tình.

Lúc hung bạo, sông Đà có diện mạo và tâm địa như kẻ thù số một của con người. Dòng sông như một con quái thú khổng lồ khôn ngoan mưu trí, nham hiểm và hung ác luôn khiêu khích, thách thức, chế nhạo con người. Tác giả như một nhà thám hiểm kể cho ta nghe về dòng sông. Ở vùng thượng nguồn cạnh bờ sông dựng đứng vách thành, đúng ngọ mới có mặt trời. Chỗ vách đá chẹn lòng sông như một cái yết hầu có thể ném nhẹ hòn đá sang bờ bên kia có chỗ con nai con hổ có thể nhảy vọt từ bên này sang bên kia một cách dễ dàng. Cảnh ghềnh đá và sóng gió thật mênh mang.

Ở ghềnh Hát Lóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn ùm ghè suốt năm như đòi nợ xuýt”. Hút nước sông Đà mới ghê sợ làm sao, có những cái hút nước sâu thẳm như giếng bê tông. Nước thở và kêu như một cái cống bị sặc, ở phía trên lừ lừ những cái quạt đàn. Có những cái hút nước thuyền vô ý đi vào trồng ngay cây chuối rồi vụt biến đi mươi phút sau tan xác ở khuỷu sông. Trên sông Đà có 73 cái thác, âm thanh tiếng thác mới ghê rợn lạ lùng. Khi thì nghe như oán trách, khi thì lại van xin có lúc khiêu khích giọng gằn chế nhạo thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa đang phá tuông rừng lửa.

Rừng lửa càng gào thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Nguyễn Tuân khiến người đọc phải kinh ngạc thán phục khi lấy rừng lửa để tả nước. Nhà văn đã liên tưởng rất đắt vừa tạo nên nét riêng vừa thấy được óc quan sát, cách nghĩ tài tình. Tác giả đã thức dậy cả một thế giới thuên nhiên man dại đang ở đỉnh điểm của sự dữ dội. Không chỉ thế, sông Đà còn hung hãn nham hiểm xảo quyệt độc ác với bao thạch trận của đá “bọt tung trắng xóa cả một châm trời đá”. Đá bầy thạch trận trên sông với những ng đá tướng dữ tợn lạnh lùng chỉ huy và đứng trấn giữa lớp lớp cửa sinh. Dưới con mắt tác giả đá sống động như một nhân vật “mặt đứa nào cũng nhăn nhúm, méo mó đứng ngồi tùy sở thích”. Phối hợp với đá là sóng nước cũng sẵn sàng nhấn chìm, bẻ gãy những con thuyền trên sông.

Không chỉ dữ dằn hung bạo, sông Đà còn là một dòng sông trữ tình thơ mộng. Nhà văn đã dùng hết tâm huyết tìm tòi mang đến cho người đọc về một con sông, mọt vùng đất với dạt dào cảm xúc. Từ trên cao nhìn xuống “con sông tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện giữa mây trời Tây Bắc bùng nở hoa ban hoa gạo tháng 2, cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân. Nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân dòng sông xanh màu ngọc bích. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Sông Đà được miêu tả bằng cách quan sát của nhiều ngành nghệ thuật từ thi ca, hội họa. Dòng sông hiện lên mềm mại như một mái tóc của người mĩ nữ. Con sông Đà gợi cảm với mỗi người, với Nguyễn Tuân sông Đà như một cố nhân để rồi gặp lại với những niềm vui ” như cái nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.

Bờ bãi sông Đà chuồn chuồn bươm bướm bay lượn, nắng sông Đà đẹp như sắc nắng vàng hoe của yên hoa tam nguyệt há dương châu trong thơ Đường. Có những đoạn miêu tả sông Đà với nét đẹp hoang sơ đầy kì thú. Ven sông êm ả lặng tờ, một vẻ đẹp thấm đẫm chất thơ. “Thuyền tôi trôi trên sông Đà, cảnh ven sông ở đây lặng tờ, bờ sông hoang dại như một thời tuền sử và hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích. Con sông mang trong mình nét cổ kính thiêng liêng của hồn thiêmg sông núi. Cảnh đôi bờ cũng thật kì thú, thiên nhiên trong trẻo nguyên sơ “nương ngô núi lá non, cỏ gianh đổ núi đang ra những nõn búp, đàn hươu cúi đầu ăn cỏ”. Một vẻ đẹp tinh khôi mơn mởn căng tràn nhựa sống! Dưới sông những đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên lòng sông bụng trắng như vạc. Hình ảnh sông Đà được nhìn nhận ở nhiều chiều nhiều góc đọ khác nhau với ngòi bút tài hoa, với sự am hiểu của nhiều ngành nghệ thuật, nhà văn đã phát hiện, miêu tả sông Đà một cách đa dạng, biến hóa bằng cả đôi mắt và tâm hồn của người nghệ sĩ.

