Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Văn hóa Việt Nam thời kỳ tiền sử và sơ sử (tiếp theo)

Chúng tôi xin giới thiệu bài Văn hóa Việt Nam thời kỳ tiền sử và sơ sử (tiếp theo) được VnDoc sưu tầm và giới thiệu nhằm giúp các bạn nắm bắt kiến thức môn học một cách tốt hơn để có thể học và hoàn thành bài thi môn học một cách hiệu quả.

Lưu ý: Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài viết.

2. Thời sơ sử

Cách đây khoảng bốn nghìn năm, cư dân Việt Nam, từ lưu vực sông Hồng cho đến lưu vực sông Đồng Nai, đã bước vào thời đại kim khí.

  • Thời kì này trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại ba trung tâm văn hóa lớn là Đông Sơn (miền Bắc), Sa Huỳnh (miền Trung) và Đồng Nai (miền Nam).
  • Văn hóa Đông Sơn (cả giai đoạn tiến Đông Sơn) được coi là cốt lõi của người Việt cổ.
  • Văn hóa Sa Huỳnh(cả giai đoạn tiền Sa Huỳnh) được, coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương quốc Chămpa.

Văn hóa Đồng Nai (cả giai đoạn đồng và sắt) lại là một trong những cội nguồn hình thành văn hóa Óc Eo của cư dân thuộc nhóm Mã Lai - Đa Đảo sinh sống vào những thế kỉ sau công nguyên ở vùng Đông và Tây Nam Bộ. Hiện nay, văn hóa Óc Eo thường được gắn với vương quốc Phù Nam, một nhà nước tồn tại từ thế kỉ II đến thế kỉ VII ở châu thổ sông Cửu Long.

2.1. Từ văn hóa tiền Đông Sơn đến văn hóa Đông Sơn

Nhiều học giả đã thừa nhận rằng chí ít văn hóa Đông Sơn hình thành trực tiếp từ ba nền văn hóa ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả. Các nền văn hóa Phùng Nguyên- Đồng Đậu-Gò Mun thuộc giai đoạn đồng thau (từ khoảng 2000 đến 700 năm trước công nguyên) phân bổ ở lưu vực sông Hồng. Trong giai đoạn này con người vẫn sử dụng đá, gỗ, tre, nứa, xương, sừng... để chế tạo công cụ và vũ khí. Đồ gốm đạt độ nung cao hơn, dày và cứng hơn, đa số có màu xanh mốc. Bên cạnh đó việc xuất hiện của vật liệu mới - đồng, đã gây ra những tác động to lớn đối với kinh tế, xã hội và văn hóa của các cộng đồng người.

Trong thời đại đồng thau ở miền Bắc Việt Nam, đặc điểm văn hóa địa phương còn khá rõ ràng. Dựa vào đặc điểm, tính chất của di vật, di tích ta thấy có sự phát triển riêng của từng khu vực ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả. Điều này phản ánh một thời kì tồn tại của các nhóm bộ lạc hay liên minh bộ lạc giữa các vùng. Ở các khu vực nói trên có sự giao lưu văn hóa mạnh mẽ thông qua việc tiếp xúc kinh tế - xã hội (hoạt động trao đổi kinh tế, trao đổi phi kinh tế nhu trao đổi tặng phẩm, vật phẩm tôn giáo), hoặc quan hệ hôn nhân, quan hệ ngoại giao, xung đột và hòa giải.

Cư dân tiền Đông Sơn là cư dân trồng lúa nước, họ đã biết chăn nuôi một số gia súc như trâu, bò, lợn, gà... Làng mạc giai đoạn này có diện tích rộng và tầng văn hóa dày. Bên cạnh nơi cư trú hay trong khu cư trú là các di chỉ mộ táng.

Cư dân văn hóa thời đại đồng thau miền Bắc Việt Nam có đời sống tinh thần phong phú. Điều đó thể hiện trong tư duy và sáng tạo nghệ thuật của họ. Đặc biệt, họ đã làm chủ được nghệ thuật nhịp điệu trong ca múa, biểu hiện tính đối xứng chặt chẽ của các mô típ hoa văn trong trang trí. Họ biết tới nhiều dạng đối xứng khác nhau. Điều này cho thấy sự phát triển nhận thức hình học và tư duy chính xác nhờ hoạt động sản xuất nông nghiệp và kỉ thuật chế tác đá, đúc đồng.

Vào khoảng thế kỉ VII trước công nguyên, các nền văn hóa bộ lạc mất dần tính địa phương tiến tới chỗ hòa chung vào một văn hóa thống nhất - văn hóa Đồng Sơn Đỏ là lúc các nhóm bộ lạc liên kết lại trong một quốc gia: nước Văn Lang Tính thống nhất văn hóa được hiện rõ trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt - Trung cho đến bờ sông Gianh Quảng Bình, mặc dù theo các nhà khảo cổ học nhà nước này vẫn có những dáng hình địa phương. Nhưng chúng ta cũng nhận thấy rằng chưa có một văn hóa tiền Đông Sơn nào trước đó lại có phạm vi phân bố rộng như vậy.

