Phân tích người đàn bà hàng chài
VnDoc xin giới thiệu tới bạn đọc Phân tích người đàn bà hàng chài. Nội dung tài liệu đã được tổng hợp chi tiết và chính xác sẽ giúp các bạn học sinh học tốt Ngữ văn 12 hiệu quả hơn. Mời các bạn tham khảo.
Phân tích người đàn bà hàng chài
- I. Dàn ý Phân tích người đàn bà hàng chài
- II. Văn mẫu Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài
- 1. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 1
- 2. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 2
- 3. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 3
- 4. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 4
- 5. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 5
- 6. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 6
- 7. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 7
- 8. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 8
- 9. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 9
I. Dàn ý Phân tích người đàn bà hàng chài
1. Dàn ý Phân tích người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và nhân vật người đàn bà làng chài.
2. Thân bài
- Ngoại hình: Trạc ngoài bốn mươi, thân hình cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Khuôn mặt mệt mỏi sau những đêm thức trắng, tấm lưng bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng.
Sinh nhiều con, cuộc sống túng quẫn, lão chồng trở nên hung bạo đánh đập vợ để trút giận.
- Tính cách, phẩm chất:
Nhẫn nhục, chịu đựng: Thường xuyên bị chồng đánh bằng roi mây một cách tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng chị không hề khóc than, không van xin cũng không chống trả.
Khi đứng trước quan tòa, vị chánh án khuyên bà bỏ chồng, bà van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.
→ Bà cam chịu, nhẫn nhịn vì con, muốn con có một gia đình và nuôi chúng nó khôn lớn.
Giàu tình yêu thương:
Sự cam chịu, nhẫn nhịn của bà bắt nguồn từ tình yêu thương con vô bờ bến. Thương con, chị không muốn con chứng kiến cảnh bạo hành nên xin chồng đánh trên bờ, gửi thằng Phác lên rừng, chị cảm thấy có tội với nó khi vì thương chị mà nó hận bố nó.
Vị tha, bao dung:
Bị người chồng đánh đập mà bà vẫn không hề căm giận, oán trách hay muốn trả mối hận. Thậm chí bà còn biết ơn người đã cùng bà chèo chống con thuyền trách nhiệm để nuôi con.
Bà nhận mọi lỗi lầm về mình, bà nghĩ sự hung bạo của chồng cũng vì bà mà ra.
Thấu hiểu lẽ đời:
Bà ý thức được thiên chức của người phụ nữ và quy luật ngàn đời của tạo hóa: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”.
• Đánh giá chung
Người đàn bà là chân dung thành công của Nguyễn Minh Châu, để lại ấn tượng mạnh trong lòng mọi người.
Người đàn bà là biểu tượng nghệ thuật đầy ám ảnh mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải tư tưởng nhân đạo qua tác phẩm.
3. Kết bài
Khái quát lại nhân vật người đàn bà làng chài đồng thời liên hệ đến người phụ nữ hiện nay.
2. Dàn ý Phân tích người đàn bà hàng chài - Bài mẫu2
I. Mở bài
Giới thiệu Nguyễn Minh Châu
Giới thiệu truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
Giới thiệu nhân vật người đàn bà hàng chài
II. Thân bài
1. Tên tuổi
Không tên tuổi cụ thể, gọi phiếm định “người đàn bà hàng chài”, “mụ”.
Chỉ là một người vô danh như bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này.
2. Vóc dáng ngoại hình
Thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”- đó là hình anh một con người lam lũ, mất hết sinh lực, niềm vui, sức sống.
Nghèo khổ, nhọc nhằn (lưng áo bạc phếch).
Mặc cảm, tự ti (dáng vẻ lúng túng).
=> Nhà văn thể hiện nỗi xót thương cho số phận con người ngay khi miêu tả ngoại hình, dáng vẻ của nhân vật.
3. Số phận đau khổ, bất hạnh
* Chuyển ý:
Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật mà ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo của ông đã lách thật sâu để khám phá cho được cái mạch ngầm hiện thực về số phận bất hạnh của người đàn bà hàng hàng.
Một người đàn bà bất hạnh, nhẫn nhục chịu đựng (người đàn bà bị đánh).
Người đàn bà chịu những nỗi đau khổ chồng chất: mệt mỏi sau những đêm thức trắng kéo lưới, chịu đựng những trận đòn của chồng, nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình.
4. Vẻ đẹp tâm hồn và tính cách.
*Chuyển ý:
- Tham khảo chuyển ý sau:
Đằng sau cái vóc dáng thô kệch ấy, đằng sau cái vẻ ngoài rách rưới ấy, đằng sau cái hành động nhẫn nhịn ấy người đọc còn nhận ra vẻ đẹp tâm hồn, tính cách khuất lấp của người đàn bà hàng chài này.
- Chuyển ý hay hơn:
Nếu bạn đọc từng yêu nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy không ở đâu yếu tố “thiên nữ tính” lại thăng hoa tuyệt vời ở người đàn bà rách rưới này.
a. Vẻ đẹp của một người từng trải sâu sắc: đẹp nhất nhưng đặc biệt nhất
Nguyên nhân vũ phu của người chồng: do hoàn cảnh ép buộc chứ không phải bản chất
Người đàn bà hàng chài cần một người đàn ông trên thuyền để chèo chống khi phong ba bão táp ập đến.
Từ khi có Đảng, nhà nước cuộc sống còn bất cập: không hợp lý, không hợp lòng dân.
b. Vẻ đẹp khoan dung, nhân hậu, độ lượng: thiên chức của người phụ nữ.
Chị tự nguyện cho chồng đánh, không kêu, không chống trả, không chạy trốn -> Một kẻ ngu muội chìa lưng cho chồng đánh (cái nhìn từ xa)
Nhìn vào tấm lưng bạc phếch (nhìn vào cái nghèo đói, đau khổ), ông ta thương vợ nên ông ta đánh vợ => biểu hiện tiêu cực.
Chị không trách chồng mà kéo tội lỗi về phía mình (vẻ đẹp nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam)
Chị chấp nhận những trận đòn như một cách giải tỏa những bức bách, u uất trong lòng người chồng → hi sinh cao cả, chị hiểu chồng mình
Chị thấy trong chuyện này mình là người có lỗi.
c. Vẻ đẹp tình mẫu tử thiêng liêng
“Người đàn bà hàng chài chúng tôi sống cho con chứ không phải sống cho mình”
→ Người mẹ này vừa thương con vô cùng, khi vô tình để thằng bé Phác nhìn thấy cảnh trái ngang → vừa đau đớn, vừa xấu hổ
Van nài đứa con, ôm chầm lấy nó → sợ nó hành động dại dột với bố nó.
Khi nhắc đến cảnh hòa thuận trên thuyền, chị hạnh phúc khi “ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon”, “khuôn mặt xám xịt của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười”
III. Kết bài
II. Văn mẫu Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài
1. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 1
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học từ sau 1975. Nhà nghiên cứu hàng đầu Nga Ni Culin nhận xét: “Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước 1980 được Nguyễn Minh Châu tắm rửa sạch sẽ, được bao bọc trong bầu không khí vô trùng”. Ta có thể thấy điều ấy qua nhân vật Nguyệt trong “Trăng sáng”. Giai đoạn sau này, nổi bật là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang nhiều cảm hứng thế sự cùng những triết lí nhân sinh hơn. Nhưng quan điểm sáng tác của ông là “gắng đi tìm các hạt ngọc còn ẩn giấu trong bề rộng tâm hồn con người” thì không thay đổi. Nhân vật trung tâm của tình huống truyện nghịch lý trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là người đàn bà hàng chài. Từ nhân vật này, nhà văn bộc lộ tấm lòng nhân đạo và gửi gắm những bức thông điệp về nghệ thuật và cuộc đời.