Bằng trí tưởng tượng phong phú, tài năng uyên bác và tâm hồn nghệ sĩ tài năng nặng lòng với quê hương, Nguyễn Tuân đã tạo nên một thiên tùy bút kì thú về vẻ đẹp của dòng sông Đà mà tạo hóa đã ban tặng. Tùy bút này đã thể hiện rõ phong cách và trình độ nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Tuân.

Phân tích hình tượng con sông Đà​ mẫu 11

Văn của Nguyễn Tuân đứng là những giọt, mật của con ong yêu hoa, cần mần và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt đầu lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...

(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)

Tổ quốc ta có trăm núi nghìn sông hùng vĩ. Có biết bao vần thơ đẹp viết về sông núi quê hương. Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình yêu sông núi. Trong đó có Đà Giang, mà người xưa đã ngợi ca:

Chúng thủy giai đông tẩu,
Đà Giang độc bắc lưu.

Sông Đà ngày nay đã cho nhân dân ta nguồn thủy điện to lớn, đã đem ánh sáng đến mọi miền đất nước thân yêu gần xa. Cách đây gần năm mươi năm (1960), nhà văn Nguyễn Tuân đã viết tác phẩm Sông Đà ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ kì thú, con người Tây Bắc có bao phẩm chất cao quý, đáng yêu. Bài tùy bút Người lái đò Sông Đà là một trong số 15 bài của tác phẩm Sông Đà, là một “tờ hoa", “trang hoa" đích thực. Nó đã thể hiện một cách tuyệt đẹp phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, độc đáo. Bên cạnh hình ảnh ông lái đò là hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến với tất cả tình yêu sông núi quê hương.

Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng. Nguyễn Tuân coi Sông Đà như một “cố nhân", một cố nhân “chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẩn tính và gỏng thác lũ ngay đấy".

Sông Đà hung bạo lắm thác nhiều ghềnh: “Đường lên Mường Lễ bao xa - bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh"(Ca dao). Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm - du lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thủy tận cho ta biết Ly Tiên và Bả Biên Giang là hai cái tên xa xưa của Đà Giang. Ông kể cho ta biết rằng trăm con thác dữ, những cái tên là lạ hay hay: thác Em, thác Giăng, Mỏ Tôm, Mỏ Năng, Suối Hoa, Hót Gió, Hát Loóng, thác Tiếu... Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống, sông Đà êm ả, bình yên, vì thế đồng bào Thái mới có tục ngữ: “Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm".

Ở phía trên trung lưu sông Đà. đôi bờ vách đá dựng thành cao vút. Lòng sông đúng ngọ mới có ánh mặt trời, có đoạn lòng sông bị “chẹt"như cái yết hầu. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Tiếng ghềnh thác sông Đà nghe thật ghê rợn. Ở ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm...". Những cái hút nước ở Tà Mường Vát, nước kêu “ặc ặc"như rót dầu sôi vào, hút nước xoáy tít đáy, phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn. Tiếng thác rống nghe càng sợ. Nghe “như là oán trách..., như là van xin..; như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo". Tiếng thác rống như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa! Tả thác ghềnh sông Đà, ngòi bút của Nguyễn Tuân rất biến hóa, giàu óc tưởng tượng. Lúc thì ông sử dụng kĩ thuật điện ảnh, âm nhạc, hội họa, lúc thì ông sáng tạo nên những nhân hóa, những so sánh, liên tưởng rất “đắt"để miêu tả, tái hiện và cảm nhận tính chất hung dữ của thác, ghềnh Đà Giang. Nguyễn Tuân ví sông Đà như một kẻ có “diện mạo và tâm địa"nham hiểm, xảo quyệt, độc ác đã bày ra bao trùng vi “thạch trận", dày đặc “cửa tử", la liệt ‘‘boong ke chìm vào pháo đài đá nổi", những ông tướng đá trấn giữ “oai phong lẫm liệt"có bộ mặt “xanh lè"đáng sợ, sẵn sàng “bẻ gãy cán chèo", “bắt chết"những chiếc thuyền đi qua. Nguyễn Tuân tả cảnh ông lái đò giao tranh với thần sông, thần đá, qua ba trùng vi thạch trận nơi “cửa ủi nước", đã cực tả tính hung dữ của sông Đà, đem đến cho ta nhiều cảm giác mạnh.

