Tiếng cười trong ca dao

Ngữ văn lớp 10: Tiếng cười trong ca dao

Để học tốt Ngữ văn lớp 10, VnDoc mời các bạn học sinh tham khảo tài liệu: Tiếng cười trong ca dao, chắc chắn bộ tài liệu sẽ là nguồn thông tin hữu ích dành cho các bạn học sinh lớp 10 tham khảo để có kết quả cao hơn trong học tập. Mời thầy cô cùng các bạn học sinh tham khảo.

Học tốt Ngữ văn lớp 10: Tiếng cười trong ca dao

Dàn ý Tiếng cười trong ca dao

I. Mở bài

Ca dao hài hước, châm biếm chiếm một vị trí đáng kể trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Trích dẫn ý kiến trên.

II. Thân bài

1. Nội dung cảm xúc và chủ đề của ca dao Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Bên cạnh những bài ca dao yêu thương, tình nghĩa và những bài than thân, còn khá nhiều bài ca dao hài hước, châm biếm.

- Góp phần tạo nên tiếng cười trong văn học dân gian có truyện cười, hò, vè sinh hoạt…; những bài ca dao châm biếm, hài hước góp thành một mảng riêng, đặc sắc.

2. Tiếng cười trong ca dao hài hước, châm biếm mang đặc trưng của nghệ thuật trào lộng dân gian. Tiếng cười trong nghệ thuật dân gian khác với tiếng cười trong các loại hình nghệ thuật bác học. Tiếng cười ấy khỏe khoắn, gắn bó với đời sống hằng ngày của dân lao động; có sự hồn nhiên, tươi vui để giải trí, giải khuây cho chính người lao động, nhưng đôi khi cũng mang tính chất phê phán các thói hư tật xấu, những đối tượng đáng cười trong xã hội.

3. Tiếng cười mang tính giải trí trong ca dao hài hước, châm biếm: Đời sống của người dân Việt ngày xưa vất vả, khó nhọc, tiếng cười cất lên nhằm làm cho cuộc sống tươi vui, đỡ nhọc nhằn. Nó không nhằm phê phán, đả kích.

- Một kiểu nói khoác cho… vui vẻ:

Ở đâu mà chẳng biết ta?

Ta con ông Sấm, cháu bà Thiên Lôi.

Xưa kia ta ở trên trời,

Đứt dây rơi xuống làm người trần gian.

- Trong nội bộ nhân dân, nếu cần chê, người dân quê tặng cho một tiếng cười, cười nhưng không ai giận, chẳng ai ghét:
Bắc thang lên đến cung mây, Hỏi sao Cuội phải ấp cây đa cả đời? Cuội nghe thấy nói, Cuội cười: Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc đa.

4. Tiếng cười mang tính phê phán trong ca dao hài hước, châm biếm: Người dân lao động phải vất vả quanh năm nhưng lại bị áp bức, khổ cực. Trái lại, nhiều kẻ ăn trắng mặc trơn đóng vai “phụ mẫu” của dân rồi sống bằng sự lừa lọc những người cả tin…, kẻ không đáng gì mà ra vẻ đạo đức.. Nhân dân phê phán tất cả những hiện tượng, con người ấy.

Cùng với truyện cười về sinh hoạt, những bài ca dao hài hước, châm biếm đã thể hiện tập trung các nét đặc trưng của nghệ thuật trào lộng Việt Nam nhằm tạo ra tiếng cười giải trí và phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người đáng cười trong xã hội.

- Nhẹ nhất là những trường hợp nhát gan, lười biếng, siêng ăn nhác làm:

Làm trai cho đáng nên trai

Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào

Làm trai cho đáng nên trai - Những người làm nghề bói toán, lợi dụng sự cả tin của người khác:

Hòn đất mà biết nói năng,

Thì thầy địa lí hàm răng chẳng còn.

- Cao hơn nữa là địa chủ, quan lại phong kiến:

Từ nay tôi kệch đến già,

Tôi chẳng dám cấy ruộng bà nữa đâu.

Ruộng bà vừa xấu vừa sâu,

Vừa bé hạt thóc, vừa lâu đồng tiền.

Từ ngày Tự Đức lên ngôi:

Cơm chẳng thấy nồi, trẻ khóc như ri.

Bao giờ Tự Đức chết đi,

Thiên hạ bình thì lại dễ làm ăn.

5. Tiếng cười trong ca dao hài hước, châm biếm nói riêng không có những hình thức nghệ thuật mang tính ước lệ của văn chương bác học. Rất hiếm khi gặp điển cố, điển tích trong ca dao dân ca. Nếu có, đó là những điển tích ai cũng biết, ai cũng hiểu. Trái lại, ca dao hài hước, châm biếm sử dụng nhiều thủ pháp quen thuộc để tạo nên tiếng cười:

- Đối lập:

Nói thì đâm năm chém mười,

Đến bữa tối trời chẳng dám ra sân.