Đọc tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” ta thấy nhân vật người đàn bà hàng chài được nhà văn giới thiệu là người đàn bà trạc ngoài 40. Và khi đề cập đến nhân vật này Nguyễn Minh Châu không gọi bằng một cái tên cụ thể nào cả mà gọi một cách phiếm định: “mụ”, “người đàn bà hàng chài”…Việc nhà văn không đặt tên cho nhân vật của mình không phải ngẫu nhiên vô tình mà đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa: Ông muốn nhấn mạnh đây chỉ là một trong vô số những người đàn bà đau khổ, bất hạnh, cần cảm thông sẻ chia mà thôi.
Người đàn bà hàng chài mang một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển với những nét thô, mặt rỗ “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ. Đây chính là hình ảnh một người lao động lam lũ và đau khổ. Có lẽ gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả đã ấy đi tất cả của chị: sinh lực, niềm vui và sức sống. Sự nghèo khổ nhọc nhằn đến mức nhếch nhác, thảm hại còn hiện rõ trong chi tiết miêu tả tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng. Sự khốn khổ của chị còn hiện ra ngay trong dáng vẻ: ” sợ sệt, lúng túng” khi ở tòa án, “tìm đến một góc tường để ngồi”. Thậm chí khi Đẩu phải mời đến lần thứ hai chị mới “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghé và cố thu người lại”. Có lẽ đó là dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có mặt của mình trong cuộc đời này là một phi lí, luôn mặc cảm, tự ti và do đó muốn giảm thiểu sự vướng víu, phiền phức đến khó chịu mà mình có thể gây ra cho mọi người xung quanh.
Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật mà ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo của ông đã lách thật sâu để khám phá cho được cái mạch ngầm hiện thực về số phận bất hạnh của người đàn bà hàng chài. Ấn tượng lớn nhất về sự bất hạnh mà người đàn bà đưa và cho người đọc chính là thái độ cam chịu nhẫn nhục của chị. Khi đi qua bãi xe tăng hỏng trước lúc đến bên chiếc xe, người đàn bà đứng lại “ngước mắt nhìn ra ngoài…. rồi đưa một cánh tay lên định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân”. Có thể nhận thấy đây là nơi quá quen thuộc với chị, một sự quen thuộc khủng khiếp bởi những trận đòn đã thành lệ của người chồng: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cặp mắt nhìn xuống chân mệt mỏi như một kẻ tội đồ chờ đợi một hình phạt không tránh khỏi. Khi bị đánh dã man, người đàn bà chịu đòn với vẻ cam chịu nhẫn nhục, đó là thái độ của một con người đang nhẫn nhục thực hiện nghĩa vụ đau khổ của mình, không oán thán, không bất bình, không né tránh.
Người đàn bà hàng chài không chỉ bị hành hạ về mặt thể xác, mệt mỏi sau những đêm thức trắng kéo lưới, không chỉ chịu đựng những đau đớn từ những trận đòn tàn bạo của người chồng vũ phu mà còn bị giày vò nặng nề về những đau đớn tinh thần, về sự non nớp lo sợ con cái bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đời trái ngang. Mô tả hình ảnh một người mẹ vừa khóc vừa phải “chấp tay vái mấy vái để đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái luân thường đạo lí”. Nguyễn Minh Châu đã thể hiện nỗi xót thương cho sự đau khổ cùng cực của người đàn bà hàng chài. Chưa hết, chị còn bị gánh nặng cơm áo, cuộc sống nghèo túng đẩy vào cái vòng quẩn quanh bất hạnh. Trước năm 1975 mỗi khi biển động cả nhà toàn ăn xương rồng luộc chấm muối. Khi cách mạng về cuộc sống đỡ đói khổ hơn nhưng nỗi lo cơm áo vẫn còn đó.
Từ thân phận người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu muốn gợi ra cho người đọc những suy nghĩ âu lo: cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo tăm tối và bạo lực còn gian nan lâu dài hơn cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Và chừng nào còn chưa thoát khỏi cuộc sống đói nghèo chừng đó con người vẫn phải chung sống với cái xấu, cái ác. Chúng ta đã đổ xương máu trong bao năm qua để giành được độc lập tự do trong cuộc chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc. Nhưng chúng ta sẽ còn phải tiếp tục làm gì đây trong cuộc chiến đấu giành quyền sống của từng con người, làm gì để đem lại cơm ăn áo mặc và ánh sáng văn hóa cho biết bao con người đang đắm chìm trong kiếp sống đói nghèo u tối.
Nếu bạn đọc từng yêu nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy không ở đâu yếu tố “thiên nữ tính” lại thăng hoa tuyệt vời như ở người đàn bà rách rưới này. Vẻ đẹp khuất lấp mà người đọc cảm nhận được trước hết ở người đàn bà hàng chài đó là vẻ đẹp sâu sắc từng trải. Nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà hàng chài quê mùa thất học hiểu lẽ đời khiến Đẩu và Phùng trở thành những người nông nổi, hời hợt. Trong khi Đẩu và Phùng bất bình trước người chồng tàn nhẫn, thấy ông ta là kẻ độc ác nhất thì người đàn bà hàng chài đã giúp họ nhận ra bao điều sâu xa của cuộc sống. Chị cho biết: chồng chị vốn là anh con trai hiền lành, cục tính, nhưng rơi vào cuộc sống luẩn quẩn, bế tắc cho nên trở thành kẻ tha hóa, vũ phu tàn nhẫn. Đó là một sự nhìn nhận sâu xa, thấu hiểu lẽ đời. Người đàn chỉ rõ sự thiếu thực tế của Đẩu và Phùng: “Lòng các chú đâu phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc”. Người đàn bà hàng chài đã chỉ ra một hiện thực tàn nhẫn: họ cần một người đàn ông để chèo chống lúc phong ba sóng gió dù hắn có man rợ, tàn bạo đến đâu. Như vậy, chị đã cho Phùng và Đẩu thấy được sự khó khăn gấp bội của những người đàn bà trong những cuộc mưu sinh trên biển cả, luôn bất cập, tiềm ẩn những hiểm họa, đe dọa. Người đàn bà hàng chài còn chỉ ra sự bất cập trong cuộc sống của Đảng, của chính quyền Cách mạng. Chị cho thấy từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho họ nhưng chẳng ai ở vì không thể bỏ được nghề bởi sự tồn tại của họ gắn chặt với nghề. Tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn, tò mò của Phùng, cảm giác bất lực của hai người khi nhận ra những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở nên phi thực tế. Những điều đó đã tạo ra một đối sánh với người đàn bà hàng chài từng trải, hiểu đời, hiểu người, hiểu những điều có thể và không thể. Sự sâu sắc của chị khiến người đọc cảm phục nhưng cũng xót thương cho một kiếp người.
Người đàn bà hàng chài chấp nhận những trận đòn vũ phu độc ác của người chồng không phải vì chị ngu muội. Cũng không phải vì chị có tội lỗi gì với chồng mà chị cam chịu, nhẫn nhục những trận đòn đó không chỉ vì trên thuyền cần một người đàn ông mà còn như một cách giúp người chồng vơi đi những u uất khổ sở chất chứa trong lòng. Đó là cách xử sự của một con người hiểu rõ bổn phận nghĩa vụ của mình và gắng thực hiện cho xong, đâu đó là những bổn phận và nghĩa vụ phi lí. Không chỉ thấu hiểu xót xa cho nỗi khổ của người chồng, người đàn bà hàng chài còn mang một mặc cảm tội lỗi khi cho rằng “giá tôi đẻ ít đi” hoặc “chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”. Nếu Đẩu và Phùng đều kinh ngạc và bất bình thay cho sự cam chịu nhẫn nhục của người vợ bị chồng hành hạ thì khi hiểu được nguyên nhân của thái độ ấy, họ càng kinh ngạc vì sự nhân hậu, vị tha của tấm lòng người đàn bà hàng chài.
