Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Hoàng Cầm
Nhà thơ Hoàng Cầm
VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh cùng các bạn bài viết về sự nghiệp và cuộc đời của nhà thơ Hoàng Cầm được trích dẫn qua tác phẩm "Bên kia sông Đuống" nằm trong chương trình Ngữ văn lớp 11 để tìm hiểu và tham khảo giúp chúng ta hiểu rõ và cuộc đời ông và các tác phẩm nổi tiếng để học tốt môn Ngữ văn.
Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Trần Đăng Khoa
Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan
Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Việt Phương
Tóm tắt lý lịch Hoàng Cầm
Nhà thơ Hoàng Cầm sinh ngày 22-2-1922 tại Tỉnh Bắc Giang, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà Nội, nước Việt Nam. Ông sinh thuộc cung Song Ngư, cầm tinh con (giáp) chó (Nhâm Tuất 1922). Hoàng Cầm xếp hạng nổi tiếng thứ 42349 trên thế giới và thứ 173 trong danh sách Nhà thơ nổi tiếng.
Tiểu sử nhà thơ Hoàng Cầm
Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, ông còn có một số bút danh khác như Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi. Tên ông được đặt ghép từ địa danh quê hương: Phúc Tằng và Việt Yên. Ông là một nhà thơ, nhà biên kịch Việt Nam.
Ông từng tham gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông về Hà Nội, thành lập đoàn kịch Đông Phương.
Tháng 04/1957, nhà thơ Hoàng Cầm tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, và được bầu vào Ban chấp hành. Đến năm 1958, Hoàng Cầm phải rút khỏi Hội nhà văn do vụ án "Nhân văn Giai phẩm". Năm 1970 ông về hưu non.
Nhà thơ Hoàng Cầm qua đời vào ngày 06/05/2010 vì bệnh nặng.
Ông là tác giả của vở kịch thơ nổi tiếng Hận Nam Quan, Kiều Loan và các bài thơ Lá diêu bông, Bên kia sông Đuống. Đặc biệt, bài thơ Bên kia sông Đuống được chọn vào giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông.
Đầu năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.
Những sáng tác của Hoàng Cầm:
- Hận ngày xanh (phóng tác theo Lamartine);
- Bông sen trắng (phóng tác theo Andersen);
- Cây đèn thần (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm);
- Thoi mộng (truyện vừa, 1941);
- Tỉnh giấc mơ vua (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm);
- Hận Nam Quan (kịch thơ, 1944, 1942);
- Bốn truyện ngắn (đăng Tiểu thuyết thứ Bảy từ 1939 đến 1943);
- Kiều Loan (kịch thơ)
- Ông cụ Liên (kịch nói);
- Đêm Lào Cai (kịch nói 3 hồi);
- Tiếng hát quan họ (trường ca, in chung trong tập Cửa Biển);
- Những niềm tin (thơ dịch của Bonalan Kanfa - Algérie);
- Men đá vàng (truyện thơ, viết 1973, nxb Trẻ, 1989)
- Trương Chi (kịch thơ)
- Tương lai (kịch thơ);
- Bên kia sông Đuống (tập thơ chọn lọc) - Giải thưởng Nhà nước 2007
- Lá diêu bông (tập thơ chọn lọc) - Giải thưởng Nhà nước 2007
- Về Kinh Bắc (tập thơ);
- 99 tình khúc (tập thơ tình) - Giải thưởng Nhà nước 2007
Hoàng Cầm thời trẻ
Nhà thơ Hoàng Cầm theo học tiểu học và trung học ở Bắc Giang và Bắc Ninh. Năm 1938, ông ra Hà Nội học tại trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân dân xã của Vũ Đình Long. Từ đó, ông lấy bút danh là Hoàng Cầm.
Năm 1944, nhà thơ Hoàng Cầm đưa gia đình về lại quê gốc ở Thuận Thành sinh sống. Tại đây, ông bắt đầu tham gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh. Khi cách mạng tháng Tám nổ ra, nhà thơ Hoàng Cầm thành lập đoàn kịch Đông Phương tại Hà Nội. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ,đoàn kịch phải vềvùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình lưu diễn một thời gian rồi tan rã.
Tháng 08/1947, ông tham gia Vệ quốc quân, hoạt động tại chiến khu 12. Cuối năm này, ông thành lập đội Tuyên truyền văn nghệ, đội văn công quân đội đầu tiên.
Năm 1952, ông được cử làm Trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị, hoạt động biểu diễn cho quân dân vùng tự do và phục vụ các chiến dịch.
Đầu năm 1955, nhạc sĩ Hoàng Cầm được giao nhiệm vụ trưởng đoàn kịch nói. Cuối năm 1955, ông về làm công tác xuất bản tại Hội Văn nghệ Việt Nam.