Phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
Phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử dưới đây được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây nhé.
Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ
- Dàn ý Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ - Bài mẫu 1
- Dàn ý Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ - Bài mẫu 2
- Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ - Bài mẫu 1
- Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ - Bài mẫu 2
- Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ - Bài mẫu 3
- Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ - Bài mẫu 4
- Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ - Bài mẫu 5
- Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ - Bài mẫu 6
- Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ - Bài mẫu 7
I. Dàn ý Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ
Mẫu số 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Hàn Mặc Tử và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.
Lưu ý: học sinh tự lựa chọn cách dẫn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của mình/
2. Thân bài
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”: Câu hỏi tu từ cùng giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết vừa như trách móc, hờn giận vừa như lời mời chân thành của người con gái nơi đây nhắn nhủ đến người mình yêu thương.
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”: Hàng cau mang màu xanh ngắt của lá cau cùng ánh nắng vàng nhẹ tinh khiết của mặt trời khi buổi bình minh. “Nắng” - gợi ấn tượng về ánh sáng, diễn tả được cảm giác náo nức, xôn xao của tác giả trước khung cảnh thôn Vĩ. Bức tranh thôn Vĩ dần hiện lên qua màu xanh của cây lá và màu vàng tươi của những tia nắng rực rỡ tràn đầy sức sống.
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”: không chỉ có màu xanh của hàng cau, ở thôn Vĩ còn có màu xanh của vườn tược với nhiều loại cây khác nhau gợi lê sự trù phú của vùng đất này.
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”: Hình ảnh con người thấp thoáng sau khóm trúc: Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành, phúc hậu.
→ Cảnh và người đã hòa quyện làm một cùng tạo nên bức tranh thơ thật đẹp đẽ, trong trẻo.
3. Kết bài
Khái quát lại nội dung, ý nghĩa của đoạn trích và vị trí đoạn trích đối với tác phẩm nói chung.
Mẫu số 2
1/ Mở bài
Giới thiệu tác phẩm: “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo với tâm hồn suy tư, xót xa của cái tôi trữ tình.
2/ Thân bài
– Trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã hướng ngòi bút đến khung cảnh thiên nhiên giản dị mà đẹp đẽ, trong trẻo của thôn Vĩ.
– “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác dựa trên cảm xúc tha thiết khi Hàn Mặc Tử đón nhận món quà của Hoàng Cúc là bức thiệp có in phong cảnh xứ Huế mộng mơ cùng lời mời đầy dịu dàng, tha thiết “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”
– Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ cùng giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết vừa như trách móc, vừa như hờn giận, vừa như lời mời chân thành của người con gái xứ Huế.
– Hoàn cảnh hiện tại không cho phép nhà thơ về thăm Vĩ Dạ nhưng bằng tất cả nỗi nhớ, hồi ức đã có, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vị Dạ thật sinh động, độc đáo.
– Hình ảnh hàng cau trong thơ Hàn Mặc Tử được gợi tả thật đẹp với màu xanh ngắt của lá cau cùng ánh nắng vàng nhẹ tinh khiết của mặt trời khi buổi bình minh.
– “Nắng” được điệp lại hai lần vừa gợi ấn tượng về ánh sáng vừa diễn tả được cảm giác náo nức, xôn xao của thi sĩ trước khung cảnh thôn Vĩ.
– Khung cảnh khu vườn xanh ngát, căng tràn sức sống của thôn vĩ hiện lên tươi đẹp đến ngỡ ngàng.
– Sắc xanh trong trẻo của những tán lá dưới ánh mặt trời trở lên thật lung linh, thật đặc biệt.
– Trong cảm xúc bất tận, xao xuyến về khung cảnh thôn Vĩ, hình ảnh con người thấp thoáng sau khóm trúc hiện lên thật đặc biệt.
– Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành, phúc hậu mang đến cho người đọc một liên tưởng, phải chăng đây chính là bóng dáng của người con gái Hàn Mặc Tử thương.
→ Cảnh và người đã hòa quyện làm một cùng tạo nên bức tranh thơ thật đẹp đẽ, trong trẻo.
3/ Kết bài: Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, tác giả Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vĩ Dạ đầy gợi cảm, sinh động cùng tình cảm tha thiết, chan chứa tình yêu thương của chủ thể trữ tình.
II. Văn mẫu Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ
Mẫu số 1
Hàn Mặc Tử là nhà thơ tuy cuộc đời chịu nhiều đau thương nhưng có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất phong trào Thơ Mới. Ông được nhà phê bình Chu Văn Sơn đánh giá là một trong ba đỉnh cao của Thơ Mới. Tâm hồn thơ Hàn Mặc Tử đã thăng hoa để viết nên những vần thơ tuyệt diệu, đem lại cho người đọc những cảm xúc thẩm mĩ mãnh liệt và niềm tự hào về sức sáng tạo của con người. Một trong số những tác phẩm tiêu biểu nhất của Hàn Mặc Tử phải kể đến “Đây thôn Vĩ Dạ” - bài thơ được khơi nguồn từ mối tình đơn phương của ông và bà Hoàng Thị Kim Cúc. Trong khổ thơ đầu, tác giả đã miêu tả nét đẹp phong cảnh thôn Vĩ nên thơ, nên mộng.
Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Đại từ “anh” gợi cho người đọc nhiều cách hiểu khác nhau. Câu hỏi nhưng hàm chứa sự trách móc nhẹ nhàng, cũng là lời mời gọi tha thiết của người con gái thôn Vĩ với nhà thơ. Đồng thời cũng như nhà thơ tự phân thân để hỏi chính mình, bộc lộ niềm khao khát cũng như sự bất lực, đau đớn. Nhà thơ sử dụng hai chữ “về chơi” mang sắc thái gần gũi, thân mật. Thanh trắc duy nhất của câu thơ rơi vào từ “Vĩ” ở cuối khiến cho nhịp thơ trầm xuống, nỗi buồn như được tô đậm thêm.
Cảnh nơi thôn Vĩ hiện lên trong hồi tưởng của tác giả:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Điệp từ “nắng” kết hợp với hình ảnh “nắng mới lên” gợi ánh nắng buổi bình minh trong trẻo và tinh khôi. Câu thơ gợi lên cảnh tượng khu vườn quê đẹp đẽ, tràn đầy sức sống. Hàng cau là vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, đó là loài cây thanh nhã với thân hình thẳng tắp, tán lá xanh tươi. Cau còn là loài cây thân thuộc với làng quê Việt Nam, gắn với tập tục ăn trầu ngàn đời. Nguyễn Bính cũng đã từng đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê vào cái nền phong cảnh với hàng cau quen thuộc:
“Nhà em có một hàng giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng”.
Ở câu thơ tiếp theo, nhà thơ chuyển điểm nhìn xuống khu vườn phủ đầy màu xanh tươi:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Đại từ phiếm chỉ “ai” gợi cảm giác mơ hồ, bất định trong tâm hồn thi nhân. Nghệ thuật so sánh diễn tả sự xanh mướt được ánh nắng mặt trời của buổi sớm mai chiếu xuyên qua làm bừng sáng cả khu vườn nơi thôn Vĩ. Thiên nhiên thôn Vĩ buổi sớm mai đẹp thanh khiết, trong trẻo, thơ mộng và tràn đầy sức sống.
Con người thôn Vĩ thấp thoáng hiện ra trong câu thơ cuối đoạn:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
“Mặt chữ điền” là biểu tượng của nét đẹp phúc hậu, hiền lành, trung thực. Lá trúc mảnh mai, “che ngang mặt chữ điền” gợi vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng của con người xứ Huế. Câu thơ có sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người trong vẻ đẹp nhẹ nhàng đất Huế mộng mơ.
Bốn câu thơ đầu đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ thật thơ mộng, con người mang vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Qua đó, tác giả đã bộc lộ tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết cũng như khát vọng được trở về nơi thôn Vĩ.
Mẫu số 2
Hàn Mặc Tử là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới với sức sáng tạo dồi dào cùng phong cách sáng tác ấn tượng. “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo với tâm hồn suy tư, xót xa của cái tôi trữ tình.
Trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã hướng ngòi bút đến khung cảnh thiên nhiên giản dị mà đẹp đẽ, trong trẻo của thôn Vĩ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”
“Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác dựa trên cảm xúc tha thiết khi Hàn Mặc Tử đón nhận món quà của Hoàng Cúc là bức thiệp có in phong cảnh xứ Huế mộng mơ cùng lời mời đầy dịu dàng, tha thiết “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”.
Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ cùng giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết vừa như trách móc, vừa như hờn giận, vừa như lời mời chân thành của người con gái xứ Huế. Câu hỏi cũng chính là lời tự trách của nhà thơ với bản thân khi không thể về thăm lại vùng đất Vĩ Dạ, nơi nhà thơ từng có những kỉ niệm tốt đẹp. Hoàn cảnh hiện tại không cho phép nhà thơ về thăm Vĩ Dạ nhưng bằng tất cả nỗi nhớ, hồi ức đã có, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vị Dạ thật sinh động, độc đáo.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Vĩ Dạ là vùng quê nổi tiếng với nghề trồng rau truyền thống, với những hàng cau thẳng tắp xanh mướt. Hình ảnh hàng cau trong thơ Hàn Mặc Tử được gợi tả thật đẹp với màu xanh ngắt của lá cau cùng ánh nắng vàng nhẹ tinh khiết của mặt trời khi buổi bình minh. “Nắng” được điệp lại hai lần vừa gợi ấn tượng về ánh sáng vừa diễn tả được cảm giác náo nức, xôn xao của thi sĩ trước khung cảnh thôn Vĩ. Nhớ về thôn Vĩ, tâm hồn nhà thơ Hàn Mặc Tử cũng sáng bừng những cảm xúc trong trẻo, chân thành.
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Khung cảnh khu vườn xanh ngát, căng tràn sức sống của thôn vĩ hiện lên tươi đẹp đến ngỡ ngàng, để tăng hiệu quả về thẩm mỹ, tác giả Hàn Mặc Tử đã sử dụng cách so sánh đầy ấn tượng “xanh như ngọc”. Sắc xanh trong trẻo của những tán lá dưới ánh mặt trời trở lên thật lung linh, thật đặc biệt. Từ “mướt” được tác giả sử dụng rất khéo không chỉ diễn tả được cái mượt mà, tươi tốt của vườn cây mà còn cho thấy sự khéo léo, chăm chỉ của bàn tay chăm sóc khu vườn ấy.
Trong cảm xúc bất tận, xao xuyến về khung cảnh thôn Vĩ, hình ảnh con người thấp thoáng sau khóm trúc hiện lên thật đặc biệt:
“Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”
Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành, phúc hậu mang đến cho người đọc một liên tưởng, phải chăng đây chính là bóng dáng của người con gái Hàn Mặc Tử thương. Dáng vẻ xa xôi, bị cách trở bởi hàng trúc nhưng lại mang đến những xuyến xao da diết cho người nhìn. Đến đây, cảnh và người đã hòa quyện làm một cùng tạo nên bức tranh thơ thật đẹp đẽ, trong trẻo.
Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, tác giả Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vĩ Dạ đầy gợi cảm, sinh động cùng tình cảm tha thiết, chan chứa tình yêu thương của chủ thể trữ tình.
Mẫu số 3
Hàn Mặc Tử - thi nhân của những mối tình "khuấy" mãi khống thành khối. Tử yêu nhiều nhưng chua xót nhận ra rằng: Trăng là người bạn tình và là người bạn tình chung thuỷ cuối cùng của đời mình. Hoàng Thị Kim Cúc- một thiếu nữ thôn Vĩ Dạ là mối tình đầu của Hàn Mặc Tử, hai người quen nhau ở Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử yêu thầm yêu Hoàng Thị Kim Cúc từ năm 1936, nhưng vì rụt rè nên chỉ dám bộc bạch tâm sự cùng thơ. Năm 1939 biết Tử bị mắc bệnh nan y, lại được người khác nhắc nhờ, thúc giục, Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng thi nhân Hàn Mặc Tử bưu ảnh phong cảnh có thuyền và bến, kèm theo mấy dòng hỏi thăm để an ủi mà không kí tên, nhưng bức ảnh và những dòng chữ kia đã kích thích trí tưởng tượng, cảm hứng, và đã gợi dậy những gì thầm kín xa xưa của Hàn Mặc Tử. Đọc bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" người vô tâm mấy cũng không thể không nhớ khổ thơ đầu :
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Đây thôn Vĩ Dạ cho ta gặp một cái tôi trữ tình dau thương và khao khát. Câu thơ mở đầu phảng phất chút riêng tư của tác giả:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu thơ mở đầu là câu hỏi tu từ với nhiều sắc thái. Vừa là câu hỏi nhưng lại gợi cảm giác như lời trách nhẹ nhàng và cũng là lời mời gọi thiết tha của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ. Song đây cũng là lời nhà thơ tự trách mình, tự hỏi mình, là ước ao thầm kín của người đi xa mong được về lại thôn Vĩ. Câu thơ bảy chữ nhưng chứa bảy thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, lời trách nhẹ nhàng mà tha thiết và bâng khuâng. Thôn Vĩ có cái gì đặc biệt và hấp dẫn mà lời mời lại tha thiết đến vậy? Câu hỏi thấm thía một nỗi niềm nuối tiếc, day dứt vọng lên từ trong lòng nhà thơ khi giờ đây dù thôn Vĩ có thơ mộng đến đâu thì thi sĩ cũng chỉ có thể trở về trong tâm tưởng. Thơ Hàn Mặc Tử là thơ hướng nội. Câu hỏi "Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?" có thể là câu tự văn của chính bản thân ông. "Anh" ở đây là đại từ nhân xưng được dùng ở ngôi thứ nhất, chứ không phải ngôi thứ hai. Một câu hỏi mang tính chất giãi bày. Câu thơ thể hiện niềm nuối tiếc. Dòng thơ đượm buồn, có pha chút hối hận. Cả bài Đây thôn Vĩ Dạ phải chăng là để trả lời câu hỏi đã đạt ra ở câu đầu tiên của bài thơ
Đối với Hàn Mặc Tử, câu thơ vừa ngọt ngào vừa gợi mở vừa trách móc ấy đã làm hồi sinh, bừng dậy trong nhà thơ bao kỷ niệm về một Vĩ Dạ mộng và thơ. Ngay sau đó là thế giới sự sống hiện ra qua cảnh và người thôn Vĩ, qua hoài niệm của thi nhân ở bao thơ tiếp:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Hình ảnh "Nắng hàng cau nắng mới lên" gợi vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết. Cau là cây cao nhất trong vườn nên sớm đón được những tia nắng đầu tiên của một ngày vì thế nắng hàng cay là nắng thanh tân, tinh khôi. Ánh nắng chiếu vào thân cau đổ bóng xuống khu vườn, thân cau thẳng lại chia thành nhiều đốt điều đặn bởi vậy mà cau như cây thước của thiên nhiên được dựng sẵn trong vườn để đo mức nắng. Loài cây ấy lại chiếu rọi bởi một một thứ ánh nắng đặc biệt, nắng mới lên, nắng đầu tiên của một ngày ấm áp.
Trước khi tạo nên bài Đây thôn Vĩ Dạ bất hủ này. Hàn Mặc Tử đã có lần đi qua khu vườn nhà Hoàng Thị Kim Cúc ở bến Vĩ Dạ, nhưng chỉ đứng ở cổng mà nhìn vào. Ấn tượng sâu sắc đầu tiên còn lại trong độc giả khi đọc khổ thơ đầu là cảnh "bến Vĩ Dạ lúc hừng đông". Qua cảnh này, Tử muốn gửi gắm những tâm sự kín đáo nào đây? Trong muốn vàn cây, lá của Vĩ Dạ, nhà thơ nhắc đến hàng cau tắm nắng bình minh. Từ khi xưa, cây cau vẫn gợi mối tình đôi lứa, bằng biện pháp nghệ thuật tăng cấp, nhà thơ đã nhấn mạnh ý "nắng mới lên", "xanh như ngọc''. Nắng bình minh thì đẹp thật, nhưng qua cái nhìn của thi nhân lãng mạn nó cũng trôi qua rất nhanh.