Tình mẫu tử được người đàn bà ý thức sâu sắc như một thiên tính đương nhiên của người phụ nữ “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Chính tình thương yêu sâu sắc với con đã khiến chị nhẫn nhục chịu đựng sự tàn nhẫn của người chồng vì muốn có một người đàn ông khỏe mạnh biết nghề cùng mình làm ăn nuôi nấng các con. Cũng vì sợ con tổn thương trước cảnh bạo lực gia đình, chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, sợ đứa con làm điều gì dại dột với bố nó, người đàn bà hàng chài đã phải cắn răng gửi đứa con chị yêu thương nhất lên bờ sống với ông ngoại. Ở người đàn bà thầm lặng ấy,” tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”. Khi đứa con chứng kiến cảnh tàn nhẫn đó, người đàn bà “mếu máo” gọi con rồi “chắp tay vái lấy vái để” ôm chầm nó, bởi chị sợ tình yêu thương, sự ngây thơ non nớt cùng lòng căm giận, u tối trong thằng bé sẽ hành động dại dột. Tiếng khóc của tình thương con và nỗi đau quặn thắt trong trái tim người mẹ, vừa đau đớn vừa xấu hổ nhục nhã. Chị đau đớn vì làm con tổn thương rồi mới đau cho bản thân mình. Khi nhắc đến những lúc hòa thuận trên thuyền “khuôn mặt xám xịt chợt ửng sáng lên như một nụ cười”. Đó là ánh sáng, là vẻ đẹp của tình mẫu tử, mọi niềm vui nỗi buồn đều xuất phát từ ” vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon”. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà hàng chài là bóng dáng người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, kiên cường chịu đựng, giàu lòng vị tha và đức hi sinh “biết hi sinh nhưng chẳng nhiều lời” - Tố Hữu.
Người đàn bà ấy đã để lại một ấn tượng sâu sắc để nhiều năm sau tồn tại, khi nhìn lại “bức ảnh Chiếc thuyền ngoài xa” bây giờ nghệ sĩ Phùng cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh…hòa lẫn với đám đông. Đó là hình ảnh của những con người vô danh khốn khổ trong cuộc sống lầm lũi đời thường. Họ đã kiên cường vượt lên tất cả, không phải vì mình mà là vì những người thân yêu.
Qua những nét khắc họa ấn tượng từ ngoại hình dáng vẻ đến cử chỉ, lời nói, hành động,…nhân vật người đàn bà hàng chài đã trở thành một biểu tượng đầy ám ảnh giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc cho truyện ngắn. Đó là niềm cảm thương và nỗi lo âu cho số phận con người bất hạnh bị cầm tù trong đói nghèo, khốn khổ, bạo lực. Đồng thời thể hiện niềm tin yêu trân trọng những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn, tính cách những con người luôn sống cuộc sống lòng người nhân hậu, vị tha.
2. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 2
Sáng tác của Nguyễn Minh Châu chia làm hai giai đoạn, nếu như giai đoạn trước, các nhân vật luôn được đặt vào bầu không khí vô trùng thì đến giai đoạn sau với cảm hứng thế sự, các nhân vật có nhiều chuyển biến rõ nét. Người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa chính là một nhân vật tiêu biểu. Cũng qua nhân vật này tác giả gửi gắm giá trị nhân đạo sâu sắc của mình.
Nếu như các nhân vật khác trong tác phẩm đều có một cái tên rõ ràng, như Phùng, Đẩu, thằng Phác, thì người phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm này lại chỉ được gọi một cách phiếm chỉ “người đàn bà làng chài”. Phải chăng thông qua cái tên mang tính chất phiếm chỉ này, nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc thông điệp: người đàn bà kia chính là đại diện cho biết bao số phận người phụ nữ, giàu lòng yêu thương, giàu đức hi sinh trong cuộc sống còn vô vàn thống khổ, khắc nghiệt.
Người đàn bà xuất hiện trong tác phẩm qua nhận xét của Phùng vô cùng đặc biệt – ngoại hình xấu xí, thực không mấy ưa nhìn. Đó là người đàn bà mặt rỗ, dáng vẻ mệt mỏi, thân hình thô kệch lam lũ. Sau này, đi sâu vào tác phẩm và nghe những lời tâm sự của người đàn bà ta mới biết, chị vốn sinh trong một gia đình khá giả, nhưng vì một trận ốm mà mặt rỗ, không ai lấy. Hình ảnh chị cam chịu nhẫn nhục để người chồng lấy dây lưng vụt tới tấp, đã phần nào hé lộ số phận bi kịch, bất hạnh của chị.
Dù chị có số phận bất hạnh như vậy, nhưng ta cũng không thể phủ nhận ẩn sâu trong người phụ nữ ấy là những vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý. Đầu tiên ta thấy được chị là người phụ nữ có khả năng chịu đựng cao. Có thể thấy, như lời chị tâm sự “ba ngày một trận nhẹ, bảy ngày một trận nặng” cứ khi chồng chị bực là chị bị đánh.
Thì có thể thấy rằng, việc chị bị đánh diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Mặc dù bị hành hạ về thể xác như vậy, nhưng chị vẫn cam chịu nhẫn nhục, không hề kêu than, không hề chống trả, hay tìm cách trốn chạy. Bởi đối với chị chịu đựng cũng là một lẽ đương nhiên của những người phụ nữ sống ở miền biển.
Không chỉ vậy người đàn bà làng chài còn là một người phụ nữ giàu lòng tự trọng, vô cùng yêu thương con. Cuộc đời chị hi sinh tất cả về con, khi bị người chồng đánh, chị xin hắn lên bờ đánh, để những đứa trẻ không phải nhìn thấy cảnh ấy. Chị đặc biệt thương thằng Phác, nên đã gửi nó lên rừng ở cùng ông. Khi Phác thấy bố đánh mẹ, đã ngay lập tức xông vào, chị sợ hãi, quỳ sụp xuống van xin. Chị sợ thằng Phác sẽ bị thương.
Trong những lời vô cùng chân thành, chị cũng cảm thấy vui, hạnh phúc khi nhìn thấy những đứa con mình được ăn no “trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên như một nụ cười khi nghĩ đến những niềm vui nhỏ bé mà gia đình bà từng có và đặc biệt khi nghĩ đến cảnh đàn con được ăn no”. Hạnh phúc quả thực bình dị của một người mẹ nghèo.
Thương con, hi sinh vì con cũng là lí do vì sao chị kiên quyết không bỏ chồng, bởi với những người dân miền biển, ngày đêm đối mặt với sóng gió không thể thiếu đôi vai vững chắc của người đàn ông. Hành động, suy nghĩ đó của chị càng khẳng định hơn nữa tình mẫu tử sâu nặng chị dành cho con.
