Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Phân tích tác phẩm Chí Phèo
- I. Dàn ý Phân tích tác phẩm Chí Phèo
- II. Văn mẫu Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
- Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 1
- Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 2
- Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 3
- Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 4
- Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 5
- Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 6
- Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 7
- Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 8
- Audio Phân tích tác phẩm Chí Phèo
- Video Phân tích tác phẩm Chí Phèo
Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao được VnDoc.com sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết.
I. Dàn ý Phân tích tác phẩm Chí Phèo
a. Mở bài
- Giới thiệu tác phẩm Chí Phèo và nhà văn Nam Cao.
- Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích.
b. Thân bài
- Khái quát chung
- Xuất xứ: Nam cao đặt tên cho tác phẩm này là Cái lò gạch cũ, 1941 đổi lại là Đôi lứa xứng đôi, 1945 sửa lại là Chí Phèo, in trong tập Luống cày.
- Tóm tắt:
- Đề tài và ý nghĩa nhan đề
- Đề tài: Viết về người nông dân nghèo trước CMT8.
- Nhan đề:
- Nhan đề đầu tiên: Cái lò gạch cũ (nhan đề giản dị, có ý nghĩa, nơi lần đầu tiên phát hiện ra Chí, nơi Chí bị bỏ rơi, qui luật hiện tượng Chí Phèo...).
- Nhan đề thứ hai: Đôi lứa xứng đôi khi in thành sách lần đầu (NXB Đời mới, Hà Nội, 1941), nhà xuất bản tự ý đổi tên là Đôi lứa xứng đôi, chủ yếu tạo sự tò mò và làm cho sách bán chạy.
- Nhan đề thứ ba: Chí Phèo do chính Nam Cao thay đổi khi in truyện ngắn này vào tập Luống Cày năm 1946. Ông lấy tên nhân vật trung tâm để đặt tên truyện.
- Chủ đề: Qua số phận của nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã lên án sâu sắc xã hội tàn bạo, chà đạp lên nhân phẩm con người đồng thời thể hiện tình thương yêu sâu sắc và niềm tin vào bản chất lương thiện của con người.
- Phân tích
Nhân vật Chí Phèo
+ Quá trình tha hóa trước khi gặp Thị Nở
Trước khi vào tù:
- Là con người bất hạnh: “... trần truồng và xám ngắt.. bên cái lò gạch bỏ không, người làng nuôi, bị Bá Kiến ghen đẩy vào tù...”
- Là con người lương thiện: Hắn cảm thấy nhục khi bà ba kêu hắn bóp chân, mà cứ bóp lên trên nữa, hắn từng ao ước “... ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải...”
Sau khi ra tù:
- Biến dạng nhân hình: “... cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen cơng cơng, hai mắt gườm gườm, cái ngực phanh đầy nét chạm trỗ...”
- Biến dạng nhân tính: uống rượu say khướt, đánh nhau, rạch mặt ăn vạ, làm tan nát biết bao nhiêu gia đình...
- --> Chính nhà tù thực dân phong kiến là nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa về nhân hình lẫn nhân tính của Chí Phèo
Ý nghĩa tiếng chửi Chí Phèo:
- Về nội dung: Khao khát muốn giao tiếp với mọi người nhưng bị xã hội cự tuyệt.
- Về nghệ thuật: Tạo tâm thế tò mò cho người tiếp nhận.
- → Là con người lương thiện bị xã hội tha hóa thành quỷ dữ, bị loại ra khỏi xã hội con người.
+ Qúa trình muốn trở thành người lương thiện sau khi gặp Thị Nở
Thức tỉnh lương tâm
- Đến với Thị Nở bằng bản năng: ăn nằm với nhau... ngủ say dưới trăng.
- Nhớ lại quá khứ: “hắn ao ước có một gia đình nhỏ.
- Ý thức được hoàn cảnh bản thân: “... già mà vẫn còn cô độc, cái dốc bên kia của đời...”
- Phục thiện: “... muốn làm hòa với mọi người”.
- → Từ quỷ dữ, thức tỉnh lương tâm thành người lương thiện.
Ý nghĩa bát cháo hành
- Thể hiện tình thương của Thị Nở dành cho Chí Phèo.
- Là ngọn lửa nhen nhóm cho tính thiện bị vùi tắt bấy lâu nay trong con người Chí. Giúp Chí quay trở về con đường hoàn lương.
- Tình cảm nhân đạo của nhà văn.
- Thể hiện tài năng miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao.
Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở thành người lương thiện.
- Bà cô Thị Nở ngăn cản mối tình Chí-Thị: “... ai lại đi lấy thằng Chí Phèo...”
- Đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện: đâm Bá Kiến rồi tự sát.
- Định kiến xã hội đối với Chí Phèo: “Thằng nào chứ thằng ấy chết thì không ai tiếc... tre già măng mọc, thằng ấy chết còn thằng khác...”
Hình tượng nhân vật Bá Kiến
- Tàn bạo, quỷ quyệt, lọc lõi.
- Chính sách thống trị: mềm nắn rắn buông, dùng thằng đầu bò trị thằng đầu bò, nắm thằng có tóc chứ ai nắm thằng trọc đầu..
- Nhân cách ti tiện, bỉ ổi, dâm đãng, ghen tuông, độc ác.
- --> Điển hình cho loại địa chủ cường hào ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng.
Những đặc sắc nghệ thuật tác phẩm
- Ngôi kể: Ngôi thứ ba đảm bảo tính khách quan, tạo cảm giác chân thật của câu chuyện.
- Cấu trúc đối thoại làm cho tác phẩm có cái nhìn đa giọng điệu, đa điểm nhìn.
- Giọng điệu: đa giọng điệu.
Đối lập, tương phản giữa các kiểu người, các tính cách sống. - Xây dựng nhân vật điển hình.
- Kết cấu truyện: kết cấu vòng tròn, hiện tượng Chí Phèo tiếp tục được lặp lại ở làng Vũ Đại
c. Kết bài
- Nêu nhận xét, đánh giá chung về truyện ngắn Chí Phèo
- Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân
II. Văn mẫu Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 1
“Nền đất ẩm, chiếu manh, trang giấy trắng
Anh khai sinh bao nhân vật cho đời
Nên anh chết như chuyến đi dài hạn
Bởi họ thay anh có mặt giữa muôn người”
(Trần Canh)
Quả thực, giữa những ngã rẽ nhộn nhịp của “nghệ thuật” và “cuộc đời”, nhà văn hiện thực luôn là người dẫn dắt người đọc dấn thân vào một cuộc đời đau khổ, những vòng lặp luẩn quẩn bế tắc mà ẩn chứa bề sâu khôn cùng và mở ra những suy tư, trăn trở mới. Đến với Nam Cao, ta đượ chứng kiến tấn bi kịch đau thương tha hóa tính người trong xã hội cũ qua tác phẩm “Chí Phèo”.
Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, mới mẻ, vừa độc đáo. Ông chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Trong đó, “Chí Phèo” là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam hiện đại được ông viết vào năm 1941.
Mở đầu cho tác phẩm, tiếng chửi của Chí Phèo đã để lại ấn tượng sâu sắc về hình ảnh một kẻ say rượu, đang “vừa đi vừa chửi”. Chí chửi trời, trời cao quá không sao nghe được, Chí chửi đời, đời rộng quá bao la quá và cũng “chẳng là ai” và rồi Chí chửi ngay cả làng Vũ Đại nhưng chẳng ai trả lời vì họ nghĩ “chắc nó trừ mình ra”. Có lẽ với Chí Phèo, điều duy nhất mà Chí có thể đối thoại với cuộc đời là tiếng chửi. Và rồi, Chí lại cất tiếng chửi, “chửi đứa chết mẹ nào không chửi nhau với hắn”. Nhưng một lần nữa, thứ Chí nhận lại được chỉ là sự im lặng, sự thờ ơ đến rợn người. Chí chửi người có lẽ chỉ là cách để hắn thu hút sự chú ý, để được “làm hòa”, được giao tiếp, trò chuyện cùng mọi người. Đau đớn tột cùng là khi hắn cứ chửi “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn”. Chí bấy giờ chỉ là một cái bóng, một kẻ tha hóa trong lòng người dân Vũ Đại, là một con quỷ dữ bên lề xã hội. Người dân trong làng không công nhận Chí là một con người, dù chỉ là người dưới đáy xã hội. Cuộc đời yên lặng, lòng người lạnh lùng để lại một Chí Phèo với một khoảng không gian cô độc và sự cô đơn tuyệt đối, một con quỷ dữ “mồ côi” thiếu tình thương từ nhỏ và lớn lên không được làm người.
Trước kia, Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Chí sinh ra là một đứa con hoang, bị bỏ rơi nơi lò gạch cũ khi vừa mới lọt lòng, được người làng truyền tay nhau nuôi, đến khi hắn đi ở cho Bá Kiến. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được cho là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm dục đáng khinh bỉ, nhục nhã. Nhưng Chí đã bị quật ngã ngay lúc Bá Kiến đẩy anh vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa và vô lý, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó.
Khi Chí ra tù, chàng trai hiền lành, lương thiện mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến tha hóa dị dạng. Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm”. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người của Chí Phèo. Hắn trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ, hắn phá tan đi bao nhiêu gia đình ở làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ mặt gớm ghiếc và hành động tàn bạo. Tính Người trong Chí dường như đã cạn kiệt, linh hồn ác quỷ xâm chiếm và tàn phá anh nông dân hiền lành năm nào.
Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi “cố tìm mà hiểu” chất “Người” trong tâm hồn của một kẻ mà phần “Con” đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại.
Đêm hôm ấy, Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng trong trạng thái cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ, “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”. Chí Phèo đã xông tới người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn” mà không chút đắn đo. Đêm hôm ấy, hành động của Chí chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu. Nhưng thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở trở thành nguồn sáng ấm áp chiếu rọi vào trái tim của Chí Phèo, thắp lên ngọn lửa, khao khát được hoàn lương, được trở về với thế giới loài người của Chí.
Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cá... Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi là buồn!. Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo bị cảm. Bát cháo hành của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn. Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà “lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Và cũng là người đàn bà độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí Phèo ăn cháo hành rồi thét lên: “Ôi sao mà hắn hiền…”. Chỉ có thị Nở mới cảm nhận được: “hắn cười nghe thật hiền…” Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ gần nghĩ xa. Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy! Việc Thị Nở chăm sóc cho Chí khi bị cảm gió ngoài vườn, thực ra, chỉ là cử chỉ của một lòng tốt bình thường của một con người dành cho một con người. Nhưng trong cái thế giới ngày càng vô tình, tha hóa của làng Vũ Đại, đây là lòng tốt hiếm hoi duy nhất mà Chí nhận được kể từ ngày về làng. Vì thế nó quý giá, nó mới làm cảm động Chí Phèo sâu xa đến thế. Quả thật, cái mà nhân loại thiếu không phải một lòng tốt xa vời và hư ảo của một ông thánh, cũng không phải lòng tốt suông của những nhà lập thuyết viển vông: “Cái mà nhân loại thiếu, đó là một lòng tốt bình thường”, lời nói đó đã luôn vang lên như một điệp khúc khắc khoải trong tác phẩm của Rơmác. Đó là một cái nhìn sâu sắc với tấm lòng xót thương đầy tình người của Nam Cao đối với con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi.
Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. “Vẻ đẹp không nằm ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà ở trong mắt của kẻ si tình”. Người phụ nữ ấy xấu ma chê quỷ hờn đấy nhưng Chí “say thị lắm!”. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Câu nói ấy đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người… thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh! Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.