Đọc tùy bút Người lái đò Sông Đà, ta biết thêm vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của con sông miền Tây Bắc này. Dáng hình sông Đà mềm mại xinh đẹp được Nguyễn Tuân ví với “một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải", hoặc “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai". Một cách so sánh tài hoa, phong tình như Nước sông Đà thay đổi bốn mùa, nhưng đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích (...); Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đi như da mặt người bầm đi vì rượu bữa".

Sông Đà đâu chỉ nhiều thác ghềnh mà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng. Phía trên trung lưu, cảnh sông Đà “lặng lờ"; hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê “quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi". Có những cảnh hoang vu, hoang sơ kỳ lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Câu văn xuôi của Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp cổ kính hoa lệ như hai vế song quan trong một bài phú lưu thủy kiệt tác. Có lúc ông dùng bút pháp chấm phá “điểm nhấn" để làm nổi bật những nét đẹp thiên nhiên hữu tình của con sông Đà xa lạ mà mến thương. Là màu xanh của những nương ngô xuân đầu mùa. Là những đồi giăng đầy “nõn búp". Là những con hươu rừng “thơ ngộ"ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương. Là đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt xô “bụng trắng như bạc rơi thoi". Là chuồn chuồn bươm bướm ở bờ bãi sông đem lại cho người đi rừng niềm vui “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Là cảnh sông Đà cuối trung lưu êm đềm, “lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi", hoặc "con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi"...

Có nhà phê bình văn học đã nhận xét tùy bút Sông Đà là loại “tùy bút – bút kí". Đọc tùy bút Người lái đò Sông Đà, ta tiếp nhận được bao kiến thức mới lạ về địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục về một xứ sở, một dòng sông, về cảnh và người Tây Bắc... chỉ nói về thơ ca, ta thấy được một Nguyễn Tuân rất sành điệu, tài hoa và uyên bác. Hai câu thơ “đề từ"mà ít người biết được xuất xứ ca ngợi vẻ đẹp nên thơ cua sông nước, vẻ đẹp độc đáo của Đà Giang: “Đẹp thay tiếng hát trên dòng sông", và “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà Giang bác lưu". Cũng như con sông Trường Giang bên Trung Quốc, con sông Đà của ta cũng mang vẻ đẹp “Đường thi"như một câu thơ tuyệt bút của Lí Bạch hơn 1.300 năm về trước:

Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.

Lúc thì Nguyễn Tuân nhắc lại câu ca nói về chuyện thần Sông, thần Núi tranh giành người đẹp như dẫn hồn ta trở về huyền thoại: “Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen". Thi sĩ Tản Đà với Nguyễn Tuân là đôi bạn vong niên. Ta bắt gặp hai câu thơ Tản Đà trong bài tùy bút, thật là thú vị.

Dái sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.

Qua đó ta càng cảm thấy, tình sông núi cũng là tình tri âm tri kỷ. Nói về truyền thống yêu nước anh hùng của đồng bào Tây Bắc “xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng", nhà văn đã không quên chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích - bậc sĩ phú kiên cường chống Pháp cuối thế kỉ XIX – để đưa vào bài kí:

Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu
Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu.

Trang văn của Nguyễn Tuân có lúc tưởng như hội tụ tinh hoa văn hóa cổ kim Đông Tây. Tâm hồn người đọc như được nâng lên một tầm cao nhân văn, trí tuệ được khơi dậy, trở nên bừng sáng và giàu có. Người lái đò Sông Đà đúng là một giai phẩm mà Nguyễn Tuân đã góp vào, làm đẹp thêm vườn hoa nghệ thuật Việt Nam.