Không chỉ vậy, chị còn là một người thấu hiểu lẽ đời, đã đem đến cho cả Phùng và Đẩu những bài học, những quan niệm khác về con người và cuộc đời. Dù chị bị chà đạp về nhân phẩm, bị hành hạ về thể xác nhưng chị đến tòa án huyện trước những lí lẽ của mình, ta không còn thấy một người đàn bà quê mùa, ít học, mà thay vào đó là một người phụ nữ thấu tình đạt lí, thấu hiểu sự đời. Ban đầu chị rụt rè, sợ hãi, bởi đây là lần đầu chị tiếp xúc với một không gian mới.
Chị ngồi sâu vào một góc, cố để không ai chú tâm đến mình. Những lời lẽ vô cùng hạ mình, nhỏ bé đến tối nghiệp trước Phùng và Đẩu “con” “van xin” “quý tòa”. Hình ảnh của chị thật đáng thương, khiến cho cả hai người đàn ông không khỏi khó xử. Nhưng sau khi lấy lại được bình tĩnh, chị đã nhanh chóng thay đổi cách xưng hô: “Chị cảm ơn các chú”. Có một sự đổi vai nhanh chóng giữa hai đối tượng, người giáo huấn và người được giáo huấn giữa Phùng, Đẩu và người đàn bà làng chài.
Với những suy nghĩ, trải nghiệm trong cuộc đời, lí lẽ đời đã thắng những lí lẽ giáo điều sách vở của Phùng và Đẩu. Bằng sự từng trải của bản thân, tình yêu thương con và đức hinh sinh, người đàn bà làng chài đã khiến cho hai người đàn ông thay đổi suy nghĩ, khiến họ cảm thông cho số phận và cuộc đời mình. Nhìn vào cuộc đời chị người ta mới thấu rằng cuộc đời này vốn đầy những đa đoan, nhìn ngoài sao có thể thấu hết hững vấn đề ở xung quanh.
Hình ảnh người đàn bà làng chài là đại diện tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội vừa bước chân ra khỏi chiến tranh. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu, bạo lực gia đình đã dồn họ vào ngõ cùng tối tăm. Nhưng trong bóng tối tưởng thăm thẳm đó lại ngời sáng những đức tính đẹp đẽ của người phụ nữ nông dân hồn hậu: yêu thương chồng con, đức hinh sinh và tình mẫu tử cao đẹp.
3. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 3
Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm kinh điển và tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Với cảm hứng thế sự đương thời, các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã có những chuyển biến rõ nét. Cũng qua nhân vật này tác giả gửi gắm giá trị nhân đạo sâu sắc của mình. Một trong số đó ta phải nói tới người đàn bà làng chài.
Thông thường các nhân vật trong các tác phẩm thường được người đọc nhớ đến bằng những tên gọi riêng, khó lẫn vào nhau. Hay trong chính tác phẩm, các nhân vật đều có một cái tên rõ ràng, như Phùng, Đẩu, thằng Phác, thì đến người phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm này lại chỉ được gọi một cách phiếm chỉ “người đàn bà làng chài”. Phải chăng thông qua cái tên mang tính chất phiếm chỉ ấy, nhà văn muốn nhắn nhủ tới bạn đọc thông điệp rằng người đàn bà kia chính là đại diện cho biết bao số phận người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ: giàu lòng yêu thương, giàu đức hi sinh trong cuộc sống nhưng cũng phải chịu vô vàn khổ cực, tủi hờn.
Người đàn bà xuất hiện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, không hề được chau chuốt, ướm chải mà qua nhận xét của nhiếp ảnh gia Phùng, người đàn bà ấy hiện lên với ngoại hình xấu xí, thực không mấy ưa nhìn. Đó là người đàn bà mặt rỗ, dáng vẻ mệt mỏi, thân hình thô kệch lam lũ. Sau này, đi sâu vào tác phẩm, nghe những lời tâm sự của người đàn bà ta mới biết, chị vốn sinh trong một gia đình khá giả, nhưng vì một trận ốm mà mặt rỗ, không ai lấy.
Nếu ngoại hình đã hiện lên với một dáng vẻ xấu xí, thô kệch thì đến số phận, cuộc đời người đàn bà ấy hiện lên với một dáng vẻ cam chịu nhẫn nhục. Ngày ngày chịu những chồng đòn roi của người chồng vũ phu, đã phần nào hé lộ số phận bi kịch, bất hạnh của chị. Nhưng dù có số phận bất hạnh như vậy, nhưng ta cũng không thể phủ nhận ẩn sâu trong người phụ nữ ấy là những vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý. Trước hết, người đàn bà làng chài là người phụ nữ có khả năng chịu đựng cao. Như những lời chị tâm sự thì việc bạo hành không phải là chuyện hiếm, nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ, khi mà “ba ngày một trận nhẹ, bảy ngày một trận nặng”, cứ khi nào chồng chị bực là chị bị đánh. Mặc cho bản thân bị hành hạ về thể xác như vậy, nhưng chị vẫn cam chịu nhẫn nhục, không hề kêu than, không hề chống trả, hay tìm cách trốn chạy khỏi người chồng vũ phu, bạo lực ấy. Bởi lẽ ăn sâu vào tâm trí của những người phụ nữ nơi đây tâm lí nhẫn nhục của những người phụ nữ sống ở miền biển đã là một cái gì đó hiển nhiên.
Không những thế, người đàn bà làng chài còn là một người phụ nữ giàu lòng tự trọng, yêu thương con cái hết mực. Sự cam chịu của chị cũng một phần vì những đứa con. Khi bị người chồng đánh, chị xin hắn lên bờ đánh, để những đứa trẻ không phải nhìn thấy cảnh ấy. Chị đặc biệt thương thằng Phác, nên đã gửi nó lên rừng ở cùng ông. Khi thấy thằng Phác xông đẩy ngã bố nó khi chứng kiến bố đánh mẹ, chị đã ngay lập tức xông vào, chị sợ hãi, quỳ sụp xuống van xin. Chị sợ thằng Phác sẽ bị thương. Trong những lời vô cùng chân thành, chị cũng cảm thấy vui, hạnh phúc khi nhìn thấy những đứa con mình được ăn no “trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên như một nụ cười khi nghĩ đến những niềm vui nhỏ bé mà gia đình bà từng có và đặc biệt khi nghĩ đến cảnh đàn con được ăn no”. Hạnh phúc quả thực bình dị của một người mẹ nghèo. Chị kiên quyết không bỏ chồng cũng vì thương con, hi sinh vì con cũng. Bởi vì đối với những người dân miền biển, ngày đêm đối mặt với sóng gió không thể thiếu đi đôi vai vững chắc của người đàn ông. Hành động và suy nghĩ của chị càng khẳng định thêm cho tình mẫu tử sâu nặng chị dành cho con.
Chính sự thấu hiểu lẽ đời, đã làm cho cả nhiếp ảnh gia Phùng và chánh án Đẩu những bài học, những quan niệm khác về con người và cuộc đời. Dù chị bị chà đạp về nhân phẩm, bị hành hạ về thể xác nhưng chị đến tòa án huyện, ta không còn thấy một người đàn bà quê mùa, lam lũ, ít học, chỉ còn lại hình ảnh một người phụ nữ thấu tình đạt lí, thấu hiểu sự đời. Ban đầu chị rụt rè, sợ hãi, chị chỉ dám ngồi sau vào một góc, cố để không ai chú tâm đến mình. Khi nói chuyện ở trước mọi người, lời lẽ vô cùng hạ mình, nhỏ bé đến tối nghiệp trước Phùng và Đẩu “con” “van xin” “quý tòa”. Nhìn dáng vẻ đáng thương khi ấy của chị, cả hai người đàn ông không khỏi khó xử. Nhưng sau khi lấy lại được bình tĩnh, chị đã nhanh chóng thay đổi cách xưng hô: “Chị cảm ơn các chú”. Có một sự đổi vai nhanh chóng giữa hai đối tượng, người giáo huấn và người được giáo huấn giữa Phùng, Đẩu và người đàn bà làng chài. Bằng chính những suy nghĩ, trải nghiệm thực tế trong cuộc đời, đã thắng những lí lẽ giáo điều sách vở của Phùng và Đẩu. Bằng sự từng trải của bản thân, tình yêu thương con và đức hinh sinh, người đàn bà làng chài đã khiến cho hai người đàn ông thay đổi suy nghĩ, khiến họ cảm thông cho số phận thay vì khuyên ngăn chị bỏ cuộc đời ấy đi. Nhìn vào cuộc đời chị người ta mới thấu rằng cuộc đời này vốn đầy những đa đoan.
Hình ảnh người đàn bà làng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là đại diện tiêu biểu cho đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam cho số phận người phụ nữ trong xã hội vừa bước chân ra khỏi chiến tranh. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu, bạo lực gia đình đã dồn họ vào ngõ cùng tối tăm. Nhưng trong bóng tối vực sâu thăm thẳm đó lại ngời sáng những đức tính đẹp đẽ của người phụ nữ nông dân hồn hậu: yêu thương chồng con, đức hinh sinh và tình mẫu tử cao đẹp.
4. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 4
Văn học chính là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Một tác phẩm văn học lưu giữ những dấu ấn của thời đại. Tất cả những giá trị vĩnh cửu đó đã thăng hoa cùng ngòi bút của nhà văn Nguyễn Minh Châu để tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa ra đời. Nổi bật trong đó là nhân vật người đàn bà hàng chài.
Nhân vật này xuất hiện trong một tình huống độc đáo. Đằng sau cảnh “trời cho đắt giá” mà nghệ sĩ Phùng chụp được, lại là hiện thực tàn nhẫn - cảnh bạo lực gia đình, mà người đàn bà hàng chài chính là nạn nhân. Để rồi từ đó, câu chuyện tiếp tục được gợi mở. Qua đó, nhà văn đã gửi gắm những giá trị nhân vật cao đẹp.
Trước tiên, nhân vật người đàn bà hàng chài được xây dựng không có tên tuổi cụ thể, mà chỉ được gọi một cách phiếm chỉ “người đàn bà hàng chài”, “người đàn bà vùng biển” hay “mụ”. Điều đó cho thấy, nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu cũng chỉ là một trong số biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng lại được xây dựng với số phận và cuộc đời mang tính đại diện cho những người đàn bà vùng biển trong xã hội.
Khi mới xuất hiện, nhân vật được nhà văn miêu tả với những nét ngoại hình. Dáng người mang đặc trưng của những người phụ nữ sống ở vùng biển “cao lớn với những đường nét thô kệch”. Khuôn mặt của người đàn bà hiện lên đầy “mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”, “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng…”. Với ngoại hình này, Nguyễn Minh Châu đã gợi ra một cuộc đời đầy lam lũ, khổ cực của người đàn bà hàng chài.
Nhưng đằng sau ngoại hình xấu xí đó là vẻ đẹp khuất lấp đã được nhà văn khắc họa qua cuộc trò chuyện của người đàn bà với Đẩu và Phùng ở tòa án huyện. Sau trận xô xát của Phùng với người đàn ông hàng chài. Mấy ngày sau đó, người đàn bà hàng chài đã được chánh án Đẩu mời lên tòa. Một người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong phòng đầy bàn ghế và giấy má liền tìm đến một góc tường để ngồi. Điều đó thể hiện rõ sự nhút nhát, hiền lành của nhân vật này. Tại đây Đẩu khuyên chị hãy bỏ người chồng vũ phu: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu. Chị nghĩ thế nào?”. Thế nhưng, khi chánh án Đẩu nhắc đến chuyện ly hôn, chị ta lại van xin “Con lạy quý tòa … Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Câu trả lời của người đàn bà hàng chài khiến cho Phùng cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt và phải bước ra. Sự xuất hiện của anh đã khiến người đàn bà cảm thấy sợ sệt.
Đến khi nghe Đẩu nói, trái với vẻ sợ sệt lúc ban đầu, người đàn bà hiện lên là một người phụ nữ từng trải, thấu hiểu lẽ đời: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...”. Người đàn bà ấy còn chấp nhận hết mọi lỗi lầm về mình: “Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối... ”. Không chỉ vậy, chị còn hiểu được nỗi khổ của chồng, người đàn ông hàng chài bản chất vốn không phải kẻ vũ phu, độc ác. Mà anh ta cũng chỉ là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Đối với chị, người chồng còn là chỗ dựa “để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Càng thấu hiểu điều đó, chị lại càng chấp nhận hy sinh vì các con: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”. Niềm vui lớn nhất của người đàn bà ấy cũng là lúc được ngồi nhìn các con được ăn no, lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận vui vẻ. Thì ra đằng sau vẻ ngoài xấu xí, quê mùa ấy là một trái tim chan chứa yêu thương, một tâm hồn cao đẹp của người đàn bà vùng biển.
Như vậy, Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật người đàn bà hàng chài hiện lên đầy chân thực. Với những giá trị nhân văn cao đẹp, tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa chắc hẳn sẽ có sống mãi với thời gian.
5. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 5
Chiếc thuyền ngoài xa là một truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu. Trong truyện, em cảm thấy ấn tượng nhất với nhân vật người đàn bà hàng chài.
Xuất hiện trước mắt độc giả, người đàn bà hàng chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: “thân hình cao lớn”, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh bất hạnh nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá đáng của nhân vật khi im lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.
Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục ấy là cả một tấm lòng vị tha, độ lượng, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, can đảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống ấy bởi lẽ chị yêu thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Và dù bị đánh đập, hành hạ bao nhiêu thì người đàn bà ấy vẫn cảm thông với những khó khăn của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng giây phút hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người đàn bà hàng chài vẫn là người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao sóng gió, khó khăn, không chỉ khiến chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.
Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi miêu tả nhân vật bằng những chi tiết chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người ấy.
Tóm lại, người đàn bà hàng chài là nhân vật được xây dựng rất thành công của Nguyễn Minh Châu. Qua nhân vật này, nhà văn cũng gửi gắm được tư tưởng nhân văn có giá trị đến độc giả.
6. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 6
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mĩ, cũng là cây bút tiên phong thời kì đổi mới. “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn xuất sắc ở thời kì sau, viết về lần giáp mặt của một nghệ sĩ với cuộc sống đầy nghịch lí của một gia đình hàng chài, qua đó thể hiện lòng xót thương, nỗi lo âu đối với con người và những trăn trở về trách nhiệm của người nghệ sĩ. Tác phẩm được xây dựng với nhiều nhân vật, nhưng có lẽ nhân vật để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc nhất là nhân vật người đàn bà hàng chài.
Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở tòa án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tích cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở đối với tác giả và người đọc.
Người đàn bà hàng chài, không được gọi tên. Chỉ được gọi bằng những đại từ” Người đàn bà, bà…” Người đàn bà chạc bốn mươi tuổi, mang thân hình quen thuộc của người vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Người đàn bà có ngoại hình thật xấu xí. Trước kia, người đàn bà này sống ở phố. Con một gia đình khá, nhưng không ai lấy vì xấu. Chị đã có mang với anh làng chài và đã có cuộc sống hôn nhân với anh. Người khác nhìn vào cho rằng đây là địa ngục vì ba ngày chị bị một trận nhỏ, năm ngày chị bị một trận lớn. Chị khổ cả về thể xác và tinh thần, giống bao gia đình làng chài khác, gia đình chị đông con, nghèo khó. Người đàn ông xấu xí (chồng chị), một phần vì cuộc sống làm cho tính cách hắn hung bạo. Hắn dùng cách giải thoát sự bức xúc bằng cách đánh đập chị, chửi rửa chị và các con chị “ Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ” Bị những trận đòn roi những cái quất mạnh của chồng tàn bạo, nhưng chị vẫn “ Với vẻ mặt cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không tìm cách chống trả, không tìm cách chạy trốn. Trận đòn roi chỉ dừng lại khi thằng Phác lao tới cứu mẹ và đánh lại bố”. Cả hai mẹ con chỉ biết khóc.
Khi gặp chánh án Đẩu và gợi ý cho chị về vấn đề ly hôn, chị nhất định không chịu, chị hiểu rằng trên con thuyền này cần một người đàn ông chèo chống vượt qua. Xưa chồng chị là một con người cục tính nhưng không bao giờ đánh vợ. Nhưng cũng vì cuộc sống khó khăn, làm cho người đàn ông đánh vợ con. Chị nhẫn nhục cam chịu, nhận hết trách nhiệm về bản thân mình. Nhận vì mình đẻ nhiều con mà cuộc sống khổ cực. Theo chị, ông ta trở nên thô bạo như vậy là do hoàn cảnh quá nghèo, quá khổ. Người chồng vũ phu kia chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.
Khi bị người chồng đánh, chị không có một phản kháng nào, không chống trả, cũng không chạy trốn. Chị coi việc bị đánh như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị đã phải gửi thằng Phác lên rừng để nó không phải hận bố vì thấy cảnh đã đánh mẹ. Chị không muốn bỏ chồng vì không muốn nhìn cảnh các con thấy bố mẹ chia tay. Cũng vì thương con chị đã yêu cầu lão chồng vũ phu mang chị lên bờ mà đánh vì sợ con nhìn thấy. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
Tác giả đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập. Một bên là người đàn bà xấu xí, phi thẩm mĩ, một bên là vẻ đáng thương, phẩm chất bên trong của con người đáng trân trọng. Người đàn bà trong truyện là người có cốt cách bên trong, biết nhìn xa, thương đàn con nhỏ, giàu đức hi sinh, lòng vị tha, thương chồng, thương con, am hiểu lẽ đời, sẵn sàng hi sinh bản thân về hạnh phúc, no ấm cho chồng, cho con. Đây chính là những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.
Qua hình ảnh người đàn bà hàng chài trong truyện chiếc thuyền ngoài xa, chúng ta vẫn thấy thấp thoáng người phụ nữ Việt Nam, dù vẻ ngoài không đẹp nhưng bên trong là một phẩm chất cao quí, luôn nghĩ tới gia đình, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để giữ gìn chăm sóc gia đình mình. Đồng thời tác phẩm đã phản ánh một điều, không nên có cái nhìn một chiều về con người và cuộc sống mà cần phải có cái nhìn bao quát và toàn diện hơn.
7. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 7
Ai đó đã từng nói “ Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Và Nguyễn Minh Châu với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong số đó. Nổi bật trong tác phẩm là nhân vật người đàn bà hàng chài.
Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật khá sắc nét bằng bút pháp hiện thực theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất. Xuất hiện trong tình huống đầy nghịch lí dưới khám phá của nhân vật Phùng, nhân vật người đàn bà làng chài hiện lên với những vẻ đẹp khuất lấp khiến ta xót xa, lo âu và không khỏi trăn trở.
Xuất hiện trước mắt độc giả, người đàn bà làng chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: “Thân hình cao lớn”, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh bất hạnh nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá đáng của nhân vật khi im lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.
Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục ấy là cả một tấm lòng vị tha, độ lượng, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, can đảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống ấy bởi lẽ chị yêu thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Và dù bị đánh đập, hành hạ bao nhiêu thì người đàn bà ấy vẫn cảm thông với những khó khăn của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng giây phút hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người đàn bà làng chài vẫn là người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao sóng gió, khó khăn, không chỉ khiến chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.
Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi miêu tả nhân vật bằng những chi tiết chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người ấy.
Tóm lại, nhân vật người đàn bà hàng được Nguyễn Minh Châu xây dựng đã góp phần trong việc thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp mà nhà văn muốn gửi gắm.
8. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 8
Khi chắp bút viết lên những đứa con tinh thần của mình, mỗi nhà văn lại cho thấy những quan điểm nghệ thuật rất khác nhau nhưng cũng có những điểm giao thoa và đồng nhất. Theo Thạch Lam: “Đối với tôi, văn chương không phải cách đem đến cho người đọc thoát ly quên, trái lại văn chương thứ khí giới cao đắc lực mà có, để vừa tố cáo vừa thay đổi giới giả dối tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm phong phú hơn”. Cùng quan điểm tương tự, Tô Hoài khẳng định: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Như vậy, các nhà văn xoay quanh các hiện tượng xã hội, lật trở các mặt để thấy rõ những khía cạnh khác nhau, cũng như Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Trước những bất công, trước cái ác, anh không có quyền dửng dưng, thấy kệ khi con người bị đày đọa, và công việc đó phải là phản ứng tự nhiên của nhà văn”. “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là một tác phẩm như thế và nhiều hơn thế. Truyện ngắn đã có những “phản ứng tự nhiên” của nhà văn trước xã hội, đồng thời để lại nhiều ấn tượng với bạn đọc là hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài được thể hiện qua trích đoạn: “Mong các chú cách mạng thông cảm cho... chúng nó được ăn no...” Từ hình ảnh nhân vật ấy, mỗi người trong chúng ta cũng tự rút ra được cho mình những nhận thức mới mẻ về cuộc sống.
Nguyễn Minh Châu - một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”, người nghệ sĩ ấy luôn trăn trở về sứ mệnh của một nhà văn, mang trong mình một khát khao tìm kiếm “những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”, để nâng đỡ và yêu thương con người nhiều hơn. Tất cả những mong ước ấy được trao gửi trong “Chiếc thuyền ngoài xa” - một tác phẩm được sáng tác năm 1983, khi đất nước ta bắt đầu bước vào thời kì độc lập. Thế nhưng, cuộc sống thời bình vẫn còn ở đó với biết bao vấn đề cần đặt ra. Đằng sau cái vẻ đẹp lộng lẫy của một đất nước bước vào hòa bình ấy là cuộc sống con người còn nhiều khó khăn, gian khổ. Chính vì vậy, tác phẩm vừa là hồi chuông cảnh báo đồng thời mở đường cho cảm hứng đời tư, thế sự - một xu hướng chung cho văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Khi gấp lại những trang văn của “Chiếc thuyền ngoài xa” người đọc không thể nào thôi thổn thức với trích đoạn khi người đàn bà hàng chài được tỏ bày về niềm hạnh phúc chắt chiu của mình.
Nhìn lại về hành trình sáng tác bền bỉ của Nguyễn Minh Châu, có thể thấy trong Các tác phẩm truyện ngắn của mình, Nguyễn Minh Châu thường xây dựng những tình huống truyện éo le, nghịch lí. Bởi nhà văn muốn thông qua những tình huống đó để nhân vật có cơ hội khám phá hiện thực cuộc sống vốn luôn chứa đầy những nghịch lí, đầy phức tạp, bí ẩn, từ đó đi đến khẳng định về “cuộc đời đa sự, con người đa đoan”. Người đàn bà hàng chài là một trong số những nhân vật đã được nhà văn đặt để vào tình huống éo le, nghịch lí như thế trong “Chiếc thuyền ngoài xa”. Nhân vật ấy xuất hiện qua điểm nhìn từ người nghệ sĩ Phùng không có một cái tên, chỉ thường được gọi với đặc điểm nổi bật nhất của chị - người đàn bà hàng chài. Cách gọi ấy khiến chúng ta hình dung ra sự phổ biến của nhân vật trong cuộc sống, những con người như thế chúng ta có thể dễ dàng gặp ở khắp nơi. Chị trạc ngoài 40 tuổi, thân hình cao lớn, đường nét thô kệch, rỗ mặt. Nhìn kỹ một chút thấy khuôn mặt mệt mỏi, tái nhợt, dáng đi chậm chạp như bà già. Người đàn bà ấy mặc quần áo rách rưới, tấm lưng áo bạc phếch, ướt sũng. Có thể thấy, vóc dáng, diện mạo ấy đã hằn in những nhọc nhằn lam lũ nghèo túng của người đàn bà hàng chài, đồng thời hé lộ một số phận khổ đau. Đã vậy, người đàn bà ấy lại xuất hiện trong một tình huống éo le, nghịch lý. Khi bị chồng đánh trên bãi cát, người đàn bà ấy không van xin, không né tránh, không chống cự, “định đưa tay lên búi lại tóc rồi lại buông thõng hai tay xuống”. Lời cầu xin duy nhất là xin chồng đưa mình lên bờ để đánh - khiến cả Phùng và Đẩu, thậm trí là bạn đọc phải cùng phải thốt lên “Thật không thể nào hiểu được”. Để rồi khi nhận được sự giúp đỡ từ Phùng và Đẩu, có thể nhờ luật pháp can thiệp để thoát khỏi lão chồng độc ác, vũ phu, chị ta hoảng hốt quỳ sụp xuống van xin rối rít “Con lạy quý tòa, quý tòa phạt con cũng được, bỏ tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó” - khiến Phùng thấy thất vọng, ngột ngạt “căn phòng đang lộng gió biển như bị rút cạn hết không khí”. Bao nhiêu những sự khó hiểu đến khó tin ấy đều đã được chị lý giải tường tận để rồi Phùng và Đẩu - đặc biệt là bạn đọc hiểu rõ về những quyết định nghịch lí của chị.
Không gian của trích đoạn là nơi toà án huyện – nơi đưa ra những phán quyết với từng cá nhân, nơi con người ta sẽ nhìn nhận sự việc trên góc độ pháp luật, công bằng. Khi được gọi lên tòa án để giải quyết việc gia đình, ban đầu chị còn rụt rè, lúng túng, sợ sệt, vái lia lịa, xưng hô lễ phép “quý toà, con” ở chốn công đường và ra sức lạy xin. Sau đó chánh án Đẩu khuyên chị li hôn để thoát khỏi nạn bạo hành thì người đàn bà ấy – khi đã hiểu được tấm lòng của những con người tốt bụng kia đã hoàn toàn thay đổi tư thế và lối xưng hô “tôi, các chú” rất thân mật, lí lẽ cũng linh hoạt hơn, chủ động bày tỏ ý kiến. Từ đó, biết bao nhiêu những lí do thấu tình đạt lí được đưa ra. Tuy thất học quê mùa, không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực sự rất sâu sắc khi nhìn “suốt cả cuộc đời mình” về cuộc sống, về con người, về thiên chức làm mẹ: “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ.” Đến đây, bạn đọc hiểu thêm một lý do vì sao người phụ nữ này lại luôn lựa chọn im lặng trước đòn roi của chồng, là bởi vì chị hiểu trên mỗi con thuyền cần có một người đàn ông khỏe mạnh để chèo chống khi biển động, sóng to – anh ta là trụ cột cho cả gia đình trên con thuyền nhỏ bé. Trên những con thuyền của các gia đình làng chài từ trước đến giờ vẫn thế, gia đình của chị cũng không phải là ngoại lệ. Đã vậy, người đàn bà ấy còn hiểu rõ được thiên chức của mình, chị không chỉ là một người vợ, chị còn là mẹ - mẹ của “đặng một sắp con”, chị hiểu thiên chức thiêng liêng mình có được và luôn giữ một tư duy rằng muốn nuôi được những đứa con khôn lớn thì phải khổ, đã là mẹ là phải khổ. Chị lựa chọn điều ấy, không phải coi nó như gánh nặng, đối với người đàn bà này “đặng một sắp con” ấy chính là động lực để chị chịu đựng, để chị không oán than cuộc đời có nhiều cái bất công. Có thể thấy, Nguyễn Minh Châu khi xây dựng về nhân vật người đàn bà hàng chài đã đặt để nhân vật của mình trong những sự lựa chọn - Sống ở trên bờ hay sống ở trên thuyền; Sống vì mình hay vì con; Sống cam chịu nhẫn nhục hay đấu tranh phản kháng lại bạo lực từ chồng. Và sự lựa chọn của chị luôn được đặt trong suy nghĩ, góc nhìn tự chủ, chấp nhận cuộc sống hiện tại, không than vãn, bao dung và luôn nghĩ cho người khác. Và bởi vì người đàn bà ấy chính là “con chiên ngoan đạo” của một thứ chủ nghĩa mang tên tình mẫu tử, thế nên ở bất cứ thời điểm nào, chị cũng mong muốn những điều tốt đẹp nhất cho những đứa con của mình. Chị nhận thức rõ số phận của mình là một người đàn bà miền biển thế nên: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!” Câu nói ấy giống như một lời khẳng định – một lời khẳng định về sự xác định trách nhiệm đối với con cái, cũng là một lời khẳng định thể hiện lòng yêu thương vô bờ của người mẹ dành cho những đứa con bé bỏng. Người đàn bà thất học ấy, cũng đã từng lo lắng cho việc những đứa trẻ nhìn thấy mẹ bị đánh sẽ không có một tuổi thơ bình yên nên đã gửi con về ông bà ngoại. Thế nhưng, đến khi đứa con của mình vẫn phải chứng kiến cảnh đó và có những sự phản kháng với người cha, chị đã khóc vì đau đớn. Đó không chỉ là nỗi đau đớn về thể xác mà còn là nỗi giày vò về tinh thần, bà luôn nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương, chị lo lắng như vậy niềm tin trong trẻo trẻ thơ bị tan vỡ. Đến lúc này đây thì cả hai người đàn ông hiểu ra rằng mọi ý nghĩ theo kiểu yêu cầu người phụ nữ bỏ chồng là xong, lên bờ sống là xong đều là những ý nghĩ đơn giản, nông cạn. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc và trân trọng những hạnh phúc nhỏ nhoi, vẫn sống vị tha, bao dung và có cái nhìn nhân hậu dành cho chồng.