Ngô Văn Giá đã từng nhận xét thị Nở là “ một khối không đồng nhất giữa các mặt của một tính cách”, thị vừa hồn nhiên, giàu tình cảm lại vừa mong manh dễ vỡ, dễ đổi thay. Và bị kịch lại một lần nữa xuất hiện, con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến thị Nở, bà thấy cháu bà "sao mà đĩ thế?”. Bà quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng làm sao trách được khi mọi người làng Vũ Đại lâu nay nhìn Chí chẳng khác nào con quỷ mang hình người. Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn “ngẩn người” khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn đuổi theo “nắm lấy tay” Thị nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”. Ấy là lần duy nhất hắn níu kéo một mối quan hệ người cũng là giây phút thảng thốt, chới với của một sinh linh đáng thương biết mình đã bị ruồng bỏ. Kẻ không nhận ra nỗi đau của mình sẽ không thể cảm thấy đau được, nhưng Chí Phèo đã không còn say nữa, cho dù uống rượu thì hắn “càng uống càng tỉnh”, lương tri đã tìm về và hắn đủ tỉnh táo để nhận ra bi kịch của mình. Ấy là lần duy nhất hắn níu kéo một mối quan hệ người cũng là giây phút thảng thốt, chới với của một sinh linh đáng thương biết mình đã bị ruồng bỏ.
Như Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ ngoài kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Giờ đây, nỗi đau tột cùng của Chí như vang vọng khắp câu chữ. Nó đã chuyển hóa thành sự căm phẫn tột độ. Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt khoát cự tuyệt. Rồi “hắn ôm mặt rưng rức” cho đến khi đã say mềm người rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng với câu nói lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó”. Có lẽ, hắn đã biết kẻ thù của hắn đang ở đâu, kẻ đã gây ra bi kịch cho cuộc đời hắn, khiến hắn phải bán đi linh hồn của mình để rồi suốt đời quẩn quanh, bế tắc trong vòng tội lỗi. Đó chính là Bá Kiến - ngọn nguồn của mọi tội lỗi trong cuộc đời Chí.
Nam Cao cũng giống như Ngô Tất Tố đã thấy trước cái không khí không yên ổn ở nông thôn ta lúc bấy giờ. Đó là mối xung đột giai cấp giữa nông dân và tầng lớp thống trị, giai cấp địa chủ độc ác, khôn lỏi như Bá Kiến tuy im ỉm ngấm ngầm nhưng thực chất có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Và cái chết của Bá Kiến chính là một minh chứng rõ ràng cho mối xung đột lên tới đỉnh điểm. Chính vào buổi trưa “trời nắng, đường vắng” ấy, Chí Phèo lần thứ ba đến gặp Bá Kiến “không đòi tiền” như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền “làm người lương thiện!”. Câu nói của Chí Phèo: “… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!…” đó là những lời đanh thép vạch mặt, kết án tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo “văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng Vũ Đại đã làm hại đời anh. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thì làm quỷ dữ, sống như thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mặt anh.
Đó là khi nào xã hội còn tồn tại cường quyền bạo ngược thì cuộc sống của người nông dân vẫn mãi không thể ngóc đầu lên được. Người dân làng cứ bàn tán xôn xao mà chẳng biết nguyên nhân Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự tử, họ cũng chẳng ngờ rằng vẫn còn những thế lực như Bá Kiến tồn tại ngất ngưởng ở trên đời. Thế cho nên cuộc sống của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám thực sự mãi là một vòng bi kịch lẩn quẩn trong ao tù bế tắc.
“Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm”. Chi tiết cuối cùng của tác phẩm lại là hình ảnh “cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại...” là một ám ảnh về nỗi buồn nhân sinh của Nam Cao. Nơi đó, thằng bé Chí đã từng bị vứt vào đời, bị cuộc đời chối bỏ. Cái lò gạch cũ là chứng tích của bao số phận bất hạnh, như là bản cáo trạng về một xã hội thù địch với những khát vọng làm người lương thiện, không thừa nhận tình người tình yêu vượt qua khuôn phép. Nam Cao đã kết thúc tác phẩm bằng nỗi buồn dằng dặc của những kiếp người mà ngay lúc ra đời đã là một sự vô nghĩa lý. “Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” (Nguyễn Đăng Mạnh).
Tác phẩm “Chí Phèo” mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ. “Chí Phèo” còn là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh. Hãy bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện. Họ phải được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ cùng khốn, bế tắc, đầy bi kịch xót xa. “Chí Phèo” là một tác phẩm văn học chân chính như trong quan niệm của Nam Cao: “Tác phẩm văn học có giá trị là tác phẩm phải thể hiện nỗi đau của con người, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình, nó làm cho người gần người hơn”.
Nam Cao đã thể hiện ngòi bút tài tình của mình qua nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình như Bá Kiến, Chí Phèo, vừa tiêu biểu cho những loại người có bề dày trong xã hội, vừa là những cá tính độc đáo và có sức sống mạnh mẽ. Tâm lí nhân vật được miêu tả thật tinh tế sắc sảo, tác giả có khả năng đi sâu vào nội tâm để diễn tả những diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật. Bên cạnh đó, ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ tác giả, có khi vừa là ngôn ngữ nhân vật. Tác giả như nhập vai vào từng nhân vật, chuyển từ vai này sang vai khác một cách linh hoạt, tự nhiên.
Lev Tolstoy đã từng thắc mắc: “ Khi một nhà văn mới xuất hiện, chúng ta bao giờ cũng tự hỏi: Anh ta là người như thế nào? Liệu anh ta có mang lại điều gì mới trong cách nhìn đời của chúng ta?” Và câu trả lời đã được phơi bày khi Nam Cao xuất hiện trong giới văn học. Qua tác phẩm Chí Phèo, Nam CAo đã đem lại cái nhìn mới mẻ cũng những dư âm khó phai trong lòng người đọc. Trong tâm niệm còn nguyên vị đắng của cuộc đời quẫn bách, ta vẫn tìm thấy ở Nam Cao niềm tin và tình yêu thương của ông dành cho người nông dân cùng khổ nơi Chí Phèo. Hắn như sống mãi trong những trang sách, trong vị đắng chát của cuộc đời nghiệp ngã và trong trái tim luôn thổn thức của người đọc, thắp lên trong tim ta ngọn hải đăng sáng lòa giữa mịt mùng biển khơi để soi lối cho ta tìm về với cõi trong trẻo, hồn hậu, thẳm sâu của lương thiện.
Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 2
Nam Cao được biết đến là một cây bút tài hoa trên diễn đàn văn học Việt Nam, những tác phẩm ra đời mang màu sắc hiện thực sâu sắc. Những tác phẩm của ông mang cái nhìn về thời đại và cuộc sống hoàn toàn mới,cũng như hình ảnh trong các tác phẩm cũng đa dạng và phong phú,mang những mảng tính cách mà sự pha trộn sáng tối lại như được tương phản rõ rệt. Chí Phèo là một tác phẩm điển hình khi nhắc tới Nam Cao. Đây là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao, câu chuyện cũng gợi một những ý nghĩa nhân văn sâu sắc
Tác phẩm mở đầu thật đặc sắc và đầy ấn tượng với tiếng vừa đi vừa chửi của Chí Phèo, và xung quanh hắn chỉ có mấy con chó đứng chầu chực sủa. Ngoài mấy con chó, không có ai đáp lời hắn. Mở đầu truyện ngắn rất đỗi tài tình và tự nhiên, giống như chúng ta đang chứng kiến khung cảnh ấy vậy. Những âm thanh hay cụ thể là những tiếng chửi của Chí Phèo lại làm cho mọi thứ trở nên sống động,mọi hình ảnh như mở ra trước mắt.Có thể nói hình ảnh Chí say rượu, vừa đi vừa chửi,chửi những gì mà hắn thấy. Có lẽ, dường như mọi người ở cái làng Vũ Đại đã quen với hình ảnh này của nó, cho nên cứ khi nào hắn chửi mọi người cũng chẳng để ý và nghĩ rằng:” chắc hắn trừ mình ra”. Tới đây ắt hẳn mọi người lại ngạc nhiên tại sao hắn lại có hành động như vậy, theo thông thường người ta chửi bới khi uất ức một chuyện gì hay quá áp lực. Quả là như vậy,hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch bỏ hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Lí Kiến. Vì ghen tuông với sự trẻ trung lực lưỡng của hắn và vì bà Ba để ý tới hắn, nên Bá Kiến tìm cách bỏ tù hắn, để hắn không thể xuất hiện nữa. Như có một sự vô cớ, Chí Phèo vốn dĩ là một người lương thiện, nghèo đói nên đi ở, nhưng trong xã hội đó,ai có tiền có quyền người đó được làm mọi thứ, và cứ thế từ một con người lương thiện, Chí dần bị đẩy vào con đường tha hóa và lưu manh hóa.
Sau khi được thả tù, bộ dạng Chí thay đỏi hẳn,với cái đầu cạo trọc và hàm răng trắng hếu, trên mặt hiện lên vết sẹo dài. Trông hắn chẳng khác gì một con quỷ, quỷ đội lốt trong hình hài của một con người. Và người hắn tìm đến đầu tiên không ai khác chính là Bá Kiến.Khi biết Chí đứng trước nhà mình vừa say vừa ăn vạ, Lí Cường ra mắng hắn,nhưng ngay sau đó,Chí Phèo đã rạch mặt, những vết máu trên khuôn mặt đầy sẹo dọc ngang nằm trước cổng nhà Bá Kiến dưới nhiều con mặt dò xét của người dân nơi đây.Khác với Lí Cường, Bá Kiến là người khôn khéo,khi thấy hình ảnh đó,quay sang Lí Cường mắng sa sả như tỏ ra nhượng bộ, rồi đỡ Chí Phèo dậy. Hắn biết tên Chí Phèo luôn luôn ưa nhẹ,lại thích được mềm mỏng nên sau đó hắn đã mời Chí vào nhà và cho ăn uống hậu hĩnh. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ờ tù lần nữa vì Chí cho rằng đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm dùi cũng không có mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dùng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ,có vườn cho Chí. Sau khi Chí đã hoàn thành công việc được giao, Bá Kiến cho vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Bắt đầu từ lúc này Chí bõng nhiên trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng không cùng vây cánh.
Dường như cuộc sống và con người của Chí Phèo lúc này đây đã thực sự thay đổi khi một lần trong lúc uống say ,hắn trở về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị Nở được khắc họa là người nghèo rót mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đần trong cổ tích và Họ đã ăn nằm với nhau và thứ tình cảm đó đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm một người bình thường trong Chí. Có lẽ hình ảnh bát cháo hành của Thị như liều thuốc tiên đánh thức con người lương thiện luôn giấu kín trong một bộ dạng quỷ dữ của hắn. Cái mùi cháo hành thơm kia như đã bốc lên và cử chỉ quan tâm của Thị đã khiến chí bùi ngùi và chợt nhận ra, anh muốn có một gia đình, với vợ dệt vải chồng đi làm, cứ thế cuộc sống êm đềm trôi qua. Nhưng, dường như niềm vui sướng chưa được bao lâu thì người bà cô đã khuyên Thị không nên ở với hắn,rồi Thị cũng là người duy nhất quay lưng lại với hắn thì cuối cùng cũng bỏ đi. Chiếc thang bắc cầu cho lòng lương thiện của Chí được sang bến bờ được sống như một người bình thường giờ đây hắn cũng không còn nữa. Chính vì thế,mà Chí Phèo đã mang dao tới nhà bá Kiến kết thúc đời bá Kiến và sau đó cũng tự sát, hắn không còn một lựa chọn nào khác.khi nghe được tin này, nhiều người tỏ ra hả hê, còn riêng Thị Nở lại nhìn xuống bụng và nghĩ tới cái lò gạch bỏ hoang không người qua lại.
“Chí Phèo” là một trong những truyện ngắn đặc sắc mà dường như dung lượng hiên thực được phản ánh trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, và tình huống khác nhau…tác phẩm như mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Chúng ta có thể dễ nhận thấy và phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện, có thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích-từng mối quan hệ giữa nhân vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp (Bá Kiến, thị Nở). Dù là theo cách nào đi chăng nữa thì tất cả đều làm nổi bật nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện.