Một số sách cổ của Trung Quốc như Thủy kinh chú, Giao châu ngoại vực kỉ v.v.... đã ghi chép về nghề trồng lúa nước của người Việt cổ ở giai đoạn này. Vì thế, cư dân văn hóa Đông Sơn vẫn là cư dân nông nghiệp trồng lúa họ canh tác trên nhiều loại đất khác nhau. Hình thức canh tác phổ biến là loại ruộng chờ mưa. Thời kì này họ có thể đã có những kỉ thuật trị thủy như đắp đê chống lụt. Các loại hình nông cụ của cư dân Đông Sơn đã khá đa dạng với cuốc, xẻng, mai, thuổng và đặc biệt lưỡi cày bằng kim loại đã tạo nên bước nhảy vọt trong kĩ thuật canh tác. Nông nghiệp dùng cày phát triển (có nhiều lưỡi cày đồng, với các chủng loại phù hợp với từng loại đất). Cũng có thể ngay từ thời kì này người ta đã biết làm một năm hai vụ. Bên cạnh trồng trọt là chăn nuôi, việc chăn nuôi trâu bò đã phát triển, trước tiên là để đảm bảo sức kéo cho nông nghiệp. Trên trống đồng người ta thấy khác hoa văn hình bò, trong một số di chỉ khảo cổ học còn tìm thấy tượng đấu gà.

Kĩ thuật đúc đồng thau đạt tới đỉnh cao của thời kì này, với một trình độ điêu luyện đáng kinh ngạc. Số lượng và loại hình công cụ, vũ khí hằng đồng tăng vọt. Đặc biệt, người Đông Sơn đã đúc những hiện vật hàng đống kích thước lớn, trang trí hoa văn phong phú, mà cho tới ngày nay nó vẫn là biểu tượng của văn hóa dân tộc. Đó là những trống đồng, thạp đồng Đông Sơn nổi tiếng, chứng tỏ trình độ kĩ thuật và bàn tay tài hoa của người thợ Đông Sơn.

Kĩ thuật luyện và rèn sắt cũng khá phát triển, đặc biệt ở giai đoạn cuối của văn hóa Đông Sơn. Ngoài những ngành nghề kể trên, người Đông Sơn còn biết chế tạo thủy tinh, làm mộc, sơn, dệt vải, đan lát, làm gốm, chế tác đá.

Làng xóm thời kì này thường phân bố ở những nơi đất cao, thậm chí ở sườn núi hay trên những quả đổi đất... nhưng bao giờ cũng nằm gần các sông lớn hay các chi lưu của chúng. Khoảng cách giữa làng và sông thường từ 1 đến 5 km.... Việc chọn nơi cư trú như vậy cho thấy người Đông Sơn đã tìm cách tốt nhất để thích ứng với tự nhiên. Bởi lẽ, đất cao sẽ khô ráo mà lại tránh được ngập lụt vào mùa mưa. Làng thời kì này có quy mô tương đương với xóm hay làng nhỏ ngày nay, có chừng vài trăm người. Ngoài ra, còn thấy hiện tượng một số làng xóm nhỏ quy tụ thành một vài khu vực cư trú đông đúc. Đó là hiện tượng thường gặp đối với cư dân nông nghiệp ở những vùng đồng bằng phì nhiêu.

Có lẽ do hiện tượng chiến tranh đã trở nên thường xuyên (thể hiện trong các truyền thuyết, và tỉ lệ cao của các loại vũ khí, đồ dùng cho binh lính) nên chung quanh làng, có những vành đai phòng thủ, mà khả năng lớn là các lũy tre làng. Công trình phòng thủ thực sự với hệ thống thành lũy quy mô thời Đông Sơn ngày nay người ta mới chỉ biết đến có một, đó là thành ốc Cổ Loa.

Người Đông Sơn đã có những phong tục, y phục khá phong phú, không phải chỉ biết có ở trấn, mặc vỏ sui như nhiều người thường nghỉ. Dựa vào trang trí trên cán dao găm hình người, hoa văn trên trống đồng và thư tịch cổ, ta biết được ít nhất có bốn kiểu để tóc. Các tài liệu đều phản ánh lối ăn mặc quán áo theo phương châm giản dị, gọn gàng tới mức tối đa: Ở trần, đóng khố, đi chân đất. Riêng với nữ phố biến mặc váy thay khổ. Tuy vậy cũng có một số loại áo, áo cánh dài tay, áo xẻ ngực bên trong có yếm.

