Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam tính đến quý 2 năm 2011

VnDoc xin giới thiệu bài Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam tính đến quý 2 năm 2011 được chúng tôi sưu tầm và giới thiệu nhằm giúp các bạn nắm bắt kiến thức môn học một cách tốt hơn để có thể học và hoàn thành bài thi môn học một cách hiệu quả.

Lưu ý: Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài viết.

Bài: Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam tính đến quý 2 năm 2011

Để thúc đẩy quá trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, Chính phủ đã thành lập ủy ban Chứng khoán Quốc gia vào năm 1998, đến ngày 19 tháng 02 năm 2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2004/NĐ-CP chuyển ủy ban Chứng khoán Nhà nước vào Bộ Tài chính, ủy ban này dưới sự chủ quản của Bộ Tài chính đã và đang xúc tiến hàng loạt các hoạt động tạo điều kiện tiền đề cho việc phát triển thị trường chứng khoán. Hiện nay ở Việt Nam có hai Sở giao dịch chứng khoán là Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.

Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (SGDCK TP.HCM-HOSE)

Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (SGDCK TP.HCM-HOSE) được thành lập theo Quyết định số 599/2007/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 của Thủ tướng Chính phủ với vốn điều lệ là 1.000 tỷ VNĐ.

Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà nội- HNX)

Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội- HNX) được thành lập theo Quyết định số 01/2009/QĐ-TTg ngày 02/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ với vốn điều lệ là 1.000 tỷ VNĐ.

Vài nét về tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam đến hết Quý 2 năm 2011

Giai đoạn từ năm 2000 đến hết 2010, thị trường chứng khoán có rất nhiều biến động trong giai đoạn 2000-2002, Trái phiếu Chính phủ là hàng hóa niêm yết chủ đạo trên SGDCK Tp.HCM, tuy nhiên, số lượng không nhiều (40 mã). Trong giai đoạn này, Trái phiếu Chính phủ tương đối kém thanh khoản, giá trị giao dịch bình quân cũng rất thấp, với khoảng 2% giá trị Trái phiếu Chính phủ niêm yết.

Giai đoạn 2004-2007, giá trị trái phiếu niêm yết so với GDP tăng đáng kể, lên tới 11,3% GDP, đồng thời, nhiều quy định mới được áp dụng nhằm thúc đẩy giao dịch trái phiếu như: không giới hạn tỷ lệ nắm giữ đôi với trái phiếu của các tổ chức, cá nhân nước ngoài; bỏ biên độ dao động giá; cơ chế giao dịch thỏa thuận; rút ngắn thời gian thanh toán. Vì vậy, tính thanh khoản của thị trường cũng tăng dần. Trong thời gian gần đây, do biến động của lãi suất, việc phát hành Trái phiếu Chính phủ không được như mong muốn, dẫn đến tỷ lệ giá trị niêm yết so với GDP giảm xuống và chỉ còn khoảng 10,81% vào cuối năm 2009. Tuy nhiên, nếu so sánh với tổng dư nợ trái phiếu phát hành là 16,9% GDP thì vẫn còn một lượng khá lớn trái phiếu chưa được đưa vào niêm yết và giao dịch trên các SGDCK. Số trái phiếu này phần lớn là trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong thời gian gần đây.

Trước năm 2006, Trái phiếu Chính phủ được giao dịch đồng thời tại HoSE và HNX. Tuy nhiên, từ ngày 24/9/2009, hệ thống giao dịch Trái phiếu Chính phủ chuyên biệt với gần 30 thành viên, trong đó, có nhiều ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán lớn đã chính thức hoạt động. Hệ thống này tách biệt khỏi hệ thống giao dịch cổ phiếu và với nhiều đặc điểm mới, được phát triển phù hợp với các đặc thù của giao dịch trái phiếu, đã khắc phục một số hạn chế của hệ thống giao dịch trái phiếu trước đây.