Dường như hình ảnh làng Vũ Đại được ví như một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng ,hiện thực cuộc sống được khơi ra từ những tình huống truyện đặc sắc và những chi tiết nhỏ nhất nhưng khiến độc giả không thể bỏ qua. Truyện ngắn “Chí Phèo” mở đầu và kết thúc theo kết cấu vòng, khi mở đầu truyện với hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang thì kết thúc truyện cũng như vậy, đó là chi tiết khi biết chí phèo tự sát, Thị Nở bỗng đã nhìn ngay xuống bụng mình và lại nghĩ ngay tới hình ảnh cái lò gạch, không biết một cuộc sống sẽ bắt đầu như thế nào, kết thúc mở khiến cho độc giả có nhiều liên tưởng thú vị. Ngôn ngữ trong tác phẩm là một điều không thể bỏ qua, lời trần thuật được xáo trộn, lắp ghép, đan xen không luân theo trình tự tuyến tính của.cốt truyện. Nam Cao dường như đã bắt đầu bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi. Chân dung nhân vật bước đầu hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý ngay từ khi mới đặt tay lên trang giấy. Ông đã thật tài tình khi đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Thông qua đây, việc sử dụng này có ý nghĩa rất lớn đến việc đi sâu vào thẻ giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Chính bởi nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động.
Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 3
“Chí Phèo” của Nam Cao là kiệt tác của văn học hiện thực phản ảnh đậm nét xã hội phong kiến đầy rẫy những tội ác và bất công, đồng thời khắc họa thành công hình ảnh người nông dân bị bần cùng hóa. Đọc những trang viết của Nam Cao, người đọc có thể mường tượng ra được bức tranh xã hội phong kiến nhiều ám ảnh.
Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh nhân vật Chí Phèo – một người nông dân lương thiện nhưng bị xã hội chèn ép, chà đạp, đẩy đến bước đường cùng thành kẻ sát nhân. Nam Cao đã để cho nhân vật Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác phẩm bằng “tiếng chửi”. Một loạt tiếng chửi của Chí Phèo như mở màn một cuộc đời nhiều tăm tối của hắn “Hắn chửi trời, hắn chửi đất, hắn chửi cả làng Vũ Đại. Hắn chửi đứa nào đẻ ra hắn…”.
Chí Phèo sinh ra tại một cái lò gạch cũ, được người làng truyền tay nhau nuôi, đến khi hắn đi ở cho Bá Kiến. Bá Kiến vì ghen tuông mà đã đẩy Chí Phèo vào tù, nơi đó bắt đầu hình thành những oán hận và cả nỗi đau. Chí Phèo đã dần đánh mất đi bản thân, đánh mất đi sự lương thiện. Sau mấy năm ở tù, CHí Phèo về làng, trở thành một con người khác. Nam Cao đã khắc họa rõ từng đường nét trên khuôn mặt của Chí Phèo, như phản ánh sự đau lòng của chế độ và sự tha hóa của một đời người. Chí Phèo xuất hiện “Cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Hình ảnh người nông dân hiền lành đã biến mất sau những năm tháng ở tù.
Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người của Chí Phèo. Hắn trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ, hắn phá tan đi bao nhiêu gia đình ở làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ mặt gớm giếc và hành động tàn bạo.
Cuộc sống của một con người thay đổi hoàn toàn, hắn lấy nghề rạch mặt, đâm thuê chém mướn làm nghề sống. Chí Phèo bị người làng xa lánh, hắn trở về làm cho nhà Bá Kiến. Lại một lần nữa người đọc thấy được sự bế tắc, bước đường cùng của Chí Phèo. Hắn lại trở về nơi ngày xưa đã đẩy hắn vào cảnh cơ cực như bây giờ. Có lẽ đây chính là sự bế tắc của người dân thấp cổ bé họng trong xã hội phong kiến.
Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo. Đây là hình tượng điển hình cho sự tha hóa trong xã hội phong kiến, là sự bế tắc, cùng đường lạc lối.
Nhưng Nam Cao đã không để cuộc đời Chí Phèo dừng lại ở đó, tác giả đã khơi gợi sự khát thèm yêu thương, khát thèm cuộc sống như một con người nơi hắn. Tình huống truyện Chí Phèo gặp Thị Nở ở vườn chuối sau lần hắn uống rượu say khướt. Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành đã khiến người đọc vẫn cảm thấy còn chút gì đó hi vọng cho một cuộc đời bình dị. Thị Nở xấu xí, thô kệch, nhưng lại là vết sáng trong cuộc đời tăm tối của Chí Phèo. Sự xuất hiện của Chí Phèo thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với Chí Phèo, đánh thức lương tri, đánh thức bản tính lương thiện của hắn. “Bát cháo hành” là một chi tiết nghệ thuật giàu giá trị nhân văn, cho tình người còn lấp lánh giữa xã hội thối nát.
Sau khi gặp gỡ với Thị Nở, hắn thấy cuộc đời ngoài kia thật tốt đẹp, nghe thấy những người đàn bà đi chợ đang nói chuyện. Hơn hết có một chi tiết, một suy nghĩ khiến người đọc chùng xuống “Hắn thấy già yếu, bệnh tật, và cô độc còn đáng sợ hơn cả đau ốm bệnh tật…hắn khát khao làm hòa với mọi người”. Có lẽ đã đến lúc hắn nhận ra cần một cuộc sống như mọi người, không phải rạch mặt ăn vạ nữa. Cuộc sống bình dị ấy nhưng với Chí lại quá xa vời.
Xã hội phong kiến nghiệt ngã, không để cho Chí Phèo được làm người lương thiện khi bà cô của Thị Nở xuất hiện. Bà cô phản đối chuyện Thị Nở và Chí Phèo, còn dùng những từ cay độc để mắng mỏ Chí Phèo. Bà cô là hiện thân của xã hội phong kiến, cự tuyệt khát khao làm người, quyết dồn Chí vào bước đường cùng. Chính điều này đã khiến cho Hắn đau, rơi vào tuyệt vọng và quyết tìm đến nhà Bá Kiến để giết Bá Kiến.
Hình ảnh ám ảnh người đọc là hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch, nằm giữa vũng máu ở sân nhà Bá Kiến. Hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước khi chết Chí phèo còn hét lên “Ai cho tao làm người lương thiện”, xã hội này không cho, con người cũng không cho. Đúng là một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công.
Nam Cao với ngòi bút sâu sắc đã xây dựng nhân vật điển hình trong xã hội điển hình như kéo người đọc về với thời kỳ đau thương của đất nước ta hồi đó. Nghệ thuật đặc tả tính cách, hành động đã khiến cho truyện ngắn thêm sinh động, hấp dẫn.
Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 4
“Chí Phèo” chỉ là một truyện ngắn và là một truyện ngắn sáng tác trong những ngày đầu mới cầm bút của Nam Cao viết về đề tài nông dân, nhưng tác phẩm chính là sự tổng hợp, kết tinh đỉnh cao của ngòi bút nhà văn. Có thể nói rằng, “Chí Phèo” là một bản án cáo trạng đanh thép đối với một xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy người nông dân vào con đường bần cùng hóa trước Cách mạng. Đồng thời, tác phẩm cũng là một câu chuyện chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Trước hết, tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao đã khắc họa tấn bi kịch của người nông dân trước Cách mạng. Trong tác phẩm này, Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế hay thiên tai dịch họa mà nhà văn lại hướng đến một phương diện khác, đó là hình tượng người nông dân cố cùng bị xã hội phá hủy về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính và bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo chính là bị cướp đi hình hài của một con người, bị đẩy ra khỏi xã hội loài người và phải sống kiếp sống đớn đau như thú vật. Chí từ một anh canh điền lương thiện khỏe mạnh, vì hầu hạ bà Ba, khiến cụ Bá ghen ghét đẩy vào lao tù. Từ đây, con đường tha hóa của người nông dân chất phác bắt đầu như trượt dốc không phanh. Ra khỏi tù, người ta không nhận ra thằng Chí Phèo trước đây nữa mà thay vào đó là một hình hài quỷ dữ: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm […]. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”
Với ngòi bút hiện thực, nhà văn Nam Cao đã chỉ ra rằng, để tồn tại thì những người nông dân hiền lành khốn khổ đã dần trở nên lưu manh hóa và bất cần. Họ không chỉ bị tha hóa về nhân hình mà còn bị tha hóa cả về nhân tính.
Ở tù về, Chí như biến thành một con quỷ dữ, chuyên rạch mặt ăn vạ, la làng ầm ĩ. Trở thành tay sai đòi nợ cho Bá Kiến: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Không những thế, những hành động dã man ấy hắn đều làm trong lúc say: “ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, […] đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say”. “Những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang” khiến cho hắn chưa bao giờ tỉnh táo để ý thức về những việc mình đã và đang làm.
Chính vì trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” mà tất cả mọi người đều cố tránh xa hắn, ngay cả khi hắn “kêu làng, không bao giờ người ta vội đến” bởi đã quá quen với cảnh hắn la làng ăn vạ. Không ai thèm chửi nhau với hắn, không ai công nhận hắn, ngay cả Thị Nở – người phụ nữ “xấu ma chê quỷ hờn” cũng không cần hắn. Khi ấy, hắn mới tỉnh ngộ nhận ra bi kịch thê lương của mình: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Hắn kêu lên: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa”. Đó là những câu hỏi đầy cay đắng và không có lời giải đáp. Lương thiện của con người là ở trong chính mỗi người chúng ta. Vậy mà Chí lại phải đi “đòi” lương thiện. Chính cái xã hội vô nhân tính đã cướp mất lương thiện và còn khốn nạn hơn, ngay cả cái quyền được làm một con người tử tế cũng bị xã hội ấy tước đoạt mất.
Qua tấn bi kịch của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã cho người đọc thấy một hiện thực xót xa về cuộc sống và số phận của người nông dân trước Cách mạng. Đó chính là cuộc sống bế tắc và bần cùng, người nông dân từ tha hóa đã dẫn đến lưu manh hóa. Phản ánh bi kịch ấy, nhà văn Nam Cao cũng chỉ rõ nguyên nhân là mẫu thuẫn xã hội sâu sắc đã đẩy người nông dân đến bước đường cùng.
Trong tác phẩm, một bên, nhà văn xây dựng hình tượng giai cấp phong kiến thống trị mẫu thuẫn với một bên là người nông dân lương thiện nghèo đói. Hình tượng điển hình cho giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn chính là nhân vật Bá Kiến. Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là cái lối quát “rất sang”, lối nói ngọt nhạt và nhất là “cái cười Tào Tháo”. Chính sách cai trị của hắn rất khôn ngoan, rảo hoạt: “mềm nắn, rắn buông”, “bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu”, “chỉ bóp đến nửa chừng” và “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại vớt nó lên để nó đền ơn”, dùng thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò, bởi “Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình”… Tất cả đã cho thấy tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến, lợi dụng cái ác để trục lợi cho mình và dùng cái ác để làm nên cái ác lớn hơn.
Trong khi giai cấp thống trị lọc lõi khôn đời thì người nông dân thấp cổ bé họng lại lâm vào đường cùng, trở thành nạn nhân bị bóc lột và bị đẩy vào con đường tha hóa đến tội nghiệp.
Bị đẩy vào tù một cách oan ức, ra tù, Chí muốn tìm đến nhà Bá Kiến để tính sổ. Vậy mà từ chỗ hung hăng đòi “liều chết với bố con” lão Bá Kiến, chỉ sau mấy câu ngọt nhạt và mấy hào lẻ của cụ Bá, Chí Phèo đã trở thành một tên tay sai mới của lão. Xây dựng nên hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã cho người đọc thấy được số phận, tình cảnh của người nông dân trước Cách mạng bị xã hội phong kiến đầy bất công đẩy vào con đường tha hóa, bị tước hết giá trị và tư cách của một con người. Mâu thuẫn giữa người nông dân và giai cấp địa chủ ấy được đẩy lên cao trào khi mà Chí đã nhận ra người đã đẩy mình đến cảnh tha hóa chính là Bá Kiến và người cần giết cũng chính là lão ta.
