Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích trích đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ để làm rõ tư tưởng và ý nghĩa phê phán của vở kịch

Để giúp các bạn học sinh học tập hiệu quả hơn môn Ngữ văn 12, VnDoc mời các bạn tham khảo Phân tích trích đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ để làm rõ tư tưởng và ý nghĩa phê phán của vở kịch. Mời thầy cô và các bạn học sinh cùng tham khảo.

1. Dàn ý Phân tích trích đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt

1. Mở bài

- Lưu Quang Vũ là một trong những cây bút tài hoa để lại những dấu ấn trong nhiều thể loại: thơ, văn xuôi và đặc biệt là kịch. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.

- Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, đánh dấu sự vượt trội trong sáng tác của Lưu Quang Vũ.

- Nhân vật Trương Ba - một nhân vật bi kịch

2. Thân bài

a. Giới thiệu chung

- Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ

- Đây là một vở kịch mà Lưu Quang Vũ đã dựa vào cốt truyện dân gian, tuy nhiên chiều sâu của vở kịch chính là phần phát triển sau của tuyện dân gian.

b. Phân tích

- Hoàn cảnh éo le, bi đát của ông Trương Ba

+ Trương Ba là người làm vườn yêu cây cỏ, yêu thương mọi người, sống nhân hậu, chân thực, chưa tới số chết, nhưng vì sự tắc trách của quan nhà trời mà Trương Ba phải chết.

+ Hồn Trương Ba phải trú nhơ vào xác anh hàng thịt, một người thô lỗ,… Tính cách Trương Ba ngày càng thay đổi.

⇒ Bi kịch của sự oan trái.

- Cuộc đối thoại giữa hồn và xác

+ Hồn là biểu tượng cho sự thanh nhã, cao khiết, trong sạch, đạo đức nhưng tất cả hoàn toàn trái ngược qua phần đối thoại với xác. Hồn Trương Ba để lại trong mắt xác hàng thịt là một kẻ phàm ăn, tục uống; mê rượu và háo sắc; cư xử thô bạo với mọi người,…

+ Những biểu hiện ngay trong đối thoại khi Hồn Trương Ba không còn là chính mình: cư chỉ, điệu bộ lúng túng, khổ sở; giọng điệu có khi yếu ớt, lời thoại ngắn; khi đuối lý lại dùng lời lẽ thô bạo để trấn áp “Ta… Ta… đã bảo mày im đi”.

⇒ Bi kịch của sự tồn tại riêng rẽ: con người không thể chỉ sống bằng thân xác mà cũng không thể sống bằng tinh thần.

- Nỗi đau khổ của Hồn Trương Ba khi tìm về những người thân trong gia đình

+ Người vợ vừa hờn ghen vừa dằn dỗi chồng, có cảm giác ông là người sống xa lạ với mọi người.

+ Đứa con trai cả quyết định bán khu vườn để đầu tư vào sạp thịt.

+ Cái Gái, đứa cháu nội mà ông yêu quý nhất, không thừa nhận ông là ông nội, thậm chí nó còn cự tuyệt đến quyết liệt “Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông”. Trong mắt nó, Hồn Trương Ba chỉ là một tên đồ tể, tay chân vụng về, luôn phá hoại.

+ Con dâu tỏ ra thông cảm, hiểu và đau cho nỗi đau sống nhờ và sự thay đổi của Hồn Trương Ba.

⇒ Bi kịch bị người thân xa rời, khước từ cuộc sống.

- Khát vọng giải thoát khỏi thân xác người khác.

+ Trương Ba tự ý thức bi kịch của mình: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.

⇒ Bi kịch sống nhờ vào thân xác người khác

- Trương Ba trước cái chết của cu Tị

+ Trước đề nghị đổi thân xác của Đế Thích, tính cách TB từ chỗ lưỡng lự, suy nghĩ rồi quyết định dứt khoát.

+ Trương Ba muốn chết thật là để cho mình được sống mãi hoài nhớ của mọi người.

⇒ Giải thoát bi kịch của một sự giả tạo trong con người Hồn Trương Ba.

c. Đánh giá

- Hồn Trương Ba là một nhân vật quá chú trọng đời sống tinh thần mà coi nhẹ thân xác.

- Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba là bi kịch về nỗi đau của sự vênh lệch giữa thể xác và tâm hồn trong một con người.

- Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật, nghệ thuật tạo tình huống và diễn tiến kịch kích độc đáo.

3. Kết luận

- Đánh giá chung về nhân vật.