Ai đã từng đọc Vang bóng một thời chắc cảm nhận được cái sắc sảo, lịch lãm, tài hoa của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, về uống trà, chơi đèn trung thu của những nhà nho thuở trước. Mà lòng thêm thư thái tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua hàng nghìn năm. Đọc tùy bút Người lái đò sông Đà, ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã “để thơ vào sông nước". Ông đã khám phá sự vật - con sông Đà - ở phương diện văn nghệ thuật, đã miêu tả, nhận diện con người - ông lái đò - ở phương diện thi hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa trong bốn mùa, trong mọi thời gian. Nói về thác ghềnh thì đa thanh, phức điệu, bằng tất cả cảm giác tinh tế, bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho từ ngữ giàu có, sáng tạo. Văn của Nguyễn Tuân đứng là những giọt, mật của con ong yêu hoa, cần mần và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.

Phân tích hình tượng con sông Đà​ mẫu 12

Nguyễn Tuân là một nhà văn tài ba và uyên bác. Trước cách mạng tháng 8, ông đi tìm vẻ đẹp của “một thời vang bong". Sau cách mạng tháng 8, ta nhận ra diện mạo của một nhà văn Nguyễn Tuân mới mẻ, khát khao được hoà nhập với đất nước và cuộc đời. Ông tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi không chỉ để thoả mãn cái thú tìm đến miền đất lạ cho thoả niềm khát khao “Xê dịch"mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên và ở tâm hồn của người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng đó. “Người lái đò sông Đà"là một áng văn trong tập tuỳ bút sông Đà (1960). Trong tác phẩm, hình tượng con sông Đà hiện lên vô cùng hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất trữ tình và lãng mạn.

Cảnh đá bờ sông “Dựng vách thành", phía thượng nguồn “chẹt lòng sông như một cái yết hầu"khiến dòng nước phải xoáy vào “ruột đất"mà chảy. Người ngồi đò qua đây đang giữa trưa mùa hè cũng thấy lạnh. Để rồi khi long sông đột ngột mở ra lại tạo thành những mặt ghềnh hang cây số, lúc nào cũng ầm ào, náo động như trong cơn bão tố “Hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm".

Những cái hút nước nằm rải rác trên mặt sông Đà, mỗi xoáy nước là một cạm bẫy nguy hiểm chết người. Sức mạnh ghê gớm của dòng nước xoáy được nhà văn lột tả bằng hàng loạt hình ảnh so sánh và các thủ pháp của điện ảnh. Đây là hình ảnh của một con thuyền không may bị xoáy nước hút tụt xuống lòng sông “Thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm xuống lòng sông, đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Nhưng dữ dội nhất vẫn là thác đá sông Đà. Từ xa nó đã đe doạ người lái đò bằng những âm thanh cuồng nộ như tiếng cả ngàn con trâu mộng đang gầm thét giữa rừng tre nứa nổ lửa “Rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Đến gần sẽ thấy nó bừng ra “cả một chân trời đá" mà mặt đứa nào trông cũng nhăn nhúm, méo mó, hung tợn.

Bãi đá ngầm được nhà văn miêu tả như một thạch trận dàn bày công phu, khéo léo với ba trùng vây kiên cố. Mỗi trùng vây được thần sông thần đá “thiết kế"theo một sơ đồ riêng, giao phó cho nhiệm vụ riêng. Hàng tiền vệ có trách nhiệm lừa dụ con thuyền vào sâu thạch trận nên chỉ có hai tảng đá canh cửa “trông như là sơ hở". Tuyến giữa sẽ đón đánh trực diện trong khi tuyến đầu vòng lại đánh khuýp quật vu hồi". Tuyến đá cuối cùng kiên quyết nhất gồm những “boong ke chìm và những pháo đài đá nổi"sẽ tiêu diệt con thuyền cùng tất cả thuyền trưởng và thuỷ thủ nếu nó lọt khỏi hai vòng vây trước… Bằng hệ thống từ ngữ, hình ảnh nhân hoá phong phú, độc đáo, Nguyễn Tuân đã khiến sông Đà hiện lên như một loài thuỷ quái khổng lồ “độc dữ và nham hiểm".

