16 bài Phân tích nhân vật Chí Phèo HAY CHỌN LỌC
Top 15 bài Phân tích nhân vật Chí Phèo HAY CHỌN LỌC
- Dàn ý Phân tích nhân vật Chí Phèo
- Văn mẫu Phân tích nhân vật Chí Phèo
- Phân tích Chí Phèo - Mẫu 1
- Phân tích Chí Phèo - Mẫu 2
- Phân tích Chí Phèo - Mẫu 3
- Phân tích Chí Phèo - Mẫu 4
- Phân tích Chí Phèo - Mẫu 5
- Phân tích Chí Phèo - Mẫu 6
- Phân tích Chí Phèo - Mẫu 7
- Phân tích Chí Phèo - Mẫu 8
- Phân tích Chí Phèo - Mẫu 9
- Phân tích Chí Phèo - Mẫu 10
- Phân tích Chí Phèo - Mẫu 11
- Phân tích Chí Phèo - Mẫu 12
- Phân tích Chí Phèo - Mẫu 13
- Phân tích Chí Phèo - Mẫu 14
- Phân tích Chí Phèo - Mẫu 15
VnDoc xin giới thiệu Phân tích nhân vật Chí Phèo qua truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao để thấy được tấm bi kịch của cuộc đời Chí Phèo, về số phận con người bị chà đạp trong xã hội phong kiến đầy bất công.
Dàn ý Phân tích nhân vật Chí Phèo
I. Mở bài
– “Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác trong văn xuôi đương thời, là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao.
– Ngòi bút Nam Cao có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo-một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam-đã thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc đáo có chiều sâu trong thể hiện nỗi khổ con người đó của Nam Cao.
II. Thân bài.
A. CON NGƯỜI CHÍ PHÈO CHẲNG NHỮNG BỊ TƯỚC ĐOẠT NHÂN TÍNH MÀ CÒN BỊ HỦY HOẠI CẢ NHÂN HÌNH NỮA.
1. Chí Phèo bị hủy hoại nhân hình.
Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo là một đứa con hoang, bị bỏ rơi bên một lò gạch cũ. Được dân làng nuôi, Chí Phèo, lớn lên như cây cỏ, tuổi thơ hết đi ở nhà này lại đi ở nhà nọ, tuổi thanh niên ra sức làm thân trâu ngựa cho nhà lí Kiến. Vì một chuyện ghen tuông vớ vẩn, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù. Sau bảy, tám năm biệt tích trở về làng, Chí Phèo đã hoàn toàn biến đổi. Ngoại hình thật kinh tởm, cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gườm trông gớm chết.
Chí Phèo chuyên đập đầu, rạch mặt và đâm chém người cho nên cúi mặt hắn vàng mà lại muốn xạm màu gio, nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo.
Người cố nông ấy hoàn toàn bị tước đoạt nhân hình, biến thành nửa người nửa vật: nó không còn phải là mặt người: nó là mặt của một con vật lạ.
2. Chí Phèo bị tước đoạt nhân tính.
Từ lúc về làng, Chí Phèo hoàn toàn không kiểm soát được hành động của mình. Khi mua chịu rượu, bà hàng ngần ngừ không muốn đưa thì hắn rút bao diêm, đánh cái xòe, châm lên mái lều của mụ. Mụ hoảng hốt kêu gọi om sòm, vội dập tắt được ngọn lửa mới chạy, rồi khóc lóc mêu mêu, mụ đưa ra chai rượu.
Chí Phèo hoàn toàn bị tha hóa, hành động như người mất trí. Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm. Trong cơn say, Chí Phèo hành động tàn bạo như một con quỷ dữ, hoàn toàn mất nhân tính. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn say, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận (…). Hắn biết đâu đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện!.
B. NGƯỜI NÔNG DÂN BỊ LƯU MANH HÓA ẤY CUỐI CÙNG ĐÃ THỨC TỈNH.
1. Người nông dân bị tha hóa.
Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá, thậm chí bị huỷ hoại hoàn toàn của Chí Phèo, bản chất lương thiện ngày thường bị che lấp đi, vẫn le lói một ánh lương tri, sẽ bừng sáng khi gặp được cơ hội. Lúc được thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn phải dọa nạt hay giật cướp mới có.
Tình cảm chân thật của thị Nở đã khơi dậy ý thức và lương tâm của Chí Phèo. Từ lúc này, Chí mới ý thức tình trạng tha hóa của mình và bi kịch bắt đầu diễn ra trong đời sống nội tâm.
2. Cuối cùng đã thức tỉnh
Sau khi được thị Nở chăm sóc, lần đầu tiên khi tỉnh giấc, Chí Phèo bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ thì niềm ao ước có một gia đình nho nhỏ bừng lên. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù?.
Bản chất tốt đẹp của người lao động thức tỉnh trong lòng Chí: Trời ơi. Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!… Người ta sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện .
C. ĐIỀU BI THẢM LÀ ANH TA CHỈ MUỐN TRỞ LẠI LÀM NGƯỜI MÀ KHÔNG ĐƯỢC
1. Chí Phèo lại rơi vào bế tắc
Chí Phèo tha thiết muốn trở về sống lương thiện với mọi người, nhưng tất cả làng Vũ Đại đều sợ hãi, xa lánh anh ta. Thị Nở lại “cắt đứt” với Chí Phèo. Chí lại rơi vào tình thế hoàn toàn tuyệt vọng: Sống lương thiện thì không được chấp nhận, làm lưu manh như cũ thì không thể và cũng không muốn.
Những lời lẽ cuối cùng của Chí Phèo bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm đó: “Tao muốn làm người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này! Tao không thể là người lương thiện được nữa. Biết không!”.
2. Bi kịch biến thành thảm kịch
Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch đời Chí, rồi tự sát.
Nhân vật Chí Phèo được xây dựng thành công: vừa có nét khái quát, vừa có cá tính. Người cố nông đó đã vừa bị hủy hoại nhân hình, vừa bị tước đoạt cả nhân tính. Nhân vật được miêu tả sâu sắc từ chân dung đến tính cách, từ bộ mặt đến những diễn biến tâm lí.
III. Kết bài.
Tác phẩm Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện ở tấm lòng yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ. Tác giả phát hiện những phần sâu kín nhất trong tâm hồn của họ, những gì còn lại của tình người, sự khát khao hạnh phúc, ước muốn yêu thương, nhất là quyền được làm người lương thiện.
Chí Phèo là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh: Hãy bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện, để họ được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ mất cả nhân hình lẫn nhân tính đầy bi kịch xót xa.
Văn mẫu Phân tích nhân vật Chí Phèo
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 1
“Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc sống viết ra” (Andersen). Bức tranh hiện thực cuộc sống và con người trong tác phẩm “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao đã gây ấn tượng đặc biệt sâu đậm trong lòng bạn đọc. Trong đó, Chí Phèo là một hình tượng trung tâm giàu ý nghĩa xuyên suốt tác phẩm, khái quát số phận của một lớp người, bản chất của cả một xã hội, trở thành hình ảnh ấm nồng về sự khát khao cho cuộc đời lương thiện.
Nam Cao là một cây bút hiện thực xuất sắc. Ngòi bút của ông thường hướng về hai đối tượng là người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm “Chí Phèo” được nhà văn chắp bút năm 1941. Truyện kể lại cuộc đời của một người dân cùng khổ tên là Chí Phèo. Cuộc đời Chí Phèo có thể chia thành hai chặng lớn: trước và sau khi gặp Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở cũng có hai chặng nhỏ mà mốc phân định là nhà tù. Nhà tù thực dân đã biến một người lương thiện thành một tên lưu manh.
Hình tượng nhân vật là nơi quy tụ mọi vẻ đẹp về phẩm chất cũng như những vấn đề nhân sinh phức tạp mà nhà văn muốn phản ánh trong cuộc sống, con người. Ở đó kết tinh những suy ngẫm, tư tưởng và tình cảm, thái độ của nhà văn. Chí Phèo, sinh ra là một đứa con hoang, bị bỏ rơi nơi lò gạch cũ khi vừa mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được cho là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm dục đáng khinh bỉ, nhục nhã. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí có mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã và không sao gượng dậy được. Đó là lúc Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa và vô lý, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó.
Khi Chí ra tù, chàng trai hiền lành, lương thiện mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến tha hóa dị dạng. Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm”. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù, hắn ngụp lặn trong trạng thái tinh thần say miên man. Từ đó, Nam Cao mô tả đời hắn như một cơn say dài, mênh mông bất tận, “và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở trên đời”. Lúc này, Bá Kiến cùng với xã hội đương thời như đang hoàn thành nốt các bước “nhào nặn” Chí Phèo trở thành một tay đi đòi nợ thuê, chém giết thuê. “Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người dân lương thiện”. Tính Người trong Chí dường như đã cạn kiệt, linh hồn ác quỷ xâm chiếm và tàn phá anh nông dân hiền lành năm nào.
Đầu tiên hình ảnh Chí Phèo hiện lên với những bước chân loạng choạng trong tình trạng say khướt và “ hắn vừa đi vừa chửi”, “cứ rượu xong là hắn chửi”. Chí chửi trời, trời cao quá không sao nghe được, Chí chửi đời, đời rộng quá bao la quá và cũng “chẳng là ai” và rồi Chí chửi ngay cả làng Vũ Đại nhưng chẳng ai trả lời vì họ nghĩ “chắc nó trừ mình ra”. Có lẽ với Chí Phèo, điều duy nhất mà Chí có thể đối thoại với cuộc đời là tiếng chửi. Và rồi, Chí lại cất tiếng chửi, “chửi đứa chết mẹ nào không chửi nhau với hắn”. Nhưng một lần nữa, thứ Chí nhận lại được chỉ là sự im lặng, sự thờ ơ đến rợn người. Chí chửi người có lẽ chỉ là cách để hắn thu hút sự chú ý, để được “làm hòa”, được giao tiếp, trò chuyện cùng mọi người. Đau đớn tột cùng là khi hắn cứ chửi “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn”.Chí bấy giờ chỉ là một cái bóng, một kẻ tha hóa trong lòng người dân Vũ Đại, là một con quỷ dữ bên lề xã hội. Người dân trong làng không công nhận Chí là một con người, dù chỉ là người dưới đáy xã hội. Cuộc đời yên lặng, lòng người lạnh lùng để lại một Chí Phèo với một khoảng không gian cô độc và sự cô đơn tuyệt đối, một con quỷ dữ “mồ côi” thiếu tình thương từ nhỏ và lớn lên không được làm người.
Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi “cố tìm mà hiểu” chất “Người” trong tâm hồn của một kẻ mà phần “Con” đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo.
Đêm hôm ấy, Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng trong trạng thái cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ, “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”. Chí Phèo đã xông tới người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn” mà không chút đắn đo. Đêm hôm ấy, hành động của Chí chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu. Nhưng thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở trở thành nguồn sáng ấm áp chiếu rọi vào trái tim của Chí Phèo, thắp lên ngọn lửa, khao khát được hoàn lương, được trở về với thế giới loài người của Chí.
Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cá... Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi là buồn!. Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo bị cảm. Bát cháo hành của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn. Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà “lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ướt nước” và “hắn cười thật hiền”. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mắt và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ gần nghĩ xa. Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy! Việc Thị Nở chăm sóc cho Chí khi bị cảm gió ngoài vườn, thực ra, chỉ là cử chỉ của một lòng tốt bình thường của một con người dành cho một con người. Nhưng trong cái thế giới ngày càng vô tình, tha hóa của làng Vũ Đại, đây là lòng tốt hiếm hoi duy nhất mà Chí nhận được kể từ ngày về làng. Vì thế nó quý giá, nó mới làm cảm động Chí Phèo sâu xa đến thế. Quả thật, cái mà nhân loại thiếu không phải một lòng tốt xa vời và hư ảo của một ông thánh, cũng không phải lòng tốt suông của những nhà lập thuyết viển vông: “Cái mà nhân loại thiếu, đó là một lòng tốt bình thường”, lời nói đó đã luôn vang lên như một điệp khúc khắc khoải trong tác phẩm của Rơmác. Đó là một cái nhìn sâu sắc với tấm lòng xót thương đầy tình người của Nam Cao đối với con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi.
Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. “Vẻ đẹp không nằm ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà ở trong mắt của kẻ si tình”. Người phụ nữ ấy xấu ma chê quỷ hờn đấy nhưng Chí “say thị lắm!”. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Câu nói ấy đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người… thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh! Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.
