Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích bài thơ Nhớ Đồng của Tố Hữu

Phân tích Nhớ Đồng - Tố Hữu gồm những bài văn mẫu hay, chọn lọc do VnDoc biên soạn và sưu tầm, sát với định hướng của chương trình GDPT 2018. Mời các bạn tham khảo thêm tại mục Ngữ văn 11 nhé.

I. Dàn ý Phân tích Nhớ Đồng - Tố Hữu

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Tố Hữu

Tố Hữu (1920 - 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Thơ Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần của dòng giống Lạc Hồng bất khuất.
Ông là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
- Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích

Bài thơ Nhớ đồng sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế) tháng 7 năm 1939 vì “tội” tuyên truyền thanh niên, học sinh chống Pháp.

2. Thân bài

a. Nỗi nhớ của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù

- Cảm hứng của bài thơ được gợi lên từ tiếng hò.

Tiếng hò được lặp lại nhiều lần. Tiếng hò lẻ loi đơn độc giữ trời trưa → nhân vật trữ tình cảm nhận được sự hiu quạnh
Không gian đồng vắng
Thời gian trưa vắng
Hiu quạnh của đời buồn tủi nhọc nhằn
Lòng người đang bị giam cầm trong tù ngục cách biệt với cuộc sống bên ngoài
- Tiếng hò đã đồng cảm, hoà điệu của nhiều nỗi hiu quạnh → Người chiến sĩ cách mạng thấy nhớ nhung da diết đồng quê, cuộc sống bên ngoài nhà tù.

Tiếng than khắc khoải, da diết → diễn tả cõi lòng hoang vắng vì bị cách biệt với thế giới bên ngoài → nỗi hiu quạnh của người tha thiết yêu đời.
Sự lặp lại → nhấn mạnh liền ý liên kết nhiều nội dung khác nhau, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng → triền miên vì nỗi nhớ da diết.
- Đồng quê thể hiện lên đậm đà nỗi nhớ của tác giả:

Cồn thơm, ruồng tre mát, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng và con đường thân thuộc, xóm nhà tranh thấp, con đường quen. → Tất cả đều đơn sơ gần gũi quen thuộc, thân thương → bị ngăn cách.
- Con người gần gũi thân thuộc thân thương:

Những lưng còng xuống luống cày
Những bàn tay vãi giống
Một giọng hò đưa bố mẹ già xa đơn chiếc → linh hồn đã khuất.
- Nỗi nhớ chân thật đậm tình thương mến

- Nhớ đến bản thân mình:

Nhớ tới những ngày tháng tự do hoạt động cách mạng.
“Rồi một …ngát trời”

→ Say mê lý tưởng, khao khát tự do sôi nổi ⇒ càng cảm thấy cô đơn với thực tại cuộc sống bị giam cầm.

b. Diễn biến tâm trạng của Tố Hữu

- Nỗi nhớ biểu hiện tâm trạng nhà thơ:

Từ tiếng hò gợi nỗi nhớ đồng quê tha thiết: Hình ảnh đồng quê hiện lên đậm đà với: cồn thơm, ruộng tre mát, mạ xanh mơn mởn, khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng, con đường thân thuộc → những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, thân thương nay đã trở nên xa cách.
Nỗi nhớ bao con người thân thuộc: từ cảnh sắc bóng dáng con người → người mẹ già nua → nhớ chính mình
Nỗi nhớ dan trải từ hiện tại trở về quá khứ → hiện tại
⇒ nhớ, tràn ngập xót thương → không chỉ buồn đằng sau là nỗi phẫn uất, bất bình với thực tại ⇒ niềm da diết nhớ thương, yêu cuộc sống, khao khát tự do.

3. Kết bài

II. Văn mẫu Phân tích Nhớ Đồng - Tố Hữu

1. Phân tích bài thơ Nhớ Đồng - Mẫu 1

“Các anh là trụ cột của thời gian

Bộ đội áo xanh không phai màu đất nước

Trái tim yêu máu căng lồng ngực

Bám đất , giữ trời sáng rực tuổi Xuân!”

Hình ảnh của người lính cụ Hồ đã đi vào trong văn thơ như một hành trình dài trong suốt những năm tháng kháng chiến. Đó chính là những vần thơ của Phan Châu Trinh với "Đập đá ở Côn Lôn" sáng ngợi khí tiết của kẻ sĩ "uy vũ bất năng khuất", Chủ tịch Hồ Chí Minh với "Nhật kí trong tù" - những vần thơ thép "mênh mông bát ngát tình". Và rồi đến với những vần thơ của Tố Hữu ta lại đắm mình vào nỗi niềm thương nhớ đồng quê, cảnh vật con người, đồng bào đồng chí của người tù cộng sản trẻ tuổi trong những ngày tháng bị giam ở nhà lao Thừa Thiên Huế qua bài thơ “Nhớ đồng”.

Tố Hữu là “ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam”, “người viết lịch sử bằng thơ”. Hồn thơ Tố Hữu là sự hòa quyện giữa truyền thống và hiện đại, chứa đựng những giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc với sự mới mẻ trong thời đại mới. Thơ ông bao giờ cũng nói về những vấn đề lớn của đất nước và cách mạng, tràn đầy niềm tin và nhiệt huyết vào tương lai.

“Từ ấy” (1937–1946) là tập thơ đầu tiên của Tố Hữu, đánh dấu thời điểm vô cùng quan trọng trong cuộc đời nhà thơ: được giác ngộ lý tưởng cộng sản và dứt khoát chọn cho mình con đường đi duy nhất đúng là con đường cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến. Nếu như bài “Tâm tư trong tù” được khơi nguồn từ những âm thanh quen thuộc của cuộc sống bên ngoài, bài “Khi con tu hú” được hình thành từ tiếng chim tu hú báo hiệu hè về thì ở bài “Nhớ đồng”, cảm hứng thơ lại được gợi lên từ tiếng hò quen thuộc của quê hương làm xao động tâm hồn thi sĩ. Bài thơ Nhớ đồng được tác giả viết trong khoảng thời gian bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, bài thơ được đưa vào tập “Thơ”. Bài thơ là nỗi nhớ đồng quê tha thiết trở thành niềm day dứt, trăn trở, réo gọi trong tâm hồn tác giả đồng thời còn thể hiện niềm say mê lý tưởng và khao khát tự do trong hoàn cảnh lao tù.

Bài thơ đã mở đầu đầy da diết và ngậm ngùi với tiếng hò đâu đó vang vọng đánh thức và khơi dậy nỗi niềm nhớ thương cuộc sống bên ngoài của người tù. Nỗi nhớ được khơi nguồn và trở thành mạch cảm xúc xuyên suốt bài thơ:

“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!”

Trong hoàn cảnh đang bị giam giữ trong nhà lao tối tăm, chật hẹp, người chiến sĩ cộng sản không tránh khỏi những u buồn, nhớ thương thì vẳng nghe thấy tiếng hò. Thời gian đó thật sự là nỗi ám ảnh, đó là hoàn cảnh tù đày, giam hãm, xiềng xích, tra xét. “Gì sâu bằng” là cấu trúc có ý khẳng định không gì sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn, “những trưa thương nhớ” là những ngày nhà thơ phải sống trong xà lim biệt giam. Câu thơ “Gì sâu bằng những trưa thương nhớ” diễn tả nỗi nhớ cuộc sống và tự do đằm sâu, da diết, cồn cào trong lòng, không gì có thể so sánh được. Từ nghi vấn “Gì” kết hợp với tính từ “sâu” khiến câu thơ như một câu hỏi nhức nhối tâm can. Tác nhân gợi nhớ là tiếng hò quen thuộc của quê hương xứ Huế; giống như những âm thanh quen thuộc ở bài “Tâm tư trong tù”:

“Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều

Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh

Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh

Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về…”

Đó là những âm thanh của đời thường luôn luôn vang vọng trong ký ức nhà thơ, thể hiện những cảm nhận tinh tế, trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ về cuộc đời với tất cả nỗi nhớ thương và tình yêu mến. Nhưng câu thơ cũng đã tái hiện hiện thực éo le trong hoàn cảnh đất nước bị tù đày, con người mất tự do, chất chứa đầy sự lo âu về sống - chết, mất - còn. Người chiến sĩ cách mạng trẻ luôn luôn hướng tâm hồn mình ra ngoài song sắt, cảnh nhà tù chật hẹp, chết chóc và lạnh lẽo. Tính từ “Hiu quạnh” ở câu thơ thứ hai được đảo lên đầu câu như nhấn mạnh hoàn cảnh của người tù và hoàn cảnh xuất hiện của tiếng hò. Giữa trưa vắng, tiếng hò ngân lên lẻ loi, đơn độc khiến người chiến sĩ cảm thấy đồng cảm. Dấu “!” đặt ở cuối câu khiến câu thơ như một lời than ngao ngán, thể hiện sự cô đơn, khổ tâm của Tố Hữu khi bị giam trong nhà lao. Càng đau đớn, cô đơn thì chứng tỏ con người càng khao khát tự do mãnh liệt. Ta cũng đã từng bắt gặp hình ảnh chàng thanh niên mười chín tuổi bị biệt giam trong một xà lim kín mít với "bốn tường vôi khắc khổ", "lạnh lẽo", "sầm u":

“Đây âm u đôi ánh lạt ban chiều

Len nhè nhẹ qua rào ô cửa nhỏ

Đây lạnh lẽo bốn tường vôi khắc khổ

Đây sàn lim, manh ván ghép sầm u…”

(Tâm tư trong tù - Tố Hữu)

Những ngày bị giam hãm trong tù, tâm hồn nhà thơ luôn hướng ra cuộc sống bên ngoài với tất cả nỗi nhớ thương và tình yêu mến. Tiếng hò ngân dài trên sông nước, văng vẳng lúc gần lúc xa đã làm sống dậy bao hình ảnh của cuộc sống mến thương trong tâm tưởng nhà thơ:

“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng che mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?”

Điệp từ “Đâu” xuất hiện nhiều lần mở đầu cho sự bắt nguồn của những nỗi nhớ da diết dành cho làng quê, nó như một cây cầu liên kết những hình ảnh thân thương ấy, gửi gắm biết bao tâm tư của tác giả đến tâm hồn bạn đọc. Nhưng “Đâu” cũng giống như một câu hỏi rằng những cảnh vật ấy hiện giờ ở đâu rồi? Với cách sử dụng tài tình điệp ngữ ấy, nhà thơ như đang mải miết tìm kiếm những cồn thơm, ruồng tre mát, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai ngọt sắn bùi để vơi bớt nỗi nhớ đang trào dâng trong cõi lòng. Những câu hỏi đầy trăn trở cứ lặp đi lặp lại phản ánh nỗi nhớ thương, khắc khoải và hoài vọng đau đáu khôn nguôi. Các hình ảnh thơ được tác giả gợi lên một cách gần gũi, bình dị, quen thuộc ở nông thôn Việt Nam. Những từ “thơm”, “nhả”, “thở”, “yên vui”, “mơn mởn”, “khoai ngọt sắn bùi”, cho thấy Tố Hữu không chỉ nhớ hình ảnh mà còn nhớ cả sức sống của cảnh vật thiên nhiên, sự ấm áp của cuộc sống con người.

Trí tưởng tượng mở rộng, nỗi khao khát gắn bó với cuộc đời càng được nâng cao. Tâm hồn của người thanh niên tràn ngập những cảm hứng lãng mạn. Nhưng liệu rằng đó có phải là điều Tố Hữu đang tìm kiếm, hay thật sự điều mà ông đang khao khát mong mỏi đó chính là sự tự do, được tự do sống, được tự do ngắm nhìn khung cảnh cuộc sống bên ngoài tự tại, an yên? Chính từ nỗi nhớ ấy, câu thơ như khắc sâu thêm hoàn cảnh thực tế đối lập với mong ước. Tất cả đều đơn sơ gần gũi quen thuộc, thân thương nhưng bị ngăn cách bởi cánh cửa tù lao.

