Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ ngắn nhất
Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ siêu ngắn
Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ ngắn nhất là tài liệu hữu ích được VnDoc.com tổng hợp giúp bạn đọc hướng dẫn trả lời các câu hỏi trong SGK Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo các trang 73, 74, 75. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết.
Câu 1 trang 74 sgk Ngữ văn 10 Chân trời
- Theo em, ngữ liệu trên chưa phải là một bài viết hoàn chỉnh.
- Căn cứ vào những yếu tố sau:
+ Trong bài viết ở ngữ liệu chưa đảm bảo hình thức cấu trúc một bài viết vì chỉ có phần phân tích, chưa có phần mở bài giới thiệu vấn đề sẽ nói trong bài và kết luận về những giá trị của bài thơ.
Câu 2 trang 74 sgk Ngữ văn 10 Chân trời
- Nội dung phân tích, đánh giá được trình bày theo lối kết hợp cả chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật.
- Cách trình bày như vậy giúp người đọc, người nghe có những hiểu biết chi tiết về tất cả những vấn đề có liên quan đến luận điểm chính, tạo sự hài hòa cho bài viết khi có sự xen kẽ.
Câu 3 trang 74 sgk Ngữ văn 10 Chân trời
- Các ý chính được trình bày trong ngữ liệu:
+ Không gian trong và lạnh của ao thu.
+ Sự tĩnh lặng của không gian.
+ Sự cao rộng của không gian.
Câu 4 trang 74 sgk Ngữ văn 10 Chân trời
- Những dẫn chứng, lí lẽ được tác giả sử dụng để gợi tả hình ảnh trong bài thơ Thu điếu:
+ Không gian trong và lạnh: lạnh lẽo, trong veo.
+ Phong cảnh ao thu tươi tắn, yên tĩnh: sóng biếc, lá gàng, gợn tí, khẽ đưa.
+ Trời trong xanh, yên tĩnh, cao vút: trời xanh ngắt, vắng teo, lơ lửng.
Câu 5 trang 74 sgk Ngữ văn 10 Chân trời
Việc đánh giá chủ đề và hình thức nghệ thuật xuất phát từ đặc trưng thể loại của tác phẩm. Mỗi thể loại sẽ có những đặc điểm nhận dạng khác nhau như các bài thơ trữ tình sẽ thiên về hình ảnh với cảm xúc lãng mạn,... Việc đánh giá như vậy sẽ giúp người đọc, người nghe hình dung rõ ràng nhất về thể loại mà bài viết muốn nói đến.
Thực hành viết theo quy trình
Đề bài trang 75 sgk Ngữ văn 10 Chân trời
Dàn bài
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm và nội dung chính của bài viết: Thiên nhiên và con người trong bài thơ “Mộ” (Hồ Chí Minh).
2. Thân bài
Giới thiệu và trích dẫn lần lượt các câu thơ để phân tích, đánh giá.
- Hai câu thơ đầu tiên: miêu tả bức tranh thiên nhiên buổi chiều tối thông qua một vài nét chấm phá.
+ Hình ảnh “chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ”, “chòm mây cô đơn trôi nhẹ nhàng trên bầu trời”
+ Biện pháp nghệ thuật đối “quyện điểu”>< “cô vân”, chấm phá một vài nét để khắc họa bức tranh thiên nhiên buồn, cô đơn, lạnh lẽo khi chiều tối dần, nơi rừng núi hoang vu, cô quạnh
- Hai câu thơ cuối: Khắc họa hình ảnh con người và cuộc sống lao động.
+ Nét chấm phá: thiếu nữ nơi xóm núi đang xay ngô, xay ngô vừa xong thì lò than đã đỏ hồng.
+ Thủ pháp điệp: ma bao túc, bao túc ma hoàn=> diễn tả vòng quay nhịp nhàng của chiếc cối xay, động tác dứt khoát, khỏe khoắn của con người lao động. Cho thấy cái nhìn quan sát đầy tinh tế và sự đồng cảm của người tù khổ sai với cuộc sống vất vả của người lao động.
- Bài thơ kết thúc bằng chữ “hồng”, một chữ nhãn tự đắt giá cân lại toàn bộ bài thơ, nó thể hiện sức sống, vẻ đẹp và tinh thần thép trong thơ của Bác Hồ
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của chủ đề.