Khu vườn "mướt" hàm chứa ý nghĩa của tính từ ướt và láng bóng thể hiện vẻ mượt mà, non tơ, óng chuốt, mơn mởn xanh tươi. Vẻ đẹp ấy đã khiến nhà thơ phải trầm trồ say đắm. Hình ảnh so sáng "xanh như ngọc: Sương đêm ướt đẫm cỏ cây hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông "mướt quá" một màu xanh ngọc bích. Trong ánh nắng của buổi sớm mai, hình ảnh vườn tược buổi bình minh hiện lên đầy sức sống. Ta có thể hiểu được thông qua điểm nhìn bao quát toàn bộ khu vườn của tác giả. Tất cả hòa hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú. Câu thơ là một bức tranh quê rực rỡ, tươi mới và tràn đầy sức sống. Thi sĩ đang muốn tuyệt đối hòa vẻ đẹp cao quý, cao sang của đối tượng. Qua đó thấy được niềm thiết tha với cuộc đời trần thế của chủ thể trữ tình.
Trong khu vườn xinh đẹp ấy thấp thoáng có bóng người sau khóm trúc. Hình ảnh con người thôn Vĩ hiện lên với khuôn mặt chữ điền
"Lá trúc che ngang mặt chữ điền".
Hình ảnh lá trúc góp phần làm rõ thêm tính quyền quý của khu vườn Vĩ Dạ. Khuôn mặt chữ điền bị lá trúc che ngang lâu nay đã trở thành lời thách đố đối với bao nhiêu bạn yêu thơ. Nhiều người đồng tình khẳng định khuôn mặt chữ điền là khuôn mặt phúc hậu, hiền lành, trung thực, ca dao Huế đã từng có câu :
Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung
"Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Lá trúc ấy phải ở trong vườn ngọc kia, nó che khuất, che lấp cả sự phúc hậu, hiền lành, trung thực; Phải chăng nó thực sự trở thành trở lực ngăn cách tình người. Nó làm cho "Gió theo lối gió, mây đường máy"; nó tạo nên "Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay" ; nó kết lại trong một lời trách:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà
Câu kết bài thơ đã trả lời khá đầy đủ lí do "Sao anh không về chơi thốn Vĩ? Chỉ thiên về việc khai thác vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên và con người xứ Huế, có thể người bình thơ sẽ mắc phải sai lầm là không hiểu hết bi kịch tình yêu của Hàn Mặc Tử. Khi ông viết Đây thôn Vĩ Dạ thì tình cảm của thi nhân với Hoàng Thị Kim Cúc cũng chỉ còn trong quá vãng. Hơn nữa, ông lại đang ở trong tình trạng hoang mang, bi quan đến cực độ khi biết mình bị bênh nan y. Khổ thơ đầu nói riêng và cả bài "Đây thôn Vĩ Dạ" nói chung do vậy vẫn nằm trong cảm hứng "đau thương" của Hàn Mặc Tử.
Mẫu số 4
Nếu nhân loại không còn khao khát nữa
Và nhà thơ nghề chẳng kẻ nào yêu
Người - Thi sĩ - cuối cùng là Hàn Mặc Tử
Vẫn hiện lên ở đây đợi chờ
(Tràn Ninh Hổ)
Hàn Mặc Tử - thi nhân của những mối tình "khuấy" mãi khống thành khối. Tử yêu nhiều nhưng chua xót nhận ra rằng: Trăng là người bạn tình và là người bạn tình chung thuỷ cuối cùng của đời mình. Trong đời thơ, đời người quá ngắn, Hàn say mê bốn thiếu nữ (Hoàng Cúc,-Mộng Cầm, Mai Đình, Ngọc Sương). Hoàng Cúc, một thiếu nữ thôn Vĩ Dạ là mối tình đầucủa Tử, hai người quen nhau ở Quy Nhơn, Tử là nhân viên Sở Đạc điền, còn cha Hoàng Cúc là chủ sở. Hàn thầm yêu Hoàng Cúc từ năm 1936, nhưng vì rụt rè nên chỉ dám bộc bạch tâm sự cùng thơ và bạn bè... Năm 1939 biết Tử bị mắc bệnh nan y, lại được người khác nhắc nhờ, thúc giục Hoàng Cúc gửi tặng thi nhân Hàn Mặc Tử bưu ảnh phong cảnh Huế và mấy dòng hỏi thăm mà không kí tên. Hàn lầm tưởng đó là cảnh "Bến Vĩ Dạ lúc hừng đông hay đêm trăng ?“. Để tạ lòng cố nhân, Tử gửi tăng Hoàng Cúc bài Đây thôn Vĩ Dạ. Đọc bài thơ này, người vô tâm mấy cũng không thể không nhớ khổ thơ đầu :
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ phải gắn với mối tình đầu của Tử và Hoàng Cúc. Nhưng lâu nay, bị ám ảnh bởi yếu tố ngoài văn bản ngôn ngữ - đặc biệt là ý kiến "Hoàng Cúc đã chỉ cho Hàn Mặc Tử một tấm hình cô mặc áo dài trắng trường Đồng Khánh (...), và trách Hàn Mặc Tử sao lâu nay không ra thăm thôn Vĩ Dạ nên nhiều người đã hiểu câu thơ mở đầu bài thơ là lời trách nhẹ nhàng, nhè nhẹ - đúng là giọng hờn dịu ngọt của các cô gái Huế, trách mà cứ như là chào mời khách về thăm thôn Vĩ. Những lời bình ấy xem ra có lẽ thoát văn bản. Căn cứ vào đâu mà nói: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?" là câu hỏi trách móc của một thôn nữ. Hơn nữa, như Hoàng Cúc khẳng định: sau tấm bưu ảnh, không có lời trách móc nào. Làm sao có thể trách người đang từng giờ, từng phút đợi tử thần đến mang đi? Thơ trữ tình là thơ hướng nội. Thơ Hàn Mặc Tử càng là thơ hướng nội. Câu hỏi "Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?" có thể là câu tự văn của chính bản thân Tử. "Anh" ở đây là đại từ nhân xưng được dùng ở ngôi thứ nhất, chứ không phải ngôi thứ hai. Một câu hỏi mang tính chất giãi bày. Câu thơ thể hiện niềm nuối tiếc. Nhân vật trữ tình đã tự trách mình sao lại không về chơi thôn Vĩ. Dòng thơ đượm buồn, có pha chút hối hận. Cả bài Đây thôn Vĩ Dạ phải chăng là để trả lời câu hỏi đã đạt ra ở câu đầu tiên của bài thơ (có lẽ nên đặt dấu chấm hỏi ở vị trí cuối cùng của dòng thơ thứ hai thì hợp lí hơn).
Trước khi tạo nên bài Đây thôn Vĩ Dạ bất hủ này. Hàn Mặc Tử đã có lần đi qua khu vườn nhà Hoàng Cúc ở bến Vĩ Dạ, nhưng chỉ đứng ở cổng mà nhìn vào. Ấn tượng sâu sắc đầu tiên còn lại trong độc giả khi đọc khổ thơ đầu là cảnh "bến Vĩ Dạ lúc hừng đông". Qua cảnh này, Tử muốn gửi gắm những tâm sự kín đáo nào đây? Trong muốn vàn cây, lá của Vĩ Dạ, nhà thơ nhắc đến hàng cau tắm nắng bình minh. Bao đời nay với người Việt Nam, cây cau vẫn gợi mối tình đôi lứa, bằng biện pháp nghệ thuật tăng cấp tiên tiến, nhà thơ đã nhấn mạnh ý "nắng mới lên", "xanh như ngọc''. Nắng bình minh (nắng mới lên) đẹp thì đẹp, nhưng qua cái nhìn của thi nhân lãng mạn nó cũng qua nhanh như ''hơi rượu say" (bởi vậy liền sau cảnh hừng đông là cảnh bến sông đêm trăng buồn đến nao lòng).