Nhà văn chọn điểm nhìn từ trên cao để thu lấy vóc dáng mềm mại của dòng sông như một áng tóc mun “dài ngàn ngàn, vạn vạn sải". Áng tóc mây ấy được miêu tả bằng một thứ ngôn ngữ văn xuôi giàu cả chất thơ, chất nhạc, chất họa “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa Ban, hoa Gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân". Từ đỉnh trời Tây Bắc, mái tóc huyền thoại sông Đà nối liền những khoảng không gian mênh mông của đất nước…

Mặt nước sông Đà cũng được tái hiện với vẻ đẹp riêng. Nguyễn Tuân khẳng định rằng nước Đà Giang chưa bao giờ đen “như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu". Trái lại, nước sông Đà vào mùa xuân trong trẻo xanh một dòng “xanh ngọc bích", chứ không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa hạ dòng phù sa lại “lừ lừ chín đỏ"xuôi và bùi đắp cho một dải đồng bằng. Nhiều quãng nước sông Đà ngập trong “nắng Đường thi"và dập cánh chuồn chuồn bươm bướm – đẹp tới mức khiến người ta muốn nổi hứng đề thơ vào sông nước.

Đẹp nhất có lẽ vẫn là những triền sông yên vắng, nguyên sơ như thời tiền sử, như “nỗi niềm cổ tích xưa". Khung cảnh nơi đây dường chưa từng đổi thay từ thuở khai thiên lập địa tới giờ. Thuyền trôi qua những quãng sông này như thể lạc vào một thế giới thần tiên mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm… Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Sông Đà thơ mộng, tình tứ, gợi lên trong lòng người cảm giác đằm đằm, ấm áp như được gặp lại cố nhân sau bao ngày xa cách.

Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên. Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động khó nhọc, cùng sự tài hoa uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hoá. Với tài năng này, tác phẩm của ông hẳn sẽ mãi còn “vang bóng "trong tâm hồn độc giả.

Phân tích hình tượng con sông Đà​ mẫu 13

Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Tuân có lời đề từ:

"Chúng thuỷ giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu"

Tạm dịch là:

" Mọi dòng sông đều chảy về Đông
Chỉ có sông Đà ngược Bắc"

Lời đề từ có ý nghĩa riêng, dòng Đà giang độc đáo ở chỗ: "ngược Bắc". Phải chăng dòng sông văn chương của Nguyễn Tuân cũng có những nét riêng, độc đáo như sông Đà kia? Quả thật, dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân thể hiện rất rõ trong hình tượng sông Đà. Phong cách nghệ thuật của nhà văn là diện mạo sáng tác riêng của người nghệ sĩ. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa khả năng chiếm lĩnh hiện thực độc đáo và hệ thống phương tiện biểu hiện riêng của người nghệ sĩ.

Với Nguyễn Tuân, sông Đà không còn là một vật vô tri vô giác, một hiện tượng thiên nhiên nữa mà sông Đà đã trở thành hình tượng văn học,sông Đà như một sinh mệnh có tính cách, tâm trang độc đáo. Sông Đà có hai tính cách đối lập nhau : "hung bạo và trữ tình", như nhà văn từng nói. Lúc trở mặt hung bạo, sông Đà là kẻ thù số một của con người, lúc trữ tình, sông Đà đầy chất thơ, dịu dàng, thân thiết. Hai nét tính cách đối lập nhau của sông Đà phù hợp với khả năng chiếm lĩnh hiện thực của Nguyễn Tuân. Sông Đà hung bạo cũng phù hợp với phong cách của Nguyễn Tuân ở chỗ, nhà văn say mê miêu tả những cảm giác mạnh.

Tính chất hung bạo của sông Đà được thể hiện ở chỗ vách thành dựng đứng. Chỗ ấy lòng sông hẹp như một cái yết hầu. Chỗ ấy hẹp, nguy hiểm, chỉ thấy mặt giời lúc đúng ngọ. Sông Đà hẹp đến nỗi : "con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia". Nguyễn Tuân cảm nhận sông Đà đoạn này không chỉ bằng thị giác mà còn bằng xúc giác, ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, giữa mùa hè không chỉ lạnh mà còn thấy tối. Người ta cảm thấy ghê rợn và nguy hiểm vì sông Đà hẹp, vách thành dựng đứng.

