Trình bày suy nghĩ về ước mơ hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam qua bài Tự tình 2

Văn mẫu lớp 11: Trình bày suy nghĩ về ước mơ hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam qua bài Tự tình 2 gồm các bài văn mẫu hay được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

1. Dàn ý trình bày suy nghĩ về ước mơ hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam qua bài Tự tình 2

1. Mở bài

- Sơ lược về nhà thơ Hồ Xuân Hương và phong cách sáng tác.

- Giới thiệu bài thơ Tự tình II với nội dung về ước mơ và hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam.

2. Thân bài

Phân tích bài thơ để biểu đạt suy nghĩ. Trình bày sơ lược một số hiểu biết về bài thơ.

a. Hai câu đề:

- Tình cảnh của người thiếu phụ, cô đơn trong đêm vắng lặng, đợi chờ chồng đến mức chán chường.

- Nỗi phiền muộn bởi đêm tối quá tĩnh mịch quạnh hiu khiến con người ta tủi phận, buồn rầu, mà với Hồ Xuân Hương đó còn là sự bẽ bàng của số phận là thứ thiếp.

- Phản ánh số phận bất hạnh, éo le của người phụ nữ trong xã hội xưa.

=> Khóc thương, đớn đau, chua chát cho cái cuộc đời hồng nhan của mình, cũng như của rất nhiều nhiều những phụ nữ ngoài kia, hạnh phúc đối với họ trở thành thứ xa xỉ, bởi ở cái xã hội này làm gì có hạnh phúc cho phụ nữ đâu!

b. Hai câu thực:

- "Chén rượu hương đưa say lại tỉnh": Cái vòng luẩn quẩn không hồi kết, càng trốn tránh nỗi cô đơn, khốn khổ của mình thì mỗi lúc tỉnh lại Hồ Xuân Hương lại càng thấm thía hơn về cuộc đời hồng nhan bạc phận của mình.

- "Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tàn": Phản ánh chính hoàn cảnh của người thiếu phụ đã sắp đi qua hết thời thanh xuân, son sắc nhưng tình duyên đã 2 lần mà vẫn còn lận đận trái ngang.

=> Lời than vãn về số phận chung của những người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hà khắc, nhất phu đa thê, người phụ nữ chưa bao giờ thực sự tìm được hạnh phúc cho riêng mình dù họ đã cố gắng và khao khát biết bao nhiêu.

c. Hai câu luận:

- Ý chí, cũng như khao khát cháy bỏng được thoát khỏi sự kìm kẹp của chế độ phong kiến, đòi quyền công bằng, khao khát hạnh phúc của người phụ nữ.

- Bà không muốn sống trong cái cảnh bị rẻ rúng coi thường, không muốn chịu kiếp chồng chung, muốn được tự do thể hiện cá tính và vui sống cuộc đời do mình làm chủ chứ không phải phụ thuộc vào ai khác.

d. Hai câu kết:

- Ý thức được sự chảy trôi của thời gian, thanh xuân của phụ nữ có hạn, chưa tìm được hạnh phúc đích thực thì tuổi già ập đến thực sự là nỗi chán ngán vô cùng tận.

- Hạnh phúc của người phụ nữ ở chế độ phong kiến không được trọn vẹn, vừa ít lại còn phải chia năm xẻ bảy, khiến họ vô cùng đau khổ và chán chường với lòng ghen và sự cô quạnh.

3. Kết bài

- Nêu cảm nhận cá nhân.

2. Trình bày suy nghĩ về ước mơ hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam qua bài Tự tình 2 mẫu 1

Trong nền văn học Trung đại Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ trong thơ văn ít được nhắc đến, nếu có chỉ xuất hiện thoáng qua trong một số tác phẩm. Thế nhưng vào cuối thế kỉ XVIII, có một người phụ nữ đã xuất hiện, đưa hình ảnh người phụ nữ lên một tầm cao mới, họ không chỉ là những người phụ nữ thấp cổ bé họng, bị chà đạp, khinh rẻ mà họ đã trở nên mạnh mẽ, dám chống lại cái xã hội phong kiến, đạp tung mọi lễ giáo kìm hãm những người phụ nữ, dám ngẩng cao đầu mà nói Không chồng mà chửa mới ngoan - Có chồng mà chửa thế gian thường tình.