- Khẳng định tài năng viết kịch của Lưu Quang Vũ và sức sống của tác phẩm.

2. Phân tích tư tưởng và ý nghĩa phê phán của vở kịch mẫu 1

Lưu Quang Vũ thoạt đầu được nhiều người biết đến với tư cách nhà thơ. Nhưng về sau, ông gây được tiếng vang và đặc biệt được biết tới một với tư cách một nhà viết kịch tài ba. Những năm tám mươi, kịch của Lưu Quang Vũ đã chiếm lĩnh sàn diễn của rất nhiều nhà hát.

Lưu Quang Vũ mang khát vọng được bày tỏ, muốn được thể hiện tâm hồn mình vào thế giới xung quanh, muốn được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến. Khi đất nước bước vào thời kì vận động đổi mới, ý thức dân chủ trong đời sống xã hội đã ùa vào văn học. Hiện thực được phản ánh mang tính đa diện, đa chiều. Số phận con người, vấn đề cá nhân được khám phá, thể hiện đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Khát vọng được tham dự, được trao gứi, dâng hiến, khát vọng về cái đẹp, cái thiện, về sự hoàn thiện nhân cách con người vừa là ý thức công dân vừa trở thành nhiệt hứng nghệ sĩ ở Lưu Quang Vũ. Lúc ấy, viết kịch chính là hình thức có điều kiện tham dự, “xung trận” trực tiếp.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt được sáng tác theo hướng khai thác cốt truyện dân gian và gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống hiện thời. Truyện dân gian gây kịch tính sau khi hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt dẫn tới “vụ tranh chấp” chồng của hai bà vợ phải đưa ra xử, bà Trương Ba thắng kiện được đưa chồng về. Lưu Quang Vũ khai thác tình huống kịch bắt đầu ở chỗ kết thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn Trương Ba được sống “hợp pháp” trong xác anh hàng thịt, mọi sự càng trở nên rắc rối, éo le để rồi cuối cùng đau khổ, tuyệt vọng khiến Hồn Trương Ba không chịu nổi phải cầu xin Đế Thích cho mình được chết hẳn. Xâv đựng tình huống và giải quyết xung đột như vậy, Lưu Quang Vũ đã gửi gắm một triết lí sâu sắc về lẽ sống, lẽ làm người: cuộc sống thật đáng quý, nhưng không phải sống thế nào cũng được. Nếu sống vay mượn, sống chắp vá, không có sự hài hòa giữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi. Cuộc sống của mỗi con người chỉ thực sự hạnh phúc, chỉ có giá trị khi được sống đúng là mình, được sống tự nhiên trong một thể thống nhất. Đó là chủ đề tư tưởng chính của vở kịch.

Tài năng kịch của Lưu Quang Vũ thể hiện trên nhiều phương diện, tiêu biểu nhất là tài dựng cảnh và dựng đối thoại. Kịch tính căng ra trong những xung đột, những mâu thuẫn bên ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ hành động và ngôn ngữ nội tâm được diễn tả sống động, lời thoại thấm đẫm triết lí nhân sinh.

Đoạn trích có thể gọi là “Thoát ra nghịch cảnh” là cảnh cuối, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Hồn Trương Ba cảm thấy không thể sống trong “da” anh hàng thịt, không thế kéo dài “nghịch cảnh” mãi được. Hồn muốn tách ra khỏi cái thân xác kềnh càng, thô lỗ. Trong tình trạng ấy; nhà văn đã sáng tạo khi dựng lên đoạn đối thoại giữa hồn và xác để rồi trước sự giễu cợt, mỉa mai của xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba càng trở nên đau khổ, bế tắc. Thái độ cư xử của người thân trong gia đình càng khiến hồn tuyệt vọng. Hồn Trương Ba đã châm hương gọi Đế Thích, hai bên đang đối thoại thì cu Tị chết. Đế Thích gợi ý để hồn rời xác anh hàng thịt sang xác cu Tị. Nhưng hồn Trương Ba, sau một “quãng đời” vô cùng thấm thía, hình dung ra những “nghịch cảnh” khác khi phải sống trong thân xác một đứa bé đã quyết định xin cho cu Tị được sống và mình được chết hẳn.

Đúng là “nghịch cảnh” trớ trêu. Lưu Quang Vũ đã dựng lên hai cuộc đối thoại đặc sắc (đối thoại giữa hồn và xác và đối thoại giữa hồn và Đế Thích) cùng những đối thoại hỗ trợ khác (hồn với người vợ, với cái Gái, với chị con dâu) để đẩy xung đột nội tâm của hồn Trương Ba lên đến tận cùng từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh được phát biểu một cách sâu sắc, thấm thía.

Trước khi diễn ra cuộc đổì thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết: Không! Không! Tỏi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi. ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”.

Rõ ràng, hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ. Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với cái ước nguyện khắc khoải của hồn đã nói lên điều đó. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ đâu còn là một người làm vườn chăm chỉ, hết lòng thương yêu vợ con, quan tâm tới hàng xóm láng giềng như ngày trước. Ông Trương Ba được mọi người kính trọng đã chết rồi. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Người đọc, người xem càng lúc càng được thấy rõ điều đó qua các đối thoại và hồn Trương Ba cũng cáng lúc rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.

Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn hồn vẫn phải thừa nhận đó là cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì...”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây hồn cho là “phàm. Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mùi”, ... tất cả đều là sự thật. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.”. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu. Không chỉ đau khổ, hồn còn xấu hổ trước những lời nói công khai của xác mà trước đó hồn đã cảm thấy mà không muốn nói ra, không muốn thừa nhận.

Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người thân.

Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được... còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.

Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình cảm của ông: tôi không phải là cháu ông.. Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cụ Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó “ông nội đời nào, thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.

Chị con dâu là người sâu sắc chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa..”.

Tất cả những người thân yêu của hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng “cũng không khổ bằng bây giờ”.

Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần... lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào. Đặc biệt sau hàng loạt câu hỏi có vẻ tuyệt vọng của chị con dâu: “Thầy ơi, làm sao. làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ tốt lành như thầy của chúng cơn xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?” thì đương nhiên hồn không thể chịu đựng thêm được nữa.

Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ.. Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.

Cuộc trò chuyện giữa hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gởi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng:

Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn...

Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”.

Người đọc, người xem có thế nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gứi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng chênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.

Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ "bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.

Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ “mở nút”. Dựng tả quá trình đi đến quyết định dứt khoát của nhân vật hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm.

Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, với tinh thần chiến đấu thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chi thích hường thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cánh báo “muốn nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn”. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.

Lưu Quang Vũ đã chết một cách rất thương tâm trong một tai nạn giao thông. Khoảng trống mà nhà viết kịch tài ba ấy để lại trong nền sân khấu Việt Nam là không thế lấp đầy. Vở kịch cuối cùng được Lưu Quang Vũ đặt tên là Chim sâm cầm không chết. Với tất cả những gì để lại cho đời thì mãi mãi Lưu Quang Vũ không chết. Từ bấy đến nay, Hồn Trương Ba, da hàng thịt và gần 50 vờ kịch khác của Lưu Quang Vũ vẫn được dàn dựng và công diễn. Những triết lí về cuộc đời, về con người, về xã hội... đặt ra trong các vở kịch luôn có ý nghĩa với mọi người, mọi thời.

3. Phân tích tư tưởng và ý nghĩa phê phán của vở kịch mẫu 2

Lưu Quang Vũ (1948-1988) là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch tài ba của nền văn học hiện đại Việt Nam. Tuy tham gia vào sáng tác nghệ thuật muộn và quãng đời cũng chỉ vỏn vẹn 40 năm thế nhưng ông đã để lại một số lượng các tác phẩm lớn, và thể loại đưa tên tuổi ông vụt sáng trên văn đàn Việt Nam chính là các tác phẩm kịch nói phản ánh những vấn đề nóng hổi của xã hội đương thời, của một đất nước đang trong quá trình đổi mới. Với tính nhân văn, tính hiện thực sâu sắc, gắn liền với đời sống con người, đời sống xã hội với các đề tài trải dài suốt từ vùng nông thôn đến thành thị từ quá khứ, chiến tranh, đến hiện tại, kinh tế, đổi mới,... vở kịch bào của Lưu Quang Vũ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả và được được dựng trên nhiều sân khấu bởi các đạo diễn nổi tiếng. Và chốt lại kịch của Lưu Quang Vũ dù là nói về vấn đề nóng hổi nào, về đề tài nào thì cũng chỉ nằm trong hai chữ thiện và ác, thế nên kịch của ông vĩnh viễn có giá trị giáo dục, giá trị nhân văn muôn đời. Một trong số các tác phẩm nổi tiếng nhất của Lưu Quang Vũ phải kể đến Hồn Trương Ba, da hàng thịt, không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc bù đắp sai trái của các đấng thánh thần với Trương Ba, mà Lưu Quang Vũ còn phát hiện và đưa vào kịch của mình một cái kết mới, biến nó thành bi kịch với những tư tưởng và ý nghĩa phê phán sâu sắc.

Trong tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhân vật Trương Ba đã phải gánh chịu những bi kịch "trời ơi" từ đâu giáng xuống đời mình. Cũng chỉ bởi sự sai sót của những kẻ bề trên là đại diện đó chính là Nam Tào khiến một người nổi tiếng hiền lành, tài hoa, khéo léo như Trương Ba phải chết oan ức, khiến gia đình ông phải đau khổ và đó chính là khởi đầu cho một loạt các bi kịch khác. Nam Tào vì muốn sửa sai còn Đế Thích thì vì tiếc thương cho một tài năng chơi cờ, tiếc thương cho ông bạn hợp ý mà gượng ép muốn cho Trương Ba được sống lại. Có thể rằng mục đích ban đầu của Đế Thích là nhân đạo là vì lòng tốt, thế nhưng cách làm của ông và Nam Tào lại sai lầm, dẫn đến sự đau khổ và bi kịch cho cả Trương Ba và những người xung quanh bao gồm cả gia đình Trương Ba và chị vợ của anh hàng thịt. Trương Ba sống lại trong xác hàng thịt là cú sốc đối với cả hai gia đình, tuy hạnh phúc chưa thấy đâu nhưng bản thân hồn Trương Ba đã phải khổ sở tranh đấu với các xác thô lỗ, cộc cằn của anh hàng thịt từng ngày. Và cứ mỗi ngày trôi qua đối với Trương Ba giờ đây chỉ toàn là đau khổ, ông lần lượt đối mặt với cách tấn bi kịch khác nhau, từ việc dần bị tha hóa bởi những ham muốn phàm tục của cái xác. Trương Ba dần trở nên ham uống rượu, ham ăn thịt, hờ hững với thú chơi cờ bấy lâu, thậm chí là có chút ham muốn xác thịt khi đứng cạnh vợ của hàng thịt, điều đó khiến ông vô cùng hoang mang và sợ hãi, đặc biệt đứng trước những lời tấn công, những lý lẽ sắc bén của cái xác thì Trương Ba lại càng trở nên yếu thế, đuối lý. Bởi lẽ những điều nó nói cũng chẳng phải sai, ông vô cùng xấu hổ và tuyệt vọng với sự tha hóa của bản thân. Tiếp nối bi kịch tha hóa, chính là cái bi kịch còn đớn đau hơn, ông phải gánh chịu cảm giác bị chính những người ông hằng thương yêu xa lánh. Người vợ kết tóc vì quá đau khổ mà đòi bỏ đi, đứa cháu gái thì sợ hãi, cho ông là đồ tể, cục súc không xứng đụng vào khu vườn của ông nó, chỉ duy có người con dâu là thấu hiểu nỗi đau khổ của ông, nhưng cũng chính cô đã làm Trương Ba hoàn toàn thông suốt và chấp nhận sự thật rằng bản thân ông đã bị cái xác tha hóa đến mức không còn là mình nữa rồi. Cuối cùng Trương Ba buộc phải ra quyết định, ông không thể sống tiếp cái kiếp ở bên trong một nẻo mà bên ngoài một đằng này nữa, phải có cách gì đó để thoát khỏi những bi kịch trái ngang mà ông và cả gia đình đang phải gánh chịu. Cuối cùng Trương Ba đã lựa chọn việc rời khỏi thế gian, để được hoàn toàn chết hẳn, để ông trở về làm Trương Ba của ngày xưa, một con người được mọi người yêu thương, chứ không phải một Trương Ba bị tha hóa bởi xác thịt phàm tục.