Mặc dù đã có những bước phát triển nhảy vọt, nhưng thị trường giao dịch cổ phiếu còn nhiều biến động và hạn chế về tính thanh khoản đặc biệt khi thị trường có dấu hiệu suy giảm. Bên cạnh đó, hàng hóa niêm yết trên TTCK chưa đa dạng, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư và phòng ngừa rủi ro của nhà đầu tư (chưa có các sản phẩm phái sinh, các sản phẩm đầu tư tập thể). Các dịch vụ tiện ích cho nhà đầu tư trên thị trường còn nghèo nàn (chưa có nghiệp vụ bán không, vay ký quỹ, bán trước ngày hoàn tất giao dịch), tính minh bạch của thị trường chưa đáp ứng nhu cầu của công chúng đầu tư.

Về hệ thống cơ sở nhà đầu tư (cầu đầu tư):

Số lượng các nhà đầu tư tham gia TTCK ngày càng đông đảo. Số lượng nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, trong nước và nước ngoài đã gia tăng đáng kể. Từ khoảng gần 3000 tài khoản nhà đầu tư tham gia khi mới mở cửa thị trường vào năm 2000, tính đến năm 2010 đã có trên 90.000 tài khoản giao dịch, trong đó số nhà đầu tư tổ chức trong nước là 2.662, số nhà đầu tư cá nhân trong nước là 807.558, số nhà đầu tư nước ngoài là hơn 13.000 nhà đầu tư.

Tuy nhiên, hệ thống nhà đầu tư của chúng ta chưa đa dạng, cấu trúc cầu đầu tư hiện tại chưa bảo đảm sự tăng trưởng một cách bền vững. Hệ thống nhà đầu tư tổ chức chưa phát triển làm hạn chế sự phát triển của TTCK mà đặc biệt là thị trường Trái phiếu Chính phủ.

Về hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán

  • Hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán phát triển nhanh về quy mô và năng lực nghiệp vụ, với hệ thống mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch trải khắp các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước, góp phần giúp công chúng đầu tư tiếp cận dễ dàng hơn với TTCK. Khi thị trường bắt đầu đi vào hoạt động, toàn thị trường mới chỉ có 7 công ty chứng khoán và cho đến tận năm vẫn chưa có một công ty quản lý quỹ nào. Sau 10 năm hoạt động, tính đến năm 2010, đã có 105 công ty chứng khoán và 46 công ty quản lý quỹ đang hoạt động tại Việt Nam. Số thành viên lưu ký của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán, thuộc ủy ban Chứng khoán nhà nước (Bộ Tài Chính) là 122 thành viên, trong đó, có 8 ngân hàng lưu ký và 12 tổ chức mở tài khoản trực tiếp.
  • Số lượng người hành nghề tăng nhanh, phù hợp với sự tăng trưởng của các Công ty chứng khoán. Từ năm 2007 đến 2009 đã có gần 8400 người hành nghề được cấp chứng chỉ. Số lượng công ty quản lý quỹ gia tăng nhanh kể từ năm 2006 trở lại đây (năm mới chỉ có 6 công ty quản lý quỹ thì đến cuối 2009 đã có 47 công ty được cấp phép hoạt động). Nhìn chung, hoạt động kinh doanh của các Công ty quản lý quỹ là không đồng đều và đang có sự phân hóa rõ rệt. Hiện nay, mới chỉ có 33/46 Công ty đã triển khai hoạt động quản lý tài sản, trong đó, mới có 14 công ty huy động được quỹ.
  • Tuy nhiên, số lượng các tổ chức kinh doanh và cung cấp dịch vụ cho TTCK tăng quá nhanh, với năng lực về vốn và chuyên môn còn hạn chế, tiềm ẩn rủi ro hệ thống và chưa tương xứng với hiệu quả hoạt động chung của thị trường.