Bà cô đã đay nghiến thị Nở, quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng làm sao trách được khi mọi người làng Vũ Đại lâu nay nhìn Chí chẳng khác nào con quỷ mang hình người. Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn “ngẩn người” khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn đuổi theo “nắm lấy tay” Thị nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”. Ấy là lần duy nhất hắn níu kéo một mối quan hệ người cũng là giây phút thảng thốt, chới với của một sinh linh đáng thương biết mình đã bị ruồng bỏ. Kẻ không nhận ra nỗi đau của mình sẽ không thể cảm thấy đau được, nhưng Chí Phèo đã không còn say nữa, cho dù uống rượu thì hắn “càng uống càng tỉnh”, lương tri đã tìm về và hắn đủ tỉnh táo để nhận ra bi kịch của mình. Ấy là lần duy nhất hắn níu kéo một mối quan hệ người cũng là giây phút thảng thốt, chới với của một sinh linh đáng thương biết mình đã bị ruồng bỏ. Nỗi đau tột cùng của Chí như vang vọng khắp câu chữ. Nó đã chuyển hóa thành sự căm phẫn tột độ. Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt khoát cự tuyệt. Rồi “hắn ôm mặt rưng rức” cho đến khi đã say mềm người rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng với câu nói lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó”. Có lẽ, hắn đã biết kẻ thù của hắn đang ở đâu, kẻ đã gây ra bi kịch cho cuộc đời hắn, khiến hắn phải bán đi linh hồn của mình để rồi suốt đời quẩn quanh, bế tắc trong vòng tội lỗi. Đó chính là Bá Kiến - ngọn nguồn của mọi tội lỗi trong cuộc đời Chí.
Chính vào buổi trưa “trời nắng, đường vắng” ấy, Chí Phèo lần thứ ba đến gặp Bá Kiến “không đòi tiền” như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền “làm người lương thiện!”. Câu nói của Chí Phèo: “… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!…” đó là những lời đanh thép vạch mặt, kết án tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo “văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng Vũ Đại đã làm hại đời anh. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thì làm quỷ dữ, sống như thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mặt anh. Cái chết của Chí là lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền con người.
Tác phẩm “Chí Phèo” mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ. “Chí Phèo” còn là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh. Hãy bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện. Họ phải được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ cùng khốn, bế tắc, đầy bi kịch xót xa. “Chí Phèo” là một tác phẩm văn học chân chính như trong quan niệm của Nam Cao: “Tác phẩm văn học có giá trị là tác phẩm phải thể hiện nỗi đau của con người, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình, nó làm cho người gần người hơn”.
Nam Cao đã thể hiện ngòi bút tài tình của mình qua nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình như Bá Kiến, Chí Phèo, vừa tiêu biểu cho những loại người có bề dày trong xã hội, vừa là những cá tính độc đáo và có sức sống mạnh mẽ. Tâm lí nhân vật được miêu tả thật tinh tế sắc sảo, tác giả có khả năng đi sâu vào nội tâm để diễn tả những diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật. Bên cạnh đó, ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ tác giả, có khi vừa là ngôn ngữ nhân vật. Tác giả như nhập vai vào từng nhân vật, chuyển từ vai này sang vai khác một cách linh hoạt, tự nhiên.
Hằn in dáng dấp của thời đại, hoài thương miền viễn ức xa xăm, đó là cách thức, cũng là lý do nghệ thuật ra đời. Mỗi con người trở thành tác giả đều mang trong mình sứ mệnh tái hiện, lưu giữ hiện thực xã hội và ánh hào quang của lịch sử. Trong “Chí Phèo”, Nam Cao đã thực hiện sứ mệnh ấy trọn vẹn đến mức dường như bớt một từ sẽ mất đi ý nghĩa, thêm một chữ sẽ trở nên dư thừa:
“Dẫu rằng phải kiếp lưu manh
Nhưng anh vẫn đẹp nhân tình Chí ơi!
Chết anh - một kiếp con người
Hóa thành bất tử giữa đời văn chương!”
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 2
Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí Phèo – Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện của Thị đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch đó dù chỉ là trong phút chốc
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả đã hư cấu, sáng tạo nên bức tranh hiện thực sống động về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh hoàng… Dù có được đặt tên là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.
Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nông dân bị tha hoá trong xã hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong cái xã hội ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm ỉ một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.
Một chút về Chí Phèo, ta có thể thấy hắn là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh long ghen tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buổi sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ”. Một “Chí Phèo con” sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.
Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm lý nhân vật thật xuất sắc. Ta có thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít” lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.
– Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ.Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc.
+ Cái diễn biến tâm lí của một con quỷ đang hướng về lương thiện.
Trong truyện ngắn Chí Phèo , quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người – những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để được giải thoát, vu vơ, ngẩn ngơ của một thằng say. Vậy mà nó thật trừu tượng mà cụ thể, xa đến gần, có thứ tự và vô cùng văn vẻ. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất .nhưng nó lại không được ai đáp lại cả. Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự bắt đầu. Chí Phèo ngạc nhiên ,xúc động khi Thị Nở bê bát cháo hành sang cho Chí Phèo. Hương vị cháo hạnh là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn. Rồi liên tiếp, Chí Phèo đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi. Lần đầu là khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã có quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hỏi làm sao để trở lại làm một con người bình thường?! Lần thứ hai là lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất hiện, đó là ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người và một con quỷ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi đến lúc gặp mặt Bá Kiên, những hành động đó mới là tư thế làm người cuối cùng trước khi chết của Chí Phèo.
Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết 1 Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng sống như trước nữa. Và Chí phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp phong kiến thống trị tha hoá, những bi kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 3
“Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán 1930-1945. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam.
Bi kịch Chí Phèo là bi kịch của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, bị cự tuyệt quyền làm người, hay nói một cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm người mà không thể được Nam Cao đã viết về tấn bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vô cùng sắc sảo: biến hóa lúc kể, lúc tả, triết lí thì thấm thía, trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật, làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỉ nay.
Nam Cao không nói về sưu thuế dã man, không nói về tô tức mà ông có những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp, có một cái nhìn mới mẻ độc đáo, sâu sắc trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông dân nghèo bị áp bức bóc lột tàn tệ trong xã hội thực dân phong kiến.
Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sơ sinh “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không”. Anh thả ống lương “rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù”, sau đó hắn bị đem bán cho bác phó cối. Chí lớn lên trong cảnh bơ vơ, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một mái lều che thân, không một tấc đất cắm dùi “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến năm 20 tuổi thì Chí Phèo làm canh điền cho lí Kiến.
Có thể nói cái trang đời thơ ấu và thanh niên của Chí Phèo là 20 năm trời đắng cay không chốn nương thân. Bi kịch của anh canh điền ngày bắt đầu từ chuyện bà Ba ông lí còn trẻ lắm mà “lại cứ hav ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy”. Chí không phải là gỗ đá, nhưng hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ”. Chỉ một chuyện ghen tuông không đâu. Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên bắt Chí giải lên huyện, bỏ tù hắn bảy tám năm trời. Cái nhà tù thực dân đã biến Chí Phèo từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.
Đi tù “biệt tăm”, bỗng đâu hắn lại "lù lù lần về”. Một Chí Phèo đã hoàn toàn khác hẳn: “Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, cái ngực và cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy… Đó là hình ảnh Chí Phèo lúc ngồi uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa tới xế chiều, cho đến lúc say khướt. Hắn đã hành động một cách dữ dội: xông thẳng đến nhà Bá Kiến chửi “mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ! Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bò vô cùng ngang ngược. Tuy nhiên hắn đã nhận diện ra Bá Kiến là kẻ thù của mình. Nhưng chỉ một bữa rượu, một vài câu mơn trớn, một đồng bạc đãi thêm của cụ Bá đã làm cho “Chí Phèo vô cùng hả hê”. Hắn mơ hồ về chuyện hắn “còn có họ” với lí Cường nữa đấy! Mấy hôm sau, Chí lại dở trò lưu manh đốt quán mụ bán rượu, lại vác dao đến nhà cụ Bá xin đi ở tù "bẩm quả đi ở tù sướng quá!”. Chỉ sáu ngày sau khi Chí về lại làng, hắn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai sinh sự: “Cái mặt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật". Hắn nghiến răng hăm dọa: con phải đâm chết vài ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”. Cụ Bá cười khanh khách, vỗ vai Chí Phèo một cái, hắn như bị thôi miên, rồi vác dao đến nhà đội Tảo đòi nợ cho cụ Bá. Chẳng xảy ra chuyện đổ máu. Chí Phèo vênh vênh cầm năm chục đồng bạc ra về, tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Từ đó Chí Phèo trở thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Thế là Chí có nhà, có năm sào vườn ở bãi sông, năm đó hắn hăm bảy, hăm tám tuổi. Cùng kể từ đáy, Chí mất phương hướng hẳn, hắn trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến. Hắn đã bán mình cho quỷ dữ, và chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ dữ ghê tởm. Hắn chìm ngập vào vũng bùn tăm tối, tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc đời mình “đã dài bao nhiêu năm rồi”. Năm nối năm, tuổi nối tuổi, “ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?’’. Bộ mặt Chí Phèo giờ đây như “cái mặt của con vật lạ” với màu '‘vàng vàng mà lại muốn xạm màu gió” với bao nhiêu là sẹo “vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai ăn vạ kêu làng! Cuộc đời hắn chồng chất tội lỗi “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”. Hắn đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”. Chí Phèo bị mua chuộc, bị xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Muốn giết người, muốn đâm chém và cướp giật cần gan và liều mạng, hắn đã tìm đến rượu. Mất dần nhân tính, hắn trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại: “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.
Chí Phèo đã bị cả xã hội ruồng bỏ. Cái thẻ có biên tên tuổi hắn cũng không có trong sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả dân làng đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Hắn chửi, ai cũng nghĩ “mặc thây cha nó”, ai cũng chẳng thèm nghe, khác nào “những người say rượu hát”. Hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” gây cho người đọc nỗi ám ảnh về bi kịch của một người điên khùng, mất trí đang trải qua nỗi cô đơn tuyệt vọng. Hắn chửi tuốt, chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn, “tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn!”. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. Hắn bị bao vây bởi một “sự im lặng đáng sợ”. Năm thì mười họa mới “ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Hắn đã hoàn toàn bị xã hội dứt khoát cự tuyệt không được nhìn nhận là người.
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến có tính quy luật ở nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc: nhiều người lao động lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh liều mạng để tồn tại. Năm Thọ “đầu bò đầu bướu” vừa đi mất tăm lại có Binh Chức lần về, Binh Chức chết lại nở ra Chí Phèo. Biết đâu thị Nở lại không đẻ nơi lò gạch cũ một Chí Phèo con trong cái váy đụp nữa? Bọn hào lí, một mặt bóp nặn dân lành đến tận xương tủy, mặt khác “lại phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn là dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, độc ác, áp bức bóc lột tàn tệ dân lành, thì chừng đó còn người lao động lương thiện bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, phải kiếm ăn bằng đâm thuê chém mướn, bằng cướp giật. Cái xã hội ấy đã cướp đi của họ cả bộ mặt lẫn linh hồn người, hủy diệt nhân tính và đã cự tuyệt quyền làm người của họ. Nhân vật Chí Phèo đã cho thấy cái quy luật tàn bạo ghê sợ đó trong xã hội cũ.
Đoạn văn Nam Cao kể về chuyện Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng là một tình tiết làm rõ thêm bi kịch cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Tự Lãng có “bộ râu lờ phờ”, làm nghề thầy cúng và hoạn lợn. Vợ chết đã bảy, tám năm con gái chửa hoang trốn đi. Lão cũng cô đơn như Chí Phèo. Như “đôi tri kỉ cuồng” uống rượu dưới trăng. Chúng uống sạch ba chai, “ngả vào nhau mà cười”. Say rượu, lão Tự “bò như cua”. Chí Phèo vật lão ra mà vuốt râu lão. Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”. Chí Phèo đã xông tới người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn” đó một cách… Chí Phèo! Cuộc làm tình của Chí Phèo lúc đầu chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu với một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích" mà thôi! Nhưng thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong kẻ từng rạch mặt ăn vạ và đâm thuê chém mướn này. Chí Phèo bị cảm, thị Nở đã “quàng tay vào nách hắn” và “hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều”. Bát cháo hành của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn. Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!". Cũng lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà “lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Và cũng là người đàn bà độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí Phèo ăn cháo hành rồi thốt lên: “Ôi sao mà hắn hiền”… Chỉ có thị Nở mới cảm nhận được: “hắn cười nghe thật hiền…” mà thôi!
Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm “gặp gỡ” thị Nở cho thấy Nam Cao là bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí Phèo được tác giả kể lại thật xúc động, nhiều xót thương. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cả… Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi là buồn!”, Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, là cô độc, cái này còn đúng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ gần nghĩ xa. Lâu nay hắn chỉ đâm chém và cướp giật. "Nếu không còn sức mà cướp giật, dọa nạt nữa thì đã sao?". Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy!
Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí Phèo vốn là một người lao động cùng khổ lương thiện “cái bản tính của hẳn ngày thường bị lấp đi”. Cùng với “tình yêu” sự săn sóc của thị Nở, “trận ốm thay đổi hắn về sinh lí, cũng thay đổi về tâm lí nữa” của Chí Phèo. Đó là một cái nhìn sâu sắc với tâm lòng xót thương đầy tình người của nhà văn này đối với những con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi.
Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Đàn bà cũng như thị Nở “không có men như rượu”, nhưng Chí "say thị lắm!”. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Câu nói ấy là một câu nói “tình tứ”, đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người… thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát, bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh!… Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.
Như một kẻ chết đuối giữa vực sâu, Chí Phèo “bám” được thị Nở cứ tưởng là vớ được cọc, đâu ngờ chỉ là rễ bèo. Chí Phèo “say thị lắm”, nhưng đến hôm thứ sáu thì Thị nghĩ bụng: “hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã”. Như ta biết, con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến thị Nở, bà thấy cháu bà “sao mà đĩ thế?”. Bà thấy nhục nhã, bà gào lên “như con ma dại". Bà quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Chỉ trừ Bá Kiến và thị Nở ra, chứ còn ai nữa dám đi qua mặt Chí, dám đối diện với Chí! Tất cả quen coi hắn là “quỷ dữ” mất rồi. Hôm nay, linh hồn hắn trở về, nhưng không ai nhận ra; hắn “muốn làm hòa với mọi người” nhưng ai nhận! Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn “ngẩn người'’ khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn đuổi theo “nắm lấy tay” Thị, nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”.
Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn lấy một hòn gạch toan đập đầu ăn vạ! Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt khoát cự tuyệt. Rồi “hắn ôm mặt khóc rưng rức” cho đến khi đã say mềm người rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng với câu nói lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó”. Chính vào buổi trưa “trời nắng, đường vắng” ấy, Chí Phèo lần thứ ba đến gặp Bá Kiến “không đòi tiền“ như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền “làm người lương thiện!”. Câu nói của Chí Phèo: "… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!…” đó là những lời đanh thép vạch mặt, kết án tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo “văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng Vũ Đại đã làm hại đời anh. Chí không muốn sống nữa, vì giờ đây, ý thức về nhân phẩm đã trở về. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thể làm quỷ dữ, sống như thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa, ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mặt anh.
Chí Phèo là một hiện tượng lưu manh hóa ở nông thôn mang tính chất điển hình, có ý nghĩa kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đẩy người dân cày nghèo vào kiếp sống tối tăm thú vật, cướp đi của họ cả bộ mặt, cả linh hồn người. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện?” là câu hỏi chứa chất phần uất, đau đớn, mãi mãi làm day dứt lòng người. Làm thế nào để con người được sống cuộc sống lương thiện, bình dị trong cái xã hội tàn bạo ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Với cảm quan hiện thực sắc sảo đặc biệt, Nam Cao đã vạch ra mối mâu thuẫn giai cấp gay gắt ở nông thôn và tình trạng tha hóa phổ biến trong cái xã hội vô nhân đạo đó. Truyện “Chí Phèo” vừa chứa chan tình cảm nhân đạo, vừa mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đào, xứng đáng được coi là một kiệt tác.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 4
Khi Chí Phèo: “Ngất ngưởng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gi gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ”. (Nguyễn Đăng Mạnh). Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, không thể không chú ý đến cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của y.
Đó cũng là chủ đề xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo.
“Bi kịch là tình cảm éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con người phải chịu đựng” Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Nhiều người khẳng định, Chí xuất hiện sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ chưa đủ. Nam Cao thường giới thiệu với người đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng đầu tiên của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ có một hành động, một cuộc độc thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp nhờ những câu văn ngắn, nhịp văn gấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài), Chí chửi làng “cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người” … Nhưng không ai lên tiếng cả. Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại không ai hiểu Chí, giá có một người để chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người ta sống – dù là để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng là chửi chính bản thân. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật vã. dẫu là vô ý thức, để tìm ra căn nguyên của đau khổ. Nhưng khốn khó thay. Chí càng bế tắc. Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên tiếng cũng như sau đó, thị Nở “Không chỉ biết cho mà còn biết giữ” … giá như… giá như… chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn người ở làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ không có cơ hội xảy ra. Nhưng chuyện gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra. Nam Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ dễ dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.
Chí là một “đứa con hoang”, “một anh đi thả ống lươn một buổi sáng tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không; anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà góa bụa”. Năm từ “một” tồn tại trong một câu văn dài, dường như đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ không cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng với những người lao động. Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, “biết không thích những cái gì mà người ta khinh”. Anh khát khao có “một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Nhưng đời đã không dành cho Chí cái mà anh có thế với trong tầm tay.
Một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong kiến cấu kết với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy – tám năm. Đây là lần thứ hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù đã biến Chí thành con người khác. “Hắn về lần này trông khác hẳn”. Quyền làm người của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà tù đã cướp đi của y một phần nhân hình. Ở tù ra trông hắn như một thằng “sững đá” (lính tẩy), đầu trọc lốc răng cạo trắng hớn, mặt đen lại rất “cơng cơng” – “câng câng” thì còn ra cái mặt người. “Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy trông gớm chết” Đó là hình dạng của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau. Chí đã uống rượu say nhè, điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ, chửi đổng. Nếu như trả thù là cái quyền thông thường (oán thì trả oán, ân thì trả ân) thì Bá Kiến lại cũng đã khéo léo tước luôn quyền ấy của Chí. Không trả được thù, Chí lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ mù quáng của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với chính kẻ thù. Từ đó, hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đạp vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện". Cứ như thế đời hắn trượt dài. Nhìn vào mặt hắn, người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt, mỗi lần hắn qua.. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn trên đời. Có thể nói, trước khi gặp Thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn không nhận ra điều ấy hoặc nhận ra một cách vô thức, không tìm thấy lối thoát, Chí đành phải dấn thân vào cuộc đời say rượu chửi đổng, ăn vạ, đâm thuê, chém mướn.
Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp thị Nở, Chí Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu có biết cốt cách người ta sản sinh ra hắn là tước đoạt dần quyền làm người của hắn. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ tột cùng của sự tha hóa, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh của nhân vật một đốm lửa nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở lại làm người lương thiện. Vai trò, vị trí của thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người “dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn”, lại là nguồn sáng duy nhất còn lại ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm tối của Chí. Cơ thể đàn bà của thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương của thị đã gợi dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với thị Nở. Chí nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh ấy gợi nhớ trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm thấy buồn, rồi hắn “sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc – cô độc còn sợ hơn đói rét và ốm đau". Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự thương yêu – dù là tình thương yêu của kẻ dở hơi, của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hóa của tình thương thật vô biên. Nam Cao đã thực sự hóa thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người. Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối để làm hòa với thế giới người. Chiếc cầu nối ấy chính là thị Nở. Thị có thể sống chung với hắn thì làng Vũ Đại cũng có thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch và đau đớn thay cho Chí. Thị Nở không thể gắn bó với Chí. Vì theo bà cô Thị, “đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”.
Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lần nữa lại bị ý thức xã hội tước đoạt. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa, Chí đau đớn nghĩ ra rằng chẳng có chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người nữa. Xã hội với quan niệm tàn nhẫn đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Không ai cho Chí làm người lương thiện, kể cả khi Chí đòi làm người lương thiện. Chí không thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình, Chí đau xót cảm thấy: “Không được nữa rồi chỉ còn cách này”, Chỉ còn cách chết trong, hơn sống đục. Chí đã nói những câu cuối cùng “đòi lương thiện” với Bá Kiến và cũng là tự nói với bản thân mình. Hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí cho người đọc thấy cuối cùng rồi Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí là quá đắt. Cái chết của Chí là lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền con người.
Chí chết, mồm ngáp ngáp trong vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống, sức mở và giá trị điển hình của nhân vật này là vô biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi khổ của người nông dân thời kì nước ta còn sống trong vòng nô lệ. Chí còn đại diện cho cái phần khùng điên khuất tối mà sinh ra trên cõi đời này, ai cũng có thể, nếu không biết tự kiềm chế và nếu bị các thế lực hắc ám “nuôi dưỡng".
Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do nhiều căn nguyên. Có căn nguyên từ xã hội cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con người còn bị xúc phạm thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc đến như một nỗi đau của toàn nhân loại.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 5
“Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” (Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hiện tượng lạ của văn học và đời sống, một sáng tạo đặc biệt của Nam Cao mà qua đó, bao lớp hiện thực được lật dở, bao tầng tư tưởng được cày xới.
“Chí Phèo” thật sự đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao. Vốn là một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mà mảnh đất về người nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những đường cày thật đẹp và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác.
Tôi cho rằng “Chí Phèo” là tác phẩm Nam Cao viết hay và sâu sắc nhất về người nông dân bởi tính hiện thực và tư tưởng nhà văn gửi trong đó.Đi theo cách nhà văn muốn dẫn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra giữa sân khấu cuộc đời với trạng thái say và chửi – một trạng thái đầy ấn tượng và ám ảnh: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi.” Hắn – cái cách mà Nam Cao gọi Chí Phèo – là một kẻ đang đằm mình trong men rượu và đối thoại với đời bằng tiếng chửi.
Tiếng chửi có lớp có lang, có gần có xa, từ chửi trời, hắn chửi đời, rồi chửi sang cả dân làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, và sau cùng là chửi “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Tiếng chửi như đã trở thành quy luật sống của một kẻ say, Nam Cao đã cho ta thấy trạng thái tồn tại cụ thể nhất của nhân vật, thấy được chất lưu manh trong con người hắn, và phần nào thấy được bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo.
Trong tiếng chửi dường như có sự cô độc. Dân làng Vũ Đại không ai ra điều, đáp lại hắn chỉ là tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo bị gạch tên ra khỏi xã hội chăng? Vì đâu mà hắn bị cả xã hội ghê sợ và lảng tránh? Những câu hỏi gợi mở Nam Cao đặt ra từ đầu truyện đã cho ta lần bước tìm hiểu về nhân vật…
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác.
Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”.
Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã và không sao gượng dậy được. Đó là lúc Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó.
Chí ra tù, mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến méo mó dị dạng. Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù, hắn ngụp lặn trong trạng thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say.
Đau đớn hơn, sự tha hóa không chỉ hiện lên thành hình, nó còn đang dần gặm nhấm từ bên trong khi mà Chí đã tự mình bán rẻ linh hồn cho Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được.
Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Vậy là chỉ sau những lời mời dụ ngọt nhạt của tên gian hùng lọc lõi như Bá Kiến, Chí đã trở thành một tay đi đòi nợ thuê, chém giết thuê. “Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người dân lương thiện”. Chí Phèo đã thực hiện đúng mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến: “Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Chất Người trong hắn dường như đã cạn kiệt, linh hồn quỷ xâm chiếm và tàn phá hắn.
Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy mà ta nhìn thấy bản chất, bộ mặt của cả một xã hội – một xã hội vô nhân với những những con người cạn sạch tính người, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là “chó đểu”. Ở đó, có những tên cường hào ác bá như Bá Kiến nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người dân lương thiện bất cứ lúc nào, có nhà tù thực dân bắt vào một người lương thiện và thả ra một con quỷ dữ, có những người như dân làng Vũ Đại khước từ sự dung nạp và chấp nhận một người như Chí Phèo.
Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi “cố tìm mà hiểu” chất Người trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm ăn nằm như vợ chồng với thị, Chí tỉnh dậy và bao nhiêu sự hồi sinh đã được đánh thức. Hồi sinh ý thức về không gian, thời gian, về tình cảm và tiếng nói con người.
Lần đầu tiên trong cuộc đời, Chí nghe thấy “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Cũng lần đầu, hắn ý thức được về tuổi tác của mình, về hiện tại “đã già mà vẫn còn cô độc”, về quá khứ với ước mơ lành thiện khi xưa, về tương lai với “đói rét, ốm đau và cô độc”. Con người ấy lần đầu có những cảm giác rất người, thức dậy cả về lương tri và lương tâm.
Hắn biết lo, biết sợ, biết xúc động rưng rưng trước bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm, biết ăn năn hối cải về tội ác của mình. Chính bàn tay của một người phụ nữ có dòng dõi đã cứu đỡ hắn ra khỏi bờ vực tha hóa, để rồi không chỉ bộc lộ bản chất lương thiện vẫn luôn sẵn có trong con người, Chí Phèo còn trỗi dậy cả khao khát hoàn lương – trở về với xã hội loài người.
Hắn tin rằng “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”; “Thị có thể làm hòa với hắn sao mọi người lại không thể”. Chưa bao giờ, ước muốn được quay trở về làm người lương thiện lại mãnh liệt đến thế. Chính đôi mắt tinh tế và tấm lòng cảm thương của Nam Cao đã nhìn thấy mầm thiện của một con người vốn sống lương thiện, bị xã hội tàn ác vùi dập và đày đọa.
Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thành với hiện thực của Nam Cao đã không chối bỏ một sự thật khác, rằng sống trong xã hội đầy rẫy những định kiến cổ hủ lạc hậu, con người không thể sống yên ổn theo đúng nghĩa. Một lần nữa, Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô Thị Nở. Người đàn bà ấy đã dõng dạc tuyên bố rằng: “Trai làng đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”.