Như vậy từ những phân tích sơ bộ như trên ta thấy được rằng Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một vở kịch chứa đựng những giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc bao gồm cả thông điệp tốt đẹp mà Lưu Quang Vũ muốn truyền tải, đồng thời cũng đưa ra những lời phê phán sâu sắc về thái độ sống của con người trong thời buổi hiện tại. Trước hết ta nói về thông điệp nhân văn, nhân đạo mà tác giả gửi gắm trong đoạn kết của tác phẩm. Qua nhân vật Trương Ba, ta nhận ra được rằng được sống làm người là điều rất quý giá, nhưng được sống làm chính mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn có mình theo đuổi và muốn theo đuổi thì nó còn quý giá hơn, đáng trân trọng hơn nữa. Sự sống chỉ có ý nghĩa, thực sự có ý nghĩa khi mà con người được sống tự nhiên, chân thật với sự hài hòa cả về thể xác lẫn tâm hồn. Trương Ba chỉ thực sự hạnh phúc, vui vẻ khi là một ông nông dân chất phác, hiền hậu, thích chơi cờ, thích uống trà, làm vườn, với dáng hình gầy gò, khéo léo chứ không phải là cuộc sống chẳng khác nào địa ngục trong thân xác của anh hàng thịt. Cuộc sống hồn một kiểu, xác một ý đã khiến Trương Ba quá đỗi đau khổ, ông không được sống như đúng bản ngã mà còn phải chiều cả cái "túi da" của mình, để rồi cuối cùng là bi kịch bị nó tha hóa, bị người thân từ chối. Cuộc sống ấy không phải là sống thực sự, hồn xác bất nhất thì Trương Ba nào con là Trương Ba nữa. Giá trị tư tưởng thứ hai mà Lưu Quang Vũ muốn truyền tải ấy là con người phải luôn luôn biết đấu tranh với nghịch cảnh, đấu tranh với chính bản thân, với phần bản năng, phần "con", với những cám dỗ tầm thường, để ngày một hoàn thiện bản thân mình. Giống như cái cách mà Trương Ba mạnh mẽ đấu tranh với cái xác hàng thịt, cái cách mà Trương Ba chấp nhận từ bỏ cuộc sống trần gian để được hoàn toàn biến mất khỏi cõi đời, để trở về với bản ngã của mình, trở về là Trương Ba trong ký ức của mọi người. Bên cạnh những thông điệp, những bài học về cuộc sống thì ở đây Lưu Quang Vũ còn ngầm phê phán một số những hiện tượng trong xã hội đương thời. Đó là sự tắc trách của một số những con người bề trên đã trực tiếp gây ra sự bất hạnh cho những người vô tội và gián tiếp gây ra đau khổ cho những con người khác. Thứ hai là sự sửa chữa lỗi lầm một cách chắp vá khi để hồn Trương Ba và xác hàng thịt, mặc dù là có ý tốt nhưng vô hình chung đó là một hành động không nên, thể hiện sự cố chấp của những con người tự cho mình cái quyền được định đoạt số phận của kẻ khác. Thậm chí Đế Thích còn muốn lần nữa phạm phải sai lầm khi định để cho Trương Ba lần nữa sống lại trong thân xác của một đứa trẻ là cu Tị, đó là sự u mê, chấp nhất không tỉnh ngộ trước những bi kịch của Trương Ba. Mà đôi lúc ta thấy rằng thực tế Đế Thích cũng kẻ ích kỷ, vì sợ vĩnh viễn mất đi một đối thủ chơi cờ hay mà sẵn sàng tạo ra những sự chắp vá sai lầm, cũng may rằng cuối cùng ông cũng tỉnh ngộ nhờ sự thông suốt của Trương Ba. Một nội dung phê phán thứ hai, rất quan trọng ấy là Lưu Quang Vũ đã ngầm phê phán, lên án những con người không chịu sống thực với bản thân mình, luôn vịn vào những lý do có vẻ là bất đắc dĩ để thỏa mãn những ham muốn tầm thường. Sống không biết đấu tranh, không muốn tự vươn lên để hoàn thiện nhân cách và phẩm giá của bản thân. Họ cứ mãi sống một cuộc đời mà tâm hồn dần bị chi phối bởi những mộng ước phàm tục, không có lý tưởng, không có ước mơ.

Kết lại, Hồn Trương Ba, da hàng thịt không hổ là tác phẩm kịch nói nhận được sự đón nhận nồng nhiệt nhất của Lưu Quang Vũ, dù đã qua nhiều năm thế nhưng nó vẫn còn nguyên những giá trị nhân văn, những giá trị phê phán sâu sắc. Cái kết của Lưu Quang Vũ tuy là bi kịch nhưng lại cũng là cái kết có hậu nhất và hợp lý nhất để truyền tải một thông điệp sâu sắc: "Mọi thứ nên tuân theo quy luật của tự nhiên, mọi sự kháng cự với quy luật đều trở nên kệch cỡm".

---------------------------------------------

Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Phân tích trích đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ để làm rõ tư tưởng và ý nghĩa phê phán của vở kịch. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Thi thpt Quốc gia môn Văn, Thi thpt Quốc gia môn Lịch sử, Thi thpt Quốc gia môn Địa lý mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Ngữ văn 12

    Xem thêm