Văn mẫu lớp 11: Phân tích nét tương đồng về giọng thơ của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương
Văn mẫu lớp 11: Phân tích nét tương đồng về giọng thơ của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương
Bài văn mẫu dưới đây với đề tài: Phân tích nét tương đồng về giọng thơ của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương là tài liệu văn mẫu lớp 11 được VnDoc.com sưu tầm và đăng tải. Hi vọng, tài liệu này sẽ giúp ích cho quá trình dạy và học của quý thầy cô giáo và các em học sinh, giúp những tiết học Văn sinh động và hiệu quả hơn. Mời các bạn tham khảo.
Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Nhớ Đồng của Tố Hữu
Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Giải đi sớm (Tảo giải) của Hồ Chí Minh
Văn mẫu lớp 11: Trình bày quan điểm của em về câu nói: Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều
Đề bài: Giữa Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ trào lộng, châm biếm lại có những nét khác nhau như thế nào? Hãy làm rõ ý kiến của anh (chị).
Nguyễn Khuyến (1835 - 1909), Trần Tế Xương (1870 – 1907) là hai nhà thơ trào phúng nổi tiếng của đất Hà Nam, Nam Định. Tuy chênh lệch khá nhiều về tuổi tác, về đường công danh nhưng hai ông có một số điểm gần gũi trong cách nhìn nhận và đánh giá thời cuộc và cả hai đã dùng tiếng cười châm biếm, trào lộng trong thơ ca để phơi bày bản chất nhố nhăng, suy đồi của cái xã hội thực dân, phong kiến dở Tây dở ta thuở ấy.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp đã bình định xong Đông Dương về mặt quân sự và bắt đầu triển khai kế hoạch bình định trên các lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, văn hoá... Trường học được mở ở khắp nơi để dạy tiếng Pháp và đào tạo ra thế hệ quan lại bản xứ tay sai thân Pháp. Sự bành trướng nhanh chóng của nền giáo dục thực dân đã đẩy lùi nền giáo dục truyền thống dựa trên nền tảng đạo Nho có từ lâu đời ở nước ta. Nho học tàn dần, phần lớn tầng lớp trí thức vội vã "Quẳng bút lông đi giắt bút chì" để mong nhận được chức thầy thông, thầy phán trong các công sở của chính quyền bảo hộ, đặng hưởng cuộc sống "Sáng rượu sâm banh, tối sữa bò", khác xa với cuộc sống lầm than của cả dân tộc dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp.
Là một bậc đại khoa đã từng làm quan hơn mười năm trong triều đình nhà Nguyễn với nhiều chức vụ khác nhau, Nguyễn Khuyến hiểu sâu sắc tình thế nước nhà lúc bấy giờ. Từ vua tới quan chỉ là những con rối trong tay chính quyền thực dân, hoàn toàn chịu sự chi phối và điều khiển của chúng. Xót xa và thấm thía nỗi nhục quốc thể, nhà thơ đã mượn lời than thở của vợ người hát chèo để nói lên thực trạng đau lòng ấy:
Vua chèo còn chẳng ra gì,
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề.
(Lời vợ người hát chèo)
Theo bước chân của đạo quân xâm lược phương Tây, yếu tố tư bản chủ nghĩa cũng tràn vào nước ta, làm thay đổi diện mạo của xã hội phong kiến đã định hình hàng ngàn năm. Nền tảng tư tưởng, nền tảng đạo đức truyền thống lung lay dữ dội. Nhiều giá trị cơ bản bị đảo lộn, đồng tiền được tôn lên vị trí thống soái, chi phối toàn bộ cuộc sống của con người. Chính vì thế mới có những cảnh cười ra nước mắt trong hội Tây do thực dân Pháp tổ chức mà người bản xứ tham gia các trò chơi tỏ ra vui vẻ đến vô tâm trước nỗi nhục nô lệ:
Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo,
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ cho vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
(Hội Tây)
Tiếng cười của Nguyễn Khuyến là tiếng cười của lương tâm, của ý thức liêm sỉ nên thâm thuý và thấm đượm nước mắt. Không chỉ cười những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống đương thời, nhà thơ còn dám nhìn sâu vào bên trong con người mình để tự trào:
Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thầu canh đã chạy làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm mồi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhị
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng!
(Tự trào)
Đúng là chân dung của một con người dở dang mọi nhẽ, công chẳng thành mà danh chẳng toại, thật đáng buồn, đáng chán. Ngẫm người rồi ngẫm đến ta, nhiểu lúc cụ Tam Nguyên Yên Đổ cũng chế giễu mình bằng nụ cười nhếch mép đầy xót xa, cay đắng. Cụ ngầm so sánh những bậc đại khoa có tiếng tăm giống như mình nhưng cũng đành xuôi tay bất lực trước thời thế đảo điên thì chẳng khác gì mấy ông phỗng đá vô hồn.