Ngoài ra còn có một số trang phục lễ hội như váy lông chim hay lá kết, khố dài thêu... Người Đông Sơn ưa thích đó trang sức, họ đeo đồ trang sức ở tay, cổ tay và cả ở chân. Đồ trang sức thường được làm bằng đồng, thủy tinh, song không thấy đồ vàng bạc hay đá quý. Khác với cư dân trước đó (ăn gạo nếp là chủ yếu) cư dân Đông Sơn bắt đầu ăn gạo tẻ. Điều này được các nhà nghiên cứu lí giải bằng sự bùng nổ dân số vào giai đoạn đầu của văn hóa Đông Sơn, khiến cho cư dân phải mở rộng diện cư trú đến những vùng đất mới. Phương thức quảng canh, trồng cây đại trà ở những vùng đất mới này không thích hợp với giống lúa nếp. Từ đó suy ra hệ quả là để trở thành thành phần chính trong cơ cấu lương thực, gạo nếp trở thành quý hiếm, được dùng chủ yếu trong lễ tết cầu cúng. Ngoài gạo họ còn ăn các loại hoa màu, rau quả, thủy sản.

Mô hình cơm-rau-cá trong cơ cấu bữa ăn của người Đông Sơn chứng tỏ sự hiểu biết thấu đáo và sự hòa hợp cao độ của người Đông Sơn với mới sinh. Nhà ở của cư dân Đông Sơn được tạo ra bằng các vật liệu dễ bị phá hủy theo thời gian. Hình dáng nhà có các loại mái cong, mái tròn, và là nhà sàn. Lựa chọn kiểu kiến trúc nhà sàn cùng là sự ứng xử thông minh trước môi trường của người Việt cổ. Về phương tiện đi lại, chủ yếu là thuyền bè, đường vận chuyển chủ yếu là đường sông và ven biển. Ngoài ra còn có đi bộ, gánh gồng mang vác trên vai, trên lưng. Và con người đã biết thuần dưỡng voi, dùng voi để chuyên chở.

Thời kì này là thời kì hình thành những huyền thoại, thần thoại. Hệ thống thần thoại nãy dù đã bị vỡ ra từng mảnh trong thời Bắc thuộc, trước sự tiếp biến với văn hóa Hán cũng như với các tôn giáo lớn từ bên ngoài, song vẫn còn lại ít nhiều qua các ghi chép về sau này của người Việt và dưới dạng sử thi-thần thoại ở các bài mo "Đẻ đất đẻ nước" của người Mường. Song nếu đã có một hệ thống thần thoại, thì tính đa thần giáo hẳn còn rõ nét. Những huyền thoại nãy đã phản ánh quá trình khai phá và chiếm lĩnh các đồng bằng của cư dân Việt cổ, quá trình hội nhập các bộ lạc hay các nhóm bộ lạc. Qua đó, ta có thể thấy rõ những mối quan hệ của con người thời bấy giờ với tự nhiên và xã hội.

Những nghi lễ và tín ngưỡng giai đoạn này gắn chặt với nghề nông trồng lúa nước. Đó là tục thờ mặt trời, mưa dông, các nghi lễ phồn thực và những nghi lễ nông nghiệp khác như hát đối đáp gái trai, tục đua thuyền, tục thả diều...

Đặc điểm nổi bật của thời kì này theo nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước là tư duy lưỡng phân, lưỡng hợp (dualisme). Đó là một loại tư duy phân loại chia đôi đã tồn tại khá lâu và có ở nhiều vùng trên thế giới. Ở Đông Nam Á và Việt Nam lối tư duy này tồn tại lâu dài tạo thành một đặc điểm khá nổi bật. Người xưa cho rằng thế giới được chia đôi: Có đàn ông ắt có đàn bà, có đực tất có cái, có âm ắt có dương Người Đông Sơn còn có tư duy khoa học, điều này thể hiện ở tri thức thiên văn học, khái niệm số đếm, khái niệm lịch pháp,... Phong tục tập quán của người Đông Sơn cũng rất đa dạng ví như tục nhuộm răng ăn trầu, xăm mình, ăn đất nung non, uống nước bằng mũi, giã cối làm lệnh, tục ma chay, cưới xin... Các lễ hội: hội mùa với nghi lễ hiến sinh trâu bò, hội cầu nước với lễ hiến tế, hội khánh thành trống đồng.