Người phụ nữ đó chính là Hồ Xuân Hương, người được Xuân Diệu mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Là người phụ nữ viết về thân phận những người phụ nữ, Hồ Xuân Hương thấu hiểu nỗi đau của họ hơn ai hết. Thơ bà là tiếng nói đồng cảm, xót xa cho thân phận của những người phụ nữ có nhan sắc nhưng số phận lại đầy bất hạnh, hẩm hiu, và luôn bị chà đạp. Một số bài thơ của bà đậm chất trữ tình đằm thắm, xen lẫn ít nhiều cảm xúc tha thiết, buồn tủi... thể hiện một cách sâu sắc thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa với biết bao nỗi niềm khát khao được sống hạnh phúc trong tình yêu đôi lứa. Chùm thơ Tự tình gồm ba bài là một phản ánh sâu sắc tâm tư tình cảm của nhà thơ, một người phụ nữ duyên phận hẩm hiu quá lứa lỡ thì. Hay nhất trong chùm thơ này là bài thứ hai.

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con

Đêm khuya là lúc con người ta cảm thấy cô đơn, lẻ loi nhất. Khi một mình không ngủ được bà lại lắng tai nghe tiếng trống canh văng vẳng liên hồi, báo hiệu bước đi dồn dập của thời gian.

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non

Đây cũng là lúc bà cảm thấy xót xa cho thân phận hẩm hiu của mình, những người phụ nữ khác có lẽ giờ đây đang ở trong vòng tay của chồng còn bà thì một mình trơ cái hồng nhan với nước non. Từ trơ đứng trước từ hồng nhan gợi cái gì đó rẻ rúng và pha chút mỉa mai. Chỉ có đá mới trơ gan cùng tuế nguyệt vậy mà nhan sắc của người phụ nữ này cũng trơ gan với nước non. Không ngủ được, bà mượn chén rượu uống để say, để quên đi cái thực tại đau đớn này.

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

Thế nhưng rượu không làm bà say, bà quên được, càng uống càng tỉnh, càng tỉnh càng đau, càng nghĩ về thực tại của mình. Đêm đã khuya, vầng trăng sắp lặn, đã biết bao thi nhân mượn hình ảnh vầng trăng làm người bạn tri âm tri kỉ nhưng trăng ở đây không phải bạn để chia sẻ tâm trạng của nữ thi sĩ lúc này mà vầng trăng càng xoáy sâu vào nỗi đau của bà. Trong cái đêm khuya ấy, trong âm thanh của tiếng trống dồn, giữa chén rượu vầng trăng khuyết càng gợi não nùng hơn.

Trăng ở đây là hình ảnh thật nhưng nó cũng ẩn dụ hình ảnh tuổi xuân của người phụ nữ, nếu vầng trăng đó là ngày rằm tròn đầy viên mãn thì lại khác, ở đây vầng trăng khuyết thể hiện sự thiếu thốn không đầy đủ. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ này rất tài tình, đăng đối, hô ứng nhau, cùng làm nổi bật lên thân phận của một khách hồng nhan bạc mệnh, có nhan sắc mà phải chịu cảnh dang dở, cô đơn. Tủi buồn cho duyên phận của mình, người phụ nữ đã trải qua biết bao đêm dài thao thức mong đợi, ước mơ nhưng ngày tháng cứ chồng chất thêm hi vọng đợi chờ, khát khao, nhưng hạnh phúc vẫn mù mịt. Biết bao giờ vầng trăng lại tròn như biết bao tháng ngày mơ ước. Càng cô đơn, càng đợi chờ, càng mong chờ thì càng đau buồn.

Bầu trời là vậy, còn mặt đất thì:

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn

Tác giả đã dùng những động từ mạnh như xiên, đâm kết hợp với các bổ ngữ ngang, dọc cho thấy được sức sống mãnh liệt của cỏ cây hoa lá. Chúng là những sinh vật mềm yếu nhưng cho thấy được sức sống mãnh liệt của cỏ cây hoa lá. Người phụ nữ trong bài thơ này cũng vậy, cũng muốn phản kháng, muốn bứt tung khỏi xiềng xích của xã hội phong kiến, nhưng điều đó không thể. Không thoát khỏi được, người phụ nữ đành chấp nhận thực tại với một nỗi niềm ngao ngán.

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con

Từ ngán có nghĩa là chán ngán, ngán ngẩm về cuộc đời éo le, bạc bẽo của Hồ Xuân Hương. Xuân ở đây có nghĩa là mùa xuân nhưng cũng ẩn dụ về tuổi xuân của người phụ nữ. Mùa xuân là mùa của tình yêu, của tuổi trẻ, ai cũng háo hức mong chờ nhưng riêng bà thì không bởi mùa xuân qua đi tuổi xuân của người phụ nữ cũng qua đi. Xuân Diệu, ông hoàng của thơ tình Việt Nam cũng đã từng tiếc rẻ thốt lên:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già...

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại...

Thế nhưng, nếu Xuân Diệu háo hức mong chờ mùa xuân tới thì Hồ Xuân Hương lại ngán ngẩm mùa xuân về nên bà viết xuân lại lại, một chút ngán ngẩm trong câu thơ ấy vì mùa xuân trôi dần đi mà bản thân mình vẫn một thân một mình, lẻ chiếc, thiếu thốn yêu thương, giả sử có tình yêu thì mình cũng chỉ được sẻ tí con con.

Trong câu cuối cùng của bài thơ này, từng chữ đều thoáng ý ngậm ngùi ấm ức, tình chỉ có một mảnh vì phải chia đâu được tròn đầy nguyên vẹn, khác chi ánh trăng khuyết trên bầu trời. San sẻ nhưng chỉ được một tí con con, lời thơ tưởng như một lời bỡn cợt, tưởng như tiếng cười ngạo nghễ của bà nhưng sao thấy chua xót. Đã con con là nhỏ rồi mà còn tí nữa thì cực nhỏ. Vì phải chịu cảnh tình cảm bị chia sẻ nên đã có lần bà đã phải cất tiếng chửi:

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng

Tự tình II là bài thơ tự than thân, nói ra tự đáy lòng của một người phụ nữ quá lứa lỡ thì, mượn rượu, nhìn trăng để quên đi cái thực tại cô đơn. Nhưng Nguyễn Du từng nói cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ bởi vậy rượu và trăng càng làm cho người phụ nữ thêm buồn tủi với duyên phận hẩm hiu của mình. Càng buồn tủi càng khao khát có được hạnh phúc trọn vẹn. Dù vậy nổi bật lên trong bài thơ là sức sống mãnh liệt và một tấm lòng yêu cuộc sống thật thiết tha.

3. Trình bày suy nghĩ về ước mơ hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam qua bài Tự tình 2 mẫu 2

Trên thi đàn Việt Nam cũng như trong cả nền văn học Việt Nam chiếm số đông là các nhà thơ nam với số lượng tác phẩm đồ sộ và vô cùng phong phú về thể loại thế nhưng điều ấy cũng không có nghĩa là phận nữ nhi chẳng có tiếng tăm gì trên văn đàn, mặc dù xuất hiện ít ỏi nhưng các nhà thơ nữ vẫn có những đóng góp vô cùng quan trọng cho nền văn học dân tộc mà tiêu biểu nhất, nổi trội nhất phải kể đến nữ sĩ Hồ Xuân Hương, người được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm trong văn học trung đại. Bên cạnh việc sáng tác hay và sáng tác nhiều, với ngòi bút sắc sảo, đôi lúc là đanh đá chua cay, Hồ Xuân Hương là một trong các nhà thơ hiếm hoi hiểu và viết về cuộc đời cũng như những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến một cách sâu sắc. Có lẽ rằng cuộc đời của bà cũng chịu nhiều bất hạnh, dẫu tài hoa mấy bậc nhưng cũng không có nổi nửa phần hạnh phúc, hai lần làm vợ thì cả hai lần chịu chịu cảnh làm thiếp, nên Hồ Xuân Hương lại càng ý thức được sâu sắc cái ước mơ, cái khao khát cháy bỏng về hạnh phúc của những người phụ nữ và đưa nó vào nhiều các tác phẩm của mình. Tự tình 2 cũng là một tác phẩm mang phong cách ấy của nữ sĩ.

Không biết rằng chùm thơ Tự Tình được viết vào khoảng thời gian nữ sĩ Hồ Xuân Hương còn chung sống với ông Tổng Cóc hay đã lần nữa tái giá với ông phủ Vĩnh Tường, nhưng dù viết vào giai đoạn nào thì ý thơ cũng chỉ có một đó là tâm tình của người thiếu phụ chịu cảnh chung chồng, thiếp thất. Đọc Tự Tình 2 ta luôn thấy một giọng thơ bén nhọn, nỗi buồn bực không cam của người phụ nữ đương buổi phòng không gối chiếc, mà chẳng biết rằng chồng mình đang ở phòng của người vợ nào khác. Nỗi cô đơn trống trải giày vò khiến Hồ Xuân Hương có những tư tưởng và những ý nghĩa táo bạo hòng muốn thoát khỏi cuộc đời trái ngang và bất công để tìm cho mình hạnh phúc khác.

Hai câu thơ đầu là tình cảnh của người thiếu phụ, cô đơn trong đêm vắng lặng, đợi chờ chồng đến mức chán chường.

"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non"

Vốn dĩ rằng khoảng thời gian "đêm khuya" là lúc con người đã chìm vào giấc nồng để nghỉ ngơi sau một ngày mệt mỏi, để dưỡng thần, dưỡng sức, cũng là lúc những cặp vợ chồng son sắt tâm tình thủ thỉ chuyện sâu kín. Thì với Hồ Xuân Hương đêm khuya này bà không ngủ được, không ngủ có lẽ phần vì ghen chồng, phần vì tủi phận chán chường cho một kiếp hồng nhan dẫu có tài giỏi, có nhan sắc nhưng vẫn không thể giữ chồng ở bên cạnh mình. Trong nỗi cô đơn trống trải, nữ sĩ theo thức với đêm trường, là cái khoảnh khắc lặng yên mà con người dễ dàng suy nghĩ và nhìn nhận lại những gì đã qua, đặc biệt là nhìn nhận lại bản thân. Nhịp "trống canh dồn" báo hiệu bước đi vội vã của thời gian, thời gian cứ trôi đi nhưng đôi mắt hồng nhan không thể nào khép, trí lại tiếng trống canh ấy càng như tô đậm thêm cái vắng lặng, trống trải của không gian về đêm, cái cô đơn, trơ trọi, lẻ loi trong tâm hồn người phụ nữ. Đặc biệt nhất là nỗi phiền muộn bởi đêm tối quá tĩnh mịch quạnh hiu khiến con người ta tủi phận, buồn rầu, mà với Hồ Xuân Hương đó còn là sự bẽ bàng của số phận là thứ thiếp.

"Trơ cái hồng nhan với nước non"