- Ngoa dụ:

Làm trai cho đáng lên trai,

Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng.

- Chơi chữ:

Anh hùng là anh hùng rơm,

Ta cho mồi lửa hết cơn anh hùng.

III. Kết bài

Các hình thức nghệ thuật trên thường kết hợp với nhau để tạo nên cách nói mỉa mai châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, hoặc cần thiết thì đả kích không thương xót.

Văn mẫu lớp 10: Tiếng cười trong ca dao

Bên cạnh mảnh ca dao trữ tình, ca dao hài hước cũng phản chiếu một khía cạnh khác trong tâm hồn của người bình dân ngày xưa, chứa đựng tinh thần lạc quan, sức sống mạnh mẽ và tinh thần phản kháng của nhân dân. Không những thế, tiếng cười trong ca dao cũng chính là những uất ức bất bình, những thái độ ứng xử, điều chỉnh hành vi, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp công bằng hơn.

Ca dao hài hước chứa đựng cái nhìn, thái độ, tình cảm của người bình dân trước các hiện tượng đời sống mối quan hệ tình cảm giữa người với người. Không những thế tiếng cười còn là vũ khí tinh thần giúp họ vượt lên bao khó khăn của đời sống. Tiếng cười trong ca dao phong phú nhiều cung bậc, có khi là tiếng cười trào lộng dí dỏm, có khi là tiếng cười chua chát trước sự thật đáng cười đáng chán, cũng có khi là tiếng cười phản kháng trước thực trạng xã hội còn nhiều thứ bất công ngang trái.

Từ thực tại còn nhiều vất vả cay cực, người bình dân đến với nhau trong tiếng đùa vui, mượn tiếng cười ngỏ bày tâm tình một cách ý vị:

"Cưới nàng anh toan dẫn voi,

Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn".

Chàng trai ngỏ lòng với cô gái bằng lối nói khoa trương để cho thấy ngay rằng anh đang đùa. Nhưng liệu có phải hoàn toàn là một. lời nói đùa không? Có thể hình dung ra hoàn cảnh của đôi nam nữ yêu nhau qua bài ca dao: họ sống nghèo khổ nhưng vô cùng lạc quan. Lời đối đáp có chút tinh nghịch nhưng cũng thoáng chút ngậm ngùi cho phận nghèo. Ngôn ngữ phóng đại khoa trương khỏa lấp đi một sự thật mà người đời quen gọi là "nói khoác" thực ra đã mang một ý vị chua chát đả phá vào những hủ tục ngăn cách con người tìm đến với nhau. Chàng trai đã có những lễ vật dẫn cưới thật sang trọng: dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò... nhưng cuối cùng lại là con chuột béo thật ấn tượng. Lí giải thật hợp tình hợp lẽ: con voi to đùng kia là hàng quốc cấm - phép nước luật vua không cho phép, dẫn trâu dẫn bò thì lo họ hàng nhà gái máu hùn, co gân - chứng tỏ chàng trai là người "chu đáo" với đàng gái biết bao! Sợ cho nhà gái hay là một lời đay nghiến, mỉa mai những người đã nghĩ ra chuyện thách cưới ác nghiệt khiến cho đôi lứa phải chịu cảnh dở khóc dở cười. Con chuột béo là một thái độ đáp lại bằng cách giễu cợt cay chua. Nhưng lời đáp lại của cô gái dù đùa vui mà lại ẩn chứa một nỗi lòng đáng quý:

"Chàng dẫn thế em lấy làm sang,

Nỡ nào ern lại phá ngang như là...

Người ta thách lợn thách gà,

Nhà em thách cưới một nhà khoai lang..."

Ngầm chứa trong lời đáp là sự động viên chàng trai vững tâm để đi đến hạnh phúc, vẫn là thách cưới nhưng chàng trai hoàn toàn có thể đáp ứng được bằng chính sức lao động của mình. Cái tinh tế trong lời cô gái vừa là phản ứng trước việc thách cưới phá ngang, vừa là mong mỏi chàng trai là người cần cù siêng năng xứng đáng với tấm tình của cô. Không những thế, cô còn đem tới lời nhắn nhủ về sự cần kiệm: củ to mời làng, củ nhỏ mời họ, và không bỏ sót củ mẻ, củ rím, củ hà. Lời đáp khéo léo ấy đem lại niềm hi vọng và lạc quan về hạnh phúc.

Ca dao hài hước còn mang theo những suy ngẫm về thực trạng xã hội phong kiến vốn dành ưu ái đặc quyền cho nam giới, vẫn là mô típ làm trai cho đáng nên trai nhưng không phải là lời ca ngợi vào khả năng "vá trời lấp bể" mà chỉ là:

"Làm trai cho đáng sức trai,

Khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng."