Nhà thơ Trần Tế xương nhìn đời với đôi mắt bất bình của kẻ sinh bất phùng thời nên đâu đâu cũng thấy những cảnh chướng tai gai mắt:
Nhà kia lỗi đạo con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.
Vì tiền mà các cô gái tơ sẵn sàng chấp nhận thân phận làm vợ bé các thầy ký, thầy phán để rồi phải lãnh chịu kết cục thảm thương:
Cô Kí sao mà đã chết ngay?
Ô hay, Trời chẳng nể ông Tây.
Gái tơ đi lấy làm hai họ,
Năm mới vừa sang được một ngày.
Hàng phố điếu bằng câu đối đỏ,
Ông chồng thương đến cái xe tay.
Gớm thay cho các cô con gái,
Mà vẫn đua nhau lấy các thầy!
(Mồng ba Tết viếng cô Kí)
Vì tiền nên mới diễn ra những cảnh huống lố bịch, nhố nhăng khiến nhà thơ Tú Xương tức giận phải bật lên tiếng chửi phũ phàng:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu,
Trăm nghìn vạn mớ để vào đậu.
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu.
Lẳng lặng, mà nghe nó chúc sang,
Đứa thời bán tước đứa mua quan,
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa chùi vừa rao cũng đắt hàng.
(Năm mới chúc nhau)
Hiện tượng bỏ tiền ra để mua quan bán tước, mua chuộc, hối lộ hòng kiếm lấy một chức vị hay một mảnh bằng nào đó đã trở nên khá phổ biến trong cái xã hội bát nháo, kỉ cương rối loạn. Học giỏi như Tú xương nhưng cứ trượt hoài vì Tám khoa không khỏi phạm trường quy, trong khi đó một số tên công tử con nhà giàu ham chơi học dốt thì lại đỗ. Bất bình, nhà thơ văng tục:
Cử nhân cậu ấm Kỉ,
Tú tài con Đô Mĩ.
Thi thế mà cũng thi,
Ối khỉ ơi là khỉ!
Còn cái loại đậu lạy, quan xin thì nhan nhản khắp nơi. Điềm tĩnh, chín chắn như Nguyễn Khuyến mà cũng phải chua chát nhận xét về đám người này qua bài thơ Tiến sĩ giấy:
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Tưởng rằng đồ thật hoá đồ chơi!
Sống trong cái xã hội bị ma lực đồng tiền chi phối và khuynh đảo ghê gớm như vậy thì những người luôn đề cao phẩm giá như Nguyễn Khuyến, Tú Xương chỉ có cách duy nhất là giữ gìn khí tiết trong sạch, xa lánh cõi đời thật giả, vàng thau lẫn lộn. Đêm giao thừa, nghe tiếng pháo nổ mừng năm mới của những kẻ lắm của nhiều tiền, thi sĩ nghèo Tú Xương suy ngẫm rồi cám cảnh thốt lên hai câu thơ châm biếm sâu cay:
Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo,
Nhân tình trắng thế lại bôi vôi.
Tiếng cười trào lộng ở đây không vang lên hả hê, khoái trá mà chứa đựng một nỗi đau, nỗi hận và day dứt khôn nguôi. Sự nhố nhăng không chỉ hiện diện ở ngoài đời mà nó còn lan tràn cả vào chốn tôn nghiêm của cửa Khổng sân Trinh, biến các khoa thi Hán học thành chợ trời nhốn nháo. Tú Xương cười nhạo cảnh: Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt, Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng và cũng khóc thầm trước quang cảnh lố lăng của một kì thi Hương ở Nam Định vào giai đoạn Nho giáo đã suy tàn:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Cờ cắm rợp trời quan sứ đến,
Vảy lê quét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!
(Vịnh khoa thi Hương)
Rõ ràng cùng là tiếng cười trào lộng đả kích, phê phán những hiện tượng xấu xa, tiêu cực trong xã hội thực dân phong kiến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, nhưng đặc điểm tiếng cười của Nguyễn Khuyến khác với Tú Xương. Tiếng cười Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng, thâm thuý; còn tiếng cười Tú Xương mạnh như những làn roi quất thẳng vào mặt cái xã hội điêu trá ấy. Chừng nào cái ác, cái xấu còn tồn tại thì tiếng cười đầy ý nghĩa của hai nhà thơ nổi tiếng trên vẫn còn nguyên giá trị.