Nghệ thuật âm nhạc là ngành nghệ thuật quan trọng đã khá phát triển thể hiện đời sống tinh thần của cả cư dân Đông Sơn. Nhạc cụ đáng lưu ý là trống đồng, sau đó là sênh, phách, khèn. Giao lưu văn hóa thời kì này rất rộng rãi. Ngoài giao lưu với Sa Huỳnh và Đồng Nai, ở phía Bắc có mối quan hệ và tiếp xúc với các cư dân Nam Trưng Hoa, phía Đông với các hải đảo, phía Tây với lục địa. Các nhà nghiên cứu Việt Nam phần đông đều nhất trí cho rằng đã hình thành một quốc gia Văn Lang và một nhà nước sơ khai trên cơ sở nền văn hóa Đông Sơn

Quá trình hình thành nhà nước đầu tiên đó của cư dân Đông Sơn có thể được sơ đồ hóa như sau:

Dựa trên những chứng cứ về mật độ phân bố và quy mô của các di tích khảo cổ học (nơi cư trú, mộ táng, công xưởng) trên các địa hình khác nhau từ miền núi, đồng bằng, duyên hải và đảo của các hiện vật khảo cổ học, các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng có một sự mở rộng các quan hệ giao lưu giữa các công xã. Loại hình công xã thời hậu kì đá mới là loại hình công xã thị tộc phát triển. Xã hội của người Việt đến đây vẫn hoàn toàn là xã hội nguyên thủy.

2.2. Văn hóa Sa Huỳnh

Trung tâm hay đỉnh cao của văn hóa thời đại kim khí Việt Nam ở miền Trung (từ Đèo Ngang đến Đồng Nai) được gọi theo tên một địa điểm khảo cổ học ven biển tỉnh Quảng Ngãi. Đó là văn hóa Sa Huỳnh.

Nền văn hóa nãy có quan hệ góc gác với các nền văn hóa hậu kì đá mới, sơ kì thời đại đồng thau ven biển như văn hóa Bàu Tró, Hoa Lộc, Hạ Long, nhất là văn hóa Bàu Tró có không gian phân bố cận kề với văn hóa Sa Huỳnh.

Văn hóa Sa Huỳnh tồn tại từ sơ kì thời đại đồng thau (hơn 4000 năm cách ngày nay) cho tới sơ kì thời đại sắt sớm (những thế kỉ 7-6 trước công nguyên tới thế kỉ 1-2 trước và sau công nguyên). Dù cho còn nhiều ý kiến về các giai đoạn sớm, muộn của nền văn hóa này, song hấu như các nhà nghiên cứu đều thống nhất là giữa các nhóm di tích của cả ba giai đoạn sơ, trung kì (thời đại đồng thau) và hậu kì (sơ kì thời đại sắt) đều có những đặc trưng chung và văn hóa Sa Huỳnh thời đại sắt hay Sa Huỳnh cổ xưa là bắt nguồn từ những di tích của thời đại đồng thau và theo ý kiến của chúng tôi chắc chắn có sự tham gia và ảnh hưởng của một số yếu tố văn hóa khác.

Về giới hạn dưới hay thời điểm kết thúc của văn hóa Sa Huỳnh, dựa trên những niên đại C14 ở một số khu mộ Chum Hàng Gòn (phú Hòa - Đồng Nai), Quế Lộc (Quảng Nam) và những hiện vật văn hóa Hán như tiền Ngũ Thù, Vương Mãng ở di tích Hậu Xá (Hội An-Quảng Nam), có thể chấp nhận niên đại muộn nhất của các di tích là thế kỉ I, II sau công nguyên.

Chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hóa hậu kì đá mới, sơ kì đồng thau ven biển. Với cốt lõi là văn hóa Bàu Tró mà chủ nhân của các văn hóa trên được các nhà nghiên cứu coi là những người tiền Ma Lai - Pôlinôdi. Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, văn hóa Sa Huỳnh còn có những quan hệ cội nguồn hay giao lưu với những văn hóa hậu kì đá mới - sơ kì đồng thau của miền cao nguyên Lâm Đồng mà chủ nhân của những văn hóa trên được coi là tiền Môn - Khơme hay tiền Nam Á. Ngoài ra còn có những mối giao lưu rộng rãi với các cư dân kim khí Đông Nam Á hải đảo và lục địa. Qua đó có thể thấy chủ nhân của nền văn hóa này nói tiếng Nam Đảo hay Malai - Pôlinêdi với nhiều yếu tố Nam Á.

Đặc trưng văn hóa

Một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Sa Huỳnh là hình thức mai táng bằng chum gốm suốt từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn (ngoại trừ mộ huyệt đất ở Bình Châu - Quảng Ngãi). Tuy vậy, nguồn gốc của hình thức mai táng này đòi hỏi phải có nhiều nghiên cứu tiếp. Trên địa bàn phân bố của văn hóa Sa Huỳnh từ gò đồi phía Tây cho đến đồng bằng ven biển và hải đảo phía Đông, đã phát hiện nhiều khu mộ - những bãi mộ chum rộng lớn, nhiều tầng lớp với những loại hình vò, chum mai táng hình cầu, hình trứng, hình trụ có kích thước lớn nắp đậy hình nón cụt hay lồng bàn, phân bố lẻ tẻ hay thành cụm. Trong và ngoài chum chứa nhiều đồ tùy táng với các chất liệu đá, đá quý, thủy tinh, đồng, sắt và gốm. Ngoại trừ một vài chum còn vết tích xương răng trẻ em (Hậu Xã-Hội An-Quảng Nam, Mỹ Tường - Thuận Hải), hầu như các chum chỉ có đồ tuỳ táng, cát trắng và ít than tro. Theo các nhà nghiên cứu có thể do hỏa táng, có thể do hình thức mộ tượng trưng.