"Nắng hàng cau nắng mới lên” đi liền với "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Cũng là vườn mang hương vị ngọt ngào của ca dao, nhưng vườn mà Từ miêu tả khác vườn của Nguyễn Bính, ở đây, người ta thấy xuất hiện trong thơ một khu vườn "mướt quá xanh như ngọc'. "Vườn ai" - vườn có một đối tượng có vẻ như phiếm chỉ, nhưng cũng có thể là vườn của người mình thương, vườn tình của cô gái.
Rõ ràng, khu vườn trong thơ Tử không phải là "vườn hồng", cũng không phải là khu vườn có "bóng hoàng hôn", mà là vườn xanh như ngọc. Phép so sánh khá mới lạ này khiến cho độc giả có thể nghĩ đến "vườn em" là vườn cành vàng lá ngọc. Vào khu vườn ấy đâu phải dễ dàng. Câu thơ thứ tư nói rõ thêm ý tưởng ấy:
"Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Hình ảnh lá trúc góp phần làm rõ thêm tính quyền quý của khu vườn Vĩ Dạ. Khuôn mặt chữ điền bị lá trúc che ngang lâu nay đã trở thành lời thách đố đối với bao nhiêu bạn yêu thơ. Nhiều người đồng tình khẳng định khuôn mặt chữ điền là khuôn mặt phúc hậu, hiền lành, trung thực, ca dao Huế đã từng có câu :
Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung
Nhà thơ quá cố Chế Lan Viên đã có ý nghi ngờ, khi ông nêu ra câu hỏi "Con gái mặt chữ điền thì đẹp gì đâu mà Hàn Mặc Tử ca ngợi". Gương mặt chữ điền trong câu thơ là gương mặt ai? Một số người cho rằng: Gương mặt ấy chính là gương mặt Hoàng Cúc, người khác lại nghĩ là gương mặt Hàn Mặc Tử. Hình ảnh lá trúc làm nảy sinh sự tranh cãi khá gay gắt. Lá trúc thực ở ngoài đời hay lá trúc vẽ trên những bức rèm treo trước cửa các nhà quyền quý? Người ta nói: "Văn chương tự cổ bằng cử cũng không phải là không có nguyên cớ. Theo thiển nghĩ của người viết bài này thì trung tâm phát sóng của khổ thơ nằm trong chi tiết thẩm mĩ:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền Lá trúc ấy phải ở trong vườn ngọc kia, nó che khuất, che lấp cả sự phúc hậu, hiền lành, trung thực; Phải chăng nó thực sự trở thành trở lực ngăn cách tình người. Nó làm cho "Gió theo lối gió, mây đường máy"; nó tạo nên "Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay" ; nó kết lại trong một lời trách:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà
Câu kết bài thơ đã trả lời khá đầy đủ lí do "Sao anh không về chơi thốn Vĩ? Chỉ thiên về việc khai thác vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên và con người xứ Huế, có thể người bình thơ sẽ mắc phải sai lầm là không hiểu hết bi kịch tình yêu của Tử. Khi Hàn Mặc Tử viết Đây thôn Vĩ Dạ thì tình cảm của thi nhân với Hoàng Cúc cũng chỉ còn trong quá vãng. (Lúc này Hàn Mặc Tử đã yêu người khác). Hơn nữa, Tử lại đang ở trong tình trạng hoang mang, bi quan đến cực độ khi biết mình bị bênh nan y. Khổ thơ đầu nói riêng và cả bài "Đây thôn Vĩ Dạ" nói chung do vậy vẫn nằm trong cảm hứng "đau thương" của Hàn Mặc Tử.
Mẫu số 5
Làm thơ từ năm mười sáu tuổi, Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có sức sáng tạo dồi dào trong phong trào Thơ mới. Một trong những bài thơ đặc sắc về thiên nhiên, đất nước và con người là Đây thôn Vĩ Dạ. Khổ thơ mở đầu sau đây miêu tả thiên nhiên xứ Huế vô cùng gợi cảm, hòa vào một tình cảm nhớ thương đằm thắm, bâng khuâng, tiêu biểu cho một nét phong cách thơ Hàn Mạc Tử:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có kết cấu ba đoạn. Khổ thơ thứ nhất, tả vườn cây dưới ánh nắng ban mai thanh tân, tinh khiết. Khổ thơ thứ hai gợi lên cảnh trời, trăng, mây nước mang nét buồn xa vắng. Khổ thơ cuối là nỗi lòng nao nao, mơ mộng bởi bóng hình thiếu nữ xứ Huế.
Thôn Vĩ Dạ nằm ngay trên bờ sông Hương, nổi tiếng bởi những vườn cây trái cây tươi bốn mùa, với những ngôi nhà duyên dáng... đi vào văn học qua câu thơ tuyệt bút. Nhưng đâu phải chỉ có thiên nhiên gợi niềm ấp yêu tuyệt diệu mà quanh quẩn đâu đó còn cả bóng dáng con người quen thuộc, có tấm lòng chờ đợi thiết tha.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu thơ là một lời mời mọc, cũng có thể là một lời trách móc thân tình. Ngôn ngữ chọn lọc mà như ngẫu nhiên phóng bút. “Sao anh không về” vừa nhẹ nhàng vừa dễ thương như một duyên cớ gợi nhớ những hình ảnh của thôn Vĩ ngày nào trong kí ức nhà thơ - một thời từng là cậu học trò trường Pe-lơ-ranh xứ Huế với trái tim đa cảm. Hãy về thôn Vĩ, một thôn Vĩ tràn ngập ánh nắng ban mai:
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
Thôn Vĩ Dạ có những hàng cau thẳng tắp. Nắng sớm ban mai tràn ngập không gian. Những tàu lá cau xanh mướt vươn lên đón tia nắng sớm, vô vàn hạt sương đêm đọng lại, lấp lánh màu ngọc bích. Lời thơ thật hồn nhiên. “Vườn ai mướt quá” như tiếng reo vui nhưng cũng thật điêu luyện: từ mướt thật đắt và xanh như ngọc mang nghĩa tượng trưng gợi tả độc đáo.
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Lá trúc thì mảnh mai, thanh tú. Nhiều cành lá xếp lên nhau, lay nhẹ theo làn gió thoảng ban mai, dưới ánh nắng sớm, che ngang in bóng như chữ điền trên khuôn mặt người thôn Vĩ. Hay khuôn mặt người thôn Vĩ hồn hậu vuông vắn chữ điền? Có thể là cả hai: hình ảnh vừa thực, vừa có phần hư ảo lung linh trong niềm nhớ của lòng người. Câu thơ được cách điệu hóa, mang ý nghĩa tượng trưng. Vườn cây mượt mà đó phải là quê hương những con người hiền hòa. đôn hậu. Con người chợt xuất hiện trên cái nền thiên nhiên tươi mát làm cho cảnh vật sinh động hẳn lên và hình ảnh con người cùng thiên nhiên hòa hợp trong vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng.
Mạch thơ êm nhẹ, ý thơ chuyển dịch: sau lời mời mọc dễ thương (câu 1 cảnh vật hiện lên trước mắt với màu sắc tươi tắn (câu 2,3) và con người hiền hòa xuất hiện, với ngôn ngữ điêu luyện, bút pháp vừa lãng mạn vừa tượng trưng), khổ thơ biểu hiện nét đẹp nên thơ của con người và cảnh vật xứ Huế. Qua đó, ý thơ cũng gợi lên một tình yêu thiên nhiên đằm thắm, một nỗi bâng khuâng, xa xôi mờ ảo, như trong câu cuối của bài thơ:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Có ý kiến cho rằng cảnh vật hiện ra trong một số bài thơ của Hàn Mặc Tử đậm đà màu sắc dân tộc. Thật vậy, nếu không gắn bó máu thịt với quê hương Hàn Mạc Tử khó viết được những câu thơ trác tuyệt như trên.
Bên cạnh những bài thơ hay về quê hương đất nước của Thế Lữ, Xuân Diệu. Huy Cận, Chế Lan Viên, Anh Thơ.... mấy câu thơ mở đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử. đã góp phần khẳng định giá trị của phong trào Thơ mới vào những năm ba mươi của thế kỉ XX, đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa văn học nước ta trong nửa đầu thế kỉ này.