Tuy Chí Phèo đã thức tỉnh được tình cảnh tha hóa của mình và nhận diện được kẻ thù của mình nhưng lúc đó đã là quá muộn. Đây cũng chính là một bi kịch đau đớn của người nông dân và của một con người. “Chí Phèo” là một bản cáo trạng đanh thép đối với xã hội phong kiến bất công đã đẩy con người ta và con đường tha hóa cùng cực nhất. Tuy vậy, nhưng tác phẩm cũng là một minh chứng về tình yêu thương và sự thực tỉnh lương tri của con người.
Tình cờ gặp Thị Nở trong một đêm say đã khiến Chí trở thành một con người khác. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Chí cảm thấy bao nhiêu điều mới mẻ: thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng huyên náo của những người đàn bà đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Hắn thấy lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn” và lần đầu tiên cảm thấy sợ tuổi già, đói rết, ốm đau và cô độc. Được Thị Nở chăm sóc, thương yêu, hắn bỗng nhớ lại mơ ước về một mái ấm gia đình “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ ở nhà dệt vải” thời trai trẻ. Có thể thấy rằng, dù Thị Nở là người đàn bà dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn nhưng lại là người không hề chê bai Chí, là người săn sóc, quan tâm đến anh ta một cách dịu dàng và ân cần nhất. Chính tình yêu ấy làm cho “Xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu”, làm cho con quỷ dữ bao năm đã biến mất, thay vào đó là một con người khao khát lương thiện, khao khát làm người chân chính.
“Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” như một lời cầu hôn của Chí với Thị Nở. Bày tỏ mong muốn ấy một cách rất chân thực, giản dị mà chất phác đúng kiểu một anh nông dân, Chí mong muốn được làm lại từ đầu, được sống một cuộc đời khác, cuộc đời bình dị giống như bao người mà Thị Nở chính là cầu nối, là người vun trồng cùng hắn xây dựng. Phải nói rằng, tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết đắt giá để qua đó thể hiện ý nghĩa của sự hồi sinh và khẳng định sức sống của thiên lương, lương thiện trong mỗi con người. Phát hiện và miêu tả tài tình sự thức tỉnh lương tri của Chí Phèo chính là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao.
Thế nhưng, điều đáng nói là con người đã biết hoàn lương nhưng xã hội ấy lại không thể nào chấp nhận lại họ được nữa. Chí Phèo vừa mới mơ ước về một gia đình thì đã bị bà cô Thị Nở tạt ngay cho một gáo nước lạnh. Chí hiểu rằng, mình có cố gắng làm sao đi nữa thì cũng không thể xóa hết những tội lỗi mà mình gây ra, không thể nào mà trở về hòa nhập với cuộc sống được nữa. Ý thức được điều này, cũng là ý thức được kẻ gây ra bi kịch cho mình, Chí đã tìm đến nhà Bá Kiến kết liễu lão ta và cả chính mình. Điều này là tất yếu bởi lẽ, cánh cửa hoàn lương của Chí đã đóng sầm trước mắt. Để giải quyết sự bế tắc đó, Chí chỉ còn cách là kết thúc cuộc đời mình và kẻ gây nên tội ác. Cái chết ấy là cái chết của một bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa trở về làm người, là tiếng kêu cứu về quyền làm người.
Với tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao không chỉ phơi bày bộ mặt xã hội đen tối, bất công mà nhà văn còn đồng cảm với những bi kịch khổ đau của người nông dân thấp cổ bé họng trước Cách mạng. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của con người và khao khát thay đổi thực tại để vươn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 5
Chí Phèo là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao (1917 - 1951), một ngòi bút bậc thầy cách nay đã hơn sáu mươi năm.
Mở đầu tác phẩm Chí Phèo xuất hiện trong tư thế khật khưỡng của kẻ say rượu vừa đi vừa chửi. Hắn chửi vung tất cả. Chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những đứa không chửi nhau với hắn. Đây chính là lí do để ngay phần tiếp theo, tác giả kể về lai lịch của Chí. Hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch bỏ hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Bá Kiến. Có thể vì ghen tuông, nghi cho bà ba vốn tính lẳng lơ có tư tình với anh canh điền khoẻ mạnh, Bá Kiến cho người bắt Chí giải lên huyện và đẩy vào lao tù.
Ngay sau khi ở tù về, Chí đã uống rượu say khướt rồi cầm vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến (lúc này Bá Kiến đã là Bá bộ) chửi Lí Cường con trai Bá Kiến xông ra hành hung Chí, được thể Chí đã dùng mảnh chai rạch mặt ăn vạ. Đang thế, Bá Kiến xuất hiện, lên giọng mắng Lí Cường rồi dùng lời ngon ngọt để an ủi Chí, lại mời Chí vào nhà tiếp đãi cơm rượu hậu hĩnh, cho Chí một đồng bạc đem về Chí vô cùng hả hê. Từ đó, khi nào hết tiền hắn, lại đến ăn vòi. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ở tù lần nữa với cách lập luận đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm rùi cũng không có mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dụng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ, có vườn cho Chí. Sau khi Chí hoàn thành việc được giao, Bá Kiến cho vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Lúc này Chí mới 27, 28 tuổi. Cũng bắt đầu từ đây, Chí trờ thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng không cùng vây cánh. Chí Phèo đã thực sự trở thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại", ai ai cũng đều sợ hắn và tránh mặt hắn.
Một lần trong buổi tối sáng trăng, sau khi được uống rượu với Tự Lãng, hắn trở về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị là người nghèo rớt mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đần trong cổ tích. Họ đã ăn nằm với nhau và đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm một người bình thường trong Chí. Nhờ thứ tình cảm này mà bao nhiêu mơ ước hiền lành thời trai trẻ bỗng thức đậy, hắn muốn có một tổ ấm gia đình bình dị. Rồi Chí bị cảm. Thị Nở đã ân cần chăm sóc, nấu cháo hành cho hắn ăn giải cảm... Tưởng được bền lâu, nào ngờ chỉ được vẻn vẹn năm ngày, đến ngày thứ sáu, bà cô thị Nở đi buôn chuyến trở về. Bà đã xỉ vả mắng nhiếc thị vì đã biết được chuyện giữa Thị với Chí Phèo. Do đấy, Thị Nở đến mắng Chí Phèo và bỏ mặc Chí trong tuyệt vọng. Thế rồi Chí khóc, Chí lại tìm đến rượu, khi say hắn dắt dao vào lưng, nói là đi đâm chết “nó", tức đâm chết hai cô cháu nhà Thị Nở. Nhưng bước chân khật khưỡng của Chí cứ thế đến nhà Bá Kiến. Hắn xông vào Bá Kiến, vung dao đòi làm người lương thiện. Trong cơn tỉnh say cuối cùng này. Chí đã vung dao đâm chết Bá Kiến và cũng tự kết liễu cuộc đời mình.
Nghe tin hai cái chết, trong lúc bao người, bao kẻ hả hê, Thị Nở nghĩ đến Chí “sao có lúc nó hiền như đất và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn”. Thị lo mình có chửa. Khép lại câu chuyện là hình ảnh thị nhìn nhanh xuống bụng và “đột nhiên thị thấy cái lò gạch thoáng hiện, xa nhà cửa và vắng bóng người qua lại”.
Đây là một truyện ngắn mà dung lượng hiên thực được phản ánh trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, có nhiều lớp thời gian..., mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Có thể phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện, có thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích từng mối quan hệ giữa nhân vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp (Bá Kiến, Thị Nở). Đâu đi theo con đường nào cũng cần làm nổi bật rõ nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện. Sức mạnh của truyện ngắn trước hết là chi tiết. Cách phân tích dưới đây cố gắng đi theo tình huống này.
Làng Vũ Đại, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng. Về kết cấu và ngôn ngữ truyện. Trước nhất phải kể đến kết cấu. Nếu xét về kết cấu hình tượng, truyện Chí Phèo cũng có một cốt truyện có thể kể được nhưng điều đáng nói ở đây là kết cấu văn hán truyện. Nam Cao đã rất có ý thức sáng tạo và huy động kết cấu tham gia vào việc xây dựng nhân vật cũng như đắp bồi thêm bề dày, bề sâu các lớp nghĩa cho tác phẩm. Thứ nhất, Nam Cao sử dụng kết cấu vòng tròn. Đó là sự trở lại chi tiết “cái lò gạch bỏ hoang” ở phần kết truyện hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang nơi Chí bị bỏ rơi lúc mới đẻ ở phần đầu truyện được nhà văn sử dụng để cho Thị Nở đột nhiên thấy thoáng hiện ra khi nhìn xuống bụng, sợ nhỡ may mình có chửa. Kết truyện nay có sức gợi rất lớn. Điều này gì nếu không phải là khả năng tái sinh của Chí Phèo? Chừng nào còn tồn tại cái xã hội kiểu làng Vũ Đại thì chừng đó sẽ còn nảy nòi ra loại người như Chí. Môi trường này cần được thay đổi. Nếu như đặt vấn đề hãy cứu lấy nhân cách con người thì rõ ràng phải bắt đầu từ việc cứu lấy môi trường đã huỷ hoại nhân cách. Thứ hai, các thành phần lời trần thuật được xáo trộn, lắp ghép, đan xen không luân theo trình tự tuyến tính của cốt truyện. Nam Cao bắt đầu bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi; Chân dung nhân vật bước đầu hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý và ham mê theo dõi ngay lập tức.
Về yếu tố ngôn ngữ truyện có nhiều điều có thể bán được nhưng ở đây chỉ xin đơn cử một cách thức sử dụng ngôn ngữ hết sức sáng tạo và độc đáo kiểu Nam Cao. Ông đã đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Điều này có tác dụng rất lớn cho phép nhà văn soi quét, lách sâu vào thế giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động. Chỉ cần đơn cử đoạn mở đầu truyện là đã thấy thủ pháp nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đan xen, hoà trộn như thế’ nào. Đây là một kĩ thuật của ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại mà không phải nhà văn cùng thời nào với Nam Cao cũng đã biết và sử dụng. Hiểu như vậy mới thấy sự cách tân và đóng góp vào kĩ thuật tiểu thuyết của Nam Cao thực sự là không nhỏ và có nhiều ý nghĩa cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Tóm lại, chỉ với tác phẩm Chí Phèo đã dù thấy Nam Cao trong buổi mạt kỳ của chủ nghĩa hiện thực phê phán nước ta đã có công đưa nó lên một tầm cao mới về cả nội dung và nghệ thuật trước khi nó im tiếng.
Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 6
Nam Cao, cây bút cuối của văn học giai đoạn 1930 – 1945, nhưng nhờ có ông và các phẩm xuất sắc của mình, Nam Cao đã làm bừng sáng cả một giai đoạn văn học, ông đã góp phần không nhỏ vào mảng tranh hiện thực xã hội Việt Nam trước cách mạng. Hai đề tài chủ yếu của ông gồm người nông dân và người trí thức, trong đó đề tài người nông dân là nổi bật hơn cả. Với đề này truyện Chí Phèo đã trở thành áng văn bất hủ của Nam Cao nói riêng và của văn học Việt Nam nói chung.
Tác phẩm ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ do chính nhà văn đặt, nhưng sau đó đổi thành Đôi lứa xứng đôi, do nhà xuất bản đổi, nhằm tăng tính giật gân, gây chú ý với bạn đọc. Cuối cùng Nam Cao đổi tên tác phẩm thành Chí Phèo, nhằm làm nổi bật nhân vật trung tâm của tác phẩm, đề cao giá trị hiện thực và nhân đạo qua nhân vật này.
Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi, bị bỏ rơi ở lò gạch cũ, Chí được anh thả ống lươn nhìn thấy nhặt về, mang cho một bà góa mù nuôi, sau đó bà góa mù bán cho bác phó cối không con, bác phó cối mất đi thì sống trong sự đùm bọc của dân làng. Khi Chí lớn lên làm canh điền cho Bá Kiến, là một con người lương thiện, chăm chỉ làm lụng, nhưng vì bị bà ba gọi vào bóp chân, Bá Kiến thấy được nổi cơn ghen nên đã đẩy Chí Phèo vào tù. Từ một người nông dân hiền lành, chất phác, mang trong mình những mơ ước giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải,… Chí Phèo đã bị Bá Kiến và nhà tù thực dân làm cho tha hóa, biến chất.
Hắn ở tù về đã trở thành một người khác hẳn: Cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt cơng cơng, hai mắt gườm gườm…, mặc bộ quần áo tây vàng với quần nái đen, phanh áo để lộ hình xăm. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, uống rượu say khướt để chửi trời, chửi đời, hắn lăn ra ăn vạ mọi người,… Chí Phèo lương thiên đã trở thành thằng lưu manh, liều lĩnh, lấy sự lưu manh để kiếm sống qua ngày. Bị Bá Kiến lợi dụng, Chí Phèo trở thành tay sai cho cái ác, hắn triền miên trong cơn say, làm bất cứ điều gì mà người tay sai bảo, gây nên biết bao tội ác và thực sự trở thành con quỷ của làng Vũ Đại.
Trong những cơn say triền miên, chưa từng có lúc nào Chí sống trong sự tỉnh táo. Nhưng hôm ấy là một ngày rất khác, Chí uống say ở nhả Tự Lãng, trên đường về nhà thấy ngứa ngáy nên Chí ra sông tắm, ở đây Chí gặp Thị Nở, họ ăn nằm với nhau. Nửa đêm Chí bị cảm nôn mửa, nhờ có Thị Nở nếu không có lẽ Chí đã chết. Sau những cơn say triền miên, đây là lần đầu tiên Chí tỉnh, hắn nhận thức được cuộc sống xung quanh: mặt trời đã lên cao với ánh nắng vàng rực rỡ, những âm thanh của cuộc sống nghe vui vẻ quá đó là tiếng chim, tiếng những người đàn bà đi chợ bán vải về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh mà bấy lâu nay Chí không còn nghe, không còn để ý nữa. Từ nhận thức về cuộc sống, Chí chuyển về nhận thức chính mình: hắn nhớ về quá khứ tươi đẹp, với mơ ước giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải,… mong ước thật giản dị và đẹp đẽ. Nhưng hiện tại chỉ là con số không tròn trĩnh, Chí nhận ra mình không vợ, không con, không tài sản, không được công nhận và bản thân đã đi sang dốc bên kia cuộc đời. Tương lai đáng sợ mở ra trước mắt, đói rét, bệnh tật và cô độc. Nhưng chính trong lúc hắn đang miên man suy nghĩ, thị Nở xuất hiện với bát cháo hành trên tay, hắn đón nhận bằng tất cả sự xúc đông và biết ơn. Hắn ăn cháo hành và chưa bao giờ thấy nó ngon đến vậy, hắn khóc, nước mắt của một kẻ tưởng chừng đã bị cướp mất nhân tính vĩnh viễn. Ngạc nhiên và cảm động (“mắt ươn ướt”) vì đây là lần đầu tiên được đàn bà cho, đây là lần đầu tiên Chí Phèo được ăn cháo, lần đầu được săn sóc bởi bàn tay đàn bà. Năm ngày sống với thị Nở đã giúp Chí hồi sinh, khao khát được làm lành với mọi người, được làm người lương thiện và thị Nở sẽ là người mở đường cho hắn.
Niềm hạnh phúc không được bao lâu, thị Nở trình bày với bà cô về ý định nên duyên với Chí và bị gạt phát đi. Thị Nở - một người dở hơi, đùng đùng đến cự tuyệt Chí. Ban đầu hắn cười vì nghĩ Thị trêu đùa mình, rồi hắn nghĩ ngợi và hình như đã hiểu sự việc, hắn ngẩn người ra không nói được gì. Thị Nở bỏ về, Chí có đuổi theo cũng chị là vô cũng, Chí đau đớn, phẫn uất đến tận cùng. Hắn uống nhưng uống lại càng tỉnh, hơi cháo hành thoang thoảng đâu đây, hắn ôm mặt khóc rưng rức. Trong nỗi đau tột cùng hắn xách dao tìm đến nhà thị Nở để đâm chết cả nhà Thị, nhưng cuối cùng hắn đến nhà Bá Kiến như một thói quen. Nhưng đồng thời Chí Phèo mơ hồ nhận ra kẻ thù đích thực, nhận ra nguyễn nhân gốc rễ đẩy mình vào bi kịch không phải cô cháu Thị Nở mà là Bá Kiến. Chí giết Bá Kiến và tự hủy hoại chính mình. Đây là lựa chọn duy nhất của Chí, bởi hắn không thể làm người lương thiện vì làng Vũ Đại không chấp nhận hắn. Hắn cũng không thể làm con quỷ vì bản thân đã thức tỉnh. Chết là lựa chọn duy nhất của Chí Phèo. Cái chết của Chí là lời tố cáo đánh thép, sắc bén vào xã hội đương thời đã đẩy con người vào bước đường cùng.
Ngoài nhân vật Chí Phèo, Thị Nở cũng là một nhân vật đặc sắc trong tác phẩm. Thị Nợ là người quá lứa, lỡ thì, xấu ma chê quỷ hờn, lại thêm tính dở hơi ngẩn ngơ những người đần trong cổ tích, có dòng giống mả hủi. Bản thân thị Nở hội tụ đầy đủ những yếu tố không có cơ hội tìm kiếm cơ hội hạnh phúc cho bản thân. Số phận của thị cũng hết sức bi đát, thảm hại. Nhưng bản thân thị lại là người biết yêu thương, chăm sóc những người xung quanh. Trong đêm gặp Chí, Chí bị cảm lạnh, Thị là người đưa Chí về và chăm sóc chu đáo, đắp manh chiếu cho Chí rồi mới về. Dường như về rồi Thị Nở vẫn chưa yên tâm, thị động lòng thương thức dậy nấu cháo cho Chí. Thị cũng như bao người phụ nữ khác khao khát yêu thương và được yêu thương. Thị Nở sẵn sàng vượt qua định kiến, đến ở với Chí Phèo năm ngày, đó là quãng thời gian đẹp đẽ nhất, hạnh phúc nhất trong đời Thị. Nhưng cuối cùng Thị vẫn không thể vượt qua những định kiến, nghe lời bà cô, Thị Nở đã cự tuyệt tình cảm của Chí, khước từ mở đường cho Chí về với con người lương thiện. Xây dựng nhân vật Thị Nở góp phần làm nổi bật nhan vật Chí Phèo, thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Không chỉ vậy, nhờ có Thị Nở Chí Phèo mới được hồi sinh, quá đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả, niềm tin vào bản chất lương thiện của con người. Nhưng cũng chính Thị Nở là người đẩy Chí Phèo vào bị kịch bị cự tuyệt làm người. Tác phẩm đã truyền tải giá trị hiện thực: vạch trần bộ mặt xấu xa của xã hội thực dân nửa phong kiến.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc: Chí Phèo điển hình cho người nông dân Việt Nam bị tha hóa trước cách mạng ; nghệ thuật phân tích diễn biên tâm lí nhân vật hợp lí, giàu ý nghĩa. Cốt truyện giàu kịch tính, mang đến những bất ngờ, hấp dẫn cho người đọc. Ngôn ngữ sống động, điêu luyện, gần gũi như lời ăn tiếng nói hàng ngày nhưng vẫn giàu giá trị nghệ thuật.
Với tác phẩm Chí Phèo, tác giả đã phơi bày, vạch trần bộ mặt của xã hội thực dân nửa phong kiến phi nhân tính, đã đầy con người vào bước đường cùng, tha hóa về nhân hình và nhân tính. Nhưng bên cạnh đó còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc, niềm tin vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người. Qua tác phẩm cũng thể hiện lòng cảm thương với số phận người nông dân bất hạnh.
Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 7
"Tao muốn làm người lương thiện
Không được ! Ai cho tao lương thiện ?..."
Mỗi lần nhớ đến nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, tôi lại nghe văng vẳng bên tai mấy câu nói trên đây và hình dung rõ như in một gương mặt đàn ông vừa đáng thương vừa đáng sợ, vằn vện những vết sẹo dữ dằn. Từ đôi mắt nửa tỉnh táo, nửa đờ đẫn của anh ta ánh lên một cái nhìn thật thiết tha, khắc khoải. Cái nhìn pha lẫn cả hăm dọa với cầu khẩn, pha lẫn hận thù, khổ đau, sám hối và khát vọng,... Cái nhìn dường như không phải hướng đến một điểm, một người, mà hướng đến mọi điểm, mọi người.
Những lúc ấy, tôi hiểu rằng, đối với tôi, điều thú vị và tâm đắc mà tác phẩm Chí Phèo mang lại, thật giản dị và cũng thật sâu xa : đó là việc nhà văn đã nói thay cho những người khốn khổ như Chí Phèo một tiếng nói thật cảm động, thấm thía - tiếng nói khát khao được sống như một con người.
Phải, tiếng nổi khát khao được sống như một con người. Chỉ thế thôi, nhưng với Chí Phèo là cả một kì vọng. Bởi hai tiếng "Con người" đối với người đàn ông thua thiệt, bất hạnh này là một cái gì thật tốt đẹp, mà cao xa. Đó là một viễn ảnh. Viễn ảnh ấy vừa như là một hồi ức, vừa là niềm ước mong ; vừa như một cái gì hiển nhiên, đã có, sắp có, lại vừa như một cái gì chưa có và còn xa, còn lâu Chí Phèo mới chạm tới được. Sức sống tươi tắn của hình tượng chí Phèo chính là ở những chỗ như thế này. Sức sống ấy toát ra từ cả hình tượng lẫn ngôn từ, từ cả câu chuyện lẫn cách kết cấu.
Trong tác phẩm, để làm nổi bật tính chất viễn ảnh về con người và khơi sâu niềm khát khao tha thiết ấy ở Chí Phèo, ngoài phần kể tả về những ngày Chí Phèo tỉnh táo tận hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, thỉnh thoảng Nam Cao lại lồng vào bức tranh hiện tại bi đát của Chí Phèo một vài mẩu hồi ức vui, trong sáng :
- ..."Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho ông lí Kiến, bây giờ là cụ bá Kiến ăn tiên chỉ làng..."
- ..."Hắn lại nao nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.
" - ..."Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh." - v.v.
Những hình ảnh bình dị như thế từng là có thật, rất thật trong đời Chí Phèo. Nhưng tất cả đã thuộc về hồi ức, tức là thuộc một thế giới khác, một cõi xa xăm. Rõ ràng là Chí Phèo rất tha thiết sống như một con người, ít nhất là con người đã có "năm hai mươi tuổi...", hoặc "hồi ấy...".
Giữa những trang kể về khoảng thời gian năm sáu ngày ngắn ngủi Chí Phèo tỉnh táo tận hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, và những câu, đoạn gợi lại hồi ức vui, trong sáng hiếm hoi như vậy, Nam Cao đã kể khá dài và khá kĩ về những cơn say, những tiếng chửi, những hành động đập phá đang đẩy Chí Phèo trượt dài xuống hố thẳm tha hoá. Càng lúc Nam Cao càng làm cho người đọc hiểu thấm thía cái giá để được sống như một con người. Gập ghềnh và cheo leo thay là con đường trở về với bản tính lương thiện của Chí Phèo!