Ở những giai đoạn sớm và giữa, đồng thau đã được người Sa Huỳnh sử dụng để chế tác công cụ và vũ khí. Sang tới giai đoạn cuối, đồ sắt chiếm lĩnh về cả số lượng và chất lượng. Nét độc đáo của cư dân Sa Huỳnh là kĩ thuật chế tạo đồ sắt (chủ yếu bằng phương pháp rèn). Nêu thống kê các đồ sắt Sa Huỳnh đã được phát hiện đến nay thì số lượng lên tới hàng trăm chiếc, chủng loại đa dạng gồm rựa, dao quắm, giáo, mai, liềm thuổng, kiếm ngắn, qua.. Đặt trong tương quan với các trung tâm văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc, văn hóa Đồng Nai ở phía Nam, số lượng và sự phổ biến rộng rãi của đồ sắt của văn hóa Sa Huỳnh nhiều hơn hẳn.

Cùng với việc đạt đến trình độ cao của kĩ thuật chế tạo sắt (cả việc đúc gang), cư dân văn hóa Sa Huỳnh còn đạt đến bước phát triển cao với các nghề se sợi, dệt vải, chế tạo gồm, làm đồ trang sức. Trong các di tích tìm thấy nhiều đợi xe chỉ các loại và những dấu vải còn in trên công cụ vũ khí bằng sắt trong các mộ chum. Nghề gốm rất phát triển với nhiều hình loại chum, vò, bát bồng, đèn, bình hình lẵng hoa, bình con tiện, cốc cao chân... và vô số những đồ gia dụng. Gốm được trang trí phong phú với những đồ án phức tạp kết hợp tô màu, khác vạch. Nhiều đồ gốm được nung ở nhiệt độ cao, lửa được khống chế tốt (đôi khi cứng như sành).

Cư dân văn hóa Sa Huỳnh cũng là những người có năng khiếu thẩm mĩ, rất khéo tay và có một mĩ cảm phát triển tuyệt vời. Họ rất ưa dùng đồ trang sức (vòng, nhẫn, khuyên tai...) bằng thủy tinh, mã não, đá, gốm, nephrit. Chất liệu được ưa thích nhất là mã não (mã não được nhập từ nơi khác đến vì vùng miền Trung không có nguyên liệu này). Khuyên tai (hay bùa đeo) hai đầu thú và ba mẫu là một chế phẩm Sa Huỳnh đặc thù. Trong các di tích văn hóa Sa Huỳnh tìm thấy số lượng lớn những loại khuyên tai này. Ở di tích Đại Lộc - Quảng Nam còn tìm thấy một khuyên tai hai mẫu còn ở tình trạng chế tác dở dang. Trong một số di tích đương đại của văn hóa Đông Sơn (Bắc Việt Nam), Philipin, Thái Lan... cũng tìm thấy những loại khuyên tai này. Đó là bằng chứng của sự lan tỏa ảnh hưởng của Văn hóa Sa Huỳnh.

Cư dân văn hóa Sa Huỳnh còn biết nấu cát làm thủy tinh và dùng thủy tinh để chế tạo đồ trang sức (hạt cườm, hạt chuỗi, vòng tay, khuyên tai ba mẫu, hai đầu thú...). Từ đây đồ trang sức thủy tình lan ra cả phía Bắc và vào phương Nam.

Văn hóa Sa Huỳnh là sản phẩm của những cư dân nông nghiệp trồng lúa ở những đồng bằng ven biển cồn bàu. Tuy vậy nền kinh tế của họ là nền kinh tế đa thành phần, họ sớm biết khai thác những nguồn lợi của biển, của rừng, biết phát triển các nghề thủ công, từng bước họ đã mở rộng quan hệ trao đổi buôn bán với các cư dân trong khu vực Đông Nam Á lục địa, hải đào và rộng hơn với Ấn Độ, với Trung Hoa. Đặc biệt ở giai đoạn cuối, nghề buôn bán bằng đường biển rất phát triển ở ven biển miền Trung, vào những thế kỉ trước, sau công nguyên đã hình thành một số tiến cảng thị hay cảng thị sơ khai.