Sông Đà hung bạo còn được thể hiện ở mặt ghềnh Hát lóng dài hàng cây số : "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn, gùn ghè suốt năm...". Câu văn của Nguyễn Tuân có nhịp điệu 3/3/3..., nhịp điệu này mô phỏng độ lượn của mặt ghềnh. Ở mặt ghềnh mà con thuyền phải vượt qua chỉ thấy nước - đá -sóng- gió mà thôi. Những từ lặp lại : "nước -đá-sóng-gió" như gối lên nhau hồi hoàn của mặt ghềnh nguy hiểm. Nhờ vậy, câu văn tạo nên một cảm giác mạnh của mặt ghềnh ào ạt. Nếu không phải là một cây bút tài hoa thì không thể tổ chức được những câu văn giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh như Nguyễn Tuân.

Sông Đà hung bạo, dữ dội thể hiện ở những hút nước, xoáy nước trên sông. Nguyễn Tuân miêu tả những cái hút nước ấy bằng cách so sánh rất tài tình. Khi thì nhà văn so sánh cái hút nước ấy như cái giếng bê tông. Lúc thì Nguyễn Tuân ví : "Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc". Có khi Nguyễn Tuân so sánh như những cái giếng sâu, nước ặc ặc vừa rót dầu sôi vào. Nhờ so sánh, Nguyễn Tuân đã truyền được cảm giác mạnh cho người đọc về sự nguy hiểm của hút nước sông Đà. Nhà văn còn sử dụng con mắt của nhà điện ảnh để tưởng tượng, một anh quay phim táo tợn nào đấy, ngồi vào cái thuyền thúng, cho nó hút vào cái đáy của hút nước khủng khiếp kia tạo cho người xem cảm giác hãi hùng. Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân thật là kì diệu trước tạo hóa.

Sự dữ dội của sông Đà thể hiện ở âm thanh thác nước. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà thực sự trở thành một loài thuỷ quái khổng lồ. Tiếng gầm gào của nó qua những thác dữ, tiếng nước réo gần, réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách, như là van xin, như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Khi đến gần, nó bỗng rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang "lồng lộn giữa rừng tre nứa nổ lửa". Khủng khiếp thay là thác nước sông Đà!

Sông Đà hung bạo còn được thể hiện ở đám đá tảng đá hòn bày thạch trận. Người ta nói Nguyễn Tuân là thầy phủ thủy của ngôn từ, thổi hồn người vào sự vật vô tri vô giác. Nguyễn Tuân nhìn vào đau là những tảng đá sống động đến đấy. Đá ở đấy mai phục ngàn năm, mỗi hòn có nhiệm vụ riêng, bộ mặt độc đáo, hình dáng không giống nhau. Mặt hòn đá nào cũng ngỗ ngược, hòn thì nhăn nhúm, hờn thì méo mó, hòn thì oai phong, bệ vệ, lẫm liệt. Có hòn đá trông nghiêng y như là hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Khi thất trận, hòn đá tướng tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng. Cái đôi đũa thần ngôn từ của Nguyễn Tuân chạm vào đến đâu thì nổi hình nổi dáng, phảng phất linh hồn của sự vật tới ấy. Đó phải chăng là phong cách uyên bác, tài hoa, độc đáo của cụ Nguyễn vậy sao?

Đối lập với sông Đà hung bạo, nhà văn Nguyễn Tuân đã phát hiện ra một nét tính cách nữa của sông Đà: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả. Tính cách trữ tình của sông Đà cũng phù hợp với phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Với Nguyễn Tuân, sông Đà là sản phẩm tuyệt mĩ của tạo hóa, ông chiếm lĩnh nó trên phương diện văn hóa và mĩ thuật. Nguyễn Tuân quan sát sông Đà trữ tình ở nhiều góc độ khác nhau. Lúc thì nhà văn nhìn con sông từ trên tàu bay, từ trên cao. Có lúc Nguyễn Tuân nhìn sông Đà qua đám mây của mùa xuân, có khi người nghệ sĩ nhìn sông Đà qua đám mây của mùa thu. Cũng có khi tác giả cảm nhận sông Đà bằng nỗi nhớ của cố nhân, gặp thì vui mừng, xa thì nhớ nhung. Cũng có khi Ng Tuân tiếp cận sông Đà bằng đôi mắt của lịch sử, của hồi ức, của quá khứ.