Mẫu số 6
Hàn Mặc Tử một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới 1932-1945 với những tác phẩm tiêu biểu. Các nhà thơ đã hòa mình vào thiên nhiên, gắm nhìn cảnh đẹp quê hương đất nước dù ông đang phải trải qua những đau đớn của bệnh tật với mong muốn được gắn bó lâu hơn với cuộc sống này. Đó là một tinh thần đáng ngợi ca và tâm trạng ấy đã được khắc họa rõ trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Khổ 1 là bức tranh thôn Vĩ tươi đẹp cùng tâm trạng tiếc nuối của tác giả.
Khổ thơ bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” câu hỏi vang lên như một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong. Câu hỏi đó là của ai mà lại vừa hỏi vừa trách móc vừa nhớ mong nhất định không phải của Hoàng Cúc, không phải của cô gái nào ở thôn Vĩ. Vậy có thể là của ai? Có thể là của Hàn Mặc Tử tác giả đang phân thân để chất vấn chính mình. Câu hỏi đó như xác nhận một sự thật đã lâu rồi tác giả không được về thôn Vĩ hay không biết đến bao giờ có thể trở lại thôn Vĩ một lần nữa. Đó là cái cớ rất giàu chất thơ vừa nhẹ bẫng xót xa để gọi về những kỉ niệm thôn Vĩ. Câu thơ bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng, thanh trắc duy nhất vút lên cuối câu như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng mà thấm thía những nỗi niềm tiếc nuối vọng lên da diết khôn nguôi. Từ niêm nhớ thương được khơi nguồn như thế, hình ảnh thôn Vĩ chợt sống dậy trong lòng nhà thơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Chỉ ba câu thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa được những nét đực trưng của thiên nhiên xứ Huế. Mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sống động tạo thành sự khắc họa sống động đẹp đẽ của thôn Vĩ trong hoài niệm. Trước tiên là vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi của buổi sớm mai: nắng hàng cau nắng mới lên không phải là cái nắng chang chang dọc bờ sông trắng mà là cái nắng trong trẻo tin khôi của một ngày. Chỉ miêu tả nắng thôi mà đã gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu liên tưởng đẹp. Những cây cau mảnh dẻ vút cao vươn mình đón lấy tia nắng ban mai trong lành ấm áp. Khung cảnh quen thuộc ấy ta có thể bắt gặp ở bất cứ góc sân khoảng trời nào từ miền quê đất Việt thân yêu. Phép luyến láy: nắng hàng cau nắng mới lên làm cho cái nắng như lan tỏa hơn bừng sáng hơn. Điệp từ “nắng” đã vẽ ra một bức tranh ánh nắng trong không gian nắng lan đến đâu vạn vật bừng sáng đến đó từ trên cao tràn xuống thấp và tràn đầy cả khu vườn, thôn Vĩ như được khoác lên một chiếc áo mới thanh tân, tươi tắn.
Đến câu thơ thứ ba là cảnh vườn tược được tắm đẫm trong nắng mai ngời sáng lên như một viên ngọc xang diệu kì: “ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.” Câu thơ như một tiếng reo đầy ngỡ ngàng thích thú, không phải xanh non xanh biếc mà là xanh như ngọc. Còn gì trong sáng và cao quý hơn ngọc. Cảnh giản dị mà thanh khiết cao sang vô cùng. Phải chăng sương đêm đã gột rửa hết những bụi bặm để khoác lên cây lá tấm áo choàng trong suốt lấp lánh khi nắng lên. Chữ “mướt” tác động mạnh mẽ vào giác quan người đọc ấn tượng vẻ mượt mà loáng mướt của khu vườn. Nhưng cái thần của câu thơ lại dồn cả vào chữ “ai” chỉ một chữ mà khiến cho cảnh đang gần gũi bỗng bọ đẩy ra xa, hư thực khó nắm bắt. Âm hưởng nhẹ bẫng của tiếng này khiến hơi thơ như thoáng xuôi về một cõi hư ảo mơ hồ. Với Hàn Mặc Tử lúc này, đó là thế giới ở ngoài kia, của sự sống ngoài kia chứ không phải thế giới của bệnh tật. Và rất tự nhiên theo mạch cảm xúc, nhắc đến “ai” lập tức nhà thơ nhớ đến hình bóng con người:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu thơ kết đoạn là nét cách điệu hóa rất tài tình của Hàn Mặc Tử nhằm ghi lấy hồn Vĩ Dạ. Có lẽ hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất cố đô văn hiến. Con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo tao nhã. Đó là vẻ đẹp riêng trong mảnh đất cố đô nhưng ngay trong dòng cảm xúc miên man ấy ta đã thấy nỗi buồn man mác xa nỗi thấm vào lòng người. Nhưng cũng có một điều đặc biệt trong thơ Hàn Mặc Tử là vừa có ảnh hưởng thơ ca dân gian vừa có sản phẩm của lối thơ sáng tạo hay vẽ khuôn mặt sau hàng liễu được viết lên bởi mặc cảm chia lìa của con người luôn tự nhận mình đứng ngoài cuộc vui.
Cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh cảnh và người xứ Huế vừa trần thế vừa trong sáng, tinh khôi trong tâm trí Hàn Mặc Tử. Qua đó có thể thấy ở Hàn Mặc Tử một tình yêu quê, yêu người tha thiết, và cũng vời vợi nỗi nhớ mong của thi sĩ hướng về cảnh và người thôn Vĩ.
Đọc bài thơ mà khơi gợi trong lòng người tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên sâu sắc, yêu con người cảnh vật nơi đây. Từ đó mà dạy chúng ta cách giữ gìn và bảo vệ những thứ xung quanh mình.
Mẫu số 7
Đây thôn Vĩ Dạ rút trong tập Thơ điên của Hàn Mặc Tử- tập thơ được xuất bản sau khi ông qua đời (1940). Xuất xứ bài thơ có liên quan đến câu chuyện tình giữa thi sĩ nghèo với cô con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơn. Tuy chỉ là mối tình đơn phương nhưng nó đã để lại trong lòng thi sĩ họ Hàn một ấn tượng sâu sắc. Và trong bài thơ này, ý nghĩa của ấn tượng ấy không chỉ dừng lại ở chỗ đối với một con người cụ thể, một làng quê cụ thể, mà còn có giá trị phổ quát, giá trị nhân văn hết sức sâu đậm.
Mở đầu bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng. Đó là lời tác giả nói với Kim Cúc, hay lời Kim Cúc được tưởng tượng ra để trách móc nhà thơ? Cũng có thể hiểu đó là lời một nhân vật trữ tình phiếm chỉ: Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Hình ảnh “nắng mới, hàng cau” cùng với lá vườn mướt “xanh như ngọc” tạo ra một bức tranh chói lòa ánh sáng và rực rỡ sắc màu. Người ta không hết bàng hoàng là vì sao, qua hàng tràm năm, bức tranh làng cảnh Việt Nam vẫn thiếu vắng một hình ảnh rất dân dã, quen thuộc mà lại tươi đẹp đến rực rỡ như hình ảnh “nắng mới - hàng cau” trong bài thơ này?
Câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” đã gây nhiều cách hiểu: có người cho đó là gương mặt của người đàn ông vuông vức “chữ điền”, tượng trưng cho người quan chức thời phong kiến; có người lại cho đó là gương mặt đẹp của người xứ Huế nói chung..., nhưng muốn hiểu thế nào thì câu thơ bí ẩn này vẫn mang phong vị và vẻ đẹp cổ kính, có lá trúc, có gương mặt chữ điển, có thể tượng trưng cho quê hương và con người xứ Huế.