Niềm khao khát làm người lương thiện ấy càng cháy bỏng trong đoạn nhà văn kể lại việc Chí Phèo đến nhà bá Kiến và dõng dạc tuyên bố yêu sách tối hậu của mình : Tao muốn làm người lương thiện". Nhưng : " - Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không ! Chỉ có một cách... biết không !... Chỉ còn một cách là... cái này ! Biết không !... Hắn rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhổm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chi kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến.
Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đã đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra." Đó cũng là trang cuối cùng đẫm lệ và đẫm máu trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo : Mấy mẩu đối khẩu căng thẳng đầy kịch tính vang lên, được điểm nhịp bằng những nhát dao bi phẫn, căm hờn. Và điều phải xảy đến đã xảy đến. Một kết cuộc thảm khốc : hai cái xác cùng đổ gục trên một vũng máu tươi,...
Khi trang cuối cuộc đời Chí Phèo sắp khép lại, người đọc đã hiểu rằng thế là hết, ước muốn "làm người" của anh vẫn chỉ là một ước muốn. Chuyện "làm người" thậm chí đã thành ảo ảnh chứ không còn là viễn ảnh nửa ! Thật đáng thương, Chí Phèo mắt vẫn "trợn ngược", "mồm ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng". Cơ duyên tìm cuộc sống lương thiện của anh đã đứt gãy giữa chừng.
Nhưng thế nào mới được xem là người ? Và vì lẽ gì mà một ước muốn làm người thật bình dị, đối với Chí Phèo lại thành ra quá xa vời, thậm chí, thành không tưởng như vậy ?
Thật ra, thế nào là quỷ, thế nào là người ? Thế nào là dữ, là bất lương, thế nào là hiền, là lương thiện,... ? Câu trả lời không dễ. Truyện ngắn của Nam Cao cũng không hề đưa ra một định nghĩa, một lời giải thích trực tiếp về những điều này. Nhưng đọc tác phẩm, mỗi người chúng ta đều có thể tự tìm được câu trả lời tương đối thỏa đáng cho mình. Câu trả lời có thể rút ra từ chính quan niệm và cách miêu tả của Nam Cao trong tác phẩm, nhất là từ các đoạn tả, kể về phần người của Chí Phèo trước khi đi ở tù và sau khi đã tỉnh rượu (trong sự đối chiếu với phần quỷ của Chí Phèo sau khi đi ở tù về và trước khi tỉnh rượu). Câu trả lời phần nào cũng có thể tìm kiếm từ những đoạn văn triết lí trữ tình của Nam Cao về bản tính và giấc mơ lương thiện của Chí Phèo, chẳng hạn : "Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt" ; "Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện".
Theo cách đó, tác phẩm như ngầm đưa ra một lời giải thích quan niệm, một cách định nghĩa về con người và cuộc sống con người. Là người thì phải có khả năng sống bằng bàn tay và sức lao động của mình (như Chí Phèo sống bằng nghề làm canh điền cho lí Kiến). Là người thì phải biết sống tự trọng (như Chí Phèo biết tự trọng trước bà Ba). Là người thì phải có bạn, có người thân, có khả năng và được quyền sống thân thiện với mọi người (như Chí Phèo có thị Nở và sống chan hoà cùng thị Nở),...
Phải rồi, đã là người thì ít ra phải như thế. Khóc, cười, yêu ghét, buồn nhớ, giận hòm, bất bình, căm uất,... cũng phải như một con người. Nhưng đây mới là điều tối quan trọng : ý thức về quyền sống như một con người, sống cho ra một con người. Là người thì có quyền đòi hỏi cả xã hội phải công nhận mình như một con người. Hiểu như thế, người ta thấy càng đáng thương cảm cho Chí Phèo. Người đàn ông bị cả làng Vũ Đại xa lánh, từ chối này nào có ước muốn điều gì cao xa ? Chỉ là những gì tối thiểu và chính đáng nhất. Thế mà "không được !". Lỗi ấy tại ai và do đâu ? Vì Chí Phèo ? Vì bá Kiến ? Vì định kiến xã hội làng Vũ Đại ? Nam Cao đã không hề dễ dãi, đơn giản một chiều khi giúp người đọc tìm cách trả lời những câu hỏi nhức nhối này. Bi kịch bị từ chối quyền làm người của Chí Phèo, tất nhiên suy cho cùng là xuất phát từ hiện thực xã hội đen tối của làng Vũ Đại, từ mưu ma chước quỷ của những kẻ cai trị sâu mọt, gian ngoan, thâm hiểm như lí Kiến. Nhưng cũng vì cả Chí Phèo nữa. Đưa Chí Phèo vào con đường tự huỷ hoại là bá Kiến, nhưng thực hiện các hành động, hành vi tự huý hoại ấy không ai khác, là Chí Phèo.
Việc Chí Phèo không được trở lại làm người có thể giải thích bằng nhiều lí do. Có nhiều lí do khách quan lẫn lí do chủ quan. Nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là hai lí do này : Thứ nhất, định kiến xã hội quá nghiệt ngã là thứ rào cản không thể vượt qua ; thứ hai, Chí Phèo đã trượt dốc quá xa, đến lúc tỉnh ra thì đã quá muộn và trong Chí Phèo xuất hiện một thứ rào cản khác : rào cản tâm lí. Lí do thứ nhất thuộc về phía khách quan xã hội, đã được bà cô thị Nở nói toạc ra : "Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ." Ở cái làng Vũ Đại này, từ lâu, Chí Phèo đã thành "con vật lạ". Từ lâu, Chí Phèo đã sống ngoài rìa xã hội (một mình ở bên kia bờ đê). Chí Phèo chửi, người ta bỏ ngoài tai (thường chỉ có ba con chó dữ đáp lại thằng say rượu). Trong mắt người làng, cũng như bà cô thị Nở, Chí Phèo chỉ có thể sống kiếp thú vật ("chỉ có một nghề rạch mặt ra ăn vạ"), không thể sống chung với người, hoặc sống mà cũng như đã chết. Cái định kiến này sâu sắc, nghiệt ngã đến mức, giả dụ thị Nờ có trái lời bà cô, vẫn cứ chấp nhận chung sống với Chí Phèo, thì xã hội làng Vũ Đại vẫn không thể tha thứ và đón nhận anh ta. Lí do thứ hai, thuộc về phía chủ quan Chí Phèo, liên quan đến sự tự ý thức của Chí Phèo.
Đúng là Chí Phèo đã trượt dốc quá xa. Chí đã phạm quá nhiều tội lỗi (cho dù là phạm trong lúc say). Đến mức hầu như không thể tính sổ được với dân làng rằng anh "đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện". Món nợ ấy biết trả đến bao giờ cho xong để thanh thản trở lại làm người ? Khi Nam Cao lần thứ hai miêu tả ngoại hình Chí Phèo : "Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio ; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo. Vết những mảnh chai của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi ?", ta không nên hiểu đó là miêu tả chỉ để nhận dạng hay để thấy Chí Phèo đã mất hẳn nhân hình, mà quan trọng hơn, nhà văn như muốn nói với độc giả rằng, đấy, tội lỗi Chí Phèo còn ghi chằng chịt trên gương mặt kia, không bao giờ có thể xoá sạch được. Nó sẽ trở thành một thứ mặc cảm tội lỗi, ám ảnh không nguôi phần đời tỉnh táo của Chí Phèo. Chính Chí Phèo trong cơn tuyệt vọng đã ý thức rõ hơn ai hết về điều này : "Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không !". Đến lúc tỉnh ra thì đã quá muộn : có bao nhiêu vết sẹo trên mặt thì cũng có bấy nhiêu vết thương không lành được trong tâm hồn.
Bấy giờ ở Chí Phèo đã xuất hiện một thứ rào cản khác lại còn khó vượt qua hơn rào cản định kiến xã hội. Đó là rào cản tâm lí. Đến lúc đó, một cách tỉnh táo nhất, chính Chí Phèo cự tuyệt quyền làm người của mình bằng một án mạng và bằng những nhát dao oan nghiệt. Có lẽ một trong những nguyên do sâu xa nhất khiến Nam Cao dể cho Chí Phèo gặp thị Nở, tỉnh táo ăn cháo hành, đón nhận tình yêu, tình người,... chính là để chuẩn bị cho anh ta ý thức được đầy đủ - thoạt tiên thì chỉ lờ mờ, nhưng càng lúc càng rõ - tình cảnh bi đát, tuyệt vọng của mình. Phải chăng vì vậy mà nhà văn đã miêu tả nhân vật của mình như một nạn nhân tuyệt vọng vừa đáng thương, vừa đáng trách ? Tuy nhiên, dù đáng thương nhiều hay đáng trách nhiều thì rốt cuộc Chí Phèo không thể tha thứ cho kẻ thù của mình cũng như tội lỗi của mình. Nam Cao đã rất khách quan. Nhưng ông không vô tình. Trái lại, ông đã nhiêu lần kín đáo biện minh cho Chí Phèo. Nhà văn quả là rất cận nhân tình khi viết rất nhiều cầu văn tương tự : "Chưa bao giờ hắn tỉnh...", "Có lẽ hắn cũng không biết rằng...", "Hắn biết đâu..." "Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả trong lúc say." Mà "Hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm". Và, hơn thế, ông còn tìm cách khẳng định thêm rằng : chính lúc Chí Phèo nhận ra là mình đã bị cả xã hội làng Vũ Đại gạt phăng mất cái quyền được làm người, thì niềm khát khao được sống như một con người càng cháy bỏng hơn bao giờ hết ; rằng : về bản chất, chưa bao giờ Chí Phèo là một gã lưu manh hay một tên quỷ dữ ; rằng : con người luôn phải chịu trách nhiệm về chính nó, nhưng con người cũng chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh mà thôi ; v.v. Khi Chí Phèo ngắc ngoải chết trong vũng máu tươi, sau tiếng kêu tuyệt vọng, và những dòng đời bi thảm cuối cùng của anh ta khép lại, thì người ta không chỉ thấy giận (giận kẻ gieo tai hoạ cho Chí Phèo), thấy thương (thương một kẻ có số phận bi đát), mà còn thấy tiếc. Tiếc thay cho Chí Phèo. "Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ" ; "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.", "Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi". Những cái "giá...", cái "sẽ...", cái "hay là..." như vậy - trong sự ngân vang của ngôn từ trần thuật - rốt cuộc cũng vẫn chỉ là ao ước, là giả thiết, là viễn ảnh, ảo ảnh mà thôi. Nó cũng thoảng qua, cũng mong manh như hương vị cháo hành của thị Nở mang cho Chí Phèo lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng vậy. Cháo hành "rất ngon" ăn hết từ hôm trước mà trớ trêu thay mãi đến hôm sau, khi bị thị Nở phũ phàng dúi ngã "lăn khoèo xuống sân", chí Phèo vẫn "thoáng một cái, hắn lại như hít thấy hơi cháo hành".