“Đâu những đường con bước vạn đời

Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

Giữa dòng ngày tháng âm u đó

Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi…”

Nối tiếp mạch cảm xúc của những vần thơ về bức tranh đời sống sinh hoạt làng quê thân thương, đến những câu thơ tiếp theo, tác giả đã gợi biết bao suy tư qua hình ảnh “đường con bước vạn đời”. Trong mạch chảy dào dạt của cuộc đời, có biết bao người đã ra đi, trưởng thành từ những con đường quê hương. Trên lối mòn của làng quê, lớp lớp con người chọn cho mình những lối đi riêng. Dường như nhà thơ tưởng tượng ra bên ngoài kia không khí cách mạng đang sôi sục, hàng vạn bước chân đang trên đường đến với kháng chiến còn bản thân mình lại bị kìm hãm nơi đây. Câu thơ “Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi” gợi tả ngày tháng tuần hoàn, trôi qua trong yên ả kết hợp với dấu “…” tạo nên âm điệu ngân dài, vang vọng xa xăm. Giờ đây, nỗi nhớ càng trở nên cháy bỏng, tha thiết. Dù chỉ là tưởng tượng thôi nhưng nó sống động và tuyệt đẹp, giàu xúc cảm biết bao.

Giọng điệu thơ da diết, thổn thức thể hiện nỗi nhớ khôn cùng đang cuộn xoáy, trào dâng trong lòng thi sĩ. Cảm xúc dâng trào thốt lên thành lời thơ chân thành, xúc động:

“Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh,

Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!”

Đến khổ thơ thứ tư, tác giả đã lặp lại cấu trúc thơ ở khổ một nhưng có sự thay đổi về ý thơ. Cụm từ “Trưa hiu quạnh” nhấn mạnh vào tình cảnh lẻ loi, bị giam cầm trong bốn bức tường giam. Càng khao khát tự do, nhớ về cuộc sống bên ngoài thì lại càng thấm thía sự cô quạnh trong tù. Từ cảm thán “Ôi” ở đầu câu kết hợp với dấu “!” như tiếng kêu thổn thức, da diết của một tâm hồn đang bị kìm hãm sức sống. Tiếng kêu xác nhận về nỗi quạnh hiu thăm thẳm mà tác giả đang trải nghiệm. Cũng là tiếng kêu của một triết lý về nỗi quạnh hiu cùng cực, không gì có thể sánh nổi này! Qua đó, người ta thấy được một cõi lòng hoang vắng vì cách biệt và thiếu vắng cảnh sắc cuộc sống bên ngoài. Cho nên nó là nỗi quạnh hiu của một người tha thiết yêu đời mà bị cách ly khỏi cuộc đời. Ở câu thơ này, đối tượng mà nỗi nhớ hướng đến được gọi tên cụ thể. Đó chính là “ruộng đồng quê”. Dường như, thi sĩ cảm nhận tất cả sự hiu quạnh, và bỗng thấy nhớ thương đồng quê, con người nhọc nhằn trên đồng quê ấy. Đó là sự đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh chồng chất lên nhau.

Trong những năm kháng chiến, đề tài nông thôn và hình ảnh của quê hương hòa quyện vào chiến tranh khi “cả thế hệ xoay trần đánh giặc”. Và những người nông dân hiền như đất, quanh năm dãi nắng dầm sương, vất vả sớm trưa được nhà thơ nhắc đến với tình thương mến dạt dào. Cuộc sống cơ cực không thể làm mất đi vẻ đẹp khỏe khoắn, đáng yêu trong hình dáng và tâm hồn họ. Những hình dáng thân thương, bình dị với vẻ lam lũ cực nhọc lần lượt hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ:

“Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hy vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai"

Điệp từ “Đâu” lại được lặp lại như một sự kiếm tìm, trông ngóng bởi tất cả những điều tác giả khao khát đều ở bên ngoài khung cửa nhà giam. Giờ đây, hình ảnh con người được xuất hiện cụ thể, trực tiếp. Đó là những người dân cày quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Đó người nông dân với luống cày vất vả, gian nan, lưng còng theo năm tháng. “Bùn hi vọng nức hương ngây” là một hình ảnh đẹp, thể hiện sự ngợi ca, trân quý sức lao động của con người. Con người cày cấy, gieo mầm sự sống, gieo hy vọng cho đời. Tấm “áo nâu nhuộm bùn” cũng tỏa ra hương thơm ngây ngất là thế. Dù vất vả, cực nhọc nhưng ở họ vẫn toát lên một vẻ đẹp của phẩm chất trong sáng. Chính họ, chính những người lao động chân chất thôn quê ấy còn là những người gieo những tia hi vọng vào tương lai.

Người nông dân Việt Nam từ xưa đã đi vào thơ ca như những hình tượng đẹp nhất: “Nông dân sống lặng thầm như đất/Có thể hoang vu, có thể mùa màng/Xin chớ mất, chớ niềm tin sai lạc/Chín phần mười đất nước - nông dân”. Thật ngọt ngào biết bao khi những vần thơ dân dã về người nông dân đã thấm sâu vào tâm hồn ta qua những vần thơ của Tố Hữu. Và chúng ta cũng yêu vô cùng hình ảnh người nông dân đang lội bùn lấm lem màu áo qua những vần thơ của Nguyễn Đình Thi:

“Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn”

(Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)

Công việc “hai sương một nắng” và đức tính cần cù của người dân cày lại được khắc họa rõ nét hơn qua hình ảnh “những bàn tay ấy”, gợi sự gắn bó, thân thương. Tác giả không miêu tả cụ thể mà nhớ về bóng lưng cong, bàn tay chai sạn của những người nông dân. Tố Hữu đã vẽ lên một hình ảnh tuyệt đẹp về người nông dân trên cánh đồng quê hương. Đó là một con người khỏe mạnh, dẻo dai, cần mẫn và chịu khó biết bao! “Vãi giống tung trời mỗi sớm mai” là hình ảnh tả thực hoạt động của người nông dân nhưng hiện lên rất thơ, trong trẻo, tràn đầy sức sống.

“Đâu những chiều sương phủ bãi đồng

Lúa mềm xao xác ở ven sông

Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước

Một giọng hò đưa hố não nùng”

Hai tiếng “chiều sương” kết hợp với động từ “phủ” gợi nên khung cảnh bao la, bát ngát bị che lấp bởi màn sương mờ ảo. Lúc bấy giờ, lúa chỉ còn quạnh hiu, chơi vơi nơi cánh đồng sương mờ ấy. Hai tiếng “xao xác” gợi tả không gian vắng lặng, tiếng lúa chạm khẽ vào nhau khiến khung cảnh càng trở nên hiu hắt và cô đơn. “Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước” chỉ âm thanh xe lùa nước gợi lên nhịp sống sinh hoạt của người dân. Tác giả nhớ nhung, tưởng tượng ra cuộc sống bên ngoài sống động như hiện hữu ngay trước mắt. “Một giọng hò đưa hố não nùng” là một phát hiện tinh tế, nhạy cảm của nhà thơ khi lắng nghe thấy tiếng hò xen vào tiếng xe lùa nước. Đây là âm điệu của làn điệu dân ca xứ Huế, khắc sâu nét văn hóa của quê hương, thể hiện tình yêu với tiếng nói dân tộc Việt Nam.

Một lần nữa, điệp khúc “Gì sâu bằng những trưa thương nhớ…” lại cất lên, sau những hình ảnh đầy xao xuyến về cuộc sống: chiều sương phủ bãi đồng, lúa mềm xao xác, những nhịp điệu những âm vang “tiếng xe lùa nước” hòa với “một tiếng hò” như miết vào tâm khảm, làm nỗi nhớ như sâu hơn, lắng đọng hơn!

Hình ảnh mẹ già và những người thân đã khuất cũng từ từ hiện lên trong dòng hồi ức khiến nỗi nhớ càng thêm da diết và trái tim thổn thức vô hạn, vô hồi:

“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!”

Điệp từ nghi vấn “đâu” đặt ở đầu câu lặp lại hai lần trong câu kết hợp với một loạt từ cảm thán đã diễn tả một cách tự nhiên và chân thực tình cảm gắn bó máu thịt của nhà thơ đối với cuộc sống và con người quê hương. Cách nói “Sao mà” với nhịp thơ 4/3 đã gợi nên âm hưởng da diết và vang vọng của nỗi nhớ và suy tư của tác giả. Giờ đây, sự cảm thán, nỗi nhung nhớ dâng lên tầng tầng lớp lớp trong lòng. Thán từ “Chao ôi”, “chao” diễn tả sự xúc động, yếu lòng đã khiến cho ta cảm nhận được sâu sắc và thấm thía hơn những giây phút mềm yếu của chàng trai Tố Hữu. Điệp từ “thương nhớ” được lặp lại hai lần trong câu thơ, cho thấy được nỗi cô đơn, khắc khoải như trào dâng mãnh liệt khiến con người ta càng tha thiết nhớ về người thân yêu, đặc biệt là người mẹ như muốn tìm một chốn chở che, để được vỗ về yêu thương:

"Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều
Thương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe!
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi"

(Bầm ơi - Tố Hữu)

Bên cạnh Tổ quốc và người lính, người mẹ là hình tượng nổi bật trong thơ ca cách mạng. Trong đó, người mẹ thời chiến, người mẹ đời thường và người mẹ hóa thân thành quê hương, đất nước là những hình tượng cảm động, ám ảnh nhất. Cuộc đời hoạt động cách mạng gian khổ là thế nhưng vẫn có biết bao người thanh niên trẻ đôi mươi đã quyết tâm trở thành người chiến sĩ, không ngại dấn thân vào gian khổ để hoàn thành sứ mệnh cách mạng. Họ đã sẵn sàng gác lại tất cả những gì quý giá nhất, thân thiết nhất nơi làng quê để ra đi chiến đấu, mà lòng vẫn không nguôi nỗi nhớ quê nhà.

Không chỉ nhớ về người thân trong gia đình, Tố Hữu còn nhớ về những ngày tháng hoạt động cách mạng hăng say cùng đồng chí đồng đội:

“Đâu những hồn thân tự thuở xưa

Những hồn quen dãi gió dầm mưa

Những hồn chất phác hiền như đất

Khoai sắn tình quê rất thiệt thà!”

Cụm từ “Hồn thân tự thuở xưa” chỉ sự thân thiết, gắn bó, thấu hiểu tâm hồn nhau như đã thân quen từ bao giờ. “Hồn quen dãi gió dầm mưa” chỉ những tháng ngày những người chiến sĩ cùng trải qua bao khó khăn khi hoạt động cách mạng. “Hồn chất phác hiền như đất” chỉ tất cả những người chiến sĩ ấy đều có tâm hồn trong sáng, đôn hậu, sống nghĩa tình - phẩm chất con người Việt Nam. Để rồi từ đó, nhà thơ lại nhớ về những người “chất phác”, “thật thà” mang theo hồn quê, tình quê hương đất nước. Những hình ảnh thật cảm động ấy không còn thuộc về thế giới ngoại cảnh mà đã thật sự thành máu thịt, tâm hồn nhà thơ. Để rồi, chính những tình cảm ấy, những con người ấy đem lại cho nhà thơ nguồn sức mạnh, sự tỉnh táo nhìn lại chính mình, khẳng định một sự chọn lựa dứt khoát và đúng đắn. Người đọc cảm nhận rất rõ tâm trạng cô đơn, đau khổ của người tù lúc này, giờ đây tất cả chỉ còn là kỷ niệm tồn tại trong nỗi nhớ.

Trong chín khổ thơ đầu, Tố Hữu đã diễn tả rất chân thành, xúc động nỗi nhớ cuộc sống bên ngoài nhà lao. Nỗi nhớ ấy chính là biểu hiện cho tình yêu quê hương đất nước nồng nàn, sự gắn bó với đời sống nhân dân và tinh thần khao khát tự do mãnh liệt. Những hình ảnh vốn rất quen thuộc của làng quê, đi vào thơ Tố Hữu bỗng trở nên gợi cảm lạ lùng!

Sau nỗi nhớ đồng, nhớ mẹ không thể nguôi ngoai, Tố hữu nhớ về những ngày đầu tiên mình đến và sống với tâm hồn cách mạng. Mạch cảm xúc phát triển rất đúng với logic tâm lý. Giờ đây, là những nỗi nhớ, suy tư về chính bản thân mình:

“Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi

Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời

Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn

Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời.”