Hóa ra cần trúc, lá trúc là một nét riêng của Vĩ Dạ thôn. Nó là cảnh thực, nhưng cũng là cảnh ẩn dụ, tượng trưng. Trước hết cần hiểu hai câu thơ này theo lối tả thực: Đây là cảnh tượng trời mây bên bến sông. Cái cảnh ấy vừa có nét đẹp hoang sơ, dân dã, vừa có nét “cung đình”. Gió, mây và dòng nước đều được nhân hóa để trở nên có hồn, sinh động. Nhưng cái hay của hai câu thơ vẫn còn là bí ẩn. Gió, mây, sông nước còn như ẩn chứa điều gì kín đáo, khó nói thành lời. Có thể thấy ở đây những ý nghĩa ẩn dụ không toàn phần - tức là “ẩn dụ một nửa”, “bán ẩn dụ”. Tác giả không lấy cảnh để nói tình một cách đơn thuần như những ẩn dụ thường thấy trong ca dao. Ở đây, tác giả vừa tả thật, vừa ẩn dụ. Sở dĩ phải viết như vậy vì tình cảm của Hàn với Kim Cúc chưa có gì để mà tả thật, cũng chưa có gì để mà ẩn dụ. Cho nên phải thật sự kín đáo, thật sự tế nhị và tự trọng.
Đó lại là một câu hỏi tu từ, và dầu không thể trả lời, ta vẫn thấy câu hói ấy thống nhất với mạch cảm xúc chung của cả bài thơ: mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi tu từ. Cả bài thơ là một câu hỏi lớn không cần ai giải đáp. Đó chính là tình yêu, là tâm hồn Hàn Mặc Tử. Cũng chính là lời yêu nhắn gửi lại cuộc đời này với tất cả những nỗi niềm day dứt khó quên.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ tình, cũng là một bài thơ về đất nước, con người, nhưng quan trọng hơn là một bức di thư, gửi gắm niềm yêu thống thiết, bắt đầu từ một mối tình dang dở, nhưng kết thúc ở tình đời bao la. Tình yêu của Hàn Mặc Tử đối với một người con gái xứ Huế, đối với một làng quê xứ Huế, và rộng lớn hơn là đối với tất cả cuộc đời này thật sự đã đạt tới một tình yêu bất tử.
Mẫu số 8
Đến với “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử có lẽ người đọc sẽ cảm thấy ấn tượng với bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống nơi thôn Vĩ. Điều đó được thể hiện qua khổ thơ đầu của bài thơ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Câu thơ mở đầu là một câu hỏi mang nhiều ý nghĩa. Đây có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Cũng có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Nhà thơ lúc này dù khao khát, nhớ nhung quê hương nhưng không thể trở về. Dù hiểu theo cách nào thì chúng ta cũng thấy được nỗi nhớ quê cũng như mong muốn được về thôn Vĩ của nhà thơ.
Đến câu thơ thứ hai, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ bắt đầu được nhà thơ khắc họa với những nét đẹp: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Đây là ánh nắng của buổi bình minh bao trùm khắp không gian làng quê. Cách sử dụng điệp ngữ “nhìn nắng” - “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Còn hình ảnh “hàng cau” lấp lánh trong nắng. Cau là loại cây thân thẳng, cao lớn nhất trong khu vườn nên đã đón được ánh nắng đầu tiên của một ngày.
Câu thơ thứ ba gợi ra một không gian ngập tràn màu xanh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Khu vườn này không rõ là của “ai”. Chỉ biết nó được chăm sóc rất cẩn thận. Khắp nơi đều tràn ngập màu xanh của cây cối. “Xanh như ngọc” gợi một màu xanh trong sáng, ẩn chứa ánh sáng của sự sống. Từ “quá” bộc lộ sự trầm trồ, khen ngợi của nhà thơ dành cho khu vườn.
Và bức tranh thiên nhiên kết lại bằng hình ảnh con người thoáng xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. “Mặt chữ điền” gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu. Hàn Mặc Tử như nhìn thấy khuôn mặt ai thấp thoáng sau lá trúc. Phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Qua đây, nhà thơ muốn khắc họa vẻ đẹp của con người xứ Huế cũng như tình cảm dành cho con người, cảnh vật nơi đây.
Tóm lại, khổ thơ đầu của “Đây thôn Vĩ Dạ” đã gợi ra một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc và sự sống.
Mẫu số 9
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ lẫy lừng của nền văn học Việt Nam. Cuộc đời ông tuy ngắn ngủi nhưng lại giá trị vô cùng, Ông để lại cho nước nhà một kho tàng văn hóa đồ sộ. Trong số đó không thể không kể đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ là nỗi chân tình sâu sắc Hàn Mặc Tử gửi gắm đến người thương của mình vào những năm tháng cuối đời. Từng câu, từng chữ như đi sâu vào lòng người, du dương, ngọt ngào đầy tha thiết.
Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ chan chứa bao cảm xúc:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”
Đây vừa là câu hỏi, nhưng nó không phải là một câu hỏi đơn thuần mà nó còn ngụ ý lời mời mọc và cả sự trách móc, một chút hờn chút dỗi. Anh ở đây là chỉ chính nhà thơ. Tác giả đã phân thân để tự chất vấn mình rằng đã bao lâu ta không trở về mảnh đất thương nhớ Thôn Vĩ, đã bao lâu ta không gặp người con gái Huế đằm thắm thân thương ấy. Một khoảng thời gian xa xa. Một chút nuối tiếc, một chút lỡ làng tự vấn bản thân cho thấy nỗi khổ tâm và nhớ thương đang trào dâng trong lòng bậc thi nhân. Tác giả đã khéo léo sử dụng từ ngữ “về chơi” làm động từ chính trong câu biểu hiện tình cảm chân thực, gần gũi, tự nhiên và gắn bó giữa nhà thơ với mảnh đất trữ tình xa nhớ ấy.
Để rồi từng cảnh từng nhịp của thôn Vĩ luôn thường trực trong tâm trí người:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Một câu thơ xuất hiện đến 2 từ “nắng” mở ra không gian nhiều nắng, thể hiện nét đặc trưng không trộn lẫn của miền Trung. Nắng làm nên vị đậm đà, làm nên ấn tượng độc đáo cho cảnh và người Trung Bộ. Ánh nắng của buổi ban mai như chan hòa khắp không gian, tắm táp cho cảnh vật. Những thân cau vươn mình đón nắng mai, từng hàng nối nhau thẳng tắp rì rào trong gió nhảy nhót cùng ánh nắng. Ánh nắng làm bừng sáng vạn vật. Tâm hồn con người vì thế cũng trở nên sảng khoái, phấn chấn và đam mê mãnh liệt. Bức tranh buổi sớm ở vĩ dạ thật đẹp, thật nên thơ và tràn đầy sức sống.
Phóng tầm mắt ra xa hơn, tâm hồn nhà thơ lại được thỏa mình:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Ai cái đại từ phiếm chỉ nhưng lại mang sự ám chỉ một đại từ xác định. Vườn ai, liệu rằng còn ai vào đây nữa, nó chính là vườn của người thương, mảnh vường thân quen gắn bó. Tính từ “mướt” được đặt giữa dòng thơ gột rửa cả câu thơ, gợi cái dáng vẻ lấp lánh, long lanh, mượt mà. Kèm theo đó là trạng từ “quá” như đẩy cảm xúc và tính chất lên cái ngưỡng cao nhất. Một tiếng trầm trồ thán phục, tiếng reo đầy thỏa mãn của người thi sĩ. Xanh như ngọc- vẻ đẹp tinh khôi, sáng trong, quý giá. Cả khu vườn bừng lên sắc xanh trong veo, sức sống căng tràn, tươi tắn, mượt mà. Màu xanh ấy lan tỏa cảnh vật, xoa dịu tâm hồn nhà thơ, đem đến cho ông những rung cảm mãnh liệt nhất.