Cứ như thế, biết bao nhiêu là tiếc nuối cho cái cơ duyên "làm người lương thiện" của Chí Phèo đã được nhà văn thông qua nghệ thuật, gieo vào lòng người đọc, khiến người ta phải cùng ông thao thức mãi không thôi. "Chí Phèo" là tiếng nói của niềm khao khát. Nhưng đó là tiếng nói bên trong, tiếng nói của một niềm khát khao bình dị được cất lên từ sâu thẳm tâm hồn. Dựa theo sự miêu tả của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo, người ta hoàn toàn có quyền gọi nhân vật chính của truyện ngắn này - Chí Phèo - là một "thằng đầu bò", một "con vật lạ", "gã lưu manh" hay "tên quỷ dữ",... Cũng như vậy, người ta hoàn toàn có thể hiểu và tin rằng, từ trong bản chất, Chí Phèo là một người lao động lương thiện, một anh canh điền "hiền như đất". Nhưng dù là nhìn nhân vật từ cả hai phía, hoặc giả, nhìn chủ yếu từ phía này hay phía kia thì cái gã lưu manh hay cái người lương thiện trong Chí Phèo, ám ảnh người đọc không phải bằng hành động bên ngoài mà bằng một thứ hành động bên trong, tiếng nói bên trong : ám ảnh bằng những cơn địa chấn lớn lao của số phận cùng những vang động của nó trong chính tâm hồn anh ta. Hầu hết những cảnh ngộ, những sự kiện tạo ra những va đập và biến đổi sâu sắc số phận, tính cách, tâm lí Chí Phèo đều được nhìn bằng con mắt bên trong, con mắt của nhân vật Chí Phèo và kể bằng tiếng nói tâm hồn, theo mạch suy tư của tâm hồn. Ai đó đã rất có lí khi gọi cách trần thuật và kết cấu truyện Chí Phèo là trần thuật và kết cấu theo dòng ý thức của nhân vật chính. Sự lựa chọn này của tác giả là rất hợp lí và có ý nghĩa. Các diễn biến tâm lí và tiếng nói ở đây đều thuộc về một chủ thể : Chí Phèo. Nương theo dòng ý thức và điểm nhìn của nhân vật, nhà văn, người đọc cùng nhân vật nhìn vào hiện tại, quá khứ, tương lai của anh ta. Từ đó, tác phẩm mở ra một hành trình để nhân vật chính tự nhận thức, tự phát hiện con người bên trong của mình.
Hành động tự nhận thức và tự phát hiện này, đặc biệt từ sau khi Chí Phèo tỉnh rượu, được diễn đạt rất ấn tượng và hiệu quả bằng một kiểu lời văn nửa trực tiếp độc đáo và bằng một khung cú pháp đặc thù : Hắn + động từ tâm lí (Hắn thấy..., hắn nghe..., hắn sợ,...). Người đọc, vì thế, cơ hồ không cưỡng lại được, cứ trôi miên man theo dòng chảy cảm xúc, suy tư của Chí Phèo : "Hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn...", "Hắn sợ rượu...". "Hắn lại nao nao buồn...", "hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc.". "Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt.". "Hắn húp một húp và nhận ra rằng : những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành ăn rất ngon". Ngược về quá khứ, "nhớ đến bà Ba", "hắn chỉ thấy nhục, chứ yêu đương gì.". Nhìn vào hiện tại, hắn "trông thị thế mà có duyên", hắn thấy "như yêu thị", và khám phá ra rằng "đàn bà không có men như rượu nhưng cũng làm người say". Rồi, "hắn thấy lòng thành trẻ con", "hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ". Và điều tự phát hiện này mới cực kì quan trọng : "Hắn có thể tìm bạn được, sao lại gây kẻ thù ?". Hoặc : "Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện." Cứ thế, mỗi một lần "Hắn thấy...", "Hắn .vợ...", "Hắn nhớ...", "Hắn muốn..." là mỗi lần cõi thầm kín của Chí Phèo dược tự nhận thức, tự phô diễn, cũng là mỗi lần niềm khao khát từ bên trong vang vọng lên tiếng nói làm tái tê, xao xuyến lòng người.
Trọng tâm của tác phẩm Chí Phèo không phải kể về quá trình lưu manh hoá mà vé quá trình thức tỉnh, vỡ lẽ của nhân vật. Những đoạn hay nhất cũng thuộc phần này (những diễn biến tâm lí của Chí Phèo từ sau khi gặp thị Nở đến khi tự kết liễu đời mình).
Ở đây rõ ràng có nỗi đau, tiếng kêu tuyệt vọng, nhưng bao trùm, và sâu thẳm vẫn là tiếng nói khát khao. Khát khao được sống cho ra một con người : biết cười khóc, buồn vui như một con người, được yêu thương, hạnh phúc bình dị như một con người, được đón nhận bằng những vòng tay bè bạn như một con người. (Chí Phèo muốn xóa bỏ thù oán, để được sống trong tình thân hữu, tình yêu — tình yêu được xem như một biểu hiện đặc biệt của tình bạn, tình người). Hơn bốn mươi năm vật lộn với đời, Chí Phèo chỉ được thực sự sống như con người trong vỏn vẹn năm sáu ngày ngắn ngủi, ấm áp tình người. Việc gặp và chung sống với thị Nở là một sự bù đắp cho Chí Phèo tất cả những loại tình cảm của giống loài mà trước đó anh chưa từng biết đến : Thị Nở đâu chỉ là người tình, thị còn là người yêu, hơn thế, còn như là bạn, là mẹ (không phải ngẫu nhiên mà Chí Phèo đón nhận tình cảm và sự săn sóc của thị Nở, phần nào tựa như đón tình mẹ ; thích được làm nũng như với mẹ, đón nhận bát cháo hành như đón hương vị thơm thảo của tình người).
Tiếc rằng, khi giấc mơ ấy sắp thành hiện thực thì cũng là lúc đổ vỡ tất cả, tiêu tan thành mây khói tất cả. Thế là, Nam Cao miêu tả Chí Phèo vỡ lẽ, tuyệt vọng mà làm cho người đọc choáng váng. Và, nhân vật càng tuyệt vọng, người đọc càng choáng váng thì tiếng nói khát khao được sống như một con người càng khắc khoải thiết tha.
Đọc sáng tác của Nam Cao, nhiều khi ta không khỏi sửng sốt, băn khoăn. Việc Nam Cao thường viết rất hay về những bi kịch, những nỗi niềm của người trí thức nghèo như Điền, như Hộ, như Thứ,... thực ra, cũng dễ hiểu. Là một giáo khổ trường tư, một văn sĩ nghèo, bản thân ông từng nếm đủ buồn vui, đau thương và cơ cực của những cảnh, những người trong truyện, thì viết về người trí thức gần như là viết lại những gì ông đã sống.
Nhưng còn việc ông viết về đời sống của đủ hạng nông dân nghèo thì, hẳn là khó khăn hơn và xem ra không được thuận tay, thuận lí cho lắm. Thế mà ông vẫn viết rất hay, và nhiều tác phẩm ông viết về nông dân nghèo cứ như là chuyên của chính đời ông. Khả năng nhập cuộc, nhập vai của ông thật đáng phục và dáng trọng. Điều đó càng chứng tỏ rằng Nam Cao có một cái nhìn thật tinh nhạy, mẫn cảm, sâu sắc, và một tấm lòng cảm thương hết sức tha thiết, chân thành đối với những khổ đau, khát vọng của con người.
Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao - Mẫu 8
Chỉ là truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nông dân, nhưng Chí Phèo thật sự tổng hợp sự kết tinh của ngòi bút Nam Cao về đề tài này. Nếu như Nam Cao có thể được coi là "nhà văn của nông dân" – cùng với Ngô Tất Tố – thì trước hết vì công có Chí Phèo.
Khác với nhiều truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.
Những năm 1940 – 1945, nông thôn vẫn là đề tài lớn trong văn xuôi khu vực hợp pháp. Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo nhiều hướng khác nhau. Trước hết là đi vào phong tục tập quán dân quê. Trần Tiêu, Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân…đếu có thể coi là những cây bút tiêu thuyết phong tục sắc sảo của các vùng quê của họ. Một hướng khác đi vào khảo sát lục đục giữa vợ cả và vợ lẽ, mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con chồng, anh và em, chú bác cô cậu và những đứa cháu bên nội bên ngoại…cũng có thể coi đây là một dạng của đời sống thôn quê. Tiêu biểu là Thanh Tịnh "muốn làm người mục đồng ngồi giữa bóng tre thổi sáo để ca hát những đám mây và những làn gió lướt bay trên cánh đồng…" (Lời Thạch Lam trong bài tựa tập Quê mẹ). Không còn có thể nói hồ đồ rằng, những khuynh hướng đó là "lãng mạn tiêu cực" hoặc "tự nhiên chủ nghĩa"…Khuynh hướng nào kể trên cũng có những sáng tác đặc sắc có giá trị về nghệ thuật và về tư tưởng của những nhà văn thật sự tài năng mà lịch sử văn học không thể bỏ qua. Song dù vậy, vẫn phải thừa nhận rằng, các hướng tiếp cận thực tại đó đã hạn chế nhiều tầm khái quát xã hội của các nhà văn. Các cây bút tả chân xã hội thời kỳ này rất quan tâm viết nhiều về nông thôn, song trào lưu văn học hiện thực từ năm 1940 đến 1945, dù có những mặt đặc sắc, tiến bộ so với trước, vẫn có những mặt yếu đi trông thấy, "phạm vi của đề tài bị thu hẹp lại rõ rệt, không có những bức tranh xã hội rộng lớn với xung đột giai cấp quyết liệt như ở Giông tố, Bước đường cùng…của thời Mặt trận dân chủ."
Chí Phèo của Nam Cao không thuộc các hướng viết đó. Trên bối cảnh chung của văn học hiện thực thời kỳ 1940 – 1945 như vậy, Chí Phèo là một hiện tượng đột xuất. Giống như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giống tố…thời Mặt trận dân chủ, Chí Phèo cũng là "bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt". Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về tính đầy đặn, đa dạng, nhiều màu sắc của bức tranh về đời sống xã hội nông thôn. Đó là ấn tượng về hệ thống tôn ti, trật tự, ngôi thứ rõ ràng của làng Vũ Đại. Trên cùng là "cụ tiên chỉ" bá Kiến, rồi đến lớp "đàn anh" và bọn cường hào; bên dưới là hạng "đàn em" dân đinh cổ cày vai bừa, trong số này, có hạng cùng hơn cả dân cùng…Đó là ấn tượng về tình trạng khép kín của làng xã phong kiến thời xưa. Song nếu tác phẩm thực sự là bức tranh xã hội thì trước hết nó đã phơi bày sáng tỏ các mối quan hệ phức tạp của hiện thực, đã "miêu tả trung thực những quan hệ thực". Ngòi bút phân tích xã hội khi vạch ra mối "quan hệ thực" trong nội bộ bọn cường hào. chẳng phải vì đất làng Vũ Đại có cái thế "quần ngư tranh thực" như lời ông thầy địa lý nào đó nói "hồi năm nọ" nên bọn cường hào làng này chia thành năm bè bảy cánh đối nghịch nhau, mà chính là do bọn "chúng chỉ là một đàn cá tranh mồi, mồi ngon đấy, nhưng mà năm bè bảy mối, bè nào cũng muốn ăn. Ngoài mặt thì tử tế với nhau nhưng trong bụng lúc nào cũng muốn cho nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên cổ." Tình trạng bè cánh tranh ăn trong bọn cường hào rất là phổ biến và có tính quy luật ở nông thôn, có ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều mặt đời sống xã hội, trước hết là tới số phận người nông dân nghèo – những ruồi muỗi chết oan uổng khi trâu bò húc nhau. Tình trạng này cũng đã được Nguyễn Công Hoan phản ánh tỉ mỉ trong cuốn tiểu thuyết dày dặn Cái thủ lợn (1939).
Cũng chính là trực tiếp kế thừa và phát huy mạch cảm hứng đó của văn học hiện thực thời kỳ Mặt trận dân chủ, Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển hình được khắc họa hoàn chỉnh về các lực lượng thống trị. Những bà phó Thụ, lão Cựu Túy, bà Chánh Liễu, lão Hải Nam…chỉ là những nhân vật thấp thoáng ở hậu cảnh mà thôi.
Chân dung lão cường hào cáo già bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm với những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là giọng quát rất sang (bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh con người), lối nói ngọt nhạt, và nhất là cái cười Tào Tháo (cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy). Tất cả đều cho thấy bản chất gian hùng của lão cường hào khôn róc đời này. Nam Cao cũng hé cho thấy tư cách nhem nhuốc của cụ tiên chỉ: đó là thói ghen tuông thảm hại của lão cường hào háo sắc mà sợ vợ – lão cay đắng nhận ra mình già yếu quá mà bà tư thì cứ trẻ, cứ phây phây, nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ…khác gì nhai miếng thịt bò lựt sựt khi rụng gần hết răng; đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với người vợ lính vắng chồng…và bổ sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà cụ bá được hoàn chỉnh, còn có bà tư quỷ cái thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại cứ bóp lên trên, trên nữa…Nhà văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng tuy không kém phần thâm thúy, chứ không sa đà trong việc soi mói đời tư thối tha của lão cường hào.
