Viết đoạn văn khoảng 150 chữ phân tích một đoạn thơ trong văn bản "Lời tiễn dặn" đã để lại cho bạn những ấn tượng thật sự sâu sắc
Viết đoạn văn khoảng 150 chữ phân tích một đoạn thơ trong văn bản "Lời tiễn dặn" đã để lại cho bạn những ấn tượng thật sự sâu sắc
- 1. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 1
- 2. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 2
- 3. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 3
- 4. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 4
- 5. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 5
- 6. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 6
- 7. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 7
- 8. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 8
Viết đoạn văn khoảng 150 chữ phân tích một đoạn thơ trong văn bản "Lời tiễn dặn" đã để lại cho bạn những ấn tượng thật sự sâu sắc là tài liệu học tập mới nhất được VnDoc biên soạn kĩ lưỡng, nhằm giúp các bạn học sinh học tập tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn tham khảo!
1. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 1
Truyện thơ “Lời tiễn dặn” là câu chuyện cảm động về tình yêu son sắt, mặn nồng của đôi lứa. Nổi bật trong tác phẩm là lời thề tình yêu giàu hình ảnh của chàng trai dành cho cô gái:
"Đôi ta yêu nhau, đợi tới tháng Năm lau nở,
Đợi mùa nước đỏ cá về
Đợi chim tăng ló hót gọi hè
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già"
Mối tình của đôi lứa yêu nhau đã vượt qua cả giới hạn của không gian và thời gian. Đứng trước cảnh biệt li, chàg trai càng khẳng định tình cảm vũng bền của mình dù có phải chờ đợi. Tình yêu ta nối dài từ “tháng Năm lau nở” đến “mùa nước đỏ cá về” rồi mùa hè “chim tăng ló hót”. Sự đối lập giữa các cột mốc thời gian “mùa hạ” - “mùa đông”, “thời trẻ” - “góa bụa về già” cùng điệp cấu trúc “Không lấy được nhau…. ta lấy nhau…” đã thể hiện sự quyết tâm đến cùng, tìm mọi cách để được ở bên người anh yêu. Điệp từ “Đợi” được lặp lại ba lần trong đoạn thơ tựa như nỗi nhớ và tình yêu cứ ngân lên không dứt. Bằng các hình ảnh thiên nhiên phong phú và biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc tác giả dân gian đã diễn tả một tình yêu cháy bỏng và cao cả vô cùng. Đây xứng đáng là một trong những đoạn thơ hay nhất viết về tình yêu trong văn học Việt Nam.
2. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 2
Đoạn thơ để lại ấn tượng sâu sắc trong em là:
“Chết ba năm hình còn treo đó;
Chết thành sông, vực nước uống mát lòng
Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,
Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung,
Chết thành muôi, ta múc xuống cùng bát,
Chết thành hồn, chung một mái, song song.”
Với việc sử dụng điệp cấu trúc “Chết…” làm nổi bật lời thề nguyền của chàng trai đã lên đến tận cùng, Chàng trai khẳng định dù biến thành bất cứ hình dạng, dáng vẻ nào, hai người vẫn sẽ ở bên nhau, vai kề vai sánh đôi. Cái chết tưởng chừng như hết nhưng khi đặt trong hoàn cảnh này, nó như trở thành một sự giải thoát cho cả hai, sẽ đưa họ đến bên nhau mà không ai có thể ngăn cách. Cách nói đầy hình ảnh này nhằm nhấn mạnh tình yêu mà chàng trai dành cho cô gái, nó dường như đã vượt ra khỏi ranh giới giữa sự sống và cái chết, tìm kiếm hy vọng trong sự tận cùng, chỉ vì muốn được ở bên nhau dù trong bất cứ thân phận nào. Tình cảm ấy thật mãnh liệt, nồng cháy, một tình yêu bất diệt trước mọi hoàn cảnh khiến người đọc không khỏi xúc động, cảm thông cho hoàn cảnh của chàng trai.
3. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 3
Anh tới nơi, em bẻ lá xanh em ngồi;
Được nhủ đôi câu, anh mới đành lòng quay lại,
Được dặn đôi lời, anh yêu em mới chịu quay đi.
Lúc tiễn đưa này, anh – người đàn ông dân tộc Thái ấy, cử chỉ thân mật, tình cảm tuyệt vời, trước người con gái mình yêu, hoàn cảnh éo le hiện tại, anh cũng như chị, cũng muốn níu kéo thời gian giây phút ngắn ngủi được ở bên chị, Anh đòi hỏi với mong muốn tha thiết phải được dặn chị đôi lời mới chịu quay gót, phải dặn dù chẳng được nói chuyện nhiều như lúc xưa kia nhưng vì anh luôn cảm thấy chi hiểu mình, tin tưởng nhau tuyệt đối như ngày nào nên dù có dặn đôi câu cũng đã yên lòng quay gót đi. Ngôn ngữ xưng hô trong dân ca Thái và trong tiễn dặn người yêu sao mà ngọt ngào, mở đầu đoạn trích Anh gọi chị là “người đẹp anh yêu”, đến lúc gặp được chị là một câu tự xưng “anh yêu của em” khẳng định tình yêu trong Anh vẫn nồng nàn, thắm thiết.
4. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 4
Tiễn dặn người yêu là một trong những truyện thơ tiêu biểu và đặc sắc trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số, được bổ sung qua nhiều thế hệ người Thái. Người Thái coi đây là cuốn sách quý nhất trong mọi cuốn sách quý vì nó thể hiện rõ nét cuộc sống và tâm hồn Thái. Mở đầu đoạn trích, chàng trai đã âu yếm gọi cô gái là “người đẹp anh yêu”, “anh yêu em”. Cách xưng hô, cách gọi đậm chất trữ tình, đặc trưng cho lời ăn tiếng nói của đồng bào Thái và mang sắc thái trữ tình sâu sắc. Vẻ đẹp của người con gái Thái được miêu tả bàng một nét phác hoạ chính xác hết sức tài tình : “Xin hãy cho anh kề vóc mảnh” bởi ai đã từng tiếp xúc với người phụ nữ Thái hẳn sẽ ấn tượng với dáng vóc mảnh mai có phần kiêu sa của họ. Truyện thơ khác với các thể loại tự sự văn xuôi ở ưu thế tả người, tả cảnh, tả tình, ơ phần khác của truyện thơ này có một số dòng miêu tả vẻ đẹp của người con gái : “Ngón tay thon lá hành – Đuôi mắt dài như mắt lá trầu xanh”.Chính đoạn thơ này đã trở thành điểm nhấn và là cảm hứng tạo nên đầu đề của truyện thơ Tiễn dặn người yêu. Vì chỉ ở thời điểm này, tình yêu mới bộc lộ được hết sắc độ của nó, với yêu thương, đớn đau, tuyệt vọng và quyết tâm không gì lay chuyển.
5. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 5
Tình cảm của người con trai ấy thật cao cả, đáng quý, không những chỉ yêu mình chị, còn dành cả tình yêu luôn cả đứa con riêng của cô gái. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải chấp nhận tình cảm, cũng như đứa con mà tạo thành bởi một cuộc tình không có cảm xúc, lạnh nhạt với người chồng hiện tại. Anh vẫn bao dung, trân trọng cô, anh nựng đứa con của người yêu như chính đưa con ruột của mình.
Con nhỏ hãy đưa anh ẵm,
Bé xinh hãy đưa anh bồng,
Cho anh bế con dòng, đừng ngượng,
Nựng con rồng, con phượng, đừng buồn.
Tiếng nựng kia dù chân thành nhưng làm sao có thể tránh sự đau lòng, ai oán, khi tình yêu đến mà không được cùng nhau đi đến cuối cuộc đời,không được cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc, những đàn con thơ.
6. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 6
“Đôi ta yêu nhau, đợi tới tháng Năm lau nở,
Đợi mùa nước đỏ cá về, Đợi mùa chim tăng ló gọi hè.
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông,
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi góa bụa về già’’.
Đây cũng như là ý chính chủ đạo bao bọc của bài thơ, ý thơ hay dào cảm xúc. Có Thời gian cụ thể, bằng cả sự chân thành, tứ thơ bay bổng, lay động mà chân thật, gắn với hai mùa đầu và cuối trong một năm cũng tương tự như là đời người, dù không thể trọn vẹn tình yêu nơi tuổi thanh xuân trẻ trung, nồng nhiệt kia, nhưng tình yêu thì sẽ chẳng bao giờ là muộn để tiếp nối lại, để tạo nên gia đình hạnh phúc của hai người, dù có khi đến tàn phai theo năm tháng họ đều đã về già nhưng sự chờ đợi nhau dù bao nhiêu lâu” tháng năm lau nở”, “nước đỏ cá về”, “chim tăng ló gọi hè”, tình yêu trong sáng ấy không bao giờ bị dập tắt như chính lời thề nguyền ngày nào.
7. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 7
“Lời tiễn dặn” là truyện thơ đặc sắc, tiêu biểu nhất của dân tộc Thái giữa một kho tàng văn học các dân tộc thiểu số, thể hiện khát vọng tự do yêu đương của lứa đôi. Một trong những điều đau khổ nhất trong cuộc đời là không thể cùng sống hạnh phúc với người mình yêu. Đó cũng chính là tâm trạng, nỗi khổ tâm của cô gái trong truyện, được chàng trai cảm nhận với cả tấm lòng. Cô gái bịn rịn, lưu luyến, không muốn xa rời người yêu qua những hành động cụ thể:
“Vừa đi vừa ngoảnh lại,
Vừa đi vừa ngoái trông,
Chân bước xa lòng càng đau nhớ.
Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,
Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,
Tới rừng lá ngón ngóng trông”.
8. Đoạn văn phân tích một đoạn thơ trong Lời tiễn dặn mẫu 8
Đây cũng như là ý chính chủ đạo bao bọc của bài thơ, ý thơ hay dạt dào cảm xúc. Có Thời gian cụ thể, bằng cả sự chân thành, tứ thơ bay bổng, lay động mà chân thật, gắn với hai mùa đầu và cuối trong một năm cũng tương tự như là đời người, dù không thể trọn vẹn tình yêu nơi tuổi thanh xuân trẻ trung, nồng nhiệt kia, nhưng tình yêu thì sẽ chẳng bao giờ là muộn để tiếp nối lại, để tạo nên gia đình hạnh phúc của hai người, dù có khi đến tàn phai theo năm tháng họ đều đã về già nhưng sự chờ đợi nhau dù bao nhiêu lâu” tháng năm lau nở”, “nước đỏ cá về”, “chim tăng ló gọi hè”, tình yêu trong sáng ấy không bao giờ bị dập tắt như chính lời thề nguyền ngày nào.