Từ bản chất của những người yêu lao động, người bình dân phê phán và chế giễu những kẻ lười biếng mà huênh hoang. Ý nghĩa hài hước toát ra từ hình ảnh đối nghịch: sức dài vai rộng mà lại Khom lưng chống gối chỉ để gánh hai hạt vừng. Động tác kia chẳng khác nào mô phỏng hình ảnh các vị chức sắc quan lại chỉ giỏi khom lưng luồn cúi, chống gối quỵ lụy để tiến thân. Người bình dân chế giễu những kẻ vô tích sự ấy, mang tiếng là gánh vác sơn hà nhưng thực tế chẳng khác nào những bọn vô công rỗi nghề ăn bám người khác. Thật bất hạnh cho những ai vớ phải một ông chồng như thế! Ca dao cũng sẫn những lời ta thán của những người phụ nữ:

"Chồng người đi ngược về xuôi,

Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo"

Trong quan hệ gia đình, có lẽ phải gặp hoàn cảnh bất đắc dĩ thì người vợ mới có chuyện so sánh chồng mình với chồng người. Hình ảnh anh chồng thật thảm hại trong tương quan đi ngược về xuôi với sờ đuôi con mèo. Bất cứ người phụ nữ nào cũng mong muốn chồng mình giỏi giang cáng đáng việc quốc gia đại sự hay chí ít cũng là trụ cột gia đình. Còn anh chồng trong bài ca dao này cứ quẩn quanh xó bếp, nhu nhược hèn kém. Nhưng lời than thở giận hờn ấy không thay đổi được số phận. Than thở thế thôi, dẫu gì cũng vẫn là chồng em, vẫn là nghĩa tình duyên nợ với nhau. Đằng sau lời ca dao ấy là nỗi lòng trĩu nặng, phản chiếu một mong mỏi chồng mình cũng được bằng anh bằng em, để người vợ có thể mở mày mở mặt.

Trong ca dao không chỉ có tiếng cười chế giễu mà còn bao tiếng cười đầm ấm tình thương yêu gắn bó với nhau. Người bình dân biết cười đời và cũng biết cách cường điệu phóng đại những tật xấu của mình để tự cười mình. Không phải là tiếng cười thiên lệch dành cho nam giới mà cả giới nữ cũng có nhiều cái đáng cười. Điểm đặc biệt là tất cả những sự lệch chuẩn ấy đã thành cái đáng yêu trong một gia đình hạnh phúc:

"Lỗ mũi em mười tám gánh lông,

Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.

Đêm nằm thì ngáy o o...

Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.

Đi chợ thì hay ăn quà,

Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.

Trên đầu những rác cùng rơm,

Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu!"

Chắc không người phụ nữ nào lại tự lôi ra tất cả những "thói hư tật xấu" của mình đầy đủ đến thế với một cách nói phóng đại tô đậm những cái hoàn toàn ngược với chuẩn mực "Công - Dung - Ngôn - Hạnh" phong kiến. Không hề gò mình ép khuôn vào một cách sống giả tạo gò bó, điều mong muốn của người bình dân là có một gia đình hạnh phúc, một sự thông cảm chia sẻ trong đời sống vợ chồng. Điệp khúc chồng yêu chồng bảo... không hề che giấu niềm tự hào có một người chồng tuyệt vời. Có lẽ các triết lí của các học giả đáng kính cũng rút tỉa ra từ thực tại cuộc sống phong phú đáng yêu này mà thôi: "vẻ đẹp không nằm ở đôi má hồng thiếu nữ mà ở trong đôi mắt của kẻ tình si" (Kant). Người chồng yêu vợ như thế quả là hiếm có trong một xã hội vốn khắt khe với những chuẩn mực nặng nề, những quy tắc cứng nhắc. Không những thế, đó chính là sự điều chỉnh hành vi của người bình dân bởi lẽ không người phụ nữ nào lại muốn giữ những nét xấu trong mắt chồng. Cười vui là thế nhưng cũng có ý nghĩa cảnh tỉnh nhẹ nhàng cho việc giữ gìn hạnh phúc. Bởi lẽ chồng yêu thì hạnh phúc nhưng chồng ghét, thì là tai họa, là tan vỡ.

Tiếng cười dân gian trong ca dao quả thật đã chứa đựng nghệ thuật sống của người bình dân ngày xưa. Tiếng cười ấy phản chiếu tinh thần của những người lao động luôn biết vượt lên hoàn cảnh, những bất công ngang trái, những khó khăn thực tại để lạc quan yêu đời. Tiếng cười ấy là sức sống tâm hồn khỏe khoắn của những con người luôn ý thức giá trị bản thân, luôn mong muốn cuộc sống tốt đẹp công bằng.

-------------------------------------------------------

Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Tiếng cười trong ca dao, VnDoc.com mời các bạn học sinh tham khảo tài liệu Lịch sử lớp 10, Sinh học lớp 10, Địa lý lớp 10 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải. Qua bộ tài liệu các bạn học sinh sẽ học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 10. Mời các bạn học sinh tham khảo.

Đánh giá bài viết
1 2.148
Sắp xếp theo

Soạn văn 10 sách mới

Xem thêm