Ông tập trung ngòi bút vào việc soi sáng bản chất xã hội của nhân vật, chủ yếu thể hiện trong mối quan hệ với người nông dân bị áp bức. Đoạn độc thoại nội tâm rất mực sinh động của cụ tiên chỉ làng Vũ Đại về cái nghề tổng lý cho thấy Nam Cao chẳng những soi thấu tim đen của nhân vật mà còn tỏ ra hiểu sâu sắc các mối quan hệ xã hội ở nông thôn. Bá Kiến đang lặng lẽ nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra từ bốn đời tổng lý những phương châm, thủ đoạn thống trị khôn ngoan: mềm nắn, rắn buông, bám thằng có tóc ai bám thằng trọc đầu, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân, chỉ bóp đến nửa chừng, hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Còn đây là những sách lược dùng người của lão: Không có những thằng đầu bò, thì lấy ai cai trị những thằng đầu bò, thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù, những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm ba đồng uống rượu thì có thể sai nó đến hại bất cứ anh nào không nghe mình. Có chúng nó sinh chuyện thì mình mới có dịp mà ăn. Tất cả đều nhằm sao cho vừa bóp nặn được nhiều nhất, vừa giữa chắc cái ghế thống trị. Tâm địa thâm độc tới mức ghê sợ của lão còn thể hiện trong việc hắn nhẹ nhàng "khích" Chí Phèo đòi nợ đội Tảo, đẩy những kẻ sẵn sàng đâm chém ấy vào chỗ chém nhau, để kẻ nào chết cũng có lợi cho cụ cả! thật là một con hề biết cười.
Thế giới nhân vật nông dân Nam Cao tuy không đông đúc gì lắm nhưng thật phức tạp, sống động, nên không phải không làm cho người nghiên cứu lúng túng khi phân loại. Song dù vậy, nhìn trên đại thể, có thể thấy Nam Cao đặc biệt quan tâm tới hai hạng người (cũng là hai phương diện trong nỗi khổ không cùng của người nông dân): một là những người thấp cổ bé họng nhất, bị ức hiếp bất công nhất, càng "ở hiền" thì lại càng "không gặp lành"; hai là những người bị hắt hủi, bị xúc phạm về nhân phẩm, bị lăng nhục một cách bất công, độc ác. Chí Phèo đích thực là nhân vật của Nam Cao: vừa là một thằng cùng hơn cả dân cùng, vốn hiền như đất – tội nghiệp cho hắn. có lần thấy hắn vừa bóp đùi cho bà ba vừa run run, nhưng càng thêm hiền lành thì càng bị đạp giúi xuống…đồng thời vừa là một trường hợp con người bị miệt thị phũ phàng, bị gạt ra ngoài hệ thống giá trị của cộng đồng. Từ khi đi tù về, Chí Phèo không thể sống như trước và hắn không còn được gọi là con người nữa.
Vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan lại tham nhũng, thiên tai địch họa…mà ở Chí Phèo – và ở nhiều chuyện khác nữa – nhà văn đi vào một phương diện khác: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt nhân tính, do đó, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải ở chỗ tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một số không, không nhà cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề biết đến một bàn tay cham sóc đàn bà nếu không gặp thị Nở…, mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Không, tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ, hắn từ chửi trời đến chửi đất rồi chửi ngay cả làng Vũ Đại…và hắn bỗng tức tối khi không ai lên tiếng cả…Trong cơn say, hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thía "nông nỗi" khốn khổ của thân phận. Đó là "nông nỗi" không có người nào chịu chửi lại hắn! Có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chỉ Phèo chửi cả làng…với hy vọng được người nào đó chửi lại. Những tín hiệu yêu cầu giao tiếp phát đi liên tục đó lại chỉ gặp sự yên lặng đáng sợ. Và chỉ còn lại một mình Chí Phèo trong sa mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu…
…Chí Phèo trước hết là một "hiện tượng có tính chất quy luật", tính phổ biến, sản phẩm cảu tình trạng áp bức bóc lột tàn tệ ở nông thôn Việt Nam trước đây. Đó là hiện tượng những người nông dân lao động bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh, đẩy anh canh điền hiền lành vào tù; nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cường hào đã giết chết phần người trong con người Chí, biến Chí thànhChí Phèo, biến một người nông dân lương thiện thành một con quỷ dữ. Với ngòi bút hiện thực tỉnh táo ông vạch ra rằng, những người nông dân khốn khổ phải giành lấy sự tồn tại sinh vật bằng việc bán cả nhân phẩm ấy, đã trở thành lực lượng phá hoại mù quáng, dễ dàng bị bọn thống trị thâm độc lợi dụng. Vì thế mà Chí Phèo từ chỗ hung hăng đến nhà, tuyên bố liều chết với bố con lão, chỉ cần mấy câu nói ngọt xớt, chuỗi cười Tào Tháo và mấy hào chỉ, đã trở thành tên tay sai mới của lão. Hiện tượng mỉa mai, đau xót đó cũng rất phổ biến và có tính quy luật mà ngòi bút phân tích xã hội sâu sắc của Nam Cao đã vạch ra.
Đoạn văn viết về sự thức tỉnh cảu linh hồn Chí Phèo sau đêm gặp gỡ với thị Nở, một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ của ngòi bút Nam Cao.
Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy muộn lòng bâng khuâng, mơ hồ buồn. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mới cảm thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá…Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay bỗng trở nên vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo, trở thành những tiếng gọi thiết tha của cuộc sống vẳng đến đôi tai lần đầu tiên tỉnh táo của anh. Cuộc gặp gỡ với thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Dưới ánh sáng của tia chớp ấy,Chí Phèo bỗng nhìn thấy rõ tất cả cuộc đời mình: những ngày xưa rất xa xôi đã từng ao ước một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm; cái hiện tại đáng buồn: già mà vẫn còn cô độc; cái tương lai còn đáng buồn hơn đói rét và ốm đau. Nếu như bao năm nay Chí Phèo bao giờ cũng say, say vô tận, có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh, để nhớ rằng có hắn ở đời, thì hôm nay lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh táo, tỉnh táo để ý thức được về thân phận mình. Khi thấy thị Nở bưng cháo hành đến, hắn rất ngạc nhiên và hết sức xúc động bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Hắn ăn bát cháo hành từ tay thị Nở và bỗng nhận thấy rằng, cháo hành ăn rất ngon. Bởi vì hương vị của cháo hành lúc này chính là hương vị của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc giản dị mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo. Lần đầu tiên, Chí Phèo măt như ươn ướt, ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt, trở lại là anh canh điền trong trắng năm xưa cảm thấy bị xúc phạm khi cái bà ba quỷ cái gọi lên bóp chân, trở lại anh nông dân lương thiện từng mơ ước cuộc sống gia đình hạnh phúc hết sức bình dị khiêm nhường trong lao động. Đó là cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi…
Như vậy là lòng yêu thương, cái tình người chân thành đã làm sống lại trongChí Phèo cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động bao lâu nay bị che lấp, vùi dập nhưng vẫn không tắt. Bọn cường hào và nhà tù thực dân, nói rộng ra là cả cái xã hội tàn bạo ấy, ra sức giết chết cái "bản tính tốt" ấy của anh. "Trần trụi giữa bầy sói" anh không thể hiền lành, trong trắng, mà để tồn tại, anh phải cướp giật ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều và mạnh; những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn say, hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Xét đến cùng, Chí Phèo không chịu trách nhiệm về những hành động của mình: linh hồn của anh ta đã bị cướp đi rồi.
Nhưng hôm nay, tình yêu đã thức tỉnh anh ta và linh hồn đã trở về. Anh bỗng thấy thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao! Anh như rưng rưng và bẽn lẽn trong sự phục sinh của linh hồn đó. Anh mong được nhận lại vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Tình yêu của thị Nở chẳng những đã thức tỉnh anh mà còn hé cho anh con đường trở lại làm người, trở lại cuộc đời và anh đã hồi hộp hi vọng.
Tư tưởng nhân đạo và bút lực phi thường đó còn thể hiện ở đoạn miêu tả tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Truyện ngắn đầy ấp dẫn này càng về cuối càng đặc biệt hấp dẫn, không hải chỉ vì cốt truyện, tình tiết đầy tính kịch, biến hóa khôn lường, mà còn vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao một cách bất ngờ của tác phẩm.
Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như một bi kịch số phận, song nếu hiểu cho thật chặt chẽ, chính xác thì từ nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khát khao trở lại làm người nhưng bị cự tuyệt lạnh lùng, thì chỉ đến khi đó, Chí Phèo mới thật sự rơi vào tình thế bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người.
Khi hiểu ra rằng, xã hội không công nhận mình, Chí Phèo vật vã, đau đớn. Hắn lại uống, nhưng điều lạ hôm nay hắn càng uống càng tỉnh ra. Đúng hơn là tuy say, trong tâm thức Chí Phèo lúc này vẫn có một điểm tỉnh: nỗi đau khốn cùng về thân phận. Và hắn ôm mặt khóc rưng rức. Rồi như để chạy trốn, bản thân chạy trốn nỗi đau, hắn lại uống…lại uống…đến say mềm người. Rồi hắn đi với con dao, và vừa đi vừa chửi… như mọi khi. Nhưng lại hoàn toàn khác mọi lần: hôm nay Chí Phèo quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng, càng thấm thía hơn bao giờ hết tội ác của kẻ thù, đã đến thẳng trước Bá Kiến, trợn mắt chỉ tay vào mặt lão dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt đã bị vằm nát của mình. Kẻ chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, anh không thể chấp nhận trở lại kiếp sống thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, chết trong tâm trạng bị đau đớn. Thế là trước đây, để bám lấy sự sống, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, ý thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về, Chí Phèo lại chết. Có người nghi ngờ tấm lòng Nam Cao đối với nhân dân, vì thấy người nông dân của nhà văn phần nhiều xấu xí, dữ tợn. Vậy mà chính những người khốn khổ có bộ mặt và tính cách không mấy "đáng yêu" đó, nhiều khi ý thức nhân phẩm còn mạnh hơn cả cái chết. Lão Hạc bề ngoài dường như lầm cẩm, gàn dở nhưng lão đã lặng lẽ tìm đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong cảnh cùng đường (Lão Hạc), Lang Rận cũng tìm đến cái chết vì không chịu nổi điều nhục nhã đang chờ ông ta hôm sau (Lang Rận). Và ở đây là Chí Phèo.
Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn vì khao khát lớn lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện đã không thực hiện được. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo, vừa đanh thép, chất chứa phẫn nộ, vừa mang sắc thái triết học và âm điệu bi thống đầ ám ảnh, làm người đọc sững sờ và day dứt không thôi…"Ai cho tao lương thiện?". Làm thế nào để con người được sống cuộc sống con người? Đó là "một câu hỏi lớn không lời đáp", chẳng những không thể hiểu mà xã hội khi ấy cũng chưa thể trả lời. Câu hỏi ấy được đặt ra một cách bức thiết, day dứt trong hầu như toàn bộ sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng. Và đặt ra bằng một tài năng lớn độc đáo, khiến cho nhiều sáng tác của Nam Cao – trước hết là Chí Phèo – thuộc vào những trang hay nhất của nên văn xuôi Việt Nam.
Audio Phân tích tác phẩm Chí Phèo
Video Phân tích tác phẩm Chí Phèo
- Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo
- Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo
- Phân tích nhân vật Chí Phèo của tác giả Nam Cao
Bài tiếp theo: Phân tích bài Cha con nghĩa nặng