Về tổ chức thị trường

  • Mặc dù việc tái cấu trúc lại thị trường bước đầu được thực hiện để khắc phục sự thiếu đồng bộ và tạo sự phân định của thị trường, nhưng đây vẫn là hạn chế lớn nhất của TTCK Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. về cơ cấu tổ chức, việc tách các SGDCK và TTLKCK trở thành pháp nhân độc lập khỏi UBCKNN (Bộ Tài Chính) đã đạt được kết quả nhất định, trong việc tách bạch chức năng quản lý nhà nước trong hoạt động chứng khoán và chức năng tổ chức vận hành TTCK.
  • Việc phân chia thị trường tập trung thành hai thị trường bộ phận với cùng một phương thức giao dịch dựa trên các điều kiện niêm yết về lợi nhuận và vốn điều lệ trong giai đoạn vừa qua, đã góp phần quan trọng mở rộng thị trường có tổ chức, phát huy tính năng động của các TTGDCK/SGDCK trong việc thu hút các doanh nghiệp vào niêm yết, đăng ký giao dịch. Tuy nhiên, mô hình này đã và đang làm tăng chi phí xã hội, chưa phù hợp với xu thế quốc tế là sáp nhập, hợp nhất để tăng sức cạnh tranh, và gây khó khăn cho công tác phát triển chiều sâu để khai thác tối đa hệ thống công nghệ và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khác nhau của thị trường.
  • Thị trường giao dịch cổ phiếu chưa niêm yết mới được hình thành dưới hình thức hệ thông giao dịch UPCoM (Unlisted Public Company Market - là thị trường chứng khoán phi tập trung trên nguyên tắc thị trường OTC có tổ chức giao dịch bởi sự thỏa thuận gián tiếp giữa những người bán, người mua thông qua các công ty chứng khoán), chưa phát huy được vai trò tạo lập thị trường theo kiểu thị trường phi tập trung. Ngoài ra, số lượng cổ phiếu đưa vào giao dịch so với Số lượng công ty đại chúng chiếm tỷ trọng quá thấp và thiếu hấp dẫn đối với doanh nghiệp cũng như công chúng đầu tư. Hiện tại, vẫn còn tồn tại một bộ phận thị trường cổ phiếu được đăng ký với TTLKCK nhưng chưa có cơ chế giao dịch và chuyển quyền sở hữu.

Về hoạt động quản lý, giám sát thị trường

  • Trong giai đoạn 2000 - 2010, công tác quản lý Nhà nước và điều hành TTCK được thực hiện tương đối linh hoạt, bảo đảm TTCK vận hành an toàn và phát triển ổn định, không để xảy ra đổ vỡ, xáo trộn lớn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từng bước nâng cao năng lực giám sát và cưỡng chế thực thi quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Hoạt động quản lý và giám sát TTCK với trọng tâm lấy việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư là nòng cốt; các chính sách quản lý TTCK đã thể hiện mục tiêu tăng cường tính công khai, minh bạch, từng bước áp dụng các thông lệ về quản trị công ty tốt, các chuẩn mực về kế toán, kiểm toán quốc tế và khuyến cáo của Tổ chức quốc tế các UBCK (IOSCO).
  • Thiết lập cơ chế giám sát TTCK chuyên sâu, chuyên nghiệp theo thông lệ quốc tế. Công tác thanh tra, giám sát của UBCKNN tập trung vào: giám sát tuân thủ các tổ chức trung gian thị trường; giám sát tuân thủ các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết; giám sát tuân thủ của các SGDCK, TTLKCK; bên cạnh đó, giám sát giao dịch trên TTCK nhằm phát hiện các hành vi lạm dụng thị trường; thanh tra thực hiện chức năng cưỡng chế thực thi.
  • Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc quản lý, vận hành và giám sát thị trường, nhưng công tác quản lý, điều hành TTCK trong thời gian qua vẫn còn một số tồn tại và hạn chế nhất định như: công tác ban hành các văn bản pháp luật, các chính sách điều hành thị trường chưa linh hoạt, còn bị động và chậm so với yêu cầu thực tiễn phát triển của TTCK; công tác quản lý, giám sát và cưỡng chế thực thi còn nhiều bất cập. Ngoài ra vậy thị trường chứng khoán trong những năm gần đây bị ảnh hưởng của lạm phát cao nên gặp nhiều khó khăn.
  • Giai đoạn sáu tháng năm 2011, thị trường chứng khoán có nhiều khó khăn thách thức, do ảnh hưởng của lạm phát đe dọa.