Cái loa của định kiến làng xã đã đưa bước chân Thị Nở đến từ chối thẳng thừng khát vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Giây phút nhân vật nửa tin nửa ngờ, nửa say nửa tỉnh, cố níu mà không thể giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo trở thành một kẻ thật sự tội nghiệp và đáng thương.
Thị Nở bước đi, cánh cửa dẫn lối về xã hội loài người đóng sầm ngay trước mặt. Chí Phèo tìm đến tên kẻ thù lớn nhất của đời mình để trả thù và cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là một kết cục bi thảm đau đớn, nhưng là lẽ tất yếu khi sống trong xã hội đầy nhơ nhuốc ấy. Không được dung nạp vào xã hội chung, Chí Phèo cũng không thể trở lại làm quỷ dữ, bởi lương tri và lương tâm đã trở về. Chí có chết mới là cách giải quyết tốt nhất, dù nó thật đau đớn. Đó là cái chết bảo toàn nhân phẩm, cái chết cảnh tỉnh cho cả một xã hội, để rồi ngày nay, tiếng hỏi “Ai cho tao lương thiện?” vẫn không ngừng vang vọng và ám ảnh.
Để làm nên thành công của tác phẩm trong việc xây dựng nhân vật, không thể không kể đến nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy của Nam Cao, nghệ thuật kết cấu linh hoạt theo dòng tâm lý và sử dụng những đoạn độc thoại, đối thoại phù hợp. Ngòi bút của Nam Cao đã điển hình hóa một kiểu người, một số phận trong xã hội, để ngày nay Chí Phèo vẫn là cái tên đầu tiên khi người ta nhớ về Nam Cao.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 6
Truyện Chí Phèo ghi nhận thành công xuất sắc nhất của Nam Cao về đề tài người nông dân, cũng là một trong những đỉnh cao nhất của trào lưu hiện thực phê phán. Thành công của hình tượng Chí Phèo chứng tỏ tài năng nghệ thuật độc đáo của Nam Cao, kết tinh giá trị hiện thực lớn lao và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này.
Bối cảnh hiện thực của truyện ngắn Chí Phèo là xã hội nông thôn Việt Nam xác xơ nghèo đói những năm bốn mươi. Trong không khí tối sầm này, không ít người nông dân bị xô đẩy vào con đường bần cùng, lưu manh, không ít người phải điên khùng, liều lĩnh mà tồn tại. Tính cách Chí Phèo mang ý nghĩa điển hình cho lớp người ấy trong thời buổi xã hội ấy.
Bước vào tác phẩm ta bắt gặp ngay Chí Phèo ngất ngưởng vừa đi vừa chửi. “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi…”. Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao để Chí Phèo xuất hiện bằng tiếng chửi. Chí Phèo chửi ai? Chí Phèo trời, chửi đời nghĩa là y đối lập với tạo hóa, với xã hội.
Chí Phèo chửi cà làng Vũ Đại nghĩa là y đối lập với quê hương. Chí Phèo chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn nghĩa là y đối lập với tất cả (vì có đứa nào chửi nhau với hắn đâu!). Chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn để hắn phải khổ đến nỗi này nghĩa là Chí Phèo tự đối lập lại nguồn gốc, sự tồn tại của mình. Những mong tìm mối dây liên hệ với xã hội chỉ bằng tiếng chửi mà không thể có. Chí Phèo tồn tại như một con vật. Ấy là một kẻ lưu manh, liều lĩnh trong tình cảnh cô độc tuyệt đối.
Ngay từ khi được sinh ra, Chí Phèo đã bị ném khỏi nhà,cuộc sống, chỉ trông mong vào lòng trắc ẩn của kẻ qua đường. Trong làng Vũ Đại, Chí Phèo là “một thằng cùng hơn cả dân cùng; không cha không mẹ, không thước đất cắm dùi”. Cả đời Chí Phèo “chưa bao giờ được chăm sóc bởi một bàn tay đàn bà”, đến nỗi mơ ước chung sống với một người phụ nữ xấu đến ma chê quỷ hờn cũng không đạt được.
Chí Phèo tồn tại trong sự khinh rẻ và ghê sợ của mọi người. Và Chí Phèo chết đi cũng trong sự cô độc. Không gì độc, tủi nhục hơn khi chết mà không được lấy một giọt nước mắt, chết mà người ta mừng! Mong ước trở lại làm người của Chí Phèo đã bị cự tuyệt, bị xã hội từ chối phũ phàng. Số phận khốn khổ ấy của Chí Phèo tiêu biểu cho số phận của cả một lớp người cố cùng dưới đáy xã hội cũ.
Hiện tượng Chí Phèo vô cùng độc đáo nhưng không phải ngẫu nhiên, cá biệt. Thông qua tính cách điên khùng, số phận bi thảm của Chí Phèo, tác phẩm đã khái quát lên quy luật tha hóa con người nghiệt ngã của xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái gì đã đẩy Chí Phèo vào con đường tội lỗi? Ai đã biến Chí Phèo thành con quỷ dữ làng Vũ Đại?
Cái con quỷ dữ ấy đã từng có một thời gian làm người hiền lành, lương thiện. Từ tuổi thơ “bơ vơ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác” đến tuổi thanh niên “làm canh điền cho ông Lí Kiến” Chí Phèo sống cuộc đời lao động cực khổ của người cố nông ở nông thôn. Anh nông dân hiền lành ấy đã từng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc giản dị trong lao động.
Tuy còn trẻ trung, anh cũng phân biệt được tình yêu chân chính với thói dâm dục xấu xa; bị bà Ba gọi lên bóp chân, anh “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Nhưng bản chất trong trắng, lương thiện của người nông dân trong Chí Phèo đã bị bọn cường hào và nhà tù thực dân ra sức bóp chết. Chí Phèo vô cớ bị đẩy đi ở tù và bảy, tám năm sau về làng, hắn đã thành người khác hẳn.
Về giữa cái làng Vũ Đại chật chội mà bao thế lực xâu xé nhau, một thước đất cắm dùi không có, Chí Phèo biết làm gì để sống. Không thể hiền lành mà muốn sống – oái oăm thay – phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều lĩnh, phải gan góc. Những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Người ta đây chính là Bá Kiến – kẻ ăn tiên chỉ làng Vũ Đại, kẻ lọc lõi, gian ngoan vô cùng trong nghề bóc lột.
Chúng ta còn nhớ lần thứ nhất Chí Phèo đến nhà Bá Kiến sau hôm đi ở tù về. Dẫu bằng tiếng chửi, bằng vỏ chai rạch mặt ăn vạ, dù sao lần này Chí Phèo còn đến để trả thù, còn mường tượng ra kẻ thù. Nhưng đến khi từ nhà cụ Bá về với tâm trạng thỏa thuê, với đồng bạc trong tay, đặc biệt từ lần đòi được nợ ở nhà đội Tảo (nhờ sự may mắn tình cờ) thì Chí Phèo đã dần trở thành công cụ mù quáng trong tay Bá Kiến.
Chí Phèo đã bán đi cả nhân phẩm lẫn nhân hình để tồn tại và tồn tại như một con vật. Hiện tượng Chí Phèo tiêu biểu cho sự tha hóa phổ biến trong xã hội tàn phá ghê gớm con người. Khi những người nông dân vốn lương thiện mà dốt nát, tăm tối bị rơi vào tình trạng bần cùng hóa thì dễ uất ức mà trở thành những “kẻ cố’ cùng liều thân”.
Gặp kẻ thống trị xảo quyệt, sự liều thân cô độc này rất dễ bị lợi dụng, mua chuộc để biến thành sự phá hoại mù quáng. Rốt cuộc, họ lại trở thành “đày tớ tay chân” cho kẻ tử thù. Đó là một quy luật đầy mỉa mai, chua xót trong xã hội cũ. Sức mạnh phê phán, ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo chính là ở chỗ đó.
Một hình tượng điển hình đầy sức sống bao giờ cũng là một “con người này” (theo cách nói của Hêghen). Ấy là một cá tính độc đáo, rõ nét, một gương mặt không thể lẫn. Hình tượng Chí Phèo vừa mang tính khái quát cao, tính phổ biến sâu rộng đồng thời mang những nét riêng độc đáo. Mấy ai có “lai lịch” lạ lùng như Chí Phèo.
Mấy ai lớn lên với cảnh ngộ tội nghiệp như con người này. Chí Phèo là một cuộc đời rất riêng ngay từ khi sinh ra, lớn lên cho đến lúc chết đi. Chí Phèo độc đáo từ ngoại hình đến tiếng chửi, đến cách hành động. Một bộ mặt không hẳn ra con người; không hẳn ra con vật, đầy những lằn ngang vạch dọc do những lần đâm chém, cào rạch ăn vạ. Một lối chửi rủa điên khùng, uất ức thật … Chí Phèo.
Cũng thật Chí Phèo từ cách uống rượu đến lối toan đốt quán khi không được uống chịu, thậm chí đến lối “ướm lời” với Thị Nở và cách đâm chém kẻ thù rồi tự kết liễu đời mình. Hình tượng Chí Phèo gây ấn tượng thật sâu đậm đối với người đọc. Mặt tiêu biểu, khái quát của số phận Chí Phèo bộc lộ qua những nét cụ thể, độc đáo của y; ngược lại, những nét riêng, độc đáo trong tính cách Chí Phèo phản ánh sinh động cảnh ngộ, số phận của một lớp người.
Nhưng sự kết hợp biện chứng, hài hòa giữa hai mặt tính chung và tính riêng ở hình tượng Chí Phèo không chỉ thể hiện ở trên. Xây dựng hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã phát hiện ra và hết sức trân trọng bản chất lương thiện ở người nông dân nghèo khổ. Phần sau tác phẩm, nhân vật này được thể hiện cho một tính cách người đang hồi sinh. Trên phương diện này, Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm và sự vùng dậy phản kháng quyết liệt, tuyệt vọng nhưng rất đáng quý trọng ờ người lao động bị áp bức.
Năm ngày chung sống với Thị Nở như tia sáng lóe lên trong cuộc đời tối tăm dằng dặc của Chí Phèo để rồi vụt tắt ngấm đưa anh ta vào cõi chết. Cuộc gặp gỡ tình cờ với Thị Nở (hai duyên số kì lạ dưới bàn tay xếp đặt khéo léo của ông mối Nam Cao) không chỉ khơi dậy bản năng sinh lí của gã đàn ông mà quan trọng hơn, đã đánh thức người cô’ nông lương thiện bấy lâu nay bị vùi lấp trong con quỷ dữ Chí Phèo.
Phần viết về quá trình hồi sinh cảm động của Chí Phèo và bi kịch đau đớn trong cõi tinh thần sau đó ờ anh ta trở thành những trang hay nhất của kiệt tác Chí Phèo. Nó là bài ca về sức mạnh kì diệu của tình người, của tình yêu. Sự chăm sóc ân cần của Thị Nở, bát cháo hành nóng hổi của Thị Nở thật sự đã mang hương vị ngọt ngào của tình yêu khiến cho Chí Phèo lại biết khóc, biết cười như một con người.
Thị Nở đâu chỉ là tình yêu mà chính là con đường sống, là chiếc cầu dẫn Chí Phèo trở lại cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của loài người. Có hiểu hết niềm vui hồi sinh ờ Chí Phèo, có hiểu hết vai trò quan trọng của Thị Nở như thế ta mới càng thấm thía nỗi đớn đau, tuyệt vọng của Chí Phèo khi chiếc cầu kia đột ngột bị “rút ván”.
Khi bị Thị Nở đột ngột “trở mặt”, Chí Phèo ban đầu chưa thể hiểu bởi anh ta đang “say” với nguyện ước trở lại làm người. Khi chợt hiểu ra, Chí Phèo vơ lấy rượu uống. Nhưng thật lạ, lúc này càng uống lại càng tỉnh, “Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo nành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức …”. Có lẽ, trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo chỉ có một lần khóc như thế!
Người đàn ông khốn khổ đến lúc này mới được hưởng hương vị cháo hành thì chẳng thể nào quên … Không thể quay lại làm quỷ dữ nữa, Chí Phèo đành đi đến cái chết. Nhưng trước khi chết, phải trả thù kẻ thù đích thực của mình! Rốt cuộc, một Chí Phèo tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say.
Chí Phèo bằng xương bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lòng người đọc là một Chí Phèo đang lớn tiếng đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi quyền lương thiện. Diễn tả quá trình hồi sinh rồi bị cự tuyệt quyền làm người để đi đến hành động trả thù, tự sát quyết liệt ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn nhân đạo sâu sắc về con người.
Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Chí Phèo là một hình tượng vô cùng độc đáo. Cuộc đời đầy đau thương, tủi phận của Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm của tầng lớp nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa không lối thoát trong xã hội cũ, của những người cùng khổ, tăm tối dưới ách áp bức tàn bạo, xảo quyệt của giai cấp thống trị.
Với hình tượng văn học điển hình bất hủ này, Nam Cao đã lớn tiếng vạch trần bản chất tàn bạo của thứ guồng máy xã hội đè nghiến, hủy hoại con người, đồng thời thể hiện một niềm tin sâu sắc vào bản tính tốt đẹp của con người.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 7
Trước Cách mạng tháng Tám, nhiều tác phẩm thuộc dòng văn học hiện thực phê phán viết về số phận người nông dân ra đời như Tắt đèn của Ngô Tất Tố với chị Dậu, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan với anh Phan,... và không thể không kể đến Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam. Trong đó nổi bật là hình tượng nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên Chí Phèo.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện, là đứa con hoang bị bỏ rơi lúc mới lọt lòng. Chí được một bác phó ciu mang đưa Chí về nuôi rồi đến khi bác phó chết, Chí không cha, không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, suốt ngày đi ở cho nhà này rồi sang nhà khác, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian Chí Phèo đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến, Chí được mọi người khen là hiền như đất, dù không được học hành nhưng Chí phân biệt đúng sai, phải trái khi ở trong nhà Bá Kiến. Mỗi lần bị mụ vợ Bá Kiến gọi vào bắt bóp chân, Chí "chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì", Chí hiểu được đâu là tình yêu, đau là sự dâm đãng đáng khinh rẻ. Cũng như bao nhiêu khác, Chí cũng mơ về một cuộc sống gia đình ấm áp nơi “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Nhưng rồi tất cả bị vùi dập và cuộc đời Chí trượt theo vết dài khi Chí bị Bá Kiến đẩy vào con đường tù tội chỉ vì sự ghen tuông bạo chúa, bị kịch của cuộc đời Chí Phèo cũng bắt đầu từ đó.
Ngày Chí ra tù với sự biến dạng nhân hình, sự tha hóa nhân cách đến méo mó dị dạng. Chí từ một thanh niên khỏe mạnh, hiền lành, trở thành một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm". Mọi người nhìn Chí như một con quỷ trong làng, Chí bị mọi người xa lánh, đi đến đâu cũng bị xua đuổi. Chí ngụp lặn trong những cơn say miên man, ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, cậy cái say nó đi đập đầu, rạch mặt, chửi bới, ăn vạ, dọa nạt mọi người. Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, bon chen, chèn ép con người đến nghẹt thở, Chí Phèo không sống hiền lành, nhẫn nhục như ngày xưa được nữa. Hắn lì lợm, hung dữ, tàn bạo vì thế nên chỉ sau những lời dụ dỗ của tên địa chủ lọc lõi như Bá Kiến,, Chí đã trở thành một tay đòi nợ thuê, chém giết thuê, nó làm mọi thứ mà không sợ một ai. Chí đã làm theo mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến là “Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Dường như Chí của ngày xưa chết hẳn rồi, Chí của bây giờ không khác gì con quỷ dữ, một linh hồn quỷ đang tàn phá trong con người Chí Phèo.
Dường như qua từng chi tiết càng bộc lộ rõ hơn bản chất, bộ mặt của xã hội ngày xưa- một xã hội vô nhân đạo với những con người sống không có tình người, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi nó với cái tên khinh nhược là "chó đểu". Nơi mà những tên địa chủ như Bá Kiến nắm hết mọi quyền lực, thậm chí họ còn quyết định được sự sống của người khác, khi mạng sống con người không được bảo đảm.
Tưởng Chí Phèo cứ mãi đi theo, trượt dài trong bi kịch cuộc đời mình nhưng nhà văn Nam Cao đã không làm thế, ông vẫn tin tưởng sâu thẳm trong phần con của Chí vẫn tồn tại chất người. Và dường như phần người của Chí được thể hiện khi gặp được đúng người cảm thông, dang rộng vòng tay với Chí. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở- một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm định mệnh giữa Chí Phèo và Thị Nở, thức dậy vào sáng sớm Chí như được hồi sinh. Có lẽ lần đầu tiên từ khi ra tù trở về, Chí mới lắng nghe "tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá". Lần đầu Chí ý thức về tuổi tác, bản thân mình "đã già mà vẫn còn cô độc". Dường như lý trí và lương tâm được đánh thức bừng sáng trong con người Chí. Một con người đâm thuê, chém mướn không biết sợ, không chút suy nghĩ tưởng chừng như sống không tình, không người nhưng Chí đã xúc động rưng rưng nước mắt khi bưng trên tay bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm. Chính bàn tay, chính tình người của người phụ nữ xấu xí đã cứu vớt một con người tha hóa thức tỉnh, đánh thức phần người trong Chí thức dậy. Chí Phèo khao khát hoàn lương- trở về với hòa nhập với xã hội, với cộng đồng. Hắn mang một lòng tin rằng chính Thị sẽ là người mở đường cho hắn. Chưa bao giờ ước muốn, khao khát muốn được làm người lương thiện lại mãnh liệt, mạnh mẽ trong Chí đến thế.
Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực, trong cái khung cảnh, tư tưởng lúc bấy giờ Nam Cao không thể rời thực tế mà bỏ mặc những định kiến cổ hủ lạc hậu được. Khao khát hoàn lương chưa kịp thực hiện, một lần nữa Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi lời nói của bà cô của Thị Nở “Trai làng đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Những lời định kiến của làng xã, những lời nói của bà cô đưa Thị Nở đến từ chối khát vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Trong cơn nửa say nửa tình, cố níu mà không thể giữ, Chí Phèo trở thành một kẻ đáng thương và tội nghiệp. Thị Nở quay lưng bước đi cũng chính là lúc cánh cửa hoàn lương của Chí đóng sập lại. Chí lại ngập trong cơn say và tìm đến kẻ đã đẩy Chí thành một người thân tàn ma dại để trả thù và cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là cái kết quá đau thương nhưng nếu sống mà làm con quỷ dữ trong cái xã hội đầy nhơ nhuốc ấy thì cái chết chắc sẽ là cách giải quyết tốt nhất. Đó là cái chết để bảo toàn lương tri, lương tâm, cái chết thức tỉnh cả một xã hội phong kiến cổ hủ để rồi câu nói "Ai cho tao lương thiện?" vang vọng và ám ảnh mãi không nguôi. Đúng là một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công.
Để làm nên một "Chí Phèo" thành công và vang bóng đến tận hôm nay ngoài nội dung, ý nghĩa của tác phẩm còn phải kể đến sự thành công trong việc xây dựng nhân vật, phân tích tâm lý nhân vật, cách sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, vận dụng đối thoại, độc thoại phù hợp để bộc lộ được hết thông điệp nhà văn muốn gửi gắm. Ngòi bút hiện thực Nam Cao đã đưa đến cho người đọc những dòng cảm xúc chân thực nhất, phải chăng vì thế mà khi nhắc đến Nam Cao thì Chí Phèo sẽ làm người ta gợi nhớ đầu tiên.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo trong trang văn của Nam Cao giúp người sau hiểu được phần nào cuộc sống cơ khổ, chà đạp, hủy hoại con người đến tận cùng. Qua đó thể hiện được tên tuổi, ngòi bút tài hoa của nhà văn Nam Cao.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 8
“Chí Phèo” được viết vào năm 1941, là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng 8. Đây là một trong những truyện ngắn có thể nói là nổi bật nhất trong các tác phẩm khác ra đời cùng thời và đưa Nam Cao đi lên vị trí hàng đầu trong lớp nhà văn hiện thực, phê phán xã hội vào giai đoạn 1930-1945.Tác giả đã xây dựng thành công , nổi bật hình tượng một nhân vật điển hình đó là nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa rất sâu cay vào loại tiêu biểu của nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ.
Chí Phèo là một kiệt tác của nhà văn Nam Cao dựa trên cơ sở người thật, việc thật ở vùng quê của mình, ông đã hư cấu tạo nên một bức tranh hiện thực về đời sống của những người dân Việt Nam trước cách mạng tháng 8 với tất cả sự tăm tối, sự ngột ngạt cùng bao nhiêu là đau đớn, kinh hoàng,… Nhân vật Chí Phèo là đại diện cho bi kịch của những người nông dân bị tha hóa nhân cách trong xã hội cũ. Nhưng tất cả những nỗi khổ cực, bi đát trong cái xã hội đấy không thể làm cho những người người nông dân khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống một cuộc sống thanh bình hạnh phúc bên gia đình, vợ con. Nhưng thực ra ở bên trong con người họ lại luôn có một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.
Nam Cao không đề cập đến các vấn đề về sưu thuế, tô thuế như các tác phẩm cùng thời khác mà ông có những khám phá riêng của mình về số phận của những người dân lao động khốn khổ bị chà đạp. Đó là một cái nhìn vô cùng mới mẻ, độc đáo nhưng vô cùng sâu sắc, thể hiện nỗi đau trăm chiều của những người nông dân nghèo bị áp bức trong xã hội thực dân phong kiến.
Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên là ai mà có ảnh hưởng lớn đến vậy? Mở đầu tác phẩm nhà văn Nam Cao đã giới thiệu nhân vật Chí Phèo của mình một cách rất ấn tượng và lôi cuốn người đọc. Nhà văn đã để hắn ta xuất hiện trong trạng thái say rượu, không có ý thức về mọi thứ “hắn vừa đi vừa chửi”. Điều này rất là lạ bởi thông thường người ta thường chửi có đối tượng cụ thể đằng này hắn chửi tất cả những gì hắn nhìn thấy, hướng tới tất cả cuộc đời trời đất này. Lạ lùng hơn nữa khi đây không phải là lần đầu tiên xảy ra chuyện này mà đã xảy ra rất nhiều lần trước đó, nó được minh chứng qua câu nói “bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vậy tại sao Chí Phèo lại ra nông nỗi như vậy? Nhân vận của Nam cao xuất hiện đã tạo ra một ẩn số khiến người đọc vô cùng tò mò. Có người sẽ dự đoán Chí Phèo chắc phải có nỗi khổ nào trong lòng mới dùng rượu để trút hết những tâm tư, suy nghĩ ra. Và quả thực cuộc đời hắn ta hiện lên trong tác phẩm như một cuốn phim bi thảm.
Chí Phèo vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi một cách rất tàn nhẫn, có thể hiểu đơn giản như mồ côi bố mẹ, sự ra đời của hắn không được bất kỳ ai mong đợi. Hay nói trắng ra là hắn là một đứa con hoang, khi hắn sinh ra cha không thừa nhận, mẹ hắn ra thì bỏ hắn lại ở cái lò gạch cũ mặc cho sống chết, đói rét, khóc thét. Vậy là chỉ có duy nhất cái lò gạch cũ là chấp nhận sự ra đời của hắn. Khi mà hắn ta trở nên xám ngắt cả thân thể trong chiếc váy đụp mẹ hắn để lại rồi những người nông dân nghèo khổ đã nhìn thấy và nhặt hắn về nuôi. Ban đầu người nuôi hắn ta là một anh đi thả ống lươn, sau đó là một người đàn bà góa phụ rồi đến bác phó cối.
Nhưng rồi khi bác phó cối chết đi Chí Phèo lại trở thành đứa bé bơ vơ, không nơi nương tựa. Những khi đói bụng muốn có cái gì đó ăn hắn phải đi hết nhà này đến nhà khác để xin miếng ăn sống qua ngày. Cuộc đời của Chí Phèo rất lênh đênh và tội nghiệp chẳng khác gì một thứ bèo dại trôi dạt từ nơi này sang nơi khác không có chỗ dung thân. Nhưng thực ra đó cũng là tình cảnh chung của những người nông dân trước cách mạng tháng 8, cuộc đời của họ cũng dập dềnh không khác gì Chí Phèo, những người đi ở đợ, nhưng người buôn thúng, bán mẹt nay đây mai đó không chỗ dung thân phải đi tha hương cầu thực ở xứ người.
Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đã đưa đẩy Chí Phèo đến với gia đình nhà Bá Kiến. Những tưởng được bước vào gia đình giàu có là sẽ kiếm được bát cơm manh áo , không phải lo chuyện no đói hằng ngày nữa nào ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi bà vợ của Bá Kiến cứ bắt hắn bóp chân hằng ngày, khêu gợi những chuyện tế nhị, hắn tuy còn trẻ và ít tuổi nhưng bản thân hắn cũng đủ ý thức phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa, bỉ ổi. Những lời dụ dỗ đó không thể làm mất đi bản chất của Chí Phèo. Nhìn chung lúc bấy giờ Chí là một chàng trai lương thiện, tốt bụng và có lòng tự trọng. Đọc đến đây nhiều người sẽ liên tưởng đến nhân vật chị Dậu của Ngô Tất Tố đã cầm đống giấy bạc để ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện, xấu xa. Hay gần gũi hơn nữa là nhân vật Lão Hạc của Nam Cao, chính lòng tự trọng rất cao đã khiến hắn từ chối mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão cũng đã tìm đến con đường chết để giữ lại lòng tự trọng cao quý ở chính con người mình.
Nhưng sống lương thiện trong xã hội này không hê được yêu thương và quý trọng mà thay vào đó là sự lợi dụng. Bản chất lương thiện, tốt bụng của Chí Phèo đã bị chính cái xã hội thối nát lúc bấy giờ ra sức hủy hoại. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho Bá Kiến bắt giam Chí Phèo và biến hắn từ một người lương thiện thành một con quỷ dữ.