Và sau cái lớp ẩn hiện tuyệt đẹp của cảnh vật ấy, tâm ý của nhà thơ cũng đã được bày tỏ:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Mặt chữ điền đó là vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang, là nét đẹp truyền thống đáng quý, đáng trân trọng theo quan niệm của người Việt. Khuôn mặt ấy được nép sau chiếc lá trúc mỏng manh hé mở sự duyên dáng, thẹn thùng, e ấp của người thiếu nữ xứ Huế. Người con gái Huế ngọt ngào và thướt tha trong tà áo dài, ý nhị kín đáo bên chiếc lá trúc là hình ảnh biểu trưng cho thôn Vĩ và trở thành ấn tượng đậm sâu trong tâm trí nhà thơ. Cảnh và vật người như hòa cùng nhau, cảnh tô lên vẻ đẹp của người, nhớ đến người là suy tư về cảnh. Tất cả thật đẹp, thật hài hòa.
Với cách ví von, so sáng liên tưởng độc đáo cùng với ngôn từ giàu chất thơ, giàu biểu cảm, nghệ thuật gợi nội tâm tinh tế, Hàn mặc tử đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên xứ Huế mộng mơ, một bức tranh trọn vẹn nội tâm trăn trở, nhớ mong của người đang yêu. Qua đó cũng đã thể hiện được lòng khát khao sống mãnh liệt của nhà thơ trong những năm tháng cuối cùng của cuộc đời.
Chính nét bình dị, thân thương ấy đã khiến thôn Vĩ bình dị đi vào thơ ca và trở thành một nét độc đáo chẳng hòa lẫn với bất kì nơi nào khác.
Mẫu số 10
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới. Thơ ông đặc trưng bởi sự dịu dàng, đằm thắm và xen chút buồn man mác. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những sáng tác hay nhất của Hàn Mặc Tử với những cảm xúc chân thật, thiết tha.
Bài thơ được lấy cảm hứng từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho nhà thơ. Nó là tiếng lòng, là sự nhớ nhung quê hương cùng với một chút thương xót cho cuộc tình dở dang. Vì căn bệnh hiểm nghèo mà Hàn Mặc Tử bị xã hội xa lánh, buộc ông phải sống cách li và vì thế, đã rất lâu nhà thơ chưa về thăm lại thôn Vĩ. Bức thư của cô gái mà anh thầm yêu thương đã làm cho nỗi nhớ quê hương trào lên trong tâm hồn tác giả. Khổ thơ mở đầu chỉ là bốn câu ngắn ngủi nhưng lại có sức truyền tải vô cùng lớn.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Ngay từ đầu bài thơ, tác giả đã dẫn ra một câu hỏi tu từ. Câu hỏi ấy được đưa ra nhưng lại chẳng mong được đáp trả. Có lẽ, nó là lời trách móc nhẹ nhàng của Kim Cúc về sự ra đi của Mặc Tử. Đã bao lâu rồi anh không về thăm lại xứ Huế mộng mơ, thăm thôn Vĩ quen thuộc mà những ngày trước đây hai người đã từng có biết bao kỉ niệm. Câu thơ gợi lên một cảm giác bâng khuâng, xao xuyến. Nó cũng giống như một lời mời gọi sự quay trở lại quê hương, thăm thôn Vĩ Dạ nên thơ, dịu dàng. Và cũng có khi nó là sự tiếc nuối, nhớ nhung da diết của chính tác giả.
Anh đã xa quê hương mà chưa một lần trở về. Nỗi khát khao được trở về đã thúc giục anh, buộc anh phải tự hỏi chính mình “Sao không về thăm thôn Vĩ”. Thôn Vĩ là một chốn thôn quê bình yên, thơ mộng, đậm chất Huế. Không được trực tiếp tận hưởng không gian ấy nhưng những hình ảnh đẹp nhất, dịu ngọt nhất vẫn đang chảy trong tâm hồn của nhà thơ với sự nhớ mong da diết.
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Hai câu thơ vẽ lên trước mắt bạn đọc một bức tranh tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Mỗi câu thơ lại dẫn dắt ta đến với sự xinh đẹp, mộng mơ của thiên nhiên xứ Huế. Ở những con đường nhỏ của thôn Vĩ, hai hàng cau mọc lên thẳng tắp đón lấy ánh nắng mặt trời. Chúng toát lên một vẻ thanh thoát, cao sang. Những tàu cau vươn mình ra xa, đón lấy những cơn gió nhẹ nhàng cùng tia nắng ấm áp. Mặt trời vừa hé, tỏa ra ánh nắng dịu dàng của buổi sớm mai. Những tia nắng không quá chói chang, nóng bỏng, chúng ấm áp một cách dịu hiền.
Ánh nắng len lỏi vào từng kẽ lá, chiếu rọi xuống mặt đất những hình hài đáng yêu của bóng cây. Nắng sáng mai luôn là thứ nắng tuyệt đẹp. Nó mang đến sức sống, mang đến hơi thở cho mọi vật. Và lấp ló sau những rặng cau là khu vườn ngập tràn màu xanh. Cây cối được mặt trời tưới xuống nhựa sống, chúng đâm chồi nảy lộc và đua nhau xanh tốt. Màu xanh trải dài khắp cả chốn thôn quê. Màu xanh trong mắt của Hàn Mặc Tử có một cái gì đó mới mẻ và lạ lẫm. Nó không phải là xanh rì, xanh thẳm mà lại xanh màu xanh của ngọc.
Một cách so sánh rất đặc biệt và hấp dẫn. Thiên nhiên trở nên hữu tình và thơ mộng hơn qua con mắt của thi nhân. Màu xanh ấy toát lên một sức sống mãnh liệt và mạnh mẽ. Cây cối cứ mơn mởn lên để đón ánh nắng mặt trời. Nó làm cho không gian của thôn Vĩ Dạ trong lành, thoáng mát và xanh hơn. Mọi thứ đều tươi mới và tràn trề nhựa sống. Thôn Vĩ vẫn luôn luôn là thế, đẹp đẽ, mộng mơ và ngập tràn hương vị thiên nhiên.
Để rồi, trong không gian ấy, hình ảnh con người hiện lên thật hiền hòa.
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Những lá trúc chập chờn theo làn gió. Nó như đang sà xuống khu vườn xanh mát để đắm mình cùng sức sống của thiên nhiên. Cũng có thể những lá trúc ấy đang nghiêng mình bên cửa sổ, ẩn hiện phía sau tấm rèm là khuôn mặt “chữ điền” của những cô gái Huế mộng mơ. Đó là khuôn mặt phúc hậu nhưng không kém phần duyên dáng. Thiên nhiên và con người hòa vào nhau, đan xen với nhau để tạo nên một cái nhìn mới lạ đầy hấp dẫn. Người con gái Huế nhẹ nhàng, e thẹn lấp ló sau những chiếc lá xanh mượt mà. Nó như càng gợi lên nỗi nhớ quê hương da diết đang trực trào trong lòng tác giả.
Phân tích khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ tuy ngắn ngủi nhưng đã khơi gợi được biết bao điều ý nghĩa. Một xứ Huế mộng mơ nhưng căng tràn sức sống, một thiên nhiên trong lành cùng những con người hiền hòa, dịu êm. Tất cả sẽ mãi khắc sâu vào trong lòng bạn đọc với tất cả sự yêu thương và trân trọng tình đời và tình người trong Đây thôn Vĩ Dạ, cái chữ “tình” bên trong con người Hàn Mặc Tử tài hoa.
Mẫu số 11
Hàn Mặc Tử nằm trong số những nhà thơ ưu tú của phong trào thơ mới, ông để lại nhiều tác phẩm giá trị trong đó nổi tiếng nhất là bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chính là xứ Huế mộng mơ và cổ kính. Không chỉ ông mà có rất nhiều nhà thơ đã rung động trước xứ sở này.
Mở đầu bài thơ là lời mời mọi người về chơi thôn Vĩ, kèm theo đó là lời trách móc nhẹ nhàng, tình cảm. Có lẽ trong thâm tâm nhà thơ tự trách mình đã lãng quên nơi mình có nhiều kỉ niệm khó phai, một nơi có cảnh đẹp say lòng người.
Trong câu thứ hai tác giả như đã trở về với thôn Vì bởi sự thôi thúc của con tim. Những cảnh đẹp dần dần hiện ra:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Những hình ảnh tuyệt đẹp cảnh sắc thiên nhiên thôn Vĩ hiện ra, hình ảnh nắng mới trên ngọn cau đang căng tràn sức sống trong ánh nắng của bình minh. Những tia nắng của bình mình sáng sớm chiếu vào những hạt sương còn đọng trên thân cay cau làm cho mọi thứ lấp lánh như những viên ngọc thực sự.