Câu thơ “Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi” như mở đầu cho sự hồi tưởng về quá khứ của bản thân. Đó là những ngày tháng mà người thanh niên yêu nước băn khoăn trước bao ngã rẽ của cuộc đời, muốn thoát khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt mà chưa tìm được lối ra bởi chưa được ánh sáng lý tưởng cộng sản soi đường. Tưởng nhớ lại những ngày tăm tối ấy là để cảm nhận rõ hơn niềm hạnh phúc lớn lao khi được “Mặt trời chân lí chói qua tim”. Những từ ngữ “vẩn vơ”, “băn khoăn”, “quanh quẩn” chỉ sự bế tắc, chán chường trong con người nhà thơ lúc ấy. Ba tiếng “tôi nhớ tôi” vang lên như một sự nhận thức thấm thìa, muốn thoát ra nhưng chẳng thể bước nổi vì chưa tìm ra lý tưởng sống đúng đắn:

“Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước

Chọn một dòng hay để nước trôi?”

Đến khổ thơ này, nhà thơ bừng tỉnh sau những ngày dài đắm chìm trong nỗi nhớ thương dằng dặc, trở về với niềm say mê lý tưởng, với khao khát tự do và hành động. Giọng điệu thơ đã trở nên hăng say, hưng phấn hơn diễn tả một bước ngoặt trong nhận thức của Tố Hữu:

“Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say đồng hương nắng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời”

“Rồi một hôm nào” là một sự bất ngờ, ngạc nhiên khi gặp gỡ lý tưởng cách mạng, tựa như con người đã ở trong bóng tối túng quẫn quá lâu nay chợt tìm ra ánh sáng. “Tôi thấy tôi” là khoảnh khắc Tố Hữu như tự soi vào lòng mình để nhận thức về bản thân mình. Cảm xúc lúc này như được đẩy lên chín tầng mây “Nhẹ nhàng như con chim cà lơi..” diễn tả sự phơi phới trong tâm hồn. Đây là một hình ảnh so sánh hết sức độc đáo. Hình ảnh con chim như là một biểu tượng cho ước muốn được tung bay trên bầu trời tự do bát ngát, được trở lại với hoạt động trong lòng dân. Niềm hạnh phúc ấy được diễn tả bằng các từ “say đồng”, “vui ca hát”, “bát ngát trời”, khắc họa rõ rệt niềm say đời, yêu sự sống, nhìn thấy hy vọng, có lý tưởng để phấn đấu, theo đuổi.

Hai khổ thơ ngắn gọn nhưng cho thấy sự trưởng thành vượt bậc trong nhận thức, tư tưởng của người tù. Không còn những do dự, “vẩn vơ”, “quanh quẩn” của thuở “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” mà thực sự nhà thơ đã trưởng thành, vững vàng một niềm tin, sẵn sàng chiến đấu cho lý tưởng. Dẫu cho thực tại, nhà thơ phải chịu cảnh tù đày, nhưng vẫn “mơ qua cửa khám bao ngày”, hướng lòng mình về cuộc sống tự do, dẫu có chút ngậm ngùi “như cánh chim buồn nhớ gió mây” nhưng vẫn ánh lên một khát vọng được tung cánh, được bay nhảy trong vùng trời tự do.

Mạch cảm xúc trong bài thơ được triển khai từ nỗi nhớ đồng và cuối cùng được cô đúc lại trong từ tất cả có ý nghĩa khái quát:

“Cho tới chừ đây, tới chừ đây

Tôi mơ qua cửa khám bao ngày

Tôi thu tất cả trong thầm lặng

Như cánh chim buồn nhớ gió mây.”

Điệp từ “chừ” cùng với sự gấp đôi “tới chừ đây” là một giọng điệu quê hương. Giờ đây, nhà thơ đầy ắp tâm trạng, đau đớn trước tình cảnh hiện tại, càng hồi tưởng thì càng thấm thía về hiện thực, ông lại càng tiếc nuối quá khứ và đau khổ với thực tại lúc bấy giờ. Các động từ “mơ”, “thu” cho thấy sự đối lập giữa khát vọng đang cháy bỏng với thực tại tàn khốc như giằng xé nội tâm của người chiến sĩ. Hình ảnh cánh chim lặp lại, tạo sự liên kết với khổ trên nhưng ở đây là cánh chim “nhớ gió mây”. Nỗi buồn như đọng lại thành một khối cô đặc bởi không thể bày tỏ cùng ai nên đành thu gọn trong câm lặng, gửi vào những vần thơ. Nhà tù giam giữ, tra tấn thể xác người chiến sĩ nhưng không thể giết chết khát vọng sống, mong ước tự do, tinh thần chiến đấu kiên cường. Hai từ “thầm lặng” vang lên nhưng không phải là sự nhụt chí, bi lụy mà là sự kiên cường, thu nỗi buồn vào trong để tiếp tục chiến đấu. Đất nước vẫn chưa được độc lập, đồng bào muôn nơi còn chưa được giải phóng. Và hơn hết, chính nhà thơ cũng là một kẻ tù tội. Nhà tù đang giam cầm Tố Hữu chỉ là một nhà tù nhỏ bởi thực dân đang biến cả Tổ quốc thân yêu của ta thành nhà tù rộng lớn. Hình ảnh cánh chim gợi trong lòng người những suy nghĩ sâu sắc về thân phận, ước mơ của con người và tình cảnh tăm tối của xã hội đương thời.

Hai câu kết là sự lặp lại của hai câu đầu, tác giả đã sử dụng kết cấu vòng, và bài thơ khép lại nhưng cảm xúc thơ vẫn tiếp tục mở rộng và lan tỏa:

“Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh

Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!”

Nỗi nhớ không ngừng ngân lên, vang vọng da diết suốt mạch cảm xúc của bài thơ từ những câu thơ đầu. Nỗi nhớ đã thực sự biến thành động lực, trở thành một dòng chảy bất tận trong nhận thức của người chiến sĩ. Qua những vần thơ trên, Tố Hữu đã tái hiện lại chân thực mà lãng mạn những cảm xúc, những nỗi nhớ thương cứ lặp đi lặp lại của người tù cộng sản. Từ đó, nhà thơ đã thể hiện khao khát tự do cháy bỏng cùng với tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước đang sục sôi nhiệt huyết. Chính những cảm xúc đó càng thôi thúc tác giả quyết tâm nung nấu ý chí để vượt lên khó khăn thách thức. Đó chính là phẩm chất anh hùng cách mạng.

Tố Hữu đã thật tài hoa khi kết hợp giữa giọng thơ tha thiết, ân tình và cách ngắt nhịp linh hoạt, thể hiện được ân tình sâu nặng của con người và niềm yêu mến đất nước, nhân dân cùng khao khát tự do cháy bỏng. Bên cạnh đó, hàng loạt hình ảnh giản dị, giàu sức gợi cùng với hệ thống từ láy, điệp từ điệp ngữ đã góp phần làm nên hình ảnh thơ vừa chân thực, vừa thơ mộng. Nổi bật hơn cả, đó chính là sự hòa quyện giữa chất thép và chất tình trong ý thơ. Chính cuộc sống giản dị, con người chất phác đã đem lại cho nhà thơ sức mạnh tinh thần, lạc quan trước hoàn cảnh, vững vàng trong thử thách đầu đời, giúp ta hiểu thêm vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ, tiêu biểu cho tinh thần của những chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi.

Thơ Tố Hữu thật hay khi kết hợp sâu sắc lí tưởng cộng sản, tình thương yêu con người, quê hương và niềm vui hướng về tương lai tươi sáng. “Nhớ đồng” đã kết tinh cái hay ấy và tạo nên sức hút lớn đối với những con người chân chính nguyện hiến dâng cho Tổ quốc, đã và đang đi theo lí tưởng của mình. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, ta cũng có thể thấy người lính xuất hiện như một biểu tượng của Tổ quốc thân yêu:

“Ôi, lính thời bình – Tổ quốc vẫn ngợi ca

Màu áo anh hòa màu xanh đất nước

Anh đang gieo mầm thanh bình hạnh phúc

Lính cụ Hồ ngân mãi “Tiến quân ca”!”

2. Phân tích bài thơ Nhớ Đồng - Mẫu 2

Tố Hữu (1920 – 2002) xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Cuộc đời Tố Hữu gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông đã đóng góp cho nền văn học việt Nam đặc biệt vào thời kì cách mạng, thơ của ông mang tư cách của một chiến sĩ cách mạng kiên cường và một nhà thơ mang hồn thơ của thời đại. Những tác phẩm của Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần dân tộc. Ông xứng đáng là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.

Nhớ đồng là một trong số những bài thơ tiêu biểu phản ánh tâm trạng cô đơn, buồn nhớ của người tù trẻ tuổi bị tách biệt khỏi môi trường hoạt động sôi nổi, phải xa đổng bào, đồng chí Những tâm tư ấy được thể hiện trong bài thơ Nhớ đồng một cách thâm trầm, da diết. Qua bài thơ Nhớ đồng đã góp phần cụ thể hóa thành nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân, nhớ những ngày được sống trong tình cảm yêu thương, nồng ấm.

Cả bài thơ có thể chia làm bốn đoạn,ba đoạn đầu là ba nỗi nhớ sâu sắc kết thúc bằng câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại: Gì sâu bằng… Đoạn cuối gồm bốn khổ và hai câu đúc kết tâm sự của nhà thơ trong hiện tại.

Bằng những biện pháp nghệ thuật độc đáo khác nhau, nỗi nhớ đó trải dài xuyên suốt cả bài thơ, bắt đầu với biện pháp sử dụng những câu hỏi tu từ ở cuối mỗi khổ thơ: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ, Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh. Những câu thơ mang sắc thái nghệ thuật hiện đại của Thơ mới góp phần thể hiện nỗi nhớ da diết, khắc khoải và tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên giữa chốn ngục tù,mong ngóng được trở về từng ngày.

Gì sâu bằng là cấu trúc có ý khẳng định rằng có một thứ gì, không có một cái gì, không gì sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn; những trưa thương nhớ là những ngày nhà thơ phải sống trong xà lim biệt giam. Tố Hữu đã sử dụng những câu hỏi tu từ kết hợp với tính từ mang tính chất mãnh liệt khiến câu thơ như một câu hỏi nhức nhối tâm can. Câu hò quen thuộc của xứ Huế là cái cớ gọi về nỗi nhớ,nó giống như âm thanh của tiếng guốc đi về ờ bài Tâm tư trong tù. Những âm thanh đó đã ăn sâu vào kí ức của chính tác giả, cũng giống như âm thanh của tiếng hò Huế, âm thanh của tiếng gà trưa của thơ Xuân Quỳnh cũng có lúc kéo nhân vật trữ tình về với những nỗi niềm thương nhớ như vậy. Tiếng hò ngân dài trên sông nước, văng vẳng lúc gần lúc xa đã làm sống dậy biết bao hình ảnh của cuộc sống giản dị mến thương trong tâm tưởng nhà thơ.

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!
Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruộng tre mát thở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?
Đâu những đường con bước vạn đời
Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi
Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi…

Năm từ “ đâu” xuất hiện trong mười câu thơ, giống như một sự tiếc nuối của tác giả những năm tháng xưa cũ,hiện tại đâu còn, chỉ là nhắc nhớ lại vậy thôi. ở đây bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của quê ngoại nhà thơ, một làng nhỏ với những cồn bãi mướt xanh cây trái, có chiếc cầu lặng lẽ soi bóng xuống dòng Hương Giang hững hờ. Khung cảnh thật đẹp và tình người ấm áp biết bao. Nhưng quê hương giờ đây chỉ còn sống trong tâm tưởng của tác giả, khi xung quanh là 4 bức tường của lao tù. Những câu hỏi trăn trở lặp đi lặp lại nhiều lần phản ánh nỗi nhớ thương, khắc khoải và hoài vọng đau đáu khôn nguôi:

Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh,

Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

Câu cảm thán được sử dụng, như một tiếng lòng của tác giả, không thể để mãi trong lòng nên đành thốt lên: “ ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!” . nhớ đến những trưa thương nhớ, đồng quê nhớ những thứ thân thuộc, tình thương mến dạt dào. Cuộc sống cơ cực của những người nông dân cơ cực,nhưng họ không thể làm mất đi vẻ đẹp khỏe khoắn, đáng yêu trong hình dáng và tâm hồn họ. Những dáng hình thân thương, bình dị với vẻ lam lũ cực nhọc lần lượt tái hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ:

Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hi vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai ?

Đâu những chiều sương phủ bãi đồng

Lúa mềm xao xác ở ven sông

Vẳng lên trong tiếng xe lúa nước

Một giọng hò đưa hố não nùng.