Sau bảy, tám năm ngồi tù và trở về làng Vũ Đại, Chí Phèo đã trở thành một con quỷ đội lốt con người “đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, “ trông gớm chết” . Trên người hắn xăm kín người với những hình thù quái dị, bản chất thánh thiện của hắn ngày xưa đã không còn. Bây giờ hắn trở thành một con người chỉ biết làm điều ác. Nhà văn đã sử dụng từ ngữ “ghê chết” để bày tỏ sự kinh hãi đối với hắn. Sự lưu manh trong con người hắn ngày càng hiện lên rất rõ qua những hành động hằng ngày. Khi hắn mua rượu để uống không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch vào mặt rồi nằm ăn vạ,…Hắn càng trở nên độc ác hơn bao giờ hết khi rơi vào tay Bá Kiến và trở thành công cụ đắc lực cho ông ta. Chỉ cần Bá Kiến cho hắn vài hào là hắn có thể đâm chém bất kỳ người nào được ông ta yêu cầu. Càng ngày Chí càng lún sâu vào con đường tội lỗi không có lối thoát.
Ở đây với những đặc điểm nổi bật này ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới và đầy tinh tế trong đời sống của người nông dân Việt Nam khổ cực trước cách mạng tháng tám. Nếu như chỉ dừng lại ở việc phân tích đời sống khốn khổ, bần cùng của những người nông dân thì đã có “tắt đèn”, “bước đường cùng”,… Nhưng cái mới của Nam Cao trong tác phẩm này đó là đã chỉ ra con đường lưu manh hóa, tha hóa của những người nông dân về bản chất. Họ vốn là những con người rất thật thà, chất phác, thánh thiện và giàu lòng tự trọng. Những con người cả cuộc sống không bước ra khỏi cổng làng thì làm sao có thể làm hại người khác được. Song nhà văn bằng ngòi bút xuất sắc và sắc sảo của mình đã vạch ra được tội ác của những kẻ đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó chính là thủ đoạn độc ác, để tiện của bọn cường hào giàu có như Bá Kiến kết hợp với sự tàn bạo, hà khắc của chính quyền thực dân lúc bấy giờ. Chính những con người này đã nhào nặn và bôi bẩn lên tâm hồn vốn rất mong manh và lương thiện của những người nông dân.
Cuộc gặp gỡ với nhân vật Thị Nở đã khiến cho cuộc đời của Chí Phèo bước sang một trang mới. Thị Nở không khác gì một ánh trăng dịu êm của đêm ấy, tình thương của Thị Nở dành cho Chí Phèo không khác gì dòng sông lấp lánh dịu êm dưới ánh trăng chứa chan bao nhiêu tình cảm. Chính những điều đó đã đánh thức bản chất lương thiện trong con người Chí, làm nó sống lại và giúp Chí sống lại kiếp sống của con người. Tình thương quả đúng là thần dược giúp khôi phục các vết thương, chữa lành những tổn thương nặng nhất. Thị Nở đã làm sống lại sự tự ý thức về bản thân trong con người của Chí Phèo. Hắn sống lại với ước muốn giản dị là “một gia đình nhỏ”. Vậy là sau bao nhiêu năm tháng, hôm nay Chí lại nghe thấy tiếng chim hót ở ngoài kia hay tiếng những bà cô đi chợ hỏi nhau “hôm nay vải mấy xu hả mấy dì?”
Những âm thanh này thực ra ngày nào chả có nhưng đến tận hôm nay Chí mới để ý và nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha mong về cuộc sống sau này. Bát cháo hành của Thị Nở đem đến cho Chí khiến hắn vô cùng cảm động “mắt ươn ướt”, “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn nghĩ rất nhiều về tương lai, một tương lai bình dị có một gia đình hạnh phúc. Chí đã khóc, chính giọt nước mắt và nụ cười ấy đã khiến Thị Nở thầm nghĩ “có lúc hắn hiền như đất”. Rồi Chí nói với Thị Nở một cách ấm áp và đầy tình mong muốn Thị Nở sang đấy ở hẳn với mình. Ngay lúc này hắn khát khao muốn được trở về cuộc sống lương thiện như ngày trước không phải bận tâm chuyện gì “trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”.
Chính những trang văn ấy đã làm sáng bừng câu chuyện và sáng bừng cả cuộc đời tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, lời nói của hắn lại làm chúng ta cảm động đến vậy. Chúng thể hiện một điều rằng lần đầu tiên trong đời chí đã biết được lí tưởng sống, mục đích sống sau này của cuộc đời mình, nó nằm ở nơi người đàn bà bề ngoài xấu xí bị cả xã hội cười chê, xa lánh. Mong ước giản dị của hắn có thể làm bất kỳ người nào cũng phải giật mình và tự nhìn nhận lại những gì bản thân mình đang có để cảm thấy nâng niu và quý trọng nó hơn.
Tưởng rằng từ nay cuộc đời Chí sẽ bước sang một ngã rẽ khác nhưng bi kịch của Chí chưa dừng lại ở đó. Thị Nở đã từ chối lời đề nghị ở chung của Chí bởi bà cô Thị Nở không cho phép lấy một thằng không biết làm gì ngoài việc rạch mặt làm chồng. Nếu nhìn nhận đúng thì không thể nào trách bà cô của Thị Nở được bơi đó cũng chính là cách nhìn của những người sống trong xã hội lúc bấy giờ đối với Chí Phèo. Hắn ta khóc rưng rưng và tiếp tục lại rơi vào những ngày tháng bi kịch tuyệt vọng muốn được làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn lại tìm đến những chén rượu, hắn cứ uống cho đến lúc say mềm rồi cầm dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời, với người trong làng bằng những tiếng chửi rủa, còn đời đáp cũng đáp trả lại hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi khắp cả làng Vũ Đại. Vậy là đã rõ, cuộc đời Chí Phèo đã đi vào hồi kết không có lỗi thoát, kiếp hắn giờ cũng được ví như kiếp sống của những con chó mà thôi.
Miệng hắn thì không thôi chửi cô cháu Thị Nở nhưng đôi chân lại dẫn hắn đến trước ngôi nhà của Bá Kiến. Đoạn văn này được nhà văn Nam Cao miêu tả vô cùng tinh tế và sắc sảo và đầy tính nhân văn. Lúc này, Chí Phèo đang ở trạng thái nửa tỉnh , nửa say. Say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở còn tỉnh là để đến nhà Bá Kiến đi theo thói quen trong tiềm thức. Đến nhà Bá Kiến hắn không đòi tiền như thường lệ mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng lúc này hắn đã cảm nhận được sự tuyệt vọng trong cuộc đời của mình. Hắn hét lên trong vô vọng “ai cho tôi lương thiện?” Câu hỏi đó của Chí Phèo không một ai trả lời, điều đó đau đớn đến vô cùng. Câu hỏi của hắn làm người đọc cảm thấy cảm thương sâu sắc đối với những phận người bất hạnh không biết đi đâu vào đâu trong cái xã hội thối nát này. Quá tuyệt vọng, Chí đã lao vào đâm chết lão Bá Kiến độc ác và cũng Chí đã tự kết thúc đời khốn khổ của mình .
Kết câu chuyện Nam Cao để Chí Phèo chết điều đó thể hiện được rất nhiều ý tưởng sâu xa, sâu sắc góp phần tạo nên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm vì Chí Phèo chết đã tạo thành một bản án tố cáo xã hội thối nát, áp bức đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa, vô tâm đã sẵn sàng tước bỏ đi quyền sống, quyền làm người của những người dân lương thiện, hiền lành. Chí chọn con đường chết cũng có nghĩa là anh ấy không muốn quay lại con đường lưu manh, không muốn tiếp tục sống một kiếp người làm kẻ độc ác nữa. Anh ấy thà chọn con đường chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng được hoàn lương, quyết tâm không quay lại con đường tội lỗi. Đó chính là sự tin tưởng của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người và Chí Phèo là một điển hình.
Khi miêu tả tấn bi kịch về số phận của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích chi tiết các nguyên nhân sâu xa, cốt lõi tạo nên mạch bi kịch trong cuộc đời bi đát của Chí Phèo. Trong đó nguyên nhân khách quan là xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đẩy con người vào vòng sa ngã không đứng lên được. Còn nguyên nhân chủ quan là bản thân những người nông dân cùng cảnh nghèo khó lại quay lưng lại với nhau, phủ định nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu là bà cô của Thị Nở. Khi bị xua đuổi, đày đọa, áp bức một cách tàn nhẫn thì những người như Chí Phèo chống trả bằng con đường lưu manh. Kết thúc câu chuyện tác giả miêu tả cảnh Thị Nở nhìn xuống cái bụng của mình và thấp thoáng hình ảnh Chí Phèo hiện ra sau đó. Rất có thể một Chí Phèo con lại chào đời và sống tiếp quãng đường giống bố của nó. Hình tượng Chí Phèo được khắc họa rất thành công và khát quát hóa quy luật của xã hội. Vậy muốn kết thúc chuỗi bi kịch khốn khổ của Chí Phèo thì cần phải tiêu diệt cái xã hội ấy đi, đây chính là chiều sâu, là giá trị trong các tác phẩm của Nam Cao về miêu tả hiện thực xã hội.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc cũng như lòng thương cảm sâu sắc đối với những kiếp người bị tha hóa trước cách mạng tháng 8. Cùng với Chị Dậu, lão Hạc,…thì hình tượng nhân vật Chí Phèo lại một lần nữa khẳng định cần có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp để đòi lại quyền sống, quyền làm người cho người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là lời nhắc, cảnh tỉnh cho chúng ta biết yêu thương, quý trọng những gì mà mình đang có và ra sức cống hiến để xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 9
Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Trong đó nổi bật hơn cả phải nhắc đến tác phẩm “Chí Phèo”. Tác phẩm là sự kết tinh của tài năng nghệ thuật, là cái nhìn hiện thực sắc sảo và tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn. Đặc biệt, diễn biến tâm trạng và hành động của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở đến lúc tự tay cầm dao kết liễu đời mình là một thành công lớn trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao. Ngay từ thuở ấu thơ, Chí Phèo đã có hoàn cảnh vô cùng đáng thương. Sinh ra trong một lò gạch, nơi không được coi là ngôi nhà, Chí thậm chí còn không biết cha mẹ mình là ai, chỉ cô độc lớn lên như thế dưới bàn tay chăm sóc mà thiếu tình thương của mọi người trong làng.
Tuy vậy, ông trời vẫn cho Chí bản chất lương thiện, giàu lòng tự trọng cùng ước mơ mái ấm gia đình thật bình dị. Nhưng rồi, nhà tù thực dân đã biến một người tốt thành một tên lưu manh, rồi lại bị Bá Kiến, tên địa chủ cường hào già đời đục khoét biến tiếp thành con quỷ dữ. Bị tước mất quyền làm người, đời Chí tàn rồi trượt dài qua những cơn say rượu triền miên. Duy chỉ khi gặp được Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thật sự tỉnh rượu, tỉnh cả tâm tính của một con người với bản chất lương thiện dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Lúc đầu, cuộc gặp gỡ của Chí Phèo với thị Nở chỉ là sự chung chạ do cái bản năng của người đàn ông bị rượu đánh thức. Đến sáng hôm sau, cũng như bao người say tỉnh rượu khác, hắn cảm nhận chính xác được cảm giác miệng đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ buồn.
Nhưng với Chí, đây là cảm giác, cảm xúc khi vừa được đánh thức không chỉ mỗi cơn say. Có lẽ lâu lắm rồi hắn mới cảm nhận được cuộc sống đời thường với những cảnh sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót, ánh nắng rọi vào cái lều nát… Tất cả những hình ảnh, âm thanh ấy khi nào mà chả có, nhưng đây là lần đầu tiên Chí có thể cảm nhận được, bởi rước giờ hắn chưa từng hết say. Nhịp sống trở lại đưa Chí Phèo nhớ lại quá khứ xa xôi với những ước mơ bình dị như biết bao người dân quê khác. Chí mơ ước có một gia đình nhỏ, một cuộc sống gia đình hạnh phúc được tạo dựng từ bàn tay lao động cần cù của chính mình. Rồi Chí nghĩ đến hiện tại, nghĩ về tương lai cô độc với tuổi già đau ốm… hắn càng và càng lo hơn, bởi nửa cuộc đời từng trải đủ để hắn hiểu được cô độc còn đáng sợ hơn là đói rét và ốm đau.
Đó lần đầu tiên hắn trở lại làm người, suy nghĩ, lo lắng như một người nông dân nghèo bản chất lương thiện. Một cách tự nhiên, mọi suy nghĩ của Chí Phèo lại hướng về thị Nở, khi Thị bước vào lều với bát cháo hành. Không ngoa khi nói rằng, thị xấu, xấu lắm, thị xấu đến ma chê quỷ hờn. Vậy mà sự chăm sóc của thị dành cho Chí sao mà ân cần, chân thành, mộc mạc đến thế. Ấy nên khi nhận bát cháo hành xoàng xĩnh đó, Chí phèo vừa húp vừa khóc: “thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt”. Đúng thế, trong Chí giờ đây tồn tại rất nhiều tâm trạng khác nhau, trước hết là ngạc nhiên, đến vô cùng. Hắn thật không thể nghĩ đến, không thể ngờ. Một người như Chí, nỗi sợ hãi và căm ghét của cả dân làng, là con quỷ làng Vũ Đại trước giờ muốn ăn thì chỉ có giành lấy cướp lấy của người khác. Vậy mà giờ đây, có người đem đến cho hắn, đến gần hắn mà không sợ hãi hay căm ghét và còn mang lại đời sống mới cho hắn. Sau đó, sự cảm động đến mức không thể kìm nén dâng trào: hình như hắn khóc.
Đây là lần đầu tiên Chí được người ta chăm sóc, lại bởi bàn tay của một người đàn bà. Có thể sự chăm sóc của Thị là một cử chỉ bình thường của một con người dành cho một con người. Thế nhưng đối với Chí phèo, đây là lòng tốt hiếm hoi, duy nhất mà Chí được hưởng từ ngày về làng. Chí cũng cảm thấy thật bâng khuâng, vừa vui vừa buồn, như là ăn năn, hối hận vì những việc ác mà mình đã làm. Nhưng với hiện tại như bây giờ, Chí tràn ngập niềm vui mới mẻ. Hắn thấy lòng như trẻ con, muốn làm nũng thị như bao đứa trẻ làm nũng mẹ. Rồi như một lẽ tự nhiên bất chợt, Chí thấy “thèm lương thiện, muốn làm hoà với mọi người biết bao! Mong muốn thị Nở sống chung…” Vậy là hương vị bát cháo hành, nụ cười tin cẩn cùng với tình người mộc mạc đơn sơ đã đánh thức bản chất trong trắng, lương thiện của anh canh điền năm xưa. Khi tỉnh rượu cũng chính là lúc Chí Phèo bắt đầu tỉnh ngộ, lại khao khát một gia đình hạnh phúc, một cuộc sống thiện lương sẽ được thực hiện cùng thị Nở.
Thì ra, trong bản chất của con quỷ dữ làng Vũ Đại vẫn là một con người rất đáng thương luôn khao khát được làm người lương thiện, chính tình thương giữa người với người đã làm thức tỉnh điều đó. Nhưng niềm vui của Chí Phèo không kéo dài được bao lâu, sự trở về của lương tri lại nhanh chóng đẩy Chí Phèo đến đỉnh điểm của bi kịch. Chí phèo đã bán đi nhân hình lẫn nhân tính, bộ mặt người lẫn linh hồn người để rồi trở thành hiện thân của con quỷ dữ – cực điểm của sự tha hoá. Thủ phạm là Bá Kiến, nhưng tham gia vào đó còn có định kiến của xã hội – lực lượng không kém phần tàn bạo, đẩy Chí đến cùng quẫn, bế tắc. Đại diện cho định kiến xã hội ấy chính là bà cô của Thị Nở. Bà ta đã kiên quyết ngăn cản mối tình này khiến con đường trở lại làm người lương thiện của Chí Phèo bị chặn đứng. Đối diện với sự tàn bạo của xã hội, tình người thoáng thật mong manh và dễ bị tiêu tan.
Và đúng như vậy, Chí Phèo lại bị cự tuyệt. Hắn bị một người xấu đến tột bậc cự tuyệt, bị chính hy vọng duy nhất, khát khao cháy bỏng còn sót lại cự tuyệt. Chí “ngẩn người”, “sửng sốt”, “gọi thị lại, nắm lấy tay”nhưng không được. Đau đớn cùng cực, Chí Phèo mang rượu ra uống nhưng “càng uống càng tỉnh ra” và “tỉnh ra, chao ôi, buồn”. Rượu không thể làm tê liệt tâm trí của hắn nữa, rượu chỉ càng làm cho hắn thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. Hắn “ôm mặt khóc rưng rức và quyết định trả thù kẻ đã gây cho hắn ra nông nỗi này”. Lúc đầu Chí tính giết cả nhà Thị, hay không cũng ăn vạ kêu làng cho bẽ mặt cái con đĩ thị đó. Thế nhưng trong tiềm thức từ cơn say, Chí nhận ra Bá Kiến mới chính là kẻ cướp đi quyền làm người, bộ mặt người và linh hồn của hắn. Đây có thể coi là giây phút tỉnh táo nhất của Chí từ khi ra tù về, tỉnh táo để xác định kẻ thù: “Ai cho tao lương thiện?”, tỉnh táo để thể hiện mong muốn cháy bỏng của bản thân: “Tao muốn làm người lương thiện!” và tỉnh táo với sự thật phũ phàng trước mắt: “Tao không thể làm người lương thiện được nữa”. Những câu nói ấy như vừa thể hiện quyết tâm trả thù, vừa bộc lộ niềm phẫn uất, bế tắc của Chí Phèo. Chí dõng dạc kết án Bá Kiến, và đâm chết hắn. Nhưng trả thù rồi thì sự thật vẫn không thể thay đổi. Cuối cùng, Chí Phèo chỉ còn con đường duy nhất là cái chết để được giải thoát, để chấm dứt cái bi kịch khốn cùng vì bị cự tuyệt quyền làm người này.
Vì thế hắn tự đâm mình, chết mà vẫn uất ức, vẫn muốn nói ra điều gì đó trong khát vọng bao thuở của hắn nhưng không thể phát thành lời. Cái chết bi thảm của Chí Phèo chứng tỏ ý thức nhân phẩm của hắn đã trở về. Nếu trước đây để bám lấy sự sống, Chí phải bán rẻ linh hồn thì hiện tại, để được sống như một con người đúng nghĩa, Chí phải từ bỏ mạng sống của mình. Cái chết của Chí cũng chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc. Nó thể hiện niềm khát khao cháy bỏng được sống lương thiện của Chí Phèo và cũng là lời tố cáo mãnh liệt xã hội thực dân phong kiến không những đưa người nông dân vào con đường cùng bần hoá, mà còn đẩy họ vào chỗ chết. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện và miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay khi họ đã bị biến thành thú dữ, và trả một cái giá đắt để quay lại làm người.
Qua đó, nhà văn gửi gắm lời kêu cứu khẩn thiết: hãy cứu lấy con người, bảo vệ quyền được làm người của mỗi cá nhân trước mọi thế lực xấu xa của cuộc sống. Đây chính là chiều sâu tư tưởng và là giá trị nhân đạo của tác phẩm. Cả đoạn văn không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn cả về nghệ thuật: kết cấu truyện vô cũng chặt chẽ, logic; tình tiết hấp dẫn, biến hoá giàu kịch tính, ngôn ngữ sống động, linh hoạt. Có thể đáng giá, đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau đêm gặp gỡ Thị Nở là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của Nam Cao. Và một câu hỏi lớn được đặt ra: làm thế nào để con người được sống một cuộc sống con người? Điều đó chẳng những Bá Kiến không hiểu nổi mà cả xã hội bấy giờ cũng không thể trả lời được. Sự day dứt, bức thiết của câu hỏi ấy cũng chính là nét đặc sắc nhất đánh dấu “Chí Phèo” trở thành một trong những văn xuôi bậc nhất của văn học hiện đại Việt Nam.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 10
Tình yêu – một chủ đề quen thuộc nhưng không bao giờ cũ trong văn chương. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ lấy tình yêu làm cảm hứng sáng tác cho mình. Họ ca ngợi, họ tôn vinh tình yêu như những thiên thần có cánh. Nhưng Nam Cao lại khác, với tình yêu nghiệt ngã của Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” viết về người nông dân trong xã hội cũ, ông đã cho mọi người chứng kiến một tình yêu hoàn toàn mới. Ở đó hạnh phúc có, khổ đau cũng có. Nhưng trên hết, tình yêu ấy còn là thông điệp sâu sắc mà nhà văn muốn nhắm đến cả một giai cấp, một tầng lớp người trong xã hội. Tình yêu ấy, đẹp thật đẹp mà đau cũng thật đau khiến cho người trong cuộc là Chí Phèo đã vật lộn và cuối cùng đi đến cái chết. Nhưng ít nhất, trước khi chết, Chí Phèo cũng đã kịp hưởng thụ hương vị của tình yêu dù chỉ là trong những ngày ngắn ngủi.
Chí Phèo chỉ là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ được dân làng nuôi nấng. Lớn lên Chí làm người ở cho nhà Bá Kiến nhưng lại bị bà ba dâm đãng hãm hại khiến Bá Kiến ghen đẩy vào tù. Những năm tháng tù đày cùng với lòng thù hận đã khiến Chí từ một chàng thanh niên hiền lành tốt tính trở thành một con quỷ dữ khi trở về làng. Chí đắm mình trong những cơn say. Cho đến một ngày Chí gặp Thị, tình yêu sét đánh gắn kết hai con người với nhau. Nhưng trong lúc đang lâng đang hạnh phúc thì Thị nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí khiến Chí một lần nữa rơi vào tuyệt vọng. Lòng hận thù trong Chí lại nổi lên và Chí quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình để được làm người lương thiện.
Những diễn biến trong cuộc đời Chí chẳng khác nào tấm bản đồ lúc lên lúc xuống. Và trong đó, những phút giây được ở cạnh Thị Nở chính là đoạn đường đẹp nhất, sáng nhất trong cả tấm bản đồ chằng chịt những nét đứt gãy khúc khuỷu, gập ghềnh.
Cuộc gặp gỡ của Chí và Thị chỉ là sự tình cờ giữa hai con người mê muội. Chí lúc tỉnh lúc say, mà hầu như là chẳng tỉnh bao giờ. Còn thị cũng ngù ngờ, dở hơi. Đã thế, nhà văn lại ban cho ả một “nhan sắc” “kinh tởm” mà ông tóm gọn trong mấy từ “xấu ma chê quỷ hờn”. Ấy vậy mà khi gặp nhau, cái xấu ấy lại làm một cho một người đàn ông chết mê chết mệt. Có thể vì bản năng, vì dục vọng thể xác mà họ ngã vào nhau. Nhưng sau khi thỏa mãn, họ lại dành cho nhau những thứ tình cảm thật “lạ lùng”. Lạ đến mức người đàn bà dở hơi ấy đã xác định được đây chính là cuộc sống “vợ chồng”. “Hai từ vợ chồng nghe ngường ngượng nhưng mà thinh thích”. Đây đúng là tâm lý của kẻ mới yêu, đang yêu và đang hạnh phúc.
Còn Chí, sau trận ấy, Chí bị ốm. Một trận ốm nặng mà nếu không có Thị, Chí sẽ chết mất. Thị dù có dở hơi, nhưng tấm lòng vẫn thánh thiện khi dành cho Chí một bát cháo hành với ý nghĩ giúp Chí mau khỏe mạnh. Có lẽ Thị là người cuối cùng còn sót lại trong xã hội này nhìn nhận đến Chí. Hoặc do thị ngù ngờ nên không phân biệt được đâu là người, đâu là quỷ dữ nên mới chấp nhận con người Chí. Nhưng dù gì đi chăng nữa, những ân cần săn sóc của Thị cũng đã mang một làn gió mới đến với cuộc đời Chí. “Bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan hắn lại nôn nao lên một tí.
Hắn sợ rượu cũng như những người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!”. “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều.
Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Những dòng suy nghĩ của Chí cho thấy rằng Chí hoàn toàn rất khôn ngoan, rất có ý thức sống. Chỉ là do trước đây vì đắm chìm trong men rượu nhiều quá nên Chí không còn nghĩ ngợi tới nữa. Một con người đã trải qua quá nhiều biến cố trong cuộc đời, dòng suy nghĩ hẳn là chín chắn và thấu đáo hơn rất nhiều. Chí biết tiếc cuộc sống, biết nhận ra cuộc đời mình lúc này đang ở trong tình trạng như thế nào và mình cần phải sống ra sao. Chí buồn vì đã để cuộc đời chìm trong cơn say quá nhiều. Và cũng hận khi đã tự chôn vùi đời mình trong thù hận. Những dòng suy nghĩ ấy làm Chí bừng tỉnh và sống lại ước mơ nhỏ bé nhưng giản đơn và thánh thiện ngày nào của mình.
Chí ước có một gia đình nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn. Vợ dệt vải thêu thùa. Cuộc sống ấy tuy nghèo, tuy thiếu thốn nhưng sẽ hạnh phúc biết bao. Và giờ đây Chí muốn tiếp tục thực hiện ước mơ ấy cùng Thị Nở. Chí sẽ làm lại từ đầu, làm hòa với mọi người. Chí đang rất tỉnh. Nếu lúc trước Chí say và ngã vào Thị vì Chí không biết rằng người đàn bà ấy vừa dở hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hơn. Nhưng lúc này, khi hoàn toàn tỉnh táo, Chí không những chấp nhận thị mà còn yêu thị. Bởi chỉ có tình yêu mới khiến con người ta cảm hóa những cái xấu thành cái đẹp.
Chí thấy thị có duyên lắm. Và Chí đang rất vui khi được ở cùng thị. Chí đâu có say. Chính vì Chí tỉnh nên Chí mới cảm nhận được những hương vị của cuộc sống, của tình yêu. Những chi tiết này cho ta khám phá ra thêm một đức tính nửa của Chí. Đó là lòng nhân hậu lớn lao vô cùng. Bởi trong làng ai cũng nhìn Thị bằng con mắt khinh thường và cho rằng Thị chỉ là một người dở hơi. Mà đúng là thị dở thật. Cũng chính vì dở nên Thị mới để cho Chí ngã vào. Nhưng khi tỉnh táo, tình thế đã đảo ngược lại. Lúc này Chí là người khôn ngoan và hoàn toàn bình thường. Nhưng Chí không hề chê bai Thị, cũng chẳng xua bỏ thị. Mà ngược lại, Chí còn muốn gắn bó cả đời với thị, cùng thị xây dựng ước mơ ngày nào còn dang dở của mình….
Nhưng rồi, hạnh phúc ấy chẳng được bao lâu, những dự định của Chí cũng vụt tắt khi Thị trở về nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí. Chí một mình ở lại trong căn lều in dấu bao kỷ niệm về tình yêu của mình. Thất vọng, khổ đau và lòng thù hận lại nổi lên. Nhưng lần này, Chí tỉnh rồi, Chí không đi rạch mặt ăn vạ nữa. Chí đến thẳng nhà Bá Kiến để đòi lại quyền sống của mình. Sống nhưng lại là chết. Chết để giữ được bản chất lương thiện của bản thân. Chí giết Bá Kiến rồi cũng tự kết liễu cuộc đời mình. Phải đi đến quyết định ấy, hẳn là Chí đau khổ lắm. Nhưng với Chí lúc này, đó là cách duy nhất để không quay lại cuộc sống nghiệt ngã như trước kia nữa.
Như vậy, sau khi gặp Thị Nở, cuộc đời Chí đã liên tiếp xảy ra hai biến cố lớn. Một là tỉnh – tỉnh dậy sau những cơn say dài triền miên. Tỉnh để sống, để yêu và hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy không được bao lâu thì biến cố thứ hai lại xảy đến khi thị trở mặt với Chí, khiến Chí tiếc nuối khôn nguôi. Trong cơn tuyệt vọng Chí giết Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình. Không phải vô tình mà Nam Cao lại dàn dựng nên những dòng tâm lý trắc ẩn cho Chí, mà trong đó là những thông điệp sâu xa mà ông muốn gửi gắm đến người đọc.
Thứ nhất là hình ảnh về người nông dân nghèo khổ, bất hạnh bị xã hội đẩy đưa đến bước đường cùng. Đến ngay cả cái hạnh phúc của bản năng con người họ cũng không có được. Cho đến khi có được thì lại nhanh chóng vụt bay cũng chỉ vì định kiến xã hội.
Thứ hai, nhà văn muốn đề cao nhân phẩm, phẩm chất của con người. Chí dù say, nhưng khi tỉnh hắn vẫn luôn mang một tâm hồn trong sáng với tấm lòng nhân hậu tinh khiết. Đặc biệt, là Thị Nở – bên trong người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ấy lại chính là một tâm hồn cao cả. Suýt chút nữa Thị cũng đã bị vùi dập giống như Chí. Hai cong người cùng chung cảnh ngộ ngã vào nhau, cùng làm cho nhau tìm lại chính bản thân mình.
Thứ ba, Nam Cao đã đưa người đọc đến với một tầm cao mới của tình yêu. Đó là tình yêu không chỉ dừng lại ở xác thịt mà ở tình yêu còn là sự đồng điệu của hai tâm hồn. Yêu không vì vẻ bề ngoài, cũng không vì vật chất cao sang. Yêu chỉ vì yêu, vì trái tim. Nhưng dù yêu đến thế nào đi nữa, tình yêu cũng không thể vượt qua giới hạn của thực tế. Ở đây, thực tế của Chí Phèo – Thị Nở chính là những định kiến nghiệt ngã về một tên quỷ dữ đội lốt người mang tên Chí Phèo.
Thứ tư, là sự minh mẫn, sự thức tỉnh trong tình yêu. Tình yêu dù vui buồn hay hạnh phúc, nhưng thứ mà con người ta cần phải giữ vững là tinh thần, là trí óc. Ở đây, sau khi thức tỉnh, Chí vẫn giữ vững tình cảm của mình với thị. Ngay cả sau khi bị thị chối từ, Chí vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Chính vì thế Chí mới đi đến quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.
Như vậy, chỉ bằng một đoạn văn ngắn kể lại diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, nhà văn đã gửi gắm những thông điệp có ý nghĩa sâu xa tới người đọc. Nam Cao không còn, và cuối tác phẩm Chí Phèo cũng chết nhưng những dòng xúc cảm của một con người lần đầu tiên tỉnh rượu đã đánh động tâm hồn mọi người tự ý thức mình, tự nâng niu, trân trọng những gì mình đang có trong cuộc sống cũng như trong tình yêu.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 11
Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.
Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.
Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.
Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối củng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay. Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 12
Nam Cao một trong những tác giả nổi bật nhất trong thời kì 1945 – 1954. Dưới ngòi bút chân thực của mình, đời sống, thân phận và những nỗi thống khổ của ngời nông dân được ông lột tả một cách vô cùng chân thực. Điển hình là các tác phẩm Chí Phèo, Lão Hạc, Một bữa no… Có một điểm chung giữa các tác phẩm của ông là khi trang sách đã khép lại, người đọc vẫn mường tượng ra rõ những đau thương của số phận con người trước cách mạng tháng Tám vẫn còn ẩn khuất đâu đó, và cũng từ đây toát lên được giá trị nhân văn mà tác giả muốn truyền tải qua mỗi tác phẩm.
Chí Phèo là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã rất xuất sắc khi xây dựng lên một hình ảnh người nông bị tha hóa đến mức cùng cực bởi xã hội thực dân nửa phong kiến đầy thối nát, để rồi người nông dân ấy phải tự tìm đến cái chết như lối thoát cuối cùng của cuộc đời mình.
Chí Phèo bước ra từ trang sách không phải với sự xuất hiện bình thường, người ta nhận ra hắn bằng tiếng chửi, “Hắn vừa đi vừa chửi…” Chí “chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”. Tiếng chửi ấy chính là “liều thuốc giảm đau” của Chí giữa cuộc đời đầy nghiệt ngã lúc bấy giờ. Hắn vừa đi vừa chửi. Chửi tất cả những đớn đau mà lẽ đời bắt hắn phải mang. Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay, nào ai đáp lại lời Chí. Hắn đang độc thoại lòng mình giữa cả xã hội, ai cũng xa lánh hắn, người ta mặc kệ hắn, bỏ mặc hắn như chính cái cách mà hắn bắt đầu cuộc đời mình từ ngày mới lọt lòng.
Nhìn lại cuộc đời của Chí, từ khi mới lọt lòng đã là đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên bằng sự cưu mang của cả làng Vũ Đại, rồi lớn lên làm anh tá điền chân chất với ước mơ bình dị như bao người thì lại bị Bá Kiến đẩy vào tù. Đến khi trở lại làng Vũ Đại, Chí đã không còn là Chí nữa. Chí bị hủy hoại từ con người đến tính cách. Chẳng còn ai nhận ra Chí của ngày xưa hiền lành, chất phác mà giờ chỉ là thằng Chí Phèo, thích gây sự với người thường, rượu tan nát, và suốt ngày chửi bới…
Người ta nhìn thấy bây giờ là gì? Ngoài một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế.
Nhà tù thực dân như cái địa ngục trần gian có thật đẩy một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Mới ngày nào người dân làng Vũ Đại còn cưu mang hắn mà giờ đây ai cũng cảm thấy căm ghét, làng Vũ Đại chẳng còn được yên bình như trước nữa. Hắn hận, hận cái cuộc đời và xã hội, yêu thương bao bọc hắn và rồi cũng đẩy hắn đến đường cùng. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say "ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”.
Nam Cao đã rất tài tình khi đưa Chí Phèo trải qua hết nỗi đau thương này tới nỗi đau thương khác, để rồi người đọc như hình dung ra xã hội bấy giờ khắc nghiệt đến mức như thế nào. Có lẽ Chí là một kẻ đáng thương hơn là đáng trách. Đáng nhận được đồng cảm hơn là sự xa lánh. Ngòi bút của Nam Cao vẫn dành cho nhân vật của mình những yêu thương. Ông vẫn để cho Chí Phèo nhìn thấy được yêu thương. Yêu thương cho chính Chí qua những phẫn uất mà xã hội mang đến.
Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu ma chê quỷ hờn kia chính là niềm tin cho Chí bước đến cánh cửa lương thiện. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ: ”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”.
Bao nhiêu mơ ước thời trai trẻ như ùa về làm thức tỉnh phần “người” trong Chí, hắn nhận ra mình cũng muốn yêu và cần được yêu, cần những điều bình dị như bao con người khác.
Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng.
Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một tay người đàn bà cho. Trước đây chỉ toàn là giật cướp và dọa nạt. Còn ngày hôm nay, chính bàn tay ân cần ấy và tình yêu ấy đã làm hắn thay đổi. Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao mà hắn hiền?".
Vậy đó, tình yêu là phương thuốc duy nhất có thể khiến Chí trở về làm Chí, làm anh tá điền hiền lành năm nào. Và cũng chỉ có bát cháo hành của Thị Nở mới có sức mạnh cảm hóa được hắn. Bao năm qua, chưa bao giờ Chí cảm thấy mình thật sự là mình như lúc ấy. Sức mạnh của sự vị tha, của tình yêu thương con người tưởng là vô hình mà hóa ra lại vô cùng lớn lao.
Nhưng rồi hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không mỉm cười với Chí. Thị Nở vừa thắp lên được chút hi vọng thì cũng chính là lúc cơn giông cuộc đời Chí ập đến. Bà cô của Thị Nở, chính là hiện thân đầy đủ của định kiến của xã hội lúc bấy giờ. Bà ta đã đến và cướp nốt đi phần lương thiện còn lại của Chí. Chao ôi, sao mà hắn đáng thương đến tột cùng!!!
Giờ thì rượu ngon hay những lời chửi thề cũng không thể khiến hắn bớt đau. Hắn nhớ, nhớ đến phát điên mùi vị cháo hành của Thị Nở, rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức. Cái xã hội ấy đến phút tận cùng vẫn cướp đi của hắn những niềm hi vọng len lỏi để trở về con đường hoàn lương.
Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong giây phút ấy, Chí nhận ra, kẻ đã lấy đi của mình tất cả chính là Bá Kiến. Hắn cướp đi tuổi trẻ của một anh tá điền chất phác. Cướp đi cuộc đời của Chí, trả lại cho Chí cái thân hình ma dại và nhân cách chẳng còn vẹn nguyên.
– Tao muốn làm người lương thiện
– Ai cho tao lương thiện?
Câu hỏi ấy như xoáy vào tận tâm can người đời. Đến khi gấp trang sách lại, chúng ta vẫn còn như day dứt ở trong lòng. Phận người trong xã hội cũ, sống trong trăm ngàn thứ khắc nghiệt bủa vậy, bị tha hóa, bị chà đạp, bị cướp đi nhân cách và phải tự kết liễu đời mình là lối thoát duy nhất.
Nam Cao đã mang đến một sự kết hợp sâu sắc giữa giá trị hiện thực đầy đau thương và giá trị nhân đạo vô cùng tinh tế. Bằng ngòi bút sắc sảo nhưng vẫn đầy tính nhân văn, tác phẩm Chí Phèo của ông đã như là tấm gương phản chiếu lại những xót xa của một tầng lớp xã hội thời bấy giờ, nhưng chất chứa trong đó vẫn là sự cảm thông đầy sâu sắc.
Có lẽ ít tác phẩm nào trong giai đoạn cùng thời lại gây được tiếng vang đến tận bây giờ như Chí Phèo của Nam Cao. Một con người mà đại điện cho cả trăm số phận khác, dù có đau thương nhưng vẫn xứng đáng được yêu thương.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 13
Khi nhận định về các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung cho rằng: “Trong mảng sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những nhân vật xấu xí, thô lỗ cục cằn và những chuyện nhục nhã của họ. Chính vì thế mà một số người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nam Cao, có biết đâu rằng, chính với đám nhân vật “có vấn đề” đó mà cái nhìn hiện thực và quan điểm nhân đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất”. Và nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là một nhân vật “có vấn đề” như thế, nhưng chính những lời văn mà tác giả viết về nhân vật này và những bi kịch mà y phải chịu đựng đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm mà