Trước mắt người đọc như được tái hiện khung cảnh thiên nhiên tràn ngập sức sống. Tác giả đã dùng “màu xanh như ngọc” diễn tả vẻ đẹp mĩ miều của thiên nhiên thôn Vĩ, chắc hẳn tác giả là người yêu thiên nhiên con người nơi đây mới có thể gieo nên những vần thơ tuyệt mĩ.
Trong câu thơ cuối của đoạn đầu ta bắt gặp hình ảnh lá trúc thanh tú, mỏng manh che đi khuôn mặt chữ điền trong ánh nắng buổi sáng. Đó có thể là của tác giả và cũng là một ai khác hình ảnh vừa ảo vừa thật càng khiến cho thôn Vĩ trở nên bí ẩn lạ kì.
Sự xuất hiện của con người trong câu thơ cuối của đoạn đầu dù ngắn ngủi nhưng cũng đủ cho người đọc nhận thấy bức tranh thiên nhiên và con người thôn vĩ đẹp đến lạ lùng, tình yêu chứa chan của tác giả với đất và người nơi đây.
Mẫu số 12
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới.
Tuy có cuộc đời nhiều bi thương nhưng qua hồn thơ phong phú, sáng tạo và đầy bí ẩn, người đọc vẫn cảm nhận được một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời trần thế của ông. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những sáng tác nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong lòng người đọc.
Chính vì vậy, qua bao nhiêu thế hệ, người ta có ba ý kiến nhận định về bài thơ: Đó là bài thơ về tiếng nói trăn trở của mối tình thầm kín; là lời yêu thương với một miền quê; là niềm khao khát được sống trong niềm sẻ chia, đồng cảm được trở về với cuộc đời.
Đoạn thơ đầu của thi phẩm đã thể hiện một cách thật tha thiết, xúc động những tâm tình ấy.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
“Đây thôn Vĩ Dạ” được Hàn Mặc Tử viết khi đang mắc bệnh nan y – bệnh phong, căn bệnh khiến nhiều người xa lánh, hắt hủi ông nên ông luôn mang trong mình nỗi niềm khao khát được sẻ chia, đồng cảm, muốn trở về với cuộc đời.
Qua đó, ông đã vẽ nên bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh, thể hiện nỗi niềm cô đơn của ông về một mối tình đơn phương xa xăm vô vọng. Không chỉ vậy, bài thơ cũng là tấm lòng yêu tha thiết của nhà thơ đối với thiên nhiên, cuộc sống, con người xứ Huế.
Mở bài bài thơ, tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” vừa như một lời chào thân mật vừa như lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái thôn Vĩ. Không thô lỗ, mà hết sức ân cần, tế nhị.
Vì thôn Vĩ có em, vì thôn Vĩ là quê hương anh, là nơi thân thiết của anh. Tuy nhiên, có thể hiểu đây là lời tự nhủ, tự trách của tác giả. Ông tự hỏi bản thân sao bấy lâu nay không về thăm lại vùng đất ấy, thôn quê ấy.
Qua ba câu thơ sau, khung cảnh thiên nhiên và con người hiện lên trong hoài niệm, tưởng tượng của Hàn Mặc Tử rất đỗi bình dị, quen thuộc:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Nắng mới lên là nắng sớm buổi bình minh. Ánh sáng tinh khôi, rực rỡ ấy làm sáng bừng không gian rộng lớn, khoáng đạt của xứ Huế.
Điệp từ “nắng” không chỉ thể hiện sự tràn ngập ánh sáng, sức sống mà còn bộc lộ tâm hồn luôn hướng về ánh sáng, hướng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử.
Câu thơ ấy đã vẽ nên một hàng cau đầy sức sống, mãnh liệt đang vươn lên đón lấy những tia sáng đầu tiên của buổi sớm.
Nhớ đến Vĩ Dạ, nhà thơ nhớ đến hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hình ảnh hàng cau, vun vút cao quá đỗi quen thuộc đối với người dân thôn Vĩ.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Câu thơ như lời khen ngợi, trầm trồ, ngạc nhiên thốt lên trước vẻ đẹp thanh tao, mơn mởn của cỏ cây, thiên nhiên.
Câu hỏi tu từ “Vườn ai mướt quá” như tiếng reo của trẻ thơ, một tiếng reo trong sung sướng, một lời trầm trồ khen ngợi buột ra tự nhiên khi chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn. Tưởng chừng như nghe thấy tiếng nhựa sống đang chảy trong cây.
Tất cả đều rạo rực, đều đầy sức sống. Chỉ có vườn xuân mới xanh mướt, phì nhiêu đến vậy. Hay chỉ có vườn nhà em mới đẹp đẽ, hữu hình đến thế.
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Nhắc đến con gái Huế, người ta nghĩ ngay đến hình ảnh cô gái duyên dáng, thướt tha trong tà áo dài tím mộng mơ cùng chiếc nón lá trắng, dịu dàng, yểu điệu mà tinh tế.
“Mặt chữ điền” chỉ tướng mạo phúc hậu, dịu dàng. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ tài tình, gợi lên hình ảnh gương mặt thấp thoáng của thiếu nữ. Một nét vẽ ấy đã miêu tả vẻ đẹp thanh tao, dịu dàng.
Thiên nhiên và con người dưới ngòi bút đầy sắc sảo của Hàn Mặc Tử đã kết hợp hài hòa với nhau tạo nên một bức tranh phong cảnh tươi đẹp, đầy sức sống và có sức hút lạ lùng.
Bằng âm điệu tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh thôn Vĩ Dạ cho người nghe cảm nhận khổ một bài Đây thôn Vĩ Dạ thật mơ mộng, bình dị.
Qua đó cho thấy tình yêu to lớn của ông đối với mảnh đất yên bình, trù phú này. Tuy nhiên, ẩn sau mỗi ý thơ là nỗi niềm luyến tiếc, vấn vương về người và cảnh nơi đây. Ông vấn vương, trăn trở về mối tình thầm kín của mình với người con gái thôn Vĩ.
Ông vấn vương, thương nhớ về cảnh sắc tươi đẹp của thôn Vĩ. Nhưng tất cả đối với nhà thơ thời điểm ấy chỉ còn là hoài niệm.
Nếu ở khổ một là không gian vui tươi, đầy sức sống thì ở phần còn lại của bài thơ, giọng thơ chùng xuống, ảm đạm hơn nhiều.
Ông khát khao được trở về cuộc sống bình thường, được trở về thôn Vĩ Dạ. Ông biết căn bệnh hiểm nghèo của mình, biết thời gian minh còn rất ít. Vậy nên nhà thơ vừa như bồn chồn, lo lắng vừa như hy vọng một cái gì đó sẽ rời xa.
Đây chính là nỗi niềm ao ước tha thiết cùng nỗi buồn man mác khi tác giả hoài niệm của tác giả.
Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp lãng mạn đầy sức gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, Hàn Mặc Tử đã họa nên bức tranh nên thơ, tươi đẹp của một miền quê.
Và ẩn sau đó không chỉ là tiếng nói trăn trở của mối tình thầm kín hay lời yêu thương với một miền quê mà còn là nỗi niềm khao khát được đồng cảm, được trở về với cuộc đời.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. Bài thơ như bông hoa rực rỡ giữa rừng hoa của văn học nước nhà.
Qua đó cho thấy tâm hồn thanh khiết, yêu đời dù là trong lúc khổ đau, tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử.
-----------------------
Trên đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu Phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Bài viết đã gửi tới bạn đọc dàn ý và các bài văn mẫu. Hi vọng qua bài viết bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 11 nhé. Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm Soạn văn 11, soạn bài lớp 11 các bài Tác giả - Tác phẩm Ngữ Văn 11 trong sách Văn tập 1 và tập 2.
Mời các bạn cùng tham khảo thêm các bài liên quan tác phẩm: