Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích sự sống đối mặt với cái chết trong Vợ nhặt

VnDoc.com xin gửi tới bạn đọc bài viết Phân tích sự sống đối mặt với cái chết trong Vợ nhặt để bạn đọc cùng tham khảo và có thêm tài liệu học tập nhé. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết và tải về tại đây.

1. Sự sống đối mặt với cái chết trong Vợ nhặt mẫu 1

Cái hoạ chết đói năm 1945 quả là khủng khiếp. Không chỉ đói xóm đói làng mà đói nửa nước. Từ bắc Trung Bộ trở ra, từ thu đông 1944 đến xuân hè 1945 hơn hai triệu người nằm xuống.

Kim Lân chọn bối cảnh ấy cho truyện Vợ nhặt. Không nhiều dòng miêu tả trực tiếp nhưng là những dòng rất hiếm trong văn chương từ đó đến nay. Cái nghèo ở Ngô Tất Tố, cái đói ở Nam Cao, ta thương cảm muốn rơi nước mắt. Cái đói và cái chết ở Kim Lân khiến ta khiếp sợ, rụng rời.

Nó hiện lên thành màu: xanh xám của da người sắp chết, đen kịt đầy trời của các đàn quạ. Thành mùi: gây gây của xác người, khét lẹt của những gì đốt lên ở nhà có người chết. Thành tiếng: thê thiết của quạ trên những cây gạo, hờ khóc gió đưa vào tận nhà, văng vẳng như từ dưới âm ly. Cuộc sống khắp nơi, cuộc sống ở xóm ngụ cư đều bị bao vây trong những màu, những mùi, những tiếng thê lương ấy. Chưa chết thì ủ rũ, hốc hác, thở than tuyệt vọng. Đến như Tràng to lớn lưng rộng như lưng gấu cũng chỉ đi từng bước một, đầu chúi về đằng trước như bị những lo lắng đè hẳn người xuống. Cô con gái nhanh nhẩu, táo tợn, mới mấy hôm đã tả tơi, gầy sọp, xám xịt. Bà cụ Tứ, mẹ Tràng, lại là hiện thân đầy đủ nhất cùa cái đói, cái chết truyền kiếp của nông thôn. Không gian toàn điêu tàn, rữa nát, cái chết lan tràn nơi nơi. Cái sống chỉ còn thoi thóp, leo lét.

Vậy mà mội chuyện trái đời đã xảy ra: chuyện lấy vợ lấy chồng. Chẳng theo lễ nghi nào cả. Cô gái đói lâu ngày, Tràng mời, cô ăn mấy bát bánh đúc, Tràng bảo có về với thì cùng về và cô theo. Hoàn cảnh là ngược đời: lấy vợ lấy chồng ít ra là lúc đời sống đang bình thường, lúc ăn nên làm nổi như mẹ Tràng chứ đâu trong con đói chết này, bản thân mình cũng chưa chắc qua khỏi. Mà lấy vợ lấy chồng là việc đại sự, việc sinh con đẻ cái, nối tiếp dòng họ, lưu truyền sự sống. Việc trọng đại cho đời người ấy lại xảy ra nhanh chóng ngoài sự tưởng tượng, có vẻ như không thực. Đời có đám cưới chạy tang, cũng rất nhanh. Đây cũng không phải chạy chết. Nhưng rõ ràng là thách thức cái đói cái chết. Cho nên cái đói cái chết chẳng buông tha. Đường về nhà của họ như đi qua cõi âm, thấp thoáng theo họ là dật dờ những bóng ma, đón rước họ là bầy quạ và tiếng quạ tối sầm; vang vào tận nhà, len vào giấc ngủ của họ là tiếng hờ khóc, tỉ tê, càng khuya càng rõ từ nhà có người chết; về tới nhà thì cảnh nhà vắng teo, rúm ró, hoang tàn, héo hắt, bữa cơm chỉ cháo loãng muối hột, cám khuấy.

Cái đói cái chết bám theo quyết liệt với tất cả sức huỷ diệt của nó. Tưởng như thế, đôi vợ chồng này chỉ đưa nhau đến chỗ chết. Nhưng không, họ vẫn trụ được, hơn thế, lại vượt lên chiến thắng với một sức sống mãnh liệt phi thường và sức sống ấy đã tạo ra một sự biến đổi kỳ diệu. Tất cả đều khác. Trẻ con khác, người lớn khác. Tràng khác, bà cụ cũng khác. Còn cô gái? Chính tác giả đã gửi sức sống ấy vào cô gái. Nó toả ra từ cô, cô như được trao chiếc đũa thần để làm nên mọi thay đổi đột ngột, lạ lùng, làm nổi bật lên trên cái phông âm u rung rợn của cái đói, cái chết kia, cái sáng tươi, cái ước mơ đổi thay số phận cho mọi người, cho mình. Cô là vợ nhặt nhưng lại là một hào quang, một luồng khí ấm tiêu biểu cho sự sống trường cửu, mãnh liệt và mầu nhiệm.

Vợ nhặt ngẫm kĩ lại là một cụm từ nhiều ý vị đau thương mà ý nghĩa. Nào phải đó là cái tên, nhưng nó vẫn chỉ cô gái ấy. Chỉ có chút bất thường và kỳ lạ. Vợ theo nghe đã buồn, vì theo không, chả cưới xin và cũng chả ai chấp nhận. Đây lại là vợ nhặt, chẳng khác gì một đồ vật đánh rơi hoặc vứt đi nay nhặt được. Chẳng là Dậu, là Tý nào cả. Chỉ là cô ả, rồi người đàn bà, nó cộc lốc. Kể ra cái đói, bỏ xứ tha phương cầu thực, biết đâu ngày mai không còng queo cái xác bên đường, thì tên tuổi làm gì. Nhưng cái vô danh ấy đâu phải là vô nghĩa. Để chỉ sức sống, sự sống thì cần gì tên với họ? Chỉ cần biết đó là một người đàn bà, một phụ nữ. Không ngờ ẩn trong cái chữ thảm thê vợ nhặt ấy lại là một sức mạnh truyền thống có độ dày hàng nghìn năm. Nhặt thì không ra gì, nhưng vợ thì vinh dự. Chữ an trong Hán tự có chữ nữ, nghĩa là đàn bà vào nhà thì yên lành, hạnh phúc. Cho nên cái danh xưng ấy không phải dễ dàng hiện ra ngay: úp mở bằng nói lái của trẻ con, ước đoán ở hàng xóm, rồi năm rè, bảy rụt mượn chai dầu hôi làm cớ. Tràng mới dám đọc nó ra: vợ mới vợ miếc.

Chính từ cái cách người vợ ấy, cô gái đã dần dần lột xác. Giữa đám em cùng lứa, cô ngang ngửa, thoải mái, cong cớn rồi sầm sầm, sưng sỉa, kể cả ăn xong một hơi bốn bát bánh đúc chẳng chút e dè, cô cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, quê và thô rất chi là tự nhiên. Vậy mà sau khi nghe Tràng có về với tớ thì cùng về, cô về thật, thì từ cái ngang ngửa, hồn nhiên nhưng đã biến đổi theo từng bước đi trên đường về nhà Tràng.

Đùa chơi quả có khác. Đi theo cùng về, chứa rõ sẽ làm gì nhưng là nghiêm trang rồi, nghiêm trọng nữa. Đi sau ba bôn bước, đầu hơi cúi, nón che khuôn mặt. Không nhất thiết vì đã có người dòm ngó. Chỉ là đối diện với lòng mình: chuyện số phận chứ chẳng phải chơi. Không nước mắt nhưng cứ rón rén, e thẹn đích như cô dâu khi bước khỏi nhà mẹ, ngoan ngoãn, dễ thương, rất nữ tính. Đôi ba quãng đường nữa đã thấy cô đàng hoàng thể hiện cái chức năng an bài của người vợ. Cô chế diễu (bé lắm đấy), mắng (hoang nó vừa vừa chứ), rồi dẹp hết e thẹn lẫn ngại ngùng, cô văng ngay khỉ gió, phát đánh đét vào lưng Tràng... ấy là cô đã đặt chân vào con đường làm người vợ. Thế nhưng, bước vào nhà, cô cứ ngồi mớm ở mép giường, tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần. Thì ra đến phút này cô mới nghĩ kĩ về tình cảnh mình. Tới đây là tới chỗ quyết định cuối cùng cho thân phận cô. Đành là đói nên cô phải tìm nơi nương tựa, nhưng liệu đây có phải là chỗ cô mong đợi? Bà cụ chưa về. biết ý bà ra sao. Cái thế ngồi rụt rè, chông chênh như chính là cái thế phân vân của lòng cô. Chuyện thành vợ bỗng dưng của cô đã bất đầu nhưng sau cứ như không thực. Làm vợ, làm dâu, mà như thế nào sao? Lấy chồng, hạnh phúc lớn nhất trong đời con gái mà lủi thủi, trơ trọi như thế này? Thảm thương, buồn tủi cho mình biết bao! Thật là ngổn ngang trăm mối, cô bần thần chưa biết tính sao. May bà mẹ Tràng tỏ ra thương cảm, an ủi, khuyên lơn nên cô cảm thấy yên lòng. Và sau một đêm làm vợ, sáng ra cô đã trở thành một con người hoàn toàn khác hẳn, cô đã là một người vợ đảm đang, siêng năng, quán xuyến mọi việc, đem lại một sinh khí mới cho gia đình.

Cô vợ ấy, nàng dâu ấy không chỉ biến đổi chỉ mình mình mà quan trọng hơn, và sâu sắc hơn là như đã thổi luồng gió lành đánh thức dậy sức nóng cho mọi người, mọi nơi, đem lại sự sống ngay trong cái đói, cái chết.

Cô vừa xuất hiện bên cạnh Tràng ở đầu xóm, cả xóm như sống đậy. Nhà cửa lúp xúp, tối om bỗng rộn ràng lên. Trẻ con ủ rũ không buồn nhúc nhích đã thoắt chạy theo Tràng và linh ranh như thế nào lại reo lên thích thú chông vợ hài người lớn kéo nhau ra cửa, mặt mày đang u tối bỗng rạng rỡ hẳn lên, kẻ dò đoánkẻ than thở và tỏ lòng thương cảm, xôn xao trước cảnh người đàn bà thẹn thẹn hay đáo để.