Mật độ phân bố di tích cũng như quy mô lớn của các di chỉ văn hóa Sa Huỳnh là chứng cứ của sự quần tụ đông đúc dân cư; sự phong phú về kiểu loại, số lượng của các loại hình hiện vật từ nhiều chất liệu là dấu hiệu về sức sản xuất mạnh mẽ của cư dân văn hóa này, để chứng tỏ ở giai đoạn cuối đã hình thành một nhà nước sơ khai. Sự trùng hợp về địa bàn phân bố, của niên đại kết thúc của văn hóa Sa Huỳnh và niên đại mở đầu của văn minh Chămpa cũng như sự nối tiếp của một số loại hình hiện vật đặc biệt là đồ gốm và đồ trang sức, của táng thức, của các ngành nghề kinh tế cho thấy nhà nước Chămpa là sự tiếp nối của nhà nước Sa Huỳnh. Nhà nước Chămpa được hình thành trên cốt lối của văn hóa Sa Huỳnh dưới ảnh hưởng của những yếu tố văn hóa ngoại sinh Trung Hoa, Ấn Độ, và sự "Ấn Độ hóa" ban đầu chỉ xảy ra ở lớp mặt của văn hóa (tôn giáo) ở tầng lớp trên của xã hội.

2.3. Văn hóa Đồng Nai

Sau thời đại đá cũ, bằng đi một thời gian dài, đến khoảng hơn 4000 năm cách ngày nay, trên đất Đông Nam Bộ xuất hiện một lớp cư dân mới. Họ là chủ nhân của nền văn hóa Đồng Nai thuộc thời đại kim khí (đồng thau và sắt sớm), sinh sống ở các tiểu vùng sinh thái khác nhau, Đông Nam Bộ vào những thiên niên kỉ II-I trước công nguyên đã trở thành một trong ba trung tâm văn hóa lớn của thời đại kim khi. Văn hóa Đông Sơn ở miền Bắc, Sa Huỳnh ở miền Trung và Đồng Nai ở miền Nam.

Văn hóa Đồng Nai được nhìn nhận như trước mở đầu cho truyền thống văn hóa tại chỗ ở Nam Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt. Hàng trăm di lịch của các giai đoạn sớm, giữa, muộn đã được phát hiện và nghiên cứu Những di tích này phân bố suốt từ vùng đồi gò cao cho tới trung, hạ lưu các con sông và ven biển. Mỗi một tiểu môi trường sinh thái ứng với một mô thức sản xuất - văn hóa thích hợp.

Ở vùng đồi đá phiến và bazan đất đỏ thuộc Đồng Nai có những di tích (cư trú, mộ táng, xưởng) diện tích lớn, tầng văn hóa dày. Đây là vùng phát sinh và quần tụ quan trọng liên tục nhất của văn hóa Đồng Nai với những di tích Cầu Sắt, Suối Chốn, Phú Hòa, Hàng Gòn.

Ở vùng đối đá phiến và bazan đất đỏ dải cao nguyên Sông Bé có loại hình di tích đặc trưng là công trình đất đắp hình tròn với hai vòng thành và hào sâu ở Lộc Ninh - Bình Long.

Vùng liên kết đổi bazan-đã phiến- phù sa cổ dọc hệ thống Sông Bé-Đồng Nai, nơi tập trung dày đặc các di tích, di chỉ-mộ táng-xưởng thủ công đơn hay đa ngành tiêu biểu nhất là Suối Linh, Bình Đa, Dốc Chùa.

Vùng phù sa đất xám thuộc hệ thống sông Vàm cỏ với những di chỉ, di chỉ kèm mộ đất như An Sơn, Gò Rạch Rừng, Đinh Ông, Rạch Núi.

Vùng đồng bằng phù sa mới miền châu thổ hạ lưu Đồng Nai - Vàm cỏ và những đầm lầy không và nhiễm mặn cận biển tiểu vùng kinh tế-văn hóa, mới tạo thành từ đầu thiên niên kỉ I trước công nguyên như Cái Vạn, Bưng Bạc, Bưng Thơm, Giống Phệt, Giồng Cá Vồ..

Ở cả nằm tiểu vùng văn hóa Tiền- sơ sử Đông Nam Bộ, di vật được đưa ra khỏi lòng đặt từ nhiều dạng di tích khảo cổ khác nhau với nhiều chất liệu gốm, đá, gỗ, đồng, sát, xương...