Bóng dáng quen thuộc hiện ra, mẹ già thương nhớ, những hôm mưa nắng dãi dầm, những mảnh tình người thân thiết ấm nồng, những hồn thơ thắm thiết, như thắt chặt sự nỗi nhớ da diết với các hình ảnh quen thuộc. Nhưng tất cả chỉ còn trong tưởng tượng:

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi

Đâu những hồn thân tự thuở xưa

Những hồn quen dãi gió dầm mưa

Những hồn chất phác hiền như đất

Khoai sắn tình quê rất thiệt thà!

Dường như người chiến sĩ đang chìm đắm trong nỗi nhớ nhung, trong dòng hồi ức miên man không dứt. Khiến người đọc cảm nhận rất rõ tâm trạng cô đơn, đau khổ của người tù lúc này, bất lực với tâm trạng của mình,chẳng thể thoát ra ngoài.

Điều quan trọng sau tất cả nỗi nhớ đó là khi tác giả ngộ ra lí tưởng cách mạng:

Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi

Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời

Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn

Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời.

Đó là những ngày tháng mà người thanh niên yêu nước băn khoăn trước bao ngã rẽ của cuộc đời, muốn thoát khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt mà chưa tìm được lối ra bởi chưa được ánh sáng lí tưởng cộng sản soi đường. Tưởng nhớ lại những ngày tăm tối ấy là để cảm nhận rõ hơn niềm hạnh phúc lớn lao khi được “Mặt trời chân lí chói qua tim”. Tố hữu nhớ lại những ngày đầu hăng say bước đi trên con đường cách mạng với biết bao kì vọng, lạc quan, để nhận thức rõ hơn cảnh ngộ đáng buồn của mình hiện tại. Nhà thơ bừng tỉnh sau những ngày dài đắm chìm trong nỗi nhớ thương dằng dặc, trở về với niềm say mê lí tưởng, với khao khát tự do và hành động.

Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say đồng hương nắng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời…

Âm điệu thơ đang buồn bã đột nhiên chuyển sang vui vẻ, phấn chấn. Cảm xúc chuyển từ nỗi nhớ quê hương nhớ hình ảnh quen thuộc và rồi cô đúc lại thành:

Cho tới chừ đây, tới chừ đây

Tôi mơ qua cửa khám bao ngày

Tôi thu tất cả trong thầm lặng

Như cánh chim buồn nhớ gió mây.

Nỗi nhớ mênh mang được ví với hình ảnh so sánh : Như cánh chim buồn nhớ gió mây đã thể hiện thần tình nỗi nhớ đồng, thực chất là nỗi nhớ quê hương, đồng bào, đồng chí, đồng thời là khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng đang chịu cảnh tù đày. Cánh chim đó, cánh chim của tự do,của tình yêu quê hương,cánh chim bay vút lên để đón nhận lí tưởng cao đẹp

Hai câu kết là sự lặp lại của hai câu đầu, tác giả đã sử dụng kết cấu vòng, và bài thơ khép lại nhưng cảm xúc thơ vẫn tiếp tục mở rộng và lan tỏa

Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh

Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

Nhớ đồng là bài thơ góp phần diễn tả thành công tâm trạng của người tù cộng sản, đó là những cảm xúc hết sức chân thực, những nỗi nhớ thương cứ lặp đi lặp lại thể hiện khao khát tự do cháy bỏng cùng với đó là tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước đang sục sôi nhiệt huyết. Từ chính những cảm xúc đó càng thôi thúc tác giả quyết tâm nung nấu ý chí để vượt lên khó khăn thách thức.

3. Phân tích bài thơ Nhớ Đồng - Mẫu 3

Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Năm mười sáu tuổi, ông được giác ngộ cách mạng và gia nhập Đoàn thanh niên Cộng sản. Năm mười tám tuổi, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuộc đời Tố Hữu gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Tố Hữu đã chứng kiến, tham dự và đóng góp vào quá trình lâu dài ấy với tư cách của một chiến sĩ cách mạng kiên cường và một nhà thơ mang hồn thơ của thời đại. Thơ Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần của dòng giống Lạc Hồng bất khuất. Ông xứng đáng là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.

Từ ấy (1937 – 1946) là tập thơ đầu tiên của Tố Hữu, đánh dấu thời điểm vô cùng quan trọng trong cuộc đời nhà thơ: được giác ngộ lí tưởng cộng sản và dứt khoát chọn cho mình con đường đi duy nhất đúng là con đường cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến. Bài thơ Nhớ đồng sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế) tháng 7 năm 1939 vì "tội" tuyên truyền thanh niên, học sinh chống Pháp.

Nếu như bài Tâm tư trong tù được khơi nguồn từ những âm thanh quen thuộc của cuộc sống bên ngoài, bài Khi con tu hú được hình thành từ tiếng chim tu Hú báo hiệu hè về thì ở bài Nhớ đồng, cảm hứng thơ lại được gợi lên từ tiếng hò quen thuộc của quê hương làm xao động tâm hồn thi sĩ.

Tố Hữu là người con của xứ Huế. Từ nhỏ, tâm hồn nhà thơ đã được nuôi dưỡng bằng mạch nguồn trong trẻo, ngọt ngào của những điệu ca, điệu hò nổi tiếng như Nam ai, Nam bình, mái nhì, mái đẩy... Vì thế mà tiếng hò có rất nhiều ý nghĩa đối với người tù trẻ tuổi mang trái tim thi sĩ. Giọng hò đã khơi dậy trong tâm tưởng nhà thơ bao hình ảnh của cuộc sống mến thương trên quê hương yêu dấu.

Bài thơ Nhớ đồng phản ánh tâm trạng cô đơn, buồn nhớ của người tù trẻ tuổi bị tách biệt khỏi môi trường hoạt động sôi nổi, phải xa đổng bào, đồng chí thân thương. Ở Tâm tư trong tù, tâm trạng ấy được thể hiện một cách sôi nổi, mạnh mẽ; còn ở Nhớ đồng thì lại thâm trầm, da diết. Nhớ đồng là cách nói để cụ thể hóa đối tượng của nỗi nhớ. Tuy trong nỗi nhớ có hiện lên những hình ảnh quen thuộc của đồng ruộng, xóm làng, nhưng mở rộng ra đó chính là nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân, nhớ những ngày được sống trong tình cảm yêu thương, nồng ấm.

Bài thơ có thể chia làm bốn đoạn. Ba đoạn đầu là ba nỗi nhớ được thể hiện sau câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại: Gì sâu bằng... Đoạn cuối gồm bốn khổ và hai câu đúc kết tâm sự của nhà thơ trong hiện tại.

Nỗi nhớ trải dài suốt bài thơ được tác giả thể hiện bằng nhiều biện pháp nghệ thuật khác nhau. Trước hết, những câu hỏi tu từ được sử dụng làm điệp khúc: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ, Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh. Đây là những câu thơ mang sắc thái nghệ thuật hiện đại của Thơ mới đã thể hiện nỗi nhớ da diết, khắc khoải và tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên giữa chốn ngục tù đế quốc.

Câu thơ mở đầu mỗi khổ thơ được lặp lại nhiều lần nhấn mạnh mức độ mãnh liệt của nỗi nhớ thương. Gì sâu bằng là cấu trúc có ý khẳng định không gì sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn; những trưa thương nhớ là những ngày nhà thơ phải sống trong xà lim biệt giam. Từ nghi vấn Gì kết hợp với tính từ sâu khiến câu thơ như một câu hỏi nhức nhối tâm can. Tác nhân gợi nhớ là tiếng hò quen thuộc của quê hương xứ Huế; giống như âm thanh của tiếng guốc đi về ờ bài Tâm tư trong tù. Đó là những âm thanh của đời thường luôn luôn vang vọng trong kí ức nhà thơ.

Những ngày bị giam hãm trong tù, tâm hồn nhà thơ luôn hướng ra cuộc sống bên ngoài với tất cả nỗi nhớ thương và tình yêu mến. Tiếng hò ngân dài trên sông nước, văng vẳng lúc gần lúc xa đã làm sống dậy bao hình ảnh của cuộc sống mến thương trong tâm tưởng nhà thơ. Nhiều nhất là hình ảnh của mảnh đất cắt rốn chôn nhau cùng với những người dân quê lao động lam lũ, vất vả trên đồng ruộng:

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!
Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruộng tre mát thở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?
Đâu những đường con bước vạn đời
Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi
Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi...

Đây là bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của quê ngoại nhà thơ, một làng nhỏ với những cồn bãi mướt xanh cây trái, có chiếc cầu An Cựu lặng lẽ soi bóng xuống dòng Hương Giang lững lờ trôi. Khung cảnh thật đẹp và tình người ấm áp xiết bao! Vậy mà giờ đây, quê hương thân yêu chỉ cách có bức tường nhà lao mà sao xa vời vợi? Những câu hỏi đầy trăn trở cứ lặp đi lặp lại phản ánh nỗi nhớ thương, khắc khoải và hoài vọng đau đáu khôn nguôi:

Phân tích bài nhớ đồng

Đâu gió cồn thơm..., Đâu ruộng tre mát..., Đâu từng ô mạ..., Đâu những nương khoai..., Đâu những đường con..., Đâu nhà tranh thấp...? Tất cả những gì gần gũi, thân quen của đời sống đều được Tố Hữu trân trọng miêu tả trong thơ. Tác giả cố gắng bắt lấy những hình ảnh, âm thanh của đời thường nhưng xiết bao gợi cảm đối với bản thân trong chốn lao tù. Giờ đây, nhà thơ chi có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy khung cảnh quê hương trong tưởng tượng bằng trái tim chất chứa nhớ thương.

Giọng điệu thơ da diết, thổn thức thể hiện nỗi nhớ khôn cùng đang cuộn xoáy, trào dâng trong lòng thi sĩ. cảm xúc dâng trào thốt lên thành lời thơ chân thành, xúc động:

Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh,
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

Những người nông dân hiền như đất, quanh năm dãi nắng dầm sương, vất vả sớm trưa được nhà thơ nhắc đến với tình thương mến dạt dào. Cuộc sống cơ cực không thể làm mất đi vẻ đẹp khỏe khoắn, đáng yêu trong hình dáng và tâm hồn họ. Những hình dáng thân thương, bình dị với vẻ lam lũ cực nhọc lần lượt hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ:

Đâu những lưng cong xuống luống cày
Mà bùn hi vọng nức hương ngây
Và đâu hết những bàn tay ấy
Vãi giống tung trời những sớm mai?
Đâu những chiều sương phủ bãi đồng
Lúa mềm xao xác ở ven sông
Vẳng lên trong tiếng xe lúa nước
Một giọng hò đưa hố não nùng.

Hình ảnh mẹ già và những người thân đã khuất cũng từ từ hiện lên trong dòng hồi ức khiến nỗi nhớ càng thêm da diết và trái tim thổn thức vô hạn, vô hồi:

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!
Đâu những hồn thân tự thuở xưa
Những hồn quen dãi gió dầm mưa
Những hồn chất phác hiền như đất
Khoai sắn tình quê rất thiệt thà!

Điệp từ nghi vấn Đâu đặt ở đầu câu cùng với một loạt từ cảm thán đã diễn tả một cách tự nhiên và chân thực tình cảm gắn bó máu thịt của nhà thơ đối với cuộc sống và con người quê hương. Dường như người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi đang chìm đắm trong nỗi nhớ nhung, trong dòng hồi ức miên man không dứt. Người đọc cảm nhận rất rõ tâm trạng cô đơn, đau khổ của người tù lúc này.

Sau nỗi nhớ đồng không thể nguôi ngoai, nhà thơ nhớ về những ngày đầu tiên được giác ngộ lí tưởng cách mạng. Mạch cảm xúc phát triển rất đúng với lôgíc tâm lí. Hai giai đoạn trong chặng đường tìm kiếm chân lí đã được nhà thơ khái quát trong hai khổ thơ:

Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời.

Đó là những ngày người thanh niên học sinh yêu nước đang băn khoăn trước bao ngã rẽ của cuộc đời, muốn thoát khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt mà chưa tìm được lối ra bởi chưa được ánh sáng lí tưởng cộng sản soi đường. Nhớ lại những ngày tăm tối ấy là để cảm nhận rõ hơn niềm hạnh phúc lớn lao khi Mặt trời chân lí chói qua tim. Nhớ lại những ngày đầu hăng say bước đi trên con đường cách mạng với bao nhiêu hi vọng, lạc quan, tin tưởng là để nhận thức rõ hơn cảnh ngộ đáng buồn của mình hiện tại. Nhà thơ như chợt bừng tỉnh sau những ngày dài đắm chìm trong nỗi nhớ thương dằng dặc, trở về với niềm say mê lí tưởng, với khao khát tự do và hành động. Âm điệu thơ đang buồn bã đột nhiên chuyển sang vui vẻ, phấn chấn:

Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời...