Nói gì Tràng! Bắt đầu là đùa vui lối nông dân trẻ trung. Đến khi thấy cô gái sau mấy hôm đã xám xịt, bay hết màu sống, anh mời, cô ăn liền liền, không kịp thở như đói đã lâu, anh nửa đùa nửa thật lửng lơ có về với thì cùng về, cô theo anh hơi chợn nhưng chặc lưỡi: kệ. Mọi sự tình bắt đầu từ cái kệ này. Tác giả bảo "Trong lòng Tràng bấy giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà"... Đúng thế. Trước hết là một suy nghĩ nghiêm túc rất nhân tình từ đáy sâu lòng anh. Người đàn bà ấy đã cuốn anh từ đùa vui chuyển qua tình thật, tiếp một sức sống mới cho lòng anh. Còn tận trong bản chất trai trẻ chưa có nổi vợ như anh, làm sao không vô thưc âm ỉ một xúi giục cũng rất người? Thế là quên khuấy những gì là lo lắng, là ê chề, tăm tối, quên cả ngày tháng trước mắt. Tràng ta tủm tỉm cười (trong truyện đếm được đến 10 lần, mỗi lần cười mỗi Khác), có vẻ phớn phở khác thường, mắt sáng lên lấp lánh. Và cũng như thường bên cạnh một người đàn bà mà mình biết là người của mình, anh cảm thấy cái gì đó lạ lắm, nó mơn man khắp da thịt, nó như vuốt nhẹ trên sống lưng. Anh thấy cần bày tỏ lòng mình bằng một cử chỉ, một câu nói thân thương nhưng thấy lúng túng chẳng làm được gì. Cái can đảm lớn lao của anh là giục cô vợ đi ngủ và bị mắng yêu là dơ! Biến đổi sâu sắc nhất ở anh là sau đêm làm chồng anh thấy lạ cả với mình. Như có gì nhập vào người, anh nghe êm ái, lửng lơ như ở trong giấc mơ đi ra. Anh xăm xăm chạy ra sân, muốn làm một việc gì cho xứng với tư cách người đàn ông đã có vợ... như có một sức sống mới mẻ, rạo rực sôi nổi trong mình.

Bà mẹ anh cũng như có nước cam lồ rưới vào, hoá khác hẳn. Bà như trẻ lại, vỗ về con dâu, ngọt ngào một u hai u, một con hay con, rồi tíu tít những dự định, ngăn riêng buồng cho đôi vợ chồng, nào mua gà nuôi, nào lúi húi giẫy cỏ sân. nào đon đả tươi cười với nồi cám khuấy mà bà gọi là chè đem ra đãi vợ chồng mới vào cuối bữa cơm tân hôn chỉ cháo loãng và muối hột bày trên cái mẹt rách, một bữa cơm không gì thê thảm hơn. Ôi, tấm lòng của những bà mẹ! Sao nó bao la thế. Chỉ có mấy lời phải chăng, thực tế từng trải cả một đời với giọng nói đẫm tình thương đem bày tỏ với cô gái là thay thế tất cả mọi lễ nghi, giải toả hết mọi bần thần mặc cảm của cô, là đã mẹ con, nàng dâu mẹ chồng hoà hợp, đằm thắm nghĩa tình. Bữa cháo đã thành bữa tiệc. Chát xít, nghẹn ứ trong miệng mà ngon ngọt trong lòng.

Buổi sáng hôm ấy như ngày Tết, ngày hội ở gian lều tồi tàn, rúm ró của mẹ con Tràng. Chẳng có bà Tiên nào đến đó. Chỉ có mặt một cô dâu, một người vợ mới. Vậy mà như phép thần, mọi vật từ cảnh sân, ang nước, rác rưởi, quần áo, tất cả đều đâu ra đó, sạch sẽ, ngăn nắp, quang đãng, ánh sáng ban mai chan tiếng chổi quét sân bỗng dưng cũng thành điệu êm tai. Từ con người đàn bà nhập vào gia đình, sự sống lan toả như nắng bình minh, ấm áp., hoà hợp, dâng đầy ước vọng, niềm tin. Chưa phải nói tới những đoàn biểu tình có cây cờ đỏ dẫn trước báo sự xoay chuyển tất cả mọi thân phận, mặc kệ tiếng quạ, vẫn cứ rờn rợn từng hồi, mặc kệ tiếng trống thúc thuế dồn dập, gay gắt bên ngoài.

Sự sống đã thách thức, đối mặt với cái chết cái đói và đã đàng hoàng chứng tỏ là bất diệt, lực lưỡng và mầu nhiệm. Chỗ sâu của dụng ý người viết là đó. Mở đầu là tôi sầm. kết thúc là bừng bừng thắm đỏ, nén sâu xúc động một tí tách hóm hỉnh đằng khác trong giọng điệu, đảo trước ra sau cho lạ lùng câu chuyện ở kết câu, lặng lẽ gài cô gái vào vai kỳ diệu... nghĩ cho cùng đều nhằm tô đậm dụng ý tư tưởng nghệ thuật ấy.

2. Sự sống đối mặt với cái chết trong Vợ nhặt mẫu 2

1. Trên nền hiện thực của nạn đói, bằng việc xây dựng nên một tình huống truyện độc đáo, đi sâu miêu tả diễn biến tâm lí phức tạp của các nhân vật và sáng tạo những chi tiết, hình ảnh đặc sắc, nhà văn chuyên viết truyện ngắn này đã để lại trong lòng người đọc những ám ảnh nghệ thuật khó quên. Câu chuyện xoay quanh cuộc đối mặt giữa sự sống và cái chết của những người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm ấy.

Không gian của truyện là xóm ngụ cư, bên bờ sông ven chợ xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn lửa. Điểm vào đó là âm thanh thê thiết của tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ đang gào lên từng hồi, là tiếng ai hờ khóc lúc to, lúc nhỏ vẳng đến từ phía những nhà có người chết đói. Không khí ở đây vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Quyện trong đó còn có mùi khét lẹt của đống rấm được đốt ở những nhà có người chết.

Bằng sự kết hợp của các yếu tố hình ảnh, âm thanh và mùi vị, nhà văn Kim Lân đã tạo ra ấn tượng về không gian truyện đặc trưng, mang màu tử khí. Rồi như một cận cảnh, ống kính của nhà văn dừng lại ở một bữa ăn ngày đói thật thảm hại.

Ở đó, miếng ăn dường như đã không phải dành cho con người nữa. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo. Niêu cháo lõng bõng, chỉ kịp chia cho mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn. Người mẹ già lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút, bà gọi đó là món chè khoán. Cái món ngon đáo để ấy thực chất là cháo cám, thứ mà con người khi đói nhìn thấy hai con mắt đã tối lại, khi ăn thì không nuốt nổi vì đắng chát và nghẹn bứ trong cổ.

Cái đói và cái chết nắm tay nhau càn qua xóm ngụ cư. Người người lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường.

Cái đói có sức mạnh tàn phá ghê gớm cả về hình hài đến phẩm giá con người. Mọi khuôn mặt ở xóm ngụ cư đều đã mang dấu tích của cái đói. Lũ trẻ con trong xóm độ này ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích. Ngay như Tràng - một thanh niên to khỏe trong xóm, giờ cũng chỉ bước đi từng bước mệt mỏi. Khật khưỡng trong bóng chiều nhá nhem là dáng điệu tả tơi của hắn - chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước.

Dấu vết tàn phá ghê gớm nhất của cái đói với con người vẫn là ở thị, người vợ mà Tràng nhặt được trong thảm cảnh của cái đói. Người phụ nữ này không có tên. Nhà văn gọi nhân vật là người đàn bà, là thị. Có lẽ số phận, những mảnh đời như thị không phải là hiếm trong nạn đói ấy. Thị mang một bộ dạng rách rưới, áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Có lẽ đã đói lâu ngày, nên vì miếng ăn, thị trở nên sấn sổ, trơ trẽn.

Chỉ bằng một câu hò tầm phơ tầm phào của Tràng - nhưng là câu hò có lời hứa về miếng ăn, Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!, thị vùng đứng dậy ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, rồi liếc mắt cười tít. Nhưng lần đó thị không được ăn. Lần thứ hai gặp Tràng, thị ở đâu sầm sập chạy đến, đứng trước mặt Tràng sưng sỉa kết tội: - Điêu! Người thế mà điêu!; - Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt. Và lần này, thị được ăn thật. Trước miếng ăn hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả: - Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì. Thị ngồi sà xuống, cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở: - Hà, ngon!

Có ai biết chăng, con người đang sà vào kiếm miếng ăn ấy vốn là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực. Sự đói khát đã hủy hoại nhân cách của thị, buộc thị phải vứt bỏ ý thức, phép tắc, sĩ diện, xấu hổ. Miếng ăn làm cho con người ta trở nên chao chát, chỏng lỏn; cái đói làm cho con người không còn biết đến thể diện; sự gào thét của cái bụng rỗng khiến con người trở nên trơ trẽn làm sao! Thái độ và hành động của thị trước miếng ăn làm ta xót xa đến rơi nước mắt. Nhưng trong cái điêu tàn và rữa nát, trong sự bủa vây của cái chết, sự sống vẫn không ngừng trỗi dậy, vươn lên. Từ thoi thóp, leo lét, có lúc nó mãnh liệt như có phép màu.

2. Ở thời điểm khủng khiếp nhất của nạn đói, khi xóm ngụ cư đang bị bao trùm bởi tử khí lạnh lẽo, khi sự sống đang phải đối đầu khốc liệt với cái chết thì vào một buổi chiều, người trong xóm thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Sự xuất hiện của thị đã làm mọi thứ thay đổi đột ngột, lạ lùng, thắp lên cái sáng tươi trên cái phông âm u, rùng rợn của cái đói, cái chết; thắp lên ước mơ thay đổi số phận cho bao kiếp người leo lắt nơi xóm chợ chiều này. Chỉ là cô vợ nhặt, nhưng thị thực sự là một hào quang, một luồng khí ấm, tiêu biểu cho sự sống trường cửu, mãnh liệt và màu nhiệm (Nguyễn Thị Thanh Cảnh).

Vợ nhặt có thể xem là một kết hợp từ rất đặc biệt chỉ có ở trong bối cảnh nạn đói kinh hoàng năm 1945. Cái đói đã đẩy đến những cảnh bi hài kịch, mạng người trở nên rẻ rúng, có thể nhặt được như người ta nhặt bất cứ thứ đồ vật gì. Nhặt thì không ra gì nhưng vợ thì vinh dự. Chính từ tư cách người vợ ấy, thị đã dần lột xác. Và nàng dâu ấy đến xóm ngụ cư mang theo một luồng gió mới, một ánh nắng mới, thắp lên sự ấm áp, niềm hi vọng và niềm tin vào ngày mai.

Giữa đám đông mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho, thị còn mang vẻ cong cớn, chẳng chút e dè, nhưng chỉ sau khi đồng ý khuân hàng lên xe rồi cùng về với Tràng, thị đã khác. Trên đường theo Tràng về, theo sau chừng ba bốn bước, thị đã có vẻ rón rén, e thẹn. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Che để bớt thẹn thùng, hay che để dõi theo mỗi bước chân số phận?

Sự xuất hiện của người đàn bà đi bên cạnh Tràng vào buổi chiều ấy đã xua đi vẻ mặt ủ rũ, xanh xám của những người dân xóm ngụ cư đang trong cái cảnh tối sầm lại vì đói khát. Trên khuôn mặt mỏi mệt, đăm chiêu của Tràng giờ đã có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem, có đứa còn cong cổ gào lên: - Anh Tràng ơi! Chông vợ hài. Người trong xóm cũng lạ lắm - Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Những khuôm mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Thị về xóm ngụ cư mang theo cái lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối nơi đây.

Về đến nhà, bước chân vào ngôi nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, thị đang cố nén một tiếng thở dài. Chất chứa trong cái ngực lép nhô lên ấy biết bao tủi hổ, buồn bã, bẽ bàng… Ở đây, thị cũng chỉ giám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần. Thị đang ý thức rất rõ về tình cảnh của mình. Cái thế ngồi rụt rè, chông chênh ấy chính là cái thế phân vân trong lòng thị: chuyện thành vợ Tràng vừa thực lại vừa như không thực; thân phận lủi thủi, trơ trọi trôi dạt vì miếng ăn, liệu có tìm được chốn nương thân?...

Thế rồi, thị gặp mẹ Tràng - người sẽ quyết định duyên phận cho thị trong ngôi nhà này. Người mẹ nghèo đã rất ngạc nhiên và không tin vào mắt mình khi thấy sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình. Bao nhiêu câu hỏi dội về đầy băn khoăn - Quái sao có người đàn bà nào ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại gọi mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?... Ô hay, thế là thế nào nhỉ?

Thế rồi, Tràng bước lại gần nói với mẹ: - Nhà tôi nó về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả… Giờ thì bà lão đã hiểu. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Bà lão đăm đăm nhìn người đàn bà, trong lòng cũng đầy thương xót. Trước mặt bà lão, thị cúi mặt, tay vân vê tà áo đã rách bợt, và khép nép đứng nguyên chỗ cũ.

Rồi, thị cũng đã được chấp nhận. Bà cụ Tứ đã xem thị là nàng dâu mới. Bà nhẹ nhàng với thị: - Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng… Bà còn hạ thấp giọng xuống thân mật: - Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…

3. Sau một đêm thị về làm vợ của Tràng, sau một đêm làm dâu nhà bà cụ Tứ, ngôi nhà ấy như có phép màu. Ngôi nhà rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi có dại, nay đã được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng. Mấy chiếc áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà nay đã được lấy ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch. Ngoài vườn, người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở, trong sân, cô con dâu đang quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Tất cả đều đã thay đổi mới mẻ.

Xung quanh thay đổi, cảm xúc của con người cũng khác. Thấm thía cảm động nhất vẫn là Tràng. Hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bấy giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.

Trong mắt Tràng, giờ đây thị cũng đã khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực. Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà cụ kể chuyện làm ăn gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này, chuyện Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà… Ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem… Một không khí ấm áp chan hòa trong ngôi nhà ấy, chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế.

Tình yêu thương chính là ngọn nguồn làm nên sự đầm ấm, hạnh phúc, dù đó chỉ là những điều thật đơn giản, bình thường. Hạnh phúc làm cho con người ta thay đổi. Hạnh phúc làm cho con người ta xích lại gần nhau, sưởi ấm cho nhau. Tư tưởng nhân đạo của Kim Lân được truyền đến người đọc một cách nhẹ nhàng mà thấm thía.

Dẫu vẫn còn đó, những bữa ăn ngày đói thảm hại, dẫu cho trống thúc thuế vẫn dội lên dồn dập, vội vã ở ngoài đình, trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ đàn quạ vẫn hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đãm mây đen, nhưng câu chuyện về cái đói đã chuyển hướng khác. Theo lời của cô con dâu, - Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy. Tràng đã biết đến Việt Minh. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm. Lá cờ đỏ đó vẫn bay phấp phới trong óc Tràng...

Hình ảnh kết thúc truyện đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, rằng Tràng và gia đình bé nhỏ của anh, rằng hàng triệu những con người khốn khổ sẽ có lá cờ đỏ dẫn đường đi giành áo cơm và sự sống cho mình. Đây chính là điểm khác biệt giữa Vợ nhặt với các tác phẩm cùng viết về đề tài người nông dân trong văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, năm 1945.

4. Trong truyện ngắn Vợ nhặt, hành trình giành giật sự sống từ cái đói, cái chết của những người nông dân nghèo trong nạn đói 1945 đã được nhà văn Kim Lân dồn nén đến mức căng thẳng, đến tận cùng của giới hạn ở tình huống truyện độc đáo. Tình huống trở trêu, éo le từ việc Tràng nhặt vợ được tạo ra trong hoàn cảnh đối đầu khốc liệt giữa sự sống và cái chết, giữa hạnh phúc và đau khổ, giữa hi vọng và tuyệt vọng, giữa cái ấm áp của tình người và cái lạnh lẽo thê lương của chết chóc…

Đặt nhân vật vào tình huống ấy để thử thách sức sống của con người, nhà văn muốn thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc trong việc ngợi ca, trân trọng và đặt niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người. Bằng giọng kể trầm buồn, Kim Lân đi sâu vào diễn biến nội tâm rất phức tạp và tinh tế của mỗi nhân vật, nhận ra cuộc đấu tranh giằng co quyết liệt giữa sự sống và cái chết, giữa vị kỉ và vị tha, giữa thực tại và ước mơ… trong những hoàn cảnh thử thách nghiệt ngã, phát hiện ra thứ ánh sáng lấp lánh, sáng lên trong mỗi con người, mỗi số phận, đó chính là tình người. Tình người sẽ xua tan u ám, thắp lên niềm vui, niềm hi vọng để con người vượt qua khó khăn, sống tốt cho ngày mai.

Sức sống của một tác phẩm văn học phải được nẩy mầm từ cội rễ của những giá trị nhân văn sâu sắc, và nở hoa cùng tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ. Vợ nhặt của Kim Lân là tác phẩm như thế.

3. Sự sống đối mặt với cái chết trong Vợ nhặt mẫu 3

"Vợ nhặt" là tác phẩm ưu tú của nhà văn Kim Lân và cũng là một trong những thành tựu xuất sắc của nền vãn học cách mạng. Tác phẩm ra đời cách đây đã trên bốn mươi năm, viết về một giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc: nạn đói năm 1945 – từ Quảng Trị đến Bắc Bộ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói; thế nhưng, tác phẩm không mang tính nhất thời và sẽ bất tử với thời gian bởi giá trị nhân văn cao cả, niềm tin không bao giờ tắt hướng về con người. Trong tác phẩm, niềm tin ấy được thể hiện ở chỗ: " những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống."

Như nhiều tác phẩm trước đó viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận lương thiện và cùng khổ. Ông không dành nhiều trang viết mô tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ – người chết đói như ngả rạ – mà chủ tâm thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái bề ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Cốt truyện "Vợ nhặt" thật đơn giản: Một anh chàng nghèo khổ – tên Tràng độc thân, chỉ với mấy câu "hò chơi cho đỡ nhọc", đã có được cô "vợ nhặt" – đang sống dở, chết dở vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa cái cảnh "tối sầm lại vì đói khát”. Đêm tân hôn của họ âm thầm trong bóng tối, giữa tiếng than khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió đưa lại. Bữa cơm cưới của đôi vợ chồng trẻ và người mẹ già chỉ có cháo loãng, muối hột, nhưng ăn uống rất ngon lành, trong hồi trống thúc thuế. Ba mẹ con vừa ăn cơm, vừa bàn chuyện Việt Minh phá kho thóc chia cho dân nghèo. "Trong óc Tràng, vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới".

Ngay từ đầu, câu truyện đã hiện lên đượm màu sắc tang thương tử khí: "Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người". Thực không còn gì ảm đạm hơn bức tranh quê ấy. Trong khi trước đó không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, “cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy lại xôn xao lên được một lúc" con bây giờ, cái đói đã đè nặng lên vai mỗi người; ngay cả bọn trẻ – những đứa bé hồn nhiên, vô tư nhất cũng mất đi sự tự nhiên, ngây thơ của mình, chúng ủ rũ, không buồn nhúc nhích…

"Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều, người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa". Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái để tiếp nối sự sống. Giọng văn lúc này thật dồn nén và gây cảm xúc mạnh, mộc mạc mà lôi cuốn: "Mặt hắn có vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh". Đọc đến đây, ta không thể không nghĩ đến những trang bi kịch của Secxpia, Môlie hay Stăngđan. Tuy nhiên, bi kịch ở đây đã vượt lên sự thông thường vẫn có; nó cũng không phải là "hiện thân của sự ngu dốt" như Mác nói, mà trở nên sự cao cả "đẹp tươi lạ thường". Đó là biểu hiện cao nhất của sự chiến thắng, vượt lên trên thực tại chết chóc, đen tối để hướng tới sự sống, niềm tin, ánh sáng. Với chi tiết Tràng cùng vợ đi về nhà, chủ nghĩa nhân đạo trong văn học nước nhà cũng có thêm một tiêng nói mới, có sức mạnh.

Chuyện lấy vợ của Tràng, trước hết là một chuyện lạ mà thi vị. Điều ấy đã khiến người dân ở xóm ngụ cư hết sức tò mò, từ bọn trẻ con cho đến tất cả người làng; "Họ bàn tán… Họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên”. Từ trong sâu thẳm tâm hồn những người dân làng, le lói lên một chút niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Có thể nói, trong phút chốc, khi Tràng cùng với cô "Vợ nhặt" đi về làng, cái chết, sự ảm đạm thâm u nơi xóm ngụ cư được đẩy sang một bên. Xóm ngụ cư đang ở trên miệng vực cái chết, bỗng hé lên một thoáng sống.

Nhưng, niềm vui vừa đến, đã phải nhường chỗ chó sự âu lo. Dân làng lo thay cho Tràng: Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không. Tuy nhiên, đó không phái là nỗi lo tuyệt vọng, mà là lo cho cái sống. Sự chết chóc cứ ám ảnh, đe dọa sự sống, nhưng sự sống vẫn vượt lên cái chết. Khuôn mặt "rạng rỡ" của người dân làng, ánh mắt của họ thực ý nghĩa, nói với chúng ta bao điều.

Ở bước đường cùng, người ta sinh ra liều lĩnh – điều đó thực đúng lắm thay! Hành động nhân đùa làm thật của cô gái theo chân Tràng về nhà, xét đến cùng, là một hành động liều lĩnh. Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào các dịp chở thác lên tỉnh. Với Tràng, chị ta chẳng để lại trong anh một ấn tượng gì. Bởi thế, lần thứ hai gặp lại, Tràng phải mất một thời gian mới nhận ra và cũng như nhiều nhân vật khác trong các sáng tác của Nam Cao, cái dạ dày chị đã chiến thắng khối óc và con tim: được Tràng đãi, chị ăn liền một chập bốn bát bánh đúc. Cái đói đã đẩy lùi ý thức nhân cách, sĩ diện. Quên cả thẹn thùng, người đàn bà không tên ấy cắm đầu ăn "không chuyện trò gì". Khi Tràng ngỏ lời, không cần suy nghĩ, chị cũng đi theo một cách dễ dàng, "vô tư lự". Thế mới hay, cái đói ghê gớm biết chừng nào. Và hai cái "liều" gặp nhau đã tạo nên một gia đình thời tao loạn. Điều đáng chú ý là ở đây, khi cùng người "Vợ nhặt" về nhà, Tràng bỏ ra hai hào để mua một chai dầu, điều này có nghĩa là anh đã thắp lên một ngọn lửa trong cuộc sông tăm tối của mình, đem lại chút ánh sáng cho gia đình cũng như dân làng. Điều này chi phối toàn bộ văn phẩm. Cũng từ cuộc "hôn nhân" của Tràng, những người đời mới thực sự không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống.

Khi Tràng cùng vợ về nhà, cuộc sông trước mắt họ không kém phần thảm hại: căn nhà vắng teo, rúm ró; niêu bát, áo xống bừa bộn… Ôi, lấy vợ cưới chồng, yên bề gia thất!. Việc lớn một đời, hạnh phúc trăm năm! Vậy mà, họ bị bủa vây bởi sự nghèo đói chết chóc. Nhưng, sự sống là bất diệt, chẳng bao giờ chán nản. Trong cái chết, sự sống vẫn tồn tại, tìm chỗ sinh sôi nảy nở. Tất cả thật dữ dội, mà ý nghĩa thì lớn lao: sự sông luôn tồn tại, bất chấp cái chết…

Việc hai người xa lạ bỗng gắn bó với nhau trong cơn đói kém, chứng tỏ quyết tâm nghĩ đến cái sống của hai người, đem lại cho họ – trước hết là Tràng một niềm vui lớn lao. Trong truyện ngắn, hơn hai mươi lần nhà văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của Tràng, khi đã có vợ. Tình yêu của hai người, có sức cải biến thật lớn.

“Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sông ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa… Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy…”. Đúng vậy. Niềm vui lớn nhất đời anh đã thành sự thực; có vợ. Cái "mới mẻ", "lạ lẫm" ấy là tinh thần trách nhiệm của một người chủ gia đình sẽ phải lèo lái con thuyền nhà – gia đình qua thời điểm khó khăn, vươn lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt để xây dựng cuộc sống. Tràng bỏ sau lưng tất cả những tiếng hờ khóc, tiếng quạ kêu…

Chỉ sau một đêm "nên vợ, nên chồng", Tràng thấy mình có sự đổi khác: "Trong người êm ái lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ như không phải…". Chuyện được "vợ nhặt" của Tràng ngỡ như đùa nhưng lại là sự thật; bao nhiêu sự sống, sinh khí trở lại với Tràng, với gia đình sau khi anh có vợ. Và cũng từ buổi "sáng hôm sau đó", dường như tất cả sự thực chết chóc không còn tồn tại nữa, Tràng chỉ nghĩ đến sự gây dựng cuộc sống, hướng về sự sống mà tạo lập hạnh phúc: "Tràng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm ché mưa, che nắng. Một nguồn vui sướng, phân chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thây hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này",..

Có thể nói, đó là biếu hiện cao nhất của tinh thần hướng về sự sống, quên đi cái chết đang bủa vây.

Vợ Tràng là một nhân vật khá độc đáo. Chị không có tên, không tuổi, không đặc điểm nhận dạng và, quê quán. Tưởng rằng, khi chị theo Tràng đi về nhà, với sự chao chát, chỏng lỏng văn học Việt Nam lại có thêm một nhân vật "không bình thường”. Nhưng không, ngòi bút Kim Lân chưa bao giờ để nhân vật của mình tha hóa, biến chất đến độ ấy. Khi về đến nhà Tràng, con người thật của chị mới hiện lên đầy đủ. Chị cứ "ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng". Vì sao vậy? Cái thế ngồi rụt rè, chông chênh ấy cũng là cái thế của lòng chị, trăm mối ngổn ngang. Liệu chỗ ngồi ấy có phải là chỗ của chị không? Nhà này có phải chốn để chị dung thân?

Và cũng như Tràng, sau một đêm làm vợ, chị đã thay đổi hẳn: "Trông chị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực…". Cái đói một khi được xua đi, thì sự tốt đẹp đúng như bản chất hiền trở lại với chị. Ấy cũng là lúc chị nghĩ đên sự sống, lo cho gia đình mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang… Có bàn tay săn sóc của chị, căn nhà trở nên gọn gàng, sáng sủa. Sự sống trở về với người với cảnh…

Bà cụ Tứ càng để lại cho người đọc những thiện cảm tốt đẹp. Thấy con lấy vợ trong hoàn cảnh khó khăn, bà không khỏi bùi ngùi, thương xót: "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái, mở mày mở mặt sau này. Còn mình thì…". Nhưng, bà thực sự vui mừng khi con trai đã yên bề giá thất: "Bà lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên…". Rồi trong bữa cơm, cả ba mẹ con đều quên đi hiện thực đau lòng để hướng đến một tương lai tươi đẹp hơn:

"Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại, chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…".

"Nghĩ đến cái sống, không nghĩ đến cái chết là ở chỗ đấy. Bà cố gắng xua đi thực tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho các con. Tuy nhiên, món chè cám đã nhắc họ về với thực tại. Chao ôi, chè cám! Phải đói đến một mức nào đó, người ta ăn cám mới cảm thấy ngon! Cuộc sống khắc nghiệt, đày đọa, bắt họ phải sống cuộc sống loài vật, nhưng nào có dập tắt được phần NGƯỜI đáng quí trong mỗi con người. Cái phần NGƯỜI ấy, sẽ giúp họ vượt qua giai đoạn khó khăn này.

Sẽ là thiếu sót lớn nếu bỏ qua hình ảnh những người nông dân trên đê Sộp cùng nhau đi phá kho thóc, khi nói đến những kẻ hấp hối trong vòng tử địa vẫn hướng tới cuộc sống. Đó là hình ảnh không hề ngẫu nhiên chút nào, được nhà văn chuẩn bị từ trước. Nó là dấu hiệu của "bước đường cùng", không còn cách giành sự sống nào khác, phải vùng dậy đấu tranh, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng thấy "ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu" bởi anh chưa bắt được mạch nguồn cách mạng. Trước mắt người đọc lúc này, sự sống trở thành mục đích chung của mỗi người; họ đấu tranh, đoạn tuyệt dứt khoát với cái chết. Và chắc chắn, mẹ con Tràng sẽ tiếp nối dòng người kia, giành sự sống cho mình.

"Vợ nhặt" là thành công xuất sắc của nền văn học cách mạng. Với truyện ngắn này, Kim Lân bày tỏ thiện cảm sâu sắc với những người nghèo khổ, nhưng giàu lòng nhân ái. Ông luôn khẳng định cái đói khát, chết chóc không thể giết chết niềm tin vào cuộc sống, Năm tháng qua đi, còn mãi với thời gian là chất nhân văn cao cả của một nghệ sĩ nhân đạo.

Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới các bạn Phân tích sự sống đối mặt với cái chết trong Vợ nhặt, mong rằng bạn đọc có thể học tập tốt môn Ngữ văn 12. Mời các bạn cùng tham khảo thêm các môn Toán 12, Tiếng Anh 12, đề thi học kì 1 lớp 12, đề thi học kì 2 lớp 12...

Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 12, Ôn thi khối C để có thêm tài liệu học tập nhé

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO/PROPLUS tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Ngữ văn 12

    Xem thêm