Đỗ đá là loại di vật phổ biến và có số lượng lớn đây cũng là đặc điểm lớn nhất của văn hóa Đồng Nai - Nơi mà công cụ - dụng cụ bằng đá lấn át mạnh mẽ và dài lâu kim loại đo thiếu vắng các nguồn quặng đồng và hợp kim bản địa trong toàn miền. Kĩ thuật chế tác đá mang nhiều tính chất thực dụng, tiết kiệm tối đa công sức và nguyên liệu. Bộ công cụ đá mang đặc tính chuyên môn hóa cao. Chiếm số lượng nhiều nhất là công cụ sản xuất, vũ khí (rìu, bôn, cuốc, mai, dao hái, đục, mũi nhọn - mũi tên). Loại hình trang sức thường gặp là các loại vòng, vật đeo. Tại di tích Đổi Phòng Quân đã tìm được nhiều dấu tích của di chỉ xưởng- Công xưởng này được chuyên môn hóa để chế tạo một loại sản phẩm duy nhất là vòng đá.

Một loại hình nữa là đàn đá - đây là chế phẩm đặc thù của văn hóa Đồng Nai, đàn đá có mặt ở nhiều di tích, có niên đại khoảng ba ngàn năm cách ngày nay. Đặc biệt ở Bình Đa, lần đầu tiên đàn đá được tìm thấy trong một tầng văn hóa cổ, cùng với tổ hợp di vật gồm đá khác. Phát hiện này đã giúp xác định được niên đại đàn đá, khẳng định sự tồn tại của một nhạc cụ cổ truyền ở Đồng Nai nói riêng và ở nước ta nói chung. Nghề đúc đồng và luyện kim đồng đã xuất hiện vào khoảng 4000 năm cách nay. Tuy vậy, dựa trên cơ sở những tư liệu mới, có thể thấy rằng để đồng đã khá phổ biến vào khoảng 3000 năm cách ngày nay. Nhiều di chỉ đức đồ đồng đã được phát hiện ở Suối Chồn, Cái Vạn, Dốc Chùa, Bưng Bạc... với hàng loạt khuôn đúc loại hai mang liên hoàn nhiều vật đúc. Vẽ loại hình ít nhất có ba loại rìu, giáo, mũi dao. Ngoài ra trên khuôn đúc côn thấy lưỡi đục, lưỡi câu, mũi xiên, chuông, lục lạc, lao ngạnh, kim, bông tai... ở giai đoạn muộn có loại hình qua.

Giai đoạn muộn của văn hóa Đồng Nai được đặc trưng bởi những khu mộ chum kiểu mộ chum văn hóa Sa Huỳnh với những loại hình hiện vật bằng sắt, bằng đá, đá mã não, thủy tinh bên cạnh những hiện vật gồm, đá điển hình của văn hóa Đồng Nai. Về sự xuất hiện của những di tích mộ chum này, hiện nay còn khá nhiều ý kiến chưa thống nhất.

Đồ gốm và nghề làm gốm đã xuất hiện trong những di tích sớm và tồn tại trong suốt quá trình lịch sử cư dân văn hóa Đồng Nai. Chế tạo và sử dụng đồ đựng đun nấu - ăn uống đơn giản về dáng vẻ, mộc mạc và trang trí không cầu kì, song gốm được nung ở độ nung cao và bằng kĩ thuật bàn xoay.

Với những loại hình chủ đạo nổi vò bát, bát có chân Cả ràng, dọi xe sợi, bi, bàn xoa gốm. Loại hình Cả ràng (còn được gọi là gốm sừng bò) thực chất là một loại bếp ba chân có bàn đế thích hợp với môi trường sông nước, được phát hiện trong nhiều di tích bàn xoa gốm là loại dụng cụ được sử dụng trong việc tạo dáng để đựng bằng gốm nhằm xoa lên mặt trong gốm cho đều, phẳng, nhẵn và làm cứng phôi gốm.

Văn hóa Đồng Nai còn nổi tiếng bởi sưu tập công cụ gỗ phong phú về loại hình, nhiều về số lượng. Đặc biệt những tổ hợp hiện vật gỗ tìm thấy ở các di tích vùng ngập mặn ven biển như Bưng Bạc, Bưng Thơm, Cái Vạn,.. Bên cạnh đó là bộ sưu tập công cụ - đồ dùng chế tác từ xương sừng hết sức độc đáo chưa từng có ở Đông Nam Á, với những lưỡi câu lớn gia công từ sừng hươu, dao và kim dùi từ xương trụ của chó nhà, rìu có vai từ mai rùa biển và nhóm trang sức đủ loại.