Thị trường Trái phiếu Chính phủ:

  • Thị trường sơ cấp.
    • Ước tính trong sáu tháng đầu năm 2011, tổng số tiền huy động thành công qua kênh phát hành trái phiếu khoảng 77.445 tỷ đồng, tương đương 42,2% kế hoạch huy động của cả năm 2011. Trong đó, bao gồm khoảng 42.000 tỷ đồng Trái phiếu Chính phủ và 35.445 tỷ đồng trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh phát hành.
    • Lãi suất trúng thầu trong bốn tháng đầu năm dao động từ 11- 12%, trong hai tháng cuối đã tăng lên mức 12,2-13,3%. Tuy nhiên, từ tháng 6 lãi suất trúng thầu đã có xu hướng giảm nhẹ, và đến tháng 6 năm 2011 ở mức 12,3%. Trong tình hình thắt chặt tiền tệ, cắt giảm đầu tư công, ngoài việc huy động vốn để bù đắp thâm hụt Ngân sách Nhà nước, việc giải ngân vốn theo chủ trương được tiến hành rà soát và giảm tốc, chỉ ưu tiên cho các dự án thiết yếu như các công trình giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế. Bên cạnh đó, công tác xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động phát hành Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu doanh nghiệp đang tiếp tục trong quá trình hoàn thiện, với việc ra đời của một loạt các thông tư hướng dẫn trong thời gian qua
  • Thị trường thứ cấp.
    • Tổng giá trị giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp trong sáu tháng đầu năm đạt khoảng 34,6 nghìn tỷ đồng, ứng với 289 triệu đơn vị trái phiếu được giao dịch. Trong đó, giá trị giao dịch trong Quý 2 chiếm tới 64%, nhờ kết quả thỏa thuận tăng mạnh vào tháng 6 với 95 triệu đơn vị được chuyển nhượng, chiếm tới 42% giá trị giao dịch nửa năm đầu. Tình hình giao dịch của' trái phiếu đã phản ánh rõ nét diễn biến lãi suất trên thị trường. Cụ thể, khi mặt bằng lãi suất chung bắt đầu có dấu hiệu hạ nhiệt từ cuối tháng 5, lượng giao dịch trái phiếu đã tăng đột biến so với thời kỳ căng thẳng trước đó. Nếu lạm phát được kiềm chế thành công và diễn biến lãi suất tiếp tục tích cực trong thời gian tới, giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp được kỳ vọng sẽ trở nên sôi động
  • Thị trường cổ phiếu niêm yết
    • Diễn biến thị trường chứng khoán Quý 2 năm 2011.
    • Quý 2 năm 2011 đã kết thúc, đồng thời cũng khép lại sáu tháng đầu năm 2011, bất chấp việc Chính Phủ đã có những biện pháp quyết liệt, đặc biệt là chính sách tiền tệ thắt chặt với mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định vĩ mô, thì hiệu quả của nó cho đến lúc này vẫn chưa được thể hiện rõ: Thị trường chứng khoán Việt Nam trong suốt thời gian qua cũng chịu ảnh hưởng và phản ánh những khó khăn, bất ổn từ phía vĩ mô. Giá trị giao dịch bình quân toàn thị trường Quý 2 /2011 so với Quý 1 năm 2011 giảm 27,18% xuống dưới con số 1.000 tỷ đồng khi chỉ đạt 978,70 tỷ đồng mỗi phiên. Còn nếu nhìn lại cả nửa đầu năm 2011 thì mức suy giảm còn sâu hơn thế, HNX-Index sụt mạnh 36,31% còn VN Index thì để mất 12,25.
    • Tuy còn nhiều khó khăn thách thức TTCK Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, trong đó nổi bật là đợt phát hành Trái phiếu Chính phủ VN ra thị trường quốc tế, tính đến nay đã có hai đợt thành công.

-----------------------

Chúng tôi đã giới thiệu nội dung bài Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam tính đến quý 2 năm 2011 về đặc điểm hoạt động quản lý, giám sát thị trường, hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán, tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam đến hết Quý 2 năm 2011...

Trên đây, VnDoc đã giới thiệu tới các bạn Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam tính đến quý 2 năm 2011. Ngoài ra, các bạn có thể tham khảo thêm nhiều tài liệu Cao đẳng - Đại học cũng như Cao học khác để phục vụ quá trình nghiên cứu hiệu quả hơn.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO/PROPLUS tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Cao đẳng - Đại học

    Xem thêm