Mạch cảm xúc trong bài thơ được triển khai từ nỗi nhớ đồng, nhớ những bóng hình quen thuộc của quê hương, gia đình, nhớ mẹ già, nhớ những người đã khuất, nhớ những ngày đã qua và cuối cùng được cô đúc lại trong từ tất cả có ý nghĩa khái quát:

Cho tới chừ đây, tới chừ đây
Tôi mơ qua cửa khám bao ngày
Tôi thu tất cả trong thầm lặng
Như cánh chim buồn nhớ gió mây.

Hình ảnh so sánh: Như cánh chim buồn nhớ gió mây đã thể hiện thần tình nỗi nhớ đồng, thực chất là nỗi nhớ quê hương, đồng bào, đồng chí, đồng thời là khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng đang chịu cảnh tù đày.

Hai câu kết là sự lặp lại của hai câu thơ đầu, tạo nên kết cấu vòng tròn. Bài thơ khép lại nhưng cảm xúc thơ vẫn tiếp tục mở rộng như nhiều vòng sóng đồng tâm, mỗi lúc một lan xa, tỏa rộng không giới hạn;

Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

Bài thơ Nhớ đồng đã diễn tả thành công tâm trạng của người tù cộng sản. Những nỗi nhớ thương cứ lặp đi lặp lại thể hiện khao khát tự do cháy bỏng và tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước đang sục sôi nhiệt huyết. Đó cũng là động lực thúc đẩy người chiến sĩ – thi sĩ dấn thân vì sự nghiệp cách mạng giải phóng quê hương đất nước.

4. Phân tích bài thơ Nhớ Đồng - Mẫu 4

“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!…”

Tiếng thơ cất lên trong ngục tù, vọng nỗi niềm khắc khoải thiết tha của chàng thanh niên 19 tuổi Tố Hữu hướng về cuộc sống tự do, tất cả những hình ảnh, cảm xúc hòa quyện làm thành một nỗi nhớ gắn kết nhà thơ với thế giới bên ngoài. Nhớ đồng viết trong phần “Xiềng xích” của tập thơ “Từ ấy”, trong cái im ắng không gian trưa để tác giả nghe tiếng vọng lòng mình rõ nhất.

Dấn thân vào chốn lao tù khi tuổi đời còn quá trẻ, Tố Hữu mở đầu phần “Xiềng xích” với Tâm tư trong tù, cảm nhận rõ hoàn cảnh mất tự do, xác định ý chí sắt đá của người chiến sĩ, tự động viên mình vượt lên nghịch cảnh, tách biệt lí trí và tình cảm có phần cực đoan và bồng bột. Nhưng đến Nhớ đồng, ta bắt gặp một Tố Hữu hoàn toàn khác, có sự chín chắn hơn sau những thử thách đầu tiên. Nếu không hiểu hoàn cảnh này, ta cứ ngỡ bài thơ mang tâm trạng của một khách tha phương vọng về cố xứ! Cũng dễ hiểu thôi, khi Tố Hữu làm thơ cũng là lúc Thơ Mới đang chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn, là một người trẻ tuổi yêu thơ, chắc chắn nhà thơ dễ cảm được nỗi lòng của những bạn trẻ đồng trang lứa. Có ngẫu nhiên chăng khi bị lâm vào cảnh tù hãm, Tố Hữu lại viết một loạt những “Nhớ người”, “Nhớ đồng”… như một cách cắt nghĩa khác với “Nhớ rừng” của Thế Lữ – thác lời con hổ trong cảnh sa cơ nhớ thời oanh liệt! Cũng là nhớ, nhưng nhà thơ lãng mạn để cho nỗi nhớ khơi dậy niềm kiêu hãnh và nỗi ngậm ngùi thân phận cá nhân, đề cao và khẳng định vị thế của cái Tôi. Còn Tố Hữu thông qua nỗi nhớ, xác lập các mối liên hệ với thế giới bên ngoài, thấm thía cả vẻ đẹp và nỗi buồn cuộc đời, gửi gắm tình yêu cuộc sống và cũng là nhận thức của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi, vừa da diết bâng khuâng vừa hăm hở sôi nổi. Có một cái Tôi – chiến sĩ và thi sĩ – càng lúc càng đằm thắm, đầy tinh thần lạc quan tin tưởng vào lý tưởng, trên tinh thần “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”!

Sau khoảnh khắc cảm nhận “gì sâu bằng…” như một cách cắt nghĩa lòng mình, ùa về trên những dòng thơ của Nhớ đồng là bao hình ảnh ngồn ngộn sức sống của đồng quê quen thuộc:

“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng tre mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?”

Không gian sau nỗi nhớ thật bình dị thân thuộc, khắc khoải một tâm trạng kiếm tìm, nuối tiếc, trân trọng những vẻ đẹp của nhà thơ. Làng quê hiện về trong kí ức với hương của đất, bóng mát lũy tre làng, sắc xanh nao lòng của mạ và vị ngọt bùi khoai sắn gợi một cảm giác thật bình yên, đáng yêu đáng quí. Cái nhìn từ tâm trạng của một người bị mất tự do thật thấm thía khi “một tiếng hò” vọng vào làm hiện lên bao hình ảnh cuộc sống bên ngoài càng gợi nhớ gợi thương. Và nhà thơ còn cảm nhận được cái “hiu quạnh” của những cuộc đời quẩn quanh tù túng, lặng lẽ trôi đi trong nhịp đời day dứt buồn thương:

“Đâu những đường con bước vạn đời

Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

Giữa dòng ngày tháng âm u đó

Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi…”

Có đáng buồn không những thân phận lầm lũi sau lũy tre làng, những cuộc đời chìm trong bóng tối mang theo cả cái ngột ngạt của cuộc sống “âm u”, gợi tình cảnh đất nước chìm đắm trong kiếp nô lệ! Cái “hiu quạnh” không phải do tác động từ không gian ngoại cảnh mà bắt nguồn từ nhận thức của người chiến sĩ đã dấn thân trên con đường cách mạng, nhận ra bi kịch của dân tộc mình, đồng bào mình! Niềm thương cảm cho những cuộc đời “không đổi nhưng mà trôi cứ trôi” như quặn thắt trong lòng nhà thơ, như một sự chia sẻ ngậm ngùi. Bức tranh cuộc sống trong “nhớ đồng” đâu chỉ là vẻ đẹp mà còn là ám ảnh nỗi niềm tâm sự của người dân mất nước, man mác như một khúc Nam ai xứ Huế…

Nỗi buồn thương vẳng vào từ câu hò, làm thành tiếng vọng từ trong lòng nhà thơ hướng ra bên ngoài tha thiết: “Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh – Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!”. Phải chăng nhà thơ đang cất lên “tiếng gọi đàn”, đánh thức những hồn đồng điệu? Trân trọng biết bao những vần thơ cảm nhận về vẻ đẹp con người làm nên cuộc sống:

“Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hy vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai?”

Tình cảm gắn bó con người xuất phát từ nhận thức về mối liên hệ giữa người chiến sĩ với quần chúng cách mạng. Khổ thơ bộc bạch vẻ lạc quan, thi hứng gợi nhắc vần thơ trong “Mùa gieo hạt, buổi chiều” của nhà thơ lãng mạn Pháp V. Hugo:

“Một ông lão đang tung

Gieo mùa sau xuống đất.

Bóng ông già cao thẫm

Giẫm trên rãnh cày sâu.

Chắc ông tin tưởng lắm.

Vào ngày tháng ruổi mau.”

(Xuân Diệu dịch)

Khổ thơ của Tố Hữu không đơn độc một bóng hình ông lão, mà khái quát hình ảnh “những lưng cong xuống luống cày” – hình ảnh con người nhân dân giản dị mà vĩ đại với cuộc đời cần lao thắp lên niềm hy vọng tương lai, “vãi giống tung trời những sớm mai”! Có ngẫu nhiên chăng sự gặp gỡ trong hình ảnh biểu tượng “bàn tay” gieo hạt của nhà thơ lãng mạn Pháp và người chiến sĩ trẻ Tố Hữu? Phải mở lòng ra với cuộc sống, mới nói lên hết được tình yêu và niềm tin ở con người tha thiết vậy. Giữa những nông dân trên cánh đồng cần mẫn và người chiến sĩ đấu tranh vì cái đẹp cuộc đời, đã có sự đồng cảm của người gieo mầm cho một tương lai tốt đẹp!

Điệp khúc “Gì sâu bằng những trưa thương nhớ…” lại cất lên, sau những hình ảnh đầy xao xuyến về cuộc sống: chiều sương phủ bãi đồng, lúa mềm xao xác, những nhịp điệu những âm vang “tiếng xe lùa nước” hòa với “một tiếng hò” như miết vào tâm khảm, làm nỗi nhớ như sâu hơn, lắng đọng hơn! Có lẽ đến lúc này nhà thơ mới thật thấm thía cảm giác của một người bị giam hãm trong bốn bức tường xà lim để hiểu rõ giá trị cuộc sống tự do lớn lao biết chừng nào! Những khổ thơ tiếp nối có sự chuyển mạch cảm xúc, vọng về nỗi niềm riêng tư. Nhà thơ lưu luyến tiếc nhớ, khắc ghi những bóng hình cuộc sống vào trái tim nhạy cảm của mình, khi thực tại chỉ có một mình đối diện không gian quạnh quẽ của nhà lao:

“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!”

Ta chợt phát hiện ra giây phút yếu lòng nhất của chàng trai Tố Hữu! Nhưng đó là tâm trạng hoàn toàn hợp lý, khi con người bị bủa vây bởi nỗi cô đơn, sự vắng lặng thì càng khắc khoải nhớ về người thân yêu, đặc biệt là người mẹ như muốn tìm một chốn chở che, để được vỗ về yêu thương. Thú vị hơn là trong khổ thơ này, ta gặp nỗi niềm từng cất lên trong Thơ Mới “Chao ôi mong nhớ, ôi mong nhớ – Một cánh chim thu lạc cuối ngàn” (Chế Lan Viên). Quả thật, thơ Tố Hữu “thoát thai từ Thơ Mới” nhưng tinh thần thì hoàn toàn khác. Nỗi nhớ sau tiếng than “chao ôi…” của nhà thơ là “mẹ già xa đơn chiếc” rất cụ thể, rất đời thường và tạo cảm giác gần gũi thân thiết chứ không phải là một bóng hình tan biến vụt bay vào hư vô như câu thơ của họ Chế! Mẹ ở đây còn là quê hương, là những gì thiêng liêng nhất, sâu thẳm nhất bền chặt nhất của đời người. Câu thơ còn làm ta hiểu sâu sắc về tâm hồn người cộng sản. Để rồi từ mẹ quê, nhà thơ lại nhớ về những người “chất phác”, “thiệt thà” mang theo hồn quê, tình quê hương đất nước. Những hình ảnh thật cảm động ấy không còn thuộc về thế giới ngoại cảnh mà đã thật sự thành máu thịt, tâm hồn nhà thơ, Để rồi, chính những tình cảm ấy những con người ấy đem lại cho nhà thơ nguồn sức mạnh, sự tỉnh táo nhìn lại chính mình, khẳng định một sự chọn lựa dứt khoát và đúng đắn. Hai khổ thơ nói về bản thân là sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, tràn đầy niềm hạnh phúc được hòa nhập với những quần chúng lao khổ:

“Rồi một hôm nào tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say đồng hương nắng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời…”

Đó cũng là lúc nhà thơ bộc bạch trọn vẹn nhất cái tôi của mình. Không phải là một cái tôi buồn, ngạo nghễ, cô đơn và yếu đuối như các thi sĩ lãng mạn đồng trang lứa mà là cái tôi tràn đầy tình yêu và niềm tin với cuộc đời. Hình ảnh thơ tái hiện lại khoảnh khắc xúc động và thiêng liêng khi nhà thơ đứng vào đội ngũ chiến đấu: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ – Mặt trời chân lí chói qua tim…”. Không còn những do dự, “vẩn vơ”, “quanh quẩn” của thuở “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” mà thực sự nhà thơ đã trưởng thành, vững vàng một niềm tin, sẵn sàng chiến đấu cho lí tưởng. Dẫu cho thực tại, nhà thơ phải chịu cảnh tù đày, nhưng vẫn “mơ qua cửa khám bao ngày”, hướng lòng mình về cuộc sống tự do, dẫu có chút ngậm ngùi “như cánh chim buồn nhớ gió mây” nhưng vẫn ánh lên một khát vọng được tung cánh, được bay nhảy trong vùng trời tự do.