Về đời sống kinh tế của cư dân văn hóa Đồng Nai; dựa trên hệ thống tư liệu, các nhà nghiên cứu cho rằng những hình thức quan trọng và phổ biến nhất trong đời sống kinh tế truyền thống Đông Nam Bộ là trồng lúa cạn không dùng sức kéo, trồng rau đậu, cây có quả-củ cho bột bằng phương pháp phát-đốt đặc thù của nông nghiệp nương rẫy, chăn nuôi, săn bắn (tại di chỉ An Sơn), hái lượm, đánh bắt cá tôm và nhuyễn, thể của sông biển. Khi so sánh trình độ phát triển kinh tế - kĩ thuật và văn hóa của những nhóm cư dân trong văn hóa Đồng Nai, cần nhấn mạnh đến đặc thù của quá trình chuyên môn hóa - phân công lao động - phân vùng kinh tế nhập hòa với từng miền sinh cảnh cần có sự quan tâm đặc biệt đến mối ràng buộc thiết yếu giữa những ngành kinh tế chủ đạo nông nghiệp với nghề trồng lúa cạn là phổ cập và cả nghề trong lúa nước ở những tiểu vùng khả thực nhất, (trống hoa màu, cây có củ - quá và chăn nuôi) và những ngành cung ứng lương thực - thực phẩm tiền sử khác (sân bán, đánh cá và hái lượm theo những sản phẩm thực-động vật của rừng, suối sông, đầm lầy và biển). Giữa nông nghiệp - khai thác - thủ công (sản xuất đá - công cụ và trang sức; chế luyện kim loại - đúc đồng và rèn sắt, chế tạo gốm - đồ đựng, bàn xoa và dọi se sợi, dệt vải) và thông thương nội, ngoại.

Đời sống tinh thần của cư dân văn hóa Đồng Nai được biết đến qua những hiện vật nghệ thuật. Tín ngưỡng đặc sắc nhất là sưu tập thẻ đeo bằng đá cuội mãi dẹt hình gắn ovan hoặc chữ nhật và bán cầu có lỗ thủng tròn hay tạo núm ở đầu, tượng lớn, rùa bằng sa thạch, tượng chó săn mồi bằng dõng ở Dốc Chùa, tượng Trút Long giao bàng đóng... Ngoài ra còn phải kể tới sưu tập đàn đá hơn 60 thanh. Ngoài ra còn có sự hội nhập của không ít yếu tố văn hóa láng giềng như trống đồng Đông Sơn, khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu của văn hóa Sa Huỳnh.

Ở giai đoạn cuối của nền văn hóa này, khi kim loại thực sự đã chiếm vị trí quan trọng, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống của cư dân, mở rộng những tiểu vùng kinh tế sản xuất và khai thác mới, củng cố những liên hệ kinh tế - văn hóa nội vùng, thành tạo những điều kiện tập trung của cải phân bố giàu nghèo và cố kết quyền lực trung tâm, hình thành cơ cấu xã hội có giai cấp sơ khai và Nhà nước khởi thuỷ vào những thế kỉ đầu công nguyên.

2.4. Kết luận

Thời sơ sử, trên dải đất Việt Nam ngày nay có ba nền văn hóa, hoặc ba phức hệ văn hóa: Phức hệ văn hóa Bàu Trám - Sa Huỳnh, phức hệ văn hóa Phùng Nguyên - Đông Sơn, phức hệ văn hóa Đồng Nai là ba đỉnh cao của văn hóa Đông Nam Á, miền Đông bán đảo Đông Dương, Ba phức hệ văn hóa đó đã phát sinh từ những nền tảng chung của các văn hóa thời đại đá mới ở miền này, với những tộc người Nam Á, Nam Đảo luôn có tiếp xúc ngôn ngữ và giao lưu văn hóa với nhau. Ba phức hệ văn hóa đó phát triển độc lập theo thế chân vạc ở miền Đông bán đảo Đông Dương, nhưng luôn có mối quan hệ qua lại nhiều chiều với nhau, bồi bổ cho nhau, làm phong phú cho nhau, đồng thời phát triển, giao lưu với nhiều văn hóa khác ở khu vực. Ba phức hệ văn hóa ấy đều sẽ phát triển thành ba nền văn minh lớn, ứng với ba quốc gia cổ: Văn Lang - Âu Lạc, Sa Huỳnh - Chămpa, Phù Nam. Ba phức hệ văn hóa ấy đều thu nhận nhiều yếu tố ngoại sinh và bản địa hóa các yếu tố ấy để phát triển. Do vậy, ba nền văn minh ấy đều phát sáng rực rỡ, lan tỏa ảnh hưởng ra toàn vùng Đông Nam Á.

-----------------------

Chúng tôi đã giới thiệu nội dung bài Văn hóa Việt Nam thời kỳ tiền sử và sơ sử (tiếp theo) về đặc điểm của văn hóa tiền Đông Sơn đến văn hóa Đông Sơn, đặc trưng của văn hóa Sa Huỳnh..

Trên đây, VnDoc đã giới thiệu tới các bạn Văn hóa Việt Nam thời kỳ tiền sử và sơ sử (tiếp theo). Ngoài ra, các bạn có thể tham khảo thêm nhiều tài liệu Cao đẳng - Đại học cũng như Cao học khác để phục vụ quá trình nghiên cứu hiệu quả hơn.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO/PROPLUS tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Cao đẳng - Đại học

    Xem thêm