Bài viết tham khảo
Hồ Chí Minh sáng tác bài thơ “Mộ” năm 1942, trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt đó là khi nhà thơ bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Trong suốt thời gian bị đày ải bởi chính quyền Tưởng Giới Thạch người lính khổ sai Nguyễn Tất Thành thường xuyên bị áp giải từ nhà lao này đến nhà lao khác. Trong hoàn cảnh đặc biệt đó người bình thường chắc chỉ thấy tiếng kêu rên ai oán số phận, còn với Bác người lính cách mạng có tinh thần thép thì đó chỉ là cái cớ để tâm hồn thi sĩ vút cao lên thành những áng văn thơ trữ tình dạt dào cảm xúc. Chẳng thế mà toàn bài thơ chúng ta không thấy bất kỳ hình ảnh đau khổ của người tù mà chỉ thấy khung cảnh thiên nhiên, con người nơi miền sơn cước vô cùng bình dị, quen thuộc với cuộc sống lao động thường nhật.
Mở đầu bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên đặc trưng của buổi chiều tối
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Ánh mặt trời dần tắt hẳn, màn đêm chuẩn bị bao trùm lấy cảnh vật, đây là thời khắc con người, vạn vật sinh linh trên trái đất đều mệt mỏi và muốn tìm về với chốn bình yên để nghỉ ngơi. Đầu tiên là hình ảnh của chú chim đang mỏi cánh trên bầu trời, cánh chim ấy đã vất vả sau một ngày dài kiếm ăn khắp chốn, giờ là lúc nó tìm về với bóng cây, chốn yên bình để ngủ. Câu thơ thứ hai vẫn là nét chấm phá cảnh vật của thiên nhiên với hình ảnh của “cô vân”. Cô vân là chòm mây cô đơn, kết hợp với từ láy “mạn mạn” tức là trôi nhẹ, lơ lửng, vô định trên bầu trời. Chòm mây cô đơn lạc trôi trên bầu trời khá tương đồng với hoàn cảnh của người tù khổ sai, cô đơn, lạc lõng nơi đất khách quê người. Trong lòng vẫn luôn đau đáu một ngày được trở về với đồng bào, quê hương.
Hai câu thơ sử dụng thủ pháp đối khá quen thuộc trong thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, đối giữa “cô vân” và “quyện điểu” để tạo nên một bức tranh thiên nhiên cân xứng, hài hòa. Một vài nét chấm phá đơn giản nhưng đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên thật hữu tình, nên thơ.
Hai câu thơ sau là hình ảnh của con người, con người của cuộc sống lao động hiện ra thông qua những nét vẽ thật khỏe khoắn, rắn rỏi
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
Hình ảnh cô gái xóm núi đang xay ngô chuẩn bị cho bữa cơm tối xuất hiện trong bài thơ là một nét vẽ bất ngờ nhưng rất hợp lý. Nó được cảm nhận thông qua cái nhìn của người tù khổ sai, nó mang một sức sống thật mạnh mẽ, tiềm tàng. Động tác xay ngô của cô gái nhịp nhàng, khỏe khoắn, từng vòng quay của chiếc cối đều, dứt khoát, “ma bao túc” rồi lại” bao túc ma hoàn”; phép lặp từ trong hai câu thơ nhấn mạnh sự cần mẫn, chăm chỉ của người lao động trong cuộc sống thường nhật, qua đó thể hiện cái nhìn trân trọng của thi sĩ dành cho con người nơi đây. Đặc biệt là hình ảnh “lô dĩ hồng” xuất hiện ở cuối bài thơ, đó là một nhãn tự có sức nặng cân cả bài thơ. Chữ hồng xuất hiện đã xua tan không khí lạnh giá nơi xóm núi hoang sơ, nó như tiếp thêm sức sống và sức mạnh cho người tù khổ sai trên con đường đi tìm lối thoát cho dân tộc. Chữ “hồng” cũng thể hiện chất thép vốn rất đặc trưng trong tập “Nhật ký trong tù”. Nó cũng khẳng định vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại trong thơ của Hồ Chủ Tịch
Bài thơ khép lại một cách bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, trọn vẹn. Thông qua bài thơ “Mộ” chúng ta cảm nhận vẻ đẹp của nghị lực phi thường, tinh thần mạnh mẽ không lên gân, không khoa trương mà giản dị, khiêm nhường trong thơ của Hồ Chí Minh.