Bài thơ Nhớ đồng mang theo âm hưởng của một điệp khúc tâm trạng da diết nhớ thương con người và cuộc sống, làm nên những cung bậc trạng thái tình cảm của nhân vật trữ tình phong phú đa dạng. Thực chất của “nhớ đồng” là nhớ những mối dây liên hệ khắng khít với cuộc đời, là lời tự nhắc nhở động viên mình của nhà thơ, trong hoàn cảnh lao tù. Giọng thơ khắc khoải, thấm đượm những ân tình sâu nặng của con người hiểu rõ và yêu mến đất nước, nhân dân, khao khát tự do. Chính cuộc sống giản dị, con người chất phác đã đem lại cho nhà thơ sức mạnh tinh thần, lạc quan trước hoàn cảnh, vững vàng trong thử thách đầu đời. Cái đáng quý nhất là chất trẻ trung, tươi mới của hồn thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn cách mạng, lí trí và tình cảm hòa quyện giúp ta hiểu thêm vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ, tiêu biểu cho tinh thần của những chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi.

Những vần thơ như vậy trong Nhớ đồng nói riêng và tập thơ Từ ấy nói chung giúp ta thêm hiểu và trân trọng thế hệ cha anh, sẽ mãi còn vang ngân trong lòng các thế hệ tương lai.

5. Phân tích bài thơ Nhớ Đồng - Mẫu 5

Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập thơ lớn, thơ ông được xem là biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam. Đối với Tố Hữu, con đường thơ ca cũng là con đường cách mạng. Thơ ông song hành với con đường cách mạng và phản ánh những chặng đường cách mạng quan trọng của dân tộc. Bài thơ Nhớ đồng là nỗi niềm thương nhớ đồng quê, cảnh vật con người, đồng bào đồng chí của người tù cộng sản trẻ tuổi trong những ngày tháng bị giam ở nhà lao Thừa Thiên Huế.

Tháng 7 năm 1939 Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt và giam tại nhà tù Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm trong tù ngục nhưng ông vẫn làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được sáng tác trong hoàn cảnh đó và được trích trong tập thơ: Từ ấy trong phần xiềng xích. Đây là một bài thơ tiêu biểu của tập thơ Từ ấy.

“Cô đơn thay là cảnh thân tù/ Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..” đó là cảm giác rõ nhất khi Tố Hữu bị bắt, cách biệt với cuộc sống bên ngoài. Vì vậy một âm thanh, một tiếng động nào bên ngoài dội vào cũng gợi lên trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Không phải là tiếng chim tu hú khắc khoải gọi hè như trong bài thơ Khi con tu hú, mà là một tiếng hò quen thuộc của đồng quê:

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

Bài thơ gợi từ tiếng hò thân thuộc trở thành điệp khúc trở đi trở lại: Nỗi thương nhớ; nỗi hiu quạnh. Bằng cách lặp đi lặp lại 4 lần hình ảnh một tiếng hò nhà thơ đã nói lên được sự đồng cảm với tâm trạng cô đơn, cảm giác lạnh lẽo của người tù.

Tiếng hò như một điểm nhấn gợi nhớ, khiến cho bao nhiêu hình ảnh quen thuộc của đồng quê hiện về:

Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng che mát thở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?

Âm thanh tiếng hò gợi nhớ về quê h­ương. Thế giới bên ngoài là đồng quê, hình ảnh con ngư­ời, mùi hư­ơng, màu sắc, âm thanh. Đó là những hình ảnh thân thuộc, da diết của quê hương, xứ sở. Trong xa cách, nỗi nhớ của nhà thơ dường như da diết hơn. Trong xa cách, hình ảnh, mùi vị, âm thanh, màu sắc của quê hương càng trở nên gần gũi lạ thường.

Nỗi nhớ đồng quê ấy còn là nỗi nhớ con người lao động – những người dân quê cần cù, chất phác, quen “dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:

Đâu những lưng cong xuống luống cày
Mà bùn hy vọng nức hương ngây
Và đâu hết những bàn tay ấy
Vãi giống tung trời những sớm mai?

Đó là những người dân cày quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Đó người nông dân với luống cày vất vả, gian nan, lưng còng theo năm tháng. Thế nhưng, ở họ, toát lên một vẻ đẹp sáng ngời của phẩm chất trong sáng, dù có ở trong bùn đen nhưng vẫn nức hương. Chính họ, chính những người lao động chân chất thôn quê ấy còn là những người gieo những tia hi vọng vào tương lai.

Nhà thơ tiếp tục nỗi nhớ của mình với các hình ảnh: sương, lúa, tiếng xe lùa nước, giọng hò. Tất cả đều là hình ảnh, âm thanh thân thuộc của đồng quê. Và nhà thơ nhớ da diết những hình ảnh ấy. Từ nỗi nhớ ấy, nghĩ về cảnh tù đày của bản thân, một chút chạnh lòng chợt len lỏi trong tâm khảm nhà thơ cách mạng:

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!

Tất cả những gì quen thuộc nhất, thân thương nhất, nhưng giờ đây “đâu cả rồi“. Một câu hỏi lớn vang lên không lời đáp như là một nhát dao đâm vào lòng người tù, trở nên đau đớn, xót xa. Giờ đây, khi ở trong lao, mọi thứ đã cách biệt và trở nên xa xôi hơn bao giờ hết. Chao ôi thương nhớ, điệp khúc lặp lại hai lần trong câu thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết khôn nguôi của nhà thơ. Và trong nỗi nhớ thương ấy, hiện lên hình ảnh người mẹ già – người mà tác giả nhớ nhất trong nỗi nhớ của mình.

Mạch thơ tiếp diễn với nỗi nhớ thương da diết, dâng trào. Khi người ta nhớ, người ta thương mà không được nhìn, không được ngắm, không được trở về để yêu thương thì càng khiến con người thêm day dứt, thêm cồn cào ruột gan. Và sau những thoáng buồn thương cho cảnh ngộ của mình trong tù, người chiến sĩ thiết tha yêu cuộc sống lại kiên trì – đấu tranh với những giây phút yếu mềm để vượt lên. Anh nhớ lại hình ảnh của chính mình của “những ngày xưa”, từ cái thời “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, “theo mãi vòng quanh quẩn” để có ngày đến với cách mạng, gặp gỡ lí tưởng cộng sản. Và thế là người tù lại khát khao tự do, thèm muốn được thoát khỏi lao tù để lại được dấn thân vào trường tranh đấu vì sự nghiệp cách mạng.

Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say hương đồng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời

Hình ảnh con chim sơn ca như là một biểu tượng cho ước muốn được tung bay trên bầu trời tự do bát ngát, được trở lại với hoạt động trong lòng dân, được trở về với cuộc sống con người tự do. Đây là tâm trạng vui nhất của người chiến sĩ trong tù.

Diễn biến tâm trạng của tác giả trong bài thơ được thể hiện khá chân thực, trọn vẹn và liền mạch. Nỗi nhớ được đánh thức từ một “tiếng hò đưa hố não nùng“. Tiếng hò gợi dậy thế giới đồng quê bên ngoài từ cảnh sắc đến những dáng hình quen thuộc. Rồi nhớ về những ngày còn được thỏa sức hoạt động cho cách mạng, cuối cùng lại trở lại thực tại đau thương của cảnh nhà tù và khát vọng muốn được tự do, được cống hiến. Cả bài thơ thấm đượm nỗi nhớ thương da diết, khôn nguôi; khiến độc giả thêm cảm phục hình ảnh người chiến sĩ cách mạng – nhà thơ Tố Hữu.

6. Phân tích bài thơ Nhớ Đồng - Mẫu 6

Tố Hữu - một nhà thơ cách mạng nổi tiếng, ông được kết nạp đảng năm 1938 thì đến năm 1939 trong quá trình hoạt động đã bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ, hoạt động cách mạng hăng say và nhiệt huyết là thế nhưng lại bị bắt giam nên trong quá trình bị giam cầm ông đã sáng tác một tập thơ mang tên "Từ ấy", bài thơ "Nhớ đồng" nằm trong phần "Xiềng xích" của tập thơ nói về tâm trạng nhớ quê hương, cách mạng của ông những ngày tháng sống trong trại giam.

Trong hoàn cảnh bị giam cầm tù hãm, người chiến sĩ cộng sản không tránh khỏi những u buồn, nhớ thương, chính tiếng hò vang vọng đâu đó đã đánh thức và khơi dậy nỗi niềm nhớ thương của người tù. Giữa không gian đồng không mông quạnh trưa nắng, một con người lẻ loi, cô độc đang bị giam cầm tách biệt với cuộc sống bên ngoài.

"Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò"

"Gì sâu bằng" ấy là nói về nỗi nhớ sâu thẳm trong cõi lòng tác giả, điệp từ "đâu" ở đầu suốt năm câu thơ như là nỗi day dứt tìm kiếm trở về với cuộc sống khi xưa, tìm kiếm sự yên bình nơi quê hương trong sự ngậm ngùi:

"Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi...
Đâu những đường con bước vạn đời"

Bức tranh cuộc sống sinh hoạt làng quê thân thương và rất đỗi bình dị hiện ra trước mắt người tù cộng sản, chỉ là tưởng tượng thôi nhưng nó sống động và tuyệt đẹp, giàu xúc cảm biết bao. Không chỉ là cảnh đồng lúa, khóm tre, nương rẫy hay những mái nhà tranh, ở trong tâm tưởng của nhà thơ còn có con người, những người nông dân cơ cực vất vả nhưng ấm áp tình người.

"Đâu những lưng cong xuống luống cày...
Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi...
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi"

Đâu đó còn là bóng dáng của người mẹ thương nhớ càng siết chặt thêm nỗi khắc khoải khôn nguôi của nhà thơ, tác giả như chìm đắm, say trong những cơn nhớ nhung không dứt "Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ..." từng lời như đang than thở vì sự bất khả kháng với hoàn cảnh của chính mình, không thể thoát ra để giải tỏa nỗi lòng. Người chiến sĩ trẻ nhớ về những ngày đầu đến với lý tưởng cách mạng và thời hoạt động cách mạng tự do của mình:

"Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi...
Trên chín tầng cao bát ngát trời"

Trước là nhớ về quá khứ tối tăm ngột ngạt của mình để như khẳng định hơn sự sáng suốt và đúng đắn, niềm hạnh phúc khi tìm được lý tưởng cách mạng, và rồi tác giả tự cho mình những giây phút say trong niềm khao khát hoạt động cách mạng ấy, tâm trạng u buồn bỗng nhiên được tưới mát trở nên vui vẻ và phấn chấn hơn, "Nhẹ nhàng như con chim cà lơi", cánh chim tượng trưng cho sự tự do tự tại và tác giả đang ví mình là những con chim đó, say trong đồng hương nắng như chính người chiến sĩ say trong hoạt động cách mạng. Nhưng dù có cố gắng cách mấy nhà thơ cũng không tránh khỏi sự đối mặt với thực tại bị giam hãm trong lao tù, hai câu thơ kết lặp lại y nguyên hai câu thơ đầu, nhấn mạnh sự bất lực, bế tắc không có lối thoát. Mặc dù vậy tư tưởng hướng về quê hương và cách mạng vẫn còn đó, khát vọng về một ngày được tự do được hoạt động cách mạng vẫn luôn cháy bỏng trong trái tim người tù cộng sản.

Qua bài thơ "Nhớ đồng" người đọc không chỉ cảm nhận được một tình yêu quê hương tha thiết của Tố Hữu mà còn thấy hiện lên một người chiến sĩ cộng sản yêu lý tưởng cách mạng, yêu đất nước và khát vọng tự do hành động, hy sinh vì Tổ quốc.

7. Phân tích bài thơ Nhớ Đồng - Mẫu 7

Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Đến với thơ ông, ta bắt gặp những áng thơ tràn đầy niềm tin, lý tưởng cách mạng. Tập thơ "Từ ấy" của ông tiêu biểu cho hồn thơ sục sôi, nhiệt huyết ấy, bài thơ "Nhớ đồng" là một trong những bài thơ hay nhất của tập thơ.

Bài thơ được viết trong hoàn cảnh Tố Hữu bị cầm tù nơi ngục tối. Bài thơ là tiếng lòng tha thiết và nỗi nhớ quê hương khôn nguôi của tác giả. Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ, là tiếng thơ tựa tiếng hát yêu thương, bộc lộ nỗi cô đơn, nỗi mong nhớ sâu thẳm nơi đáy lòng của người chiến sĩ cách mạng:

"Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò"

Lối so sánh hơn độc đáo của tác giả gợi lên nỗi nhớ da diết đầy xúc cảm. Không có gì thương và buồn hơn là những ngày trưa thương nhớ quê nhà. Càng nhớ lại càng cô đơn, nỗi nhớ càng rộng lớn bao nhiêu thì nỗi cô đơn lại càng ngập tràn, "hiu quạnh" bấy nhiêu. Một tiếng hò tình quê cất lên thắm thiết mang thương nhớ cồn cào hay tiếng hò ấy là tiếng lòng hiu quạnh, lạnh giá, đơn độc của nhà thơ nơi chốn tù đày đau thương. Niềm mong nhớ ấy cứ khắc khoải, chực chờ, bao hình ảnh quê hương dần hiện về trong tâm khảm. Càng nhớ càng thương lại càng buồn trĩu nặng:

"Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu luồng tre mát thuở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai sắn ngọt bùi

Đâu những đường con bước vạn đời

Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

Giữa dòng ngày tháng âm u đó

Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi"

Nơi chốn quê nhà thương yêu ấy có biết bao vẻ đẹp, bao dấu ấn mãi chẳng thể nào quên được. Đó là những gì đẹp đẽ nhất mà chỉ có ở chốn quê hương mình mà thôi, chẳng nơi đâu có thể thay thế được. Đó là hương gió nhẹ nhẹ hòa trong mùi đất lành thơm ngát, là những luồng tre xanh toả bóng mát chiều hè. Quê hương ấy còn là những cánh đồng có ô mạ xanh tươi nơi có những người dân cày một nắng hai sương lam lũ, chân chất, thật thà. Và đó còn là những ruộng nương khoai sắn ngọt bùi, là những mái nhà tranh ấm êm bình dị, tuy nghèo khó mà tấm lòng bao la, chứa chan tình người dành cho nhau. Cảm xúc theo nỗi nhớ trào dâng trong lòng, tiếng thơ mang theo biết bao tâm tình trong sâu thẳm tâm hồn. Điệp từ "Đâu" đứng ở đầu câu vừa như một câu hỏi tu từ lại vừa như đang kiếm tìm chút gì đó thân thuộc của những ngày xưa nơi quê nhà, khi mà chưa có chiến tranh, mất mát, đau thương. Đâu rồi những khung cảnh của ngày xưa, hiện tại sao thấy trống vắng mà hụt hẫng đến vậy. Đâu chỉ có cảnh vật quê hương, nỗi nhớ đó còn hướng về những con người của miền quê. Những người lao động cần cù nhẫn nại, qua bao gian khó vẫn kiên cường tranh đấu, vẫn hăng say với lao động. Nhà thơ nhắc đến họ bằng tình yêu và niềm kính trọng

"Đâu những chiều sương phủ bãi đồng

Lúa mềm xao xác ủ ven sông

Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước

Một giọng hò đưa hố não nùng."

Dù có vất vả mệt nhọc, có khó khăn chồng chất thì những người nông dân vẫn giữ vững niềm tin, lạc quan trong gian khó. Vẫn cất lên giọng hò tha thiết xua tan những âm u, não nề. Bao kỉ niệm vẫn vậy, vẫn còn đó, vẫn được giữ mãi trong kí ức của nhà thơ. Khi nỗi nhớ cứ ngày một lớn thì kỉ niệm cũng theo dòng cảm xúc ùa về trong tâm tưởng. Nỗi nhớ làm sao ai có thể ngăn được. Một lần nữa, nhà thơ phải thốt lên nghẹn ngào:

"Gì đâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên sông một tiếng hò"

Biết bao vẻ đẹp xưa hiện về khiến lòng người không khỏi khắc khoải, nhớ thương. Nhưng đâu ai có thể sống mãi với quá khứ được, hiện tại luôn là thứ khiến con người phải trăn trở, đấu tranh:

"Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ giờ xa đơn chiếc ơi!"

Thực tại sao phũ phàng quá đi thôi, chỉ có nhà thơ đang nơi đây một mình một cõi. Bao cách biệt xa xôi thấm dần vào nỗi buồn kẻ cô đơn, chiếc bóng, những điều thân thuộc, bóng mẹ già cũng xa rồi, chỉ còn lại nỗi thương nhớ cứ dằn vặt mãi không thôi. Những lời cảm thán "Chao ôi","Ôi" cất lên nghe ngậm ngùi mà thê lương quá. Ta như cảm nhận được nỗi xót xa, đắng cay hòa trong từng lời thương nhớ vậy.

Tố Hữu - một nhà thơ- một chiến sĩ cách mạng yêu quê hương đất nước mình bằng một tấm lòng thiết tha, trọn vẹn. Tâm hồn luôn hướng về nguồn cội, về dân tộc và tổ quốc thân thương, gắn bó với nhân dân, cùng nhân dân lao động. Dẫu trong ngục hiểm nguy, khó khăn vẫn hướng về cuộc sống ngoài kia với những nỗi đau của dân tộc. Không chỉ là nhân dân, là đồng quê, Tố Hữu còn tìm về mình của những ngày xưa qua nỗi nhớ:

"Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi

Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời

Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn

Muốn thoát, than ơi, bước chẳng rời."

Ai cũng có cho mình một quá khứ và Tố Hữu cũng vậy, nhà thơ nhớ về những tháng ngày đầy gian nan khi đi tìm lẽ sống, kiếm lẽ yêu đời nhưng vẫn mãi một vòng quanh quẩn, chẳng tìm đâu ra một lối thoát cho cuộc sống chính mình. Nhưng rồi, mọi chuyện cũng trôi qua và trở nên tốt đẹp hơn khi bắt gặp được lý tưởng cách mạng sáng soi:

"Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say đồng hương nắng ưa ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời"

Lòng đầy hưng phấn, nhẹ nhàng khi tìm thấy chính niềm yêu trong lựa chọn của mình. Sự phấn khởi, hăng say, tự hào và khát khao cuộc sống được cất lên như một nốt nhạc tươi vui giữa cuộc đời. Còn gì vui hơn khi được sống với chính mình, có được sự nhẹ nhàng trong tâm khảm và được là chính mình cơ chứ? Hình ảnh so sánh niềm "nhẹ nhàng" với cánh chim thật độc đáo và ấn tượng, đó phải chăng đâu chỉ là niềm vui riêng mà còn là niềm vui chung cùng với thiên nhiên, đất trời.

"Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Ôi ruộng đồng quê hương nhớ ơi!"

Bài thơ kết thúc bằng lời thơ được lặp lại đầy ắp một niềm thương, niềm khắc khoải khôn nguôi. Có lẽ, nỗi nhớ mãi vẫn sục sôi, cuộn trào trong trái tim người thì sĩ yêu nước.

8. Phân tích bài thơ Nhớ Đồng - Mẫu 8

Nếu như bài thơ Tâm tư trong tù được khơi nguồn từ những âm thanh quen thuộc bên ngoài. Khi con tu hú được hình thành từ tiếng chim tu hú báo hiệu về thì ở bài Nhớ đồng, nỗi nhớ lại được gợi lên từ điệu hò quen thuộc của quê hương.

Bài thơ phản ánh tâm trạng cô đơn, buồn nhớ của người tù trẻ tuổi bị tách biệt khỏi môi trường sôi nổi, phải tạm xa đồng bào, đồng chí thân thương. Nỗi nhớ hiện lên rất cụ thể qua nỗi nhớ xóm làng, bờ tre, gốc rạ, lưng cong xuống ruộng cày. Những nỗi nhớ cụ thể nhưng rộng ra chính là tình yêu dành cho quê hương, đất nước, những gì thân thuộc gắn bó với cuộc đời nhà thơ.

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác qua từ “sâu” thể hiện cụ thể hoá nỗi nhớ của con người. Nỗi nhớ tưởng chừng như khó đong đếm nay lại được thể hiện rõ ràng và cụ thể qua tính từ “sâu”. Những buổi trưa hiu quạnh trong nỗi buồn, khi âm thanh xung quanh đều vắng lặng thì tiếng hò từ đâu vang lên. Tiếng hò như đánh thức tâm hồn nhà thơ – người tù cách mạng. Từ đây nỗi nhớ da diết về những buổi trưa hè ngoài đồng, nơi làng quê với người, với cảnh hiện ra:

Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng tre mát thở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?

Đại từ phiếm chỉ “đâu” lặp đi lặp lại ở đầu các câu thơ diễn tả nỗi nhớ thương cồn cào của nhà thơ. Trong tù giam ngặt nghèo người tù cách mạng cố gắng tìm kiếm những thứ thân quen, bình dị đã gắn bó với ông. Nào là cồn thơm còn nhả mùi ngái của đất và cỏ, nào là bụi tre vẫn mát thở yên vui vào những ngày hè, nào là những ô mạ xanh mơn mởn, nào là những nương khoai sắn ngọt bùi… Những thứ bình dị vốn gắn bó với nhà thơ nay thật xa vời, vì khoảng cách rất lớn giữa tấm song sắt và thế giới bên ngoài.

Cũng từ đó nỗi nhớ trải dài ra suốt chiều dài của bài thơ bằng nhiều biện pháp nghệ thuật khác nhau. Những câu hỏi tu từ giống như một điệp khúc “Gì sâu bằng những trưa thương nhớ/ Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh”. Đây là những câu thơ mang đầy sắc thái hiện đại nó tô đậm nỗi nhớ thương da diết, khắc khoải cùng tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên khi bị giam sau song sắt nhà tù.

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!

Nỗi nhớ không chỉ gắn với cảnh, với những thứ bình dị, dân giã, nỗi nhớ còn cụ thể hơn, nó gắn với những người làng quê đã gắn bó với nhà thơ. Đó là những dáng hình quen thuộc, là bà, là mẹ, là cha, là anh đang cày cuốc ngoài đồng ruộng. Những dáng hình thân thương ấy nay còn đâu, nhà thơ khắc khoải tìm nó trong nỗi nhớ thương da diết “Đâu dáng hình quen thuộc, đâu cả rồi” hai lần đại từ đâu xuất hiện trong một câu thơ càng làm cho nỗi nhớ thương, sự mong ngóng, tìm kiếm nhân lên gấp bội.

Thế giới bên ngoài nhà tù sôi động là thế, soi lại hoàn cảnh của mình là một tiếng thở dài ngao ngán “Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời” vì thế người chiến sĩ cách mạng thầm ao ước:

Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời…

Dẫu chỉ là những ước vọng xa xôi nhưng đó là tất cả khát khao được hòa nhập vào cuộc đời. Được sống trọn vẹn với đam mê của mình.

Bài thơ đã diễn tả thành công tâm trạng của người tù cộng sản. Những nỗi nhớ đầy khát khao và cháy bỏng cứ trở đi trở lại cho thấy tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ. Đồng thời cũng là nhiệt huyết cách mạng cháy bỏng, luôn khát khao được cống hiến trọn vẹn cho dân tộc.