Mỗi góc độ ấy, Nguyễn Tuân đã so sánh sông Đà với nhiều đối tượng khác nhau rất tài tình và biến hóa. Nhà văn đã so sánh sông Đà với trên dưới mười đối tượng, tạo cho người đọc cảm giác ngạc nhiên, thán phục và nhận ra rằng không có nhà văn nào so sánh hay hơn, đúng hơn Nguyễn Tuân. Từ trên cao sông Đà ngoằn ngoèo như một cái dây thừng. Nhìn sông Đà từ xa, Nguyễn Tuân so sánh như một tiên nữ giáng trần : "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo...." Đẹp biết bao khi ngắm sông Đà, mùa xuân xanh một màu xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Nhờ so sánh, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra bao vẻ đẹp trữ tình của sông Đà. Nếu không gắn bó và yêu thiết tha phong cảnh quê hương, đất nước thì hẳn Nguyễn Tuân không có những so sánh, phát hiện ra vẻ đẹp của sông Đà.

Nguyễn Tuân phát hiện vẻ đẹp trữ tình của sông Đà thể hiện ở màu sắc hài hòa. Rừng Tây Bắc bạt ngàn một màu xanh, sòng Đà giang mênh mông một màu xanh. Trên cái điệp trùng của màu xanh ấy nổi lên màu trắng của mây trời, màu trắng của sương, của khói Tây Bắc, của hoa ban, của cá như bạc rơi thoi trên sông Đà. Màu sắc của sông Đà thay đổi theo mùa, theo cách nhìn và theo tâm trạng của tác giả. Mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ phù sa. Màu vàng của cái nắng tháng 3 giòn tan, màu vàng của con hươu thơ ngây, ngộ nghĩnh...những màu sắc ấy là vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, đồng thời là sản phẩm của một tâm trạng Nguyễn Tuân, một tâm hồn tinh tế và tài hoa.

Miêu tả sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân có những trang văn tuyệt bút. Đó là một thứ văn xuôi đầy chất thơ, giàu nhạc học và chạm khắc tạo hình. Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà bằng ngôn ngữ phong phú : "Thuyền tôi trôi trên sông Đà". Câu văn 6 tiếng toàn thanh bằng, có vần, nhịp điệu, giàu hình ảnh, gợi cảm giác. Sông Đà đoạn này êm đềm nhẹ nhàng, bồng bềnh, lững lờ. Câu văn của Nguyễn Tuân không chỉ giàu hình ảnh, màu sắc mà còn có đường nét, chạm khắc: "Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò". Đây không còn là văn xuôi nữa mà nó trở thành bức họa tuyệt đẹp, cái đẹp thể hiện ở ngôn từ tài hoa của Nguyễn Tuân.

Mời bạn đọc cùng tải về bản DOC hoặc PDF để xem đầy đủ nội dung văn mẫu nhé

Chia sẻ, đánh giá bài viết
59
3 Bình luận
Sắp xếp theo
  • 『亗ADK』|ʚGVFɞ | Zenii ...
    『亗ADK』|ʚGVFɞ | Zenii ...

    Cảm ơn bạn nhiều nha, có thể cho mình xin dàn ý phân tích hình tượng người lái đò sông Đà không ạ?

    Thích Phản hồi 08/06/22
    • Bọ Cạp
      Bọ Cạp

      Bên này tài liệu khá đầy đủ và chi tiết nha, cảm ơn bạn

      Thích Phản hồi 08/06/22
      • Heo Ú
        Heo Ú

        Tui muốn xin tài liệu ôn thi văn THPT ạ

        Thích Phản hồi 08/06/22
        🖼️

        Gợi ý cho bạn

        Xem thêm
        🖼️

        Văn mẫu lớp 12

        Xem thêm