Và để rồi vẫn là một lời cầu xin đừng bắt người đàn bà ấy bỏ chồng cùng với một nụ cười chắt chiu từ biết bao nước mắt: “Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.” Người đàn bà ấy vẫn luôn tự nhận mình là người thất học, lạc hậu, không hiểu biết nhiều. Vẫn là sự tự trọng ta thường nhìn thấy nơi người đàn bà này trong suốt cả câu chuyện trên toà án huyện. Và rồi, điều khiến bạn đọc bất ngờ đó chính là nụ cười hiếm hoi trên khuôn mặt xấu xí, lỗ rỗ đi kèm với lời tâm sự về những giây phút hoà thuận, vui vẻ của gia đình. Không thể thay đổi được những điều đang xảy đến trong hiện thực cuộc sống mình đối mặt, người đàn bà ấy lựa chọn thay đổi thái độ tiếp nhận, hành vi tiếp nhận, cảm xúc tiếp nhận. Chị chắt chiu những giây phút hạnh phúc ngắn ngủi của cả gia đình, biến nó thành động lực để mình tiếp tục đi qua những tháng ngày tăm tối. Ở người đàn bà hàng chài ta không chỉ nhìn thấy tình yêu thương con vô bờ bến mà ở đó còn là một thái độ sống tích cực, lạc quan. Vì chính chị mới là người hiểu rõ nhất về những quyết định của mình, chị luôn chọn điểm nhìn về người chồng của mình với góc nhìn thấu hiểu, cảm thông, đó là góc nhìn cứu giúp, nâng đỡ, chị cũng là người nhận thức rõ nhất về số phận của chị, những gì chị có thế nên thoạt đầu, ta có thể nghĩ quyết định ấy thật ngu ngốc từ một người đàn bà thất học, để rồi khi đào sâu tìm hiểu ta mới nhận ra được sự thấu tình, đạt lí trong suy nghĩ và hành động của chị.
Khi được hỏi về khoảnh khắc hạnh phúc trong cuộc đời mình, chị không ngần ngại mà đáp lời: “- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...” Ồ, thì ra hạnh phúc của một người mẹ nghèo chỉ giản đơn như thế, là việc nhìn những đứa con của mình được ăn no. Mặc dù với chị bất hạnh là những thứ luôn hiện diện, luôn có sẵn nhưng chị lại luôn tích cực hướng điểm nhìn của mình về những điều hạnh phúc dẫu rằng nhỏ bé, hiếm hoi, phải chắt chiu từng chút. Chính điều này đã giúp chị lựa chọn việc ở lại, chị bám vào những niềm hạnh phúc giản đơn ấy, bé nhỏ ấy để chăm sóc cho trái tim của mình. Vẻ đẹp của tình mẫu tử qua những lời bộc bạch của chị nhờ vậy mà sáng lấp lánh trong đôi mắt bạn đọc. Đến bây giờ, thông qua hình ảnh người đàn bà hàng chài ta mới hiểu được rằng: “Văn học nghệ thuật chân chính luôn đặt việc nhân đạo hóa con người vào vị trí trung tâm. Là tiếng nói của tình cảm, văn chương lấy hình tượng đậm chất cảm xúc làm phương tiện để đánh thức và nhân lên cảm xúc nhân văn nên phải lấy con người làm gốc. Trước nay một tác phẩm giá trị luôn hướng con người đến cái cao cả, cái thiện, cái tốt, cái đẹp. Tình yêu con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu cũng là nguồn cảm hứng căn bản nhất thúc đẩy các nhà văn miêu tả, phản ánh, sáng tạo.”
Những lời giãi bày ấy cho mỗi bạn đọc chúng ta hiểu thêm về người đàn bà hàng chài. Với những lời bộc bạch thật tình của người phụ nữ đáng thương đó ta mới có cơ hội thấy rõ nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hi sinh của bà là tình thương vô bờ đối với những đứa con. Ta cũng chợt nhận ra yêu cầu người phụ nữ bỏ chồng là xong, lên bờ sống là xong đều là những ý nghĩ đơn giản, nông cạn. Và đặc biệt hơn cả, trong khổ đau dài đằng đẵng ấy, người đàn bà ấy vẫn chắt chiu và trân trọng những hạnh phúc nhỏ nhoi, vẫn sống vị tha, bao dung và có cái nhìn nhân hậu dành cho chồng. Từ những điều ấy giúp ta hiểu thêm về cuộc sống kỳ diệu này. Cuộc sống luôn tiềm ẩn những vấn đề, những nghịch lí không bao giờ có thể giải thích, cắt nghĩa rõ ràng được, phải ở trong từng cảnh ngộ nhất định ta mới thấm thía được cái đa sự của cuộc đời và cái đa đoan của con người. Tất cả đã giúp chúng ta một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người. Khi nhìn nhận mọi vấn đề, chúng ta cần trang bị cái nhìn đa diện , nhiều chiều ....để ta có thể phát hiện ra bản chất thật sau cái vẻ ngoài của hiện tượng. Vì thế trong cuộc sống chúng ta không nên đánh giá hiện tượng và không thể đơn giản sơ lược khi nhìn nghĩ về cuộc sống của con người, không nên nhìn cuộc sống một cách dễ dãi, đơn giản qua hiện tượng. Và từ đó ta cũng nhìn nhận lại chính bản thân mình rằng ta đang nhìn mọi người, mọi việc bằng một đôi mắt bao dung chưa và chỉ luôn là soi xét? Biết bao nhiêu bài học có ý nghĩa ta cảm nhận được từ nhân vật người đàn bà hàng chài nói riêng và “Chiếc thuyền ngoài xa” nói chung. Giờ thì thêm một lần nữa, ta hiểu thêm về ý nghĩa của văn chương: “Có thể khẳng định rằng, thời nào cũng vậy, nhân đạo hóa con người-đó là sứ mệnh cao cả và cái đích đến của văn chương.”
Như vậy, bằng cách tận dụng không gian truyện ngắn, cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặt nhân vật vào những nghịch lý, éo le để được bộc bạch, trải lòng, Nguyễn Minh Châu gợi lên để lại những ý nghĩa sâu sắc về cuộc đời và suy nghĩ, góc nhìn của con người. Một người đàn bà hàng chài với những nỗi khổ đau nhưng chưa bao giờ có ý định từ bỏ, một người mẹ dành tất cả tình yêu thương cho những đứa con, coi đó là sự sống. Một con người luôn tích cực, lạc quan chắt chiu những hạnh phúc nhỏ bé, bình dị. Tất cả đều trở thành những ấn tượng khó phai trong tâm trí bạn đọc. Hình ảnh người đàn bà hàng chài với những vẻ đẹp tâm hồn lấp lánh thêm một lần nữa khiến ta nhớ đến quan niệm sáng tác của Nguyễn Minh Châu: “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”.
Sứ mệnh của nhà văn được Nguyễn Minh Châu hoàn thiện một cách thật trọn vẹn với “Chiếc thuyền ngoài xa”. Một hiện thực cuộc sống đen tối sau thời bình của nhân dân ta hiện lên rõ hơn bao giờ hết, một nhân vật cho ta nhìn thấy được những vẻ đẹp của con người lao động dẫu trong khó khăn: đó là tình yêu thương con, là sự bao dung, nhẫn nhịn, thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Nguyễn Minh Châu đã bày tỏ tiếng nói trân trọng với vẻ đẹp của con người lao động, mở ra những suy nghĩ tích cực cho bạn đọc, chính những điều đó đã kết tinh lại thành một nguồn sức mạnh kì diệu, một sức sống mãnh liệt cho tác phẩm trong dòng chảy khắc nghiệt của thời gian, đúng như lời nhận định: “Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại, mình nó không chấp nhận quy luật của cái chết”. Và những điều đẹp đẽ ta cảm nhận được từ “Chiếc thuyền ngoài xa” giúp ta hiểu hơn những gì Thạch Lam từng quan niệm:“Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp các hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở những vật tầm thường. Công việc của nhà văn là hiểu cái đẹp ở chỗ mà không ngờ tới, tìm kiếm cái đẹp kín đáo và che lấp, cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”.
9. Phân tích người đàn bà hàng chài - Mẫu số 9
Chiếc thuyền ngoài xa đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quý của bà.
Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.
Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.
Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta… Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không
biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chi mình người đàn bà đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị.
Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.
Người đàn bà bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho chị.