9. Phân tích bài thơ Nhớ Đồng - Mẫu 9

Từ ấy được xem như những trái ngọt đầu tiên mà Tố Hữu đã gặt hái được để dâng cho đời. Đến với tập thơ này, chúng ta không chỉ bắt gặp một thanh niên yêu cách mạng, say mê lý tưởng mà còn thấy được hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng đang sống và chiến đấu. Vì vậy, Từ ấy không chỉ có những bài thơ tràn đầy cảm xúc say mê lý tưởng, mà còn có những bài ghi lại những chặng đường chiến đấu, bị tù đày gian khổ, trong số đó không thể không nhắc đến bài thơ Nhớ đồng. Bài thơ được Tố Hữu viết vào tháng 7 năm 1939, bốn tháng sau khi ông bị mật thám bắt và cầm tù. Toàn bài thơ là nỗi nhớ tha thiết, sâu lắng. Mở đầu bài thơ là lời nói so sánh được nhà thơ nêu ra để xác định tâm thế cô đơn của chính mình:

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

Nhà thơ như tự hỏi lòng mình để rồi tự khẳng định tâm trạng cô đơn, quạnh vắng và cồn cào nhớ thương. Câu thơ như một tiếng thở dài buồn đến da diết, làm chúng ta nhớ đến hình ảnh của người chiến sĩ cộng sản lần đầu tiên bị ném vào tù trong bài Tâm tư trong tù. Đến đây, ta không chỉ cảm nhận sự cô đơn mà còn thấy cái buồn tê tái, cái hiu quạnh đến lạnh lẽo, và sự thương nhớ như đang vò xé gan ruột. Sau hai câu thơ đầu mở ra như lời bộc bạch tâm sự, nhà thơ lần lượt cho ta thấy rõ nỗi nhớ nhung trong tâm hồn người cách mạng:

Đâu gió còn thơm đất nhả mùi

Đâu luồng tre mát thưở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai sắn ngọt bùi

Đâu những đường con bước vạn đời

Xóm nhà tranh thấp ngủ im lìm

Giữa dòng ngày tháng âm u đó

Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi…

Không gian của bài thơ như được trải rộng ra. Đó chính là không gian của quê hương yêu dấu, nơi có mùi đất quá quen thuộc, nơi có bóng tre mát rượi, những ô mạ xanh mơn mởn, nơi trải dài nương khoai, nương sắn và cả những mái tranh thấp bình dị. Không gian được trải rộng ra phải chăng cũng chính là sự trải rộng của nỗi nhớ trong lòng nhà thơ. Đáng lưu ý là trước mỗi cảnh vật quen thuộc như vậy là từ "đâu" dùng để hỏi. Tuy nhiên, ở đây nhà thơ không chỉ đơn thuần là sự tìm kiếm, hỏi vị trí mà chính là đang tự hỏi lòng mình, lục lại trong trí nhớ những gì đã xa, đã mất. "Đâu" gợi lên trong chúng ta sự mất mát trống vắng. Từ "đâu" được Tố Hữu lặp lại năm lần liên tiếp làm cho nỗi nhớ như càng được nhân lên dồn dập, làm cho sự trống vắng mất mát hụt hẫng trong lòng nhà thơ nhân lên đến xót xa. Vì vậy, có thể nói "đâu" đã trở thành tiếng gợi nhớ thương đến cồn cào da diết. Và nỗi thương nhớ hiu quạnh ấy như được trải dài ra bởi:

Giữa dòng ngày tháng âm u đó

Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi…

Hai khổ thơ trên đã khái quát một cách sâu sắc nỗi nhớ quê hương đồng ruộng. Nỗi nhớ ấy dâng lên và thốt ra nghẹn ngào thấm thía:

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

Vẫn là cách nói so sánh diễn tả sự vắng vẻ cô đơn. "Ôi" và "nhớ ơi" xuất hiện trong cùng một câu thơ làm cho nỗi nhớ quê càng trở nên da diết hơn bao giờ hết. Nhớ đến ruộng đồng quê hương, nhà thơ đồng thời hướng nỗi nhớ của mình đến con người. Đây là những con người lao động gần gũi đang lưng cong xuống luống cày, vãi giống tung trời. Nhưng tất cả cũng chỉ là trong tiềm thức, chỉ còn là nỗi nhớ. Và giờ này cảnh vật và con người cũng hiện lên đầy buồn nhớ như chính tâm trạng của nhà thơ:

Đâu những chiều sương phủ bãi đồng

Lúc mềm xao xác ủ ven sông

Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước

Một giọng hò đưa hớt não nùng.

Tất cả hình ảnh con người hiện lên trong tâm trí nhà thơ càng làm cho nỗi nhớ về cuộc sống thêm da diết. Tất cả đã xa rồi, đối diện với nhà thơ lúc này chỉ là kỷ niệm, những kỷ niệm đang cào xé chỉ có thể mơ tới, không thể với tới được. Và một lần nữa nhà thơ đã phải thốt lên:

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò.

Câu thơ được điệp lại làm cho nỗi nhớ thương, sự cô đơn trong lòng nhà thơ càng tăng lên. Và tất cả kỷ niệm như vụt biến, nhà thơ trở lại với thực tại phũ phàng và nhận ra:

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ giờ xa đơn chiếc ơi!

Đây là tiếng gọi của sự nhớ thương, là tiếng nói xót xa cho hoàn cảnh bị giam cầm. Người chiến sĩ cách mạng chợt nhận ra thực tại sao mà cách biệt quá xa xôi. Cũng bởi lẽ thế mà nỗi nhớ lại cồn cào thêm. Chỉ trong một câu thơ thôi mà thương nhớ được điệp tới hai lần. Từ "chao" càng làm cho nỗi nhớ ấy trở nên da diết xót xa hơn. Qua nỗi nhớ quê hương, con người chúng ta không chỉ thấy hiện lên hình ảnh một người chiến sĩ cách mạng đang cô đơn trong ngục tù mà còn cho ta thấy tấm lòng yêu quê hương, sự gắn bó của người chiến sĩ với quần chúng nhân dân lao động, luôn luôn hướng tới cuộc sống bên ngoài. Đó cũng là những nét rất cơ bản và quen thuộc về hình ảnh người chiến sĩ cộng sản bị tù đày trong thơ Tố Hữu. Sau những khoảnh khắc thương nhớ, nhà thơ chợt nhìn và nhớ về chính bản thân mình. Các khổ cuối của bài thơ sẽ cho ta thấy rõ sự nhận thức ấy. Trước hết là nhớ về bản thân mình:

Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi

Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời

Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn

Muốn thoát, than ơi, bước chẳng rời.

Vẫn là sự lục tìm trong trí nhớ, song đã có sự nhận thức rất rõ ràng về những ngày xưa. Nhà thơ nhớ lại những ngày bế tắc, những ngày băn khoăn kiếm tìm lẽ sống. Đấy chính là những ngày nhà thơ chưa bắt gặp lý tưởng cộng sản. Những từ ngữ như: "vẩn vơ", "băn khoăn", "quanh quẩn" đã diễn tả một cách chính xác sự bế tắc trong con người nhà thơ lúc này. Ba tiếng "tôi nhớ tôi" vang lên như một sự nhận thức thấm thía, buồn cho cuộc sống theo mãi vòng quanh quẩn, muốn thoát nhưng chẳng thể bước nổi. Khổ thơ tiếp theo chuyển sang một giọng điệu hoàn toàn khác đầy say sưa hưng phấn:

Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say đồng hương nắng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời

Nhà thơ nhớ lại ngày "tôi thấy tôi" nghĩa là ngày tự soi vào lòng mình, tự thấy mình đã trưởng thành, thấy lẽ yêu đời. Lúc này là lúc nhà thơ cảm thấy hạnh phúc. Niềm hạnh phúc ấy được tác giả ví với hình ảnh của con chim cà lơi nhẹ nhàng tung bay trên bầu trời. Đây là một hình ảnh so sánh hết sức độc đáo. Niềm vui, niềm hạnh phúc ấy được Tố Hữu diễn tả một cách tinh tế bằng các từ "say đồng", "vui ca hát", "bát ngát trời". Đặc biệt với câu thơ "nhẹ nhàng như con chim cà lơi", Tố Hữu dùng tới sáu thanh bằng, vì vậy đã diễn tả được cái phơi phới trong tâm hồn nhà thơ — một tâm hồn say mê lý tưởng. Trở về với thực tại, nhà thơ lại đầy ắp tâm trạng:

Cho tới chừ đây, tới chừ đây

Tôi mơ qua cửa khám bao ngày.

Tôi thu tất cả trong thầm lặng

Như cánh chim buồn nhớ gió mây

Nhà thơ mơ, mơ về cuộc sống bên ngoài, mơ được thoát ra ngoài cửa khám bao ngày. Giờ đây, chỉ còn lại trong thầm lặng, chỉ còn mình ta với ta. Và tất cả nỗi buồn ấy làm cho Tố Hữu có cảm giác mình như một cánh chim buồn đơn lẻ. Chính sự tương phản giữa khổ thơ trước và khổ thơ này đã cho chúng ta cảm nhận sâu sắc được tâm trạng của nhà thơ. Trong nhà tù ngột ngạt, tù túng, đối với một người chiến sĩ cách mạng thì việc thèm muốn được sống với lý tưởng là điều dễ hiểu.

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng mơ buồn trong vắt lòng ta

Như tiếng một dòng sông lặng lẽ

Êm đềm theo ánh sáng chiếu qua.

"Tôi nhớ những ngày thu đã xa", nhà thơ tự hỏi mình và nhớ lại những ngày thu xa xôi. "Sáng mơ buồn" là những ngày mới tham gia cách mạng với những giấc mơ trong sáng của tuổi trẻ. Hình ảnh "tiếng một dòng sông lặng lẽ" gợi lên trong lòng người đọc bao cảm giác. Đấy chính là tiếng lòng của nhà thơ, là dòng nước trong vắt dịu êm lặng lẽ trong lòng người chiến sĩ. Và cái ánh sáng chiếu qua chính là ánh sáng của lý tưởng mà nhà thơ đang hướng tới. Nhà thơ tự soi lại mình và nhận ra rằng:

Tôi nhớ tôi xưa: đôi mắt sáng

Đường đời, yêu ghét, nỗi không tên

Tâm hồn rộn rã buồn vui lẫn

Lượn đẹp như sao, đậm sáng thêm.

Ngày xưa khi chưa bị tù đày là lúc nhà thơ mang trong mình bao tình cảm dạt dào, sôi nổi. Câu thơ với hình ảnh so sánh độc đáo cho ta thấy tuổi trẻ của nhà thơ đầy nhiệt huyết, yêu đời và trong sáng. "Lượn đẹp như sao đậm sáng thêm" là hình ảnh về lý tưởng của nhà thơ.

Tôi nhớ những ngày niềm vui lớn

Rộn rã lòng ta thuở một phen

Mở cửa đón ánh vàng thơm ngát

Tung trời ta sống với thanh niên.

Niềm vui lớn ấy chính là niềm vui khi nhà thơ đến với lý tưởng cách mạng. Hình ảnh "mở cửa đón ánh vàng thơm ngát" diễn tả niềm vui của người thanh niên như mở ra cả một chân trời mới, tràn đầy ánh sáng của lý tưởng. Đối với một người chiến sĩ cách mạng thì lý tưởng trở thành một phần không thể thiếu của cuộc đời. Vì vậy, lúc này nhà thơ lại càng thấm thía hơn về sự mất mát khi bị giam cầm:

Mà nay ôi lạnh trong tù ngục

Ánh vàng thơm ngát đọng ngoài song

Rực rỡ ánh hồng tươi cửa sổ

Mà nghe đau xót cả lòng son.

Khổ thơ cuối cùng của bài thơ "Nhớ đồng" chính là sự khẳng định lại thực tại của nhà thơ. Từ không gian rực rỡ ánh vàng thơm ngát ở khổ thơ trước, trở về với không gian tù ngục tối tăm đầy đau xót. Cái không gian tối tăm lạnh lẽo ấy tương phản gay gắt với không gian ngoài cửa sổ càng làm cho lòng nhà thơ trở nên đau xót. Với nghệ thuật tương phản, Tố Hữu đã diễn tả một cách tinh tế tâm trạng của người chiến sĩ cộng sản bị tù đày. Đó là tâm trạng của những người khát khao lý tưởng sống, luôn hướng tới ánh sáng của tự do và lý tưởng. Vì vậy, hiện tại của nhà thơ càng đau xót hơn. Như vậy, "Nhớ đồng" đã khắc họa sâu sắc hình ảnh người chiến sĩ cộng sản luôn mang trong mình nỗi nhớ về quê hương, về cuộc sống và khát khao được trở về với lý tưởng cách mạng. Qua bài thơ, ta thấy được tâm hồn và tình cảm của Tố Hữu — một người chiến sĩ cách mạng trung kiên, luôn hướng tới tương lai tươi sáng của dân tộc.

III. Audio Phân tích Nhớ Đồng - Tố Hữu

IV. Video Phân tích Nhớ Đồng - Tố Hữu

Mời bạn đọc cùng tải về bản PDF để xem đầy đủ nội dung nhé

Chia sẻ, đánh giá bài viết
6
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức

    Xem thêm