Việc dùng từ táo bạo và khí khái mạnh mẽ dường như đã thành đặc sản trong thơ của nữ sĩ thế nên trong bài thơ này cũng vậy, một từ "Trơ" khiến người ta có cảm giác sao nó sắc bén và thẳng thắn quá mức, nó vừa là trơ trọi, cô đơn, lạc lõng và bẽ bàng và tủi hổ. Nhưng đồng thời cái "trơ" ấy lại dường như đang thể hiện một tính chất khác đó là sự chai lì, dạn dĩ, "trơ gan cùng tuế nguyệt" sẵn sàng thách thức cả thế gian, thách thức với màn đêm đang phủ kín cuộc đời. Cái từ "trơ" ấy kết hợp với vế tiểu đối trong câu "cái hồng nhan/nước non", rõ ràng rằng đang phản ánh một hiện thực sâu sắc số phận bẽ bàng, nhỏ bé của người phụ nữ đang phải đương đầu với cả một xã hội phong kiến rộng lớn lắm quy củ, lắm đạo lý khiến người phụ nữ bị chèn ép. Họ một là phải chịu cảnh cô đơn, trơ trọi, lẻ loi, hai là phải trở nên chai lì, trơ cứng như đá sỏi để gồng gánh những áp lực nặng nề của chế độ trên vai. Ở đây ta còn thấy có một sự kết hợp rất hay, rất đặc sắc trong cụm từ "cái hồng nhan", bởi xưa nay "hồng nhan" vẫn là từ ngữ để chỉ người phụ nữ đẹp, được trân trọng nâng niu, được săn đón và nó là một từ khá trang trọng thế nhưng Hồ Xuân Hương lại đem ghép với từ "cái" vốn chẳng ăn nhập gì, bởi từ này lại dùng để chỉ những thứ nhỏ bé, tầm thường, chẳng mấy ai coi trọng. Thế nhưng thực tế rằng khi kết hợp thành cụm "cái hồng nhan" thì người ta cũng ngộ ra cái ý của nữ sĩ rằng hồng nhan thời này cũng chẳng đáng mấy xu, cũng bị rẻ rúng coi thường như một món đồ bày trí mà đàn ông, xã hội phong kiến bất công là người có cái quyền lực to lớn ấy. Bà đang khóc thương, đang cười một cách đớn đau chua chát cho cái cuộc hồng nhan của mình cũng như của rất nhiều nhiều những phụ nữ ngoài kia, hạnh phúc đối với họ trở thành thứ xa xỉ, bởi ở cái xã hội này làm gì có hạnh phúc cho phụ nữ đâu!

Đó là hai câu đề, đến hai câu thực, ta lại càng thấm thía hơn cái nỗi buồn của bà chúa thơ Nôm những đêm phòng không gối chiếc dài dằng dặc, nỗi trống vắng, mệt mỏi ấy không phải ai cũng thấu hiểu.

"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"

Chén rượu xưa nay vốn chẳng phải là quen thuộc với phận hồng nhan thế nhưng với một người đang chán ngán, buồn tủi thì chén rượu nồng say lại là liều thuốc tốt nhất để bà được quên đi những nỗi sầu khổ về kiếp chung chồng, kiếp hồng nhan rẻ rúng, cô quạnh. Thế nhưng giá như rượu uống vào mà quên được thì cũng cố uống cho quên, khổ nỗi nó cứ "say lại tỉnh", như một cái vòng luẩn quẩn không hồi kết, vừa mới quên đi được chút thì lại tỉnh lai để đối mặt với đớn đau, bất hạnh, nó như một loại khổ hình tinh thần cứ trở đi trở lại giày vò tâm hồn của nữ sĩ. Và cứ càng trốn tránh nỗi cô đơn, khốn khổ của mình thì mỗi lúc tỉnh lại Hồ Xuân Hương lại càng thấm thía hơn về cuộc đời hồng nhan bạc phận của mình, bởi càng say lại càng tỉnh. Câu thơ "Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn" chính là cái nhận thức sâu sắc của nữ sĩ về cuộc đời mình sau những say tỉnh liên miên như thế, nó không chỉ đơn thuần báo hiệu rằng đêm tối sắp tàn, người chồng bà chờ đã yên giấc tại nơi nào đó, mà nó còn thực tế phản ánh chính hoàn cảnh của người thiếu phụ đã sắp đi qua hết thời thanh xuân, son sắc nhưng tình duyên đã 2 lần mà vẫn còn lận đận trái ngang. Hồ Xuân Hương vẫn chưa thể tìm cho mình một người chồng của riêng bà, vẫn chưa thể hằng đêm đầu gối tay ấp, thủ thỉ văn chương, tâm tình, mà bà vẫn phải đắng cay, hậm hực lòng ghen chứng kiến chồng mình san sẻ tình cảm cho những người phụ nữ khác, điều ấy khiến bà không thể cam lòng mà trách phận. Hai câu thơ ấy là lời than vãn về số phận chung của những người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hà khắc, nhất phu đa thê, người phụ nữ chưa bao giờ thực sự tìm được hạnh phúc cho riêng mình dù họ đã cố gắng và khao khát biết bao nhiêu.

Sau những đắng cay, buồn tủi trong sự cô đơn, lẻ bóng thì Hồ Xuân Hương đã từng có riêng cho mình những ý nghĩ đột phá, chống lại số phận, để đi tìm cho mình một cuộc sống hạnh phúc trong hai câu thực.

"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn"

Nỗi phẫn uất, tức giận của nữ sĩ được thể hiện một cách rất mạnh mẽ và có phần đanh đá thông qua lối nói đảo ngược, những hình ảnh thiên nhiên vốn vô cùng bình thường, xuất hiện đầy rẫy trong trời đất nhưng vào thơ bà đã mang một dáng vẻ khác, dường như tất cả chúng đều mang một nỗi tức giận, chất chứa những tình cảm đè nén trong lòng bấy lâu giống như tâm trạng của Hồ Xuân Hương. Có thể nói rằng bút pháp nghệ thuật trong hai câu thơ này khá tương tự với bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", bởi khi con người mang một tâm hồn bức xúc, đè nén, phẫn uất thì dẫu có là vạn vật vô hại vào đôi mắt rực lửa của thi nhân cũng trở thành cảnh phản kháng, đối nghịch. Rêu vốn là thực thể mềm yếu, nhỏ bé giống hệt như người phụ nữ chân yếu tay mềm, còn đá thì xưa nay vẫn trơ cứng, chai lì, tĩnh tại về mặt cảm xúc đem đến cảm giác cam chịu của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Nhưng đến khi vào thơ, giọng điệu ngang ngạnh thách thức của Hồ Xuân Hương đã khoác cho chúng một tầng áo mới, một dáng vẻ mới, rêu và đá sẵn sàng phá vỡ mọi thứ ràng buộc và ngăn trở chúng, để được trở nên mạnh mẽ, tận hưởng quan cảnh đất trời, thoát khỏi cái lớp vpr bọc mềm yếu, nhẫn nại xưa nay. Qua hai hình ảnh rêu và đá người ta thấy rất rõ cái ý chí, cũng như khao khát cháy bỏng được thoát khỏi sự kìm kẹp của chế độ phong kiến, đòi quyền công bằng, khao khát hạnh phúc của người phụ nữ, bà không muốn sống trong cái cảnh bị rẻ rúng coi thường, không muốn chịu kiếp chồng chung, muốn được tự do thể hiện cá tính và vui sống cuộc đời do mình làm chủ chứ không phải phụ thuộc vào ai khác.

Thế nhưng dẫu có khao khát mãnh liệt, có mạnh mẽ phản kháng đến bao nhiêu lần đi chăng nữa thì bất hạnh thay Hồ Xuân Hương vẫn chẳng thể thoát khỏi cái ách kìm kẹp của xã hội cũ, bà vẫn bị ép quay về với cuộc đời hiện thực, tiếp tục gặm nhấm nỗi cô đơn chán chường, trong một kiếp nhân sinh bất hạnh.

"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con"

Cũng như nhiều người phụ nữ khác, Hồ Xuân Hương cũng chán ngán cái cảnh mùa xuân đi rồi mùa xuân lại đến, đôi lúc có người hỏi sao lại có người chán ngán cái mùa xuân tươi đẹp đến thế. Nhưng mấy ai hiểu rằng tuổi tác luôn là nỗi đau của người phụ nữ, khi họ ý thức được sự chảy trôi của thời gian thì cũng đồng nghĩa với việc thừa nhận bản thân mình đang già đi theo năm tháng. Mà đặc biệt với Hồ Xuân Hương một người đàn bà có nhan sắc có phẩm chất, nhưng lại chưa tìm được hạnh phúc đích thực thì tuổi già ập đến thực sự là nỗi chán ngán vô cùng tận. Nghịch cảnh ấy của người phụ nữ càng trở nên sâu sắc khi chút hạnh phúc họ gom góp được cũng bị san sẻ mấy hồi, thuở xưa nam nhi chí ở bốn phương, nào có quan tâm gì đến chuyện nhi nữ thường tình, đối với họ phụ nữ chỉ là để tề gia, để vui vầy trong lúc rảnh rỗi, hiếm thấy người đàn ông nào thật sự nặng tình. Chính vì thế cái mà người phụ nữ nhận được chỉ là "mảnh tình", thậm chí vớ cảnh chung chồng, thiếp thất thì chút tình ấy họ cũng chỉ được "san sẻ tí con con", ít ỏi đến đáng thương. Như vậy hỏi làm sao mà một người phụ nữ như Hồ Xuân Hương không chán ngán, không cô đơn muốn tự giải thoát để tìm hạnh phúc thực sự và bà cũng đã từng làm vậy thật, từ bỏ kiếp vợ lẽ của ông Tổng Cóc để tìm kiếm tình yêu nơi ông phủ Vĩnh Tường, dù chỉ làm lẽ lần nữa nhưng thiết nghĩ rằng ít nhất bà cũng có phần hạnh phúc hơn, chỉ tiếc rằng ông phủ qua đời sớm quá, để lại ỏng lòng bà nỗi nuối tiếc khôn nguôi.

Bài thơ vừa là lời than thân đầy đau xót, cô đơn, trống trải của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, sự phản kháng mạnh mẽ, đanh đá của nữ sĩ Hồ Xuân Hương trước cuộc đời đầy trái ngang. Đồng thời cũng thể hiện rõ những khao khát được hạnh phúc, niềm ước mơ được hưởng chế độ công bằng, được tự do thể hiện cá tính, cũng như tự do thể hiện tình yêu, cùng niềm hy vọng cuộc sống một chồng một vợ yên ấm của người phụ nữ xưa dù rằng điều đó khó có thể xảy ra.

4. Trình bày suy nghĩ về ước mơ hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam qua bài Tự tình 2 mẫu 3

Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam từ rất lâu đã trở thành đề tài hấp dẫn muôn thuở cho các nhà thơ, nhà văn. Đặc biệt qua các bài “Tự Tình” của Hồ Xuân Hương và “Thương Vợ” của Trần Tế Xương chúng ta sẽ hiểu rõ thêm phần nào về thân phận của người phụ nữ thời xưa dưới chế độ phong kiến. Nhất là về phẩm chất cao quý và nỗi đau đến chua xót của những người phụ nữ thời bấy giờ.

Với bút pháp tả thực, từ ngữ giản dị đã gợi cho ta thấy được sự cô đơn lạnh lẽo trong cái không gian mênh mông thanh vắng đến trống trải của đêm khuya, âm thanh của tiếng trống như làm khuấy động bầu không khí yên tĩnh xung quanh và trong tâm hồn của Hồ Xuân Hương. Từ ngữ "hồng nhan" như ám chỉ một người phụ nữ xinh đẹp, quyến rủ thế nhưng nó lại cứ "trơ" ra như là một sự mỉa mai. Hồ Xuân Hương đã mạnh dạng công khai một hiện thực hết sức bẽ bàng, chua xót mà bà đang nếm phải. Và cũng từ đó bà nhận ra được số phận của những người phụ nữ trong chế độ phong kiến thối nát, với những quan niệm "trai thì năm thê bảy thiếp" đã làm cho người phụ nữ không có được một chỗ đứng trong xã hội, họ lo lắng cho thân phận trôi nổi của mình bởi họ không thể quyết định được duyên phận, số phận của bản thân họ.

Bà đã mượn rượu để quên tình đi, quên đi cái số phận hẩm hiu của mình, nhưng say rồi lại tỉnh lại càng buồn tủi hơn, đau khổ hơn và càng nhận ra cái vòng quẩn quanh trong cuộc đời thân phận thật sự của chính bản thân mình. Hình ảnh vầng trăng sắp tàn mà lại khuyết chưa tròn như ngụ ý một nhân duyên không trọn vẹn mà tuổi xuân thì cứ lạnh lùng trôi qua hết năm này qua năm khác mà không trở lại.

Khoảng không gian như được mở rộng hơn, xa hơn qua tầm nhìn của tác giả, những động từ "đâm", "xiên" của đá, rêu gợi lên một sức sống mạnh mẽ, dù đó là vật vô tri vô giác nhưng nó cũng có sức sống mãnh liệt đến nỗi nó cứ sống mãi sống mãi trong đôi mắt của Hồ Xuân Hương, cùng với sự bướng bỉnh thể hiện sự kháng cự đầy quyết liệt của Hồ Xuân Hương đã nói lên một nỗi khao khát được hạnh phúc, có được một mái ấm gia đình, được người chồng thương yêu chăm sóc chứ không phải ngồi một mình trong đêm khuya thanh vắng với sự cô đơn và lạnh lẽo trong nỗi buồn tủi.

Hồ Xuân Hương đã chán ngán, ngán ngẫm với nỗi cô đơn, buồn tủi, khi ngày này lại tiếp nối ngày khác, xuân này lại nối xuân khác mà qua. Tâm trạng chán chường trước một mảnh tình không được trọn vẹn mà phải "chia năm sẻ bảy" để rồi cuối cùng chỉ còn một mảnh "tí con con". Mặc dù Hồ Xuân Hương có bản lỉnh có giỏi gian như thế nào cũng không thoát khỏi được nghịch cảnh của số phận. Bởi người phụ nữ không hề có được địa vị trong xã hội này. Cái xã hội bất công "trọng nam khinh nữ", đã làm cho người phụ nữ điêu đứng, nhưng cũng từ đó những phẩm chất tốt đẹp của họ được bộc lộ rõ nét hơn…

Hoàn cảnh kiếm sống vất vả, lam lũ của bà Tú đã được giới thiệu rất rõ nét, thời gian cứ lặp đi lặp lại hết năm này sang năm khác, dù trời nắng hay mưa vả lại phải buôn bán ở mom sông là nơi nguy hiểm ẩn nấp, bà Tú phải làm việc vất vả, cực nhọc để "nuôi đủ năm con với một chồng" nói lên cái gánh nặng đôi vai, một bên là chồng, một bên là con. Đó không phải là một điều dễ dàng mà ai cũng có thể làm được.

Tác giả đã sữ dụng biện pháp tu từ đảo ngữ một cách tinh tế "lặn lội thân cò" vừa nói lên được cuộc sống vất vả tảo tần buôn bán ngược xuôi, vừa khắc họa rõ nét chân dung của bà Tú ở những nơi nguy hiểm vắng vẻ mà đáng ra việc đó phải dành cho người chồng, người cha, người trụ cột của gia đình thế nhưng bà Tú lại phải gánh lấy không một lời than phiền oán trách. Câu thơ còn gợi tả cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. Buổi “đò đông” không chỉ có những lời phàn nàn, cáu gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy sự bắc trắc nguy hiểm.

Nói lên cái đức tính cao đẹp, giàu đức hy sinh, dù gian nan, vất vả thế nào thì cũng là duyên phận, bà Tú chấp nhận tất cả, giấu kín lòng mình với bao nỗi xót xa, tủi cực chịu thương chịu khó vì chồng vì con, biết chịu thương chịu khó. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ trên đã làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp, tần tảo nuôi con của bà Tú nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung.

--------------------------

Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 11: Trình bày suy nghĩ về ước mơ hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam qua bài Tự tình 2. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn nhé. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 11 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 11.

Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 11 để có thêm tài liệu học tập nhé

Bài tiếp theo: Viết đoạn văn bàn về được và mất trong cuộc sống

Đánh giá bài viết
1 8.380
Sắp xếp theo

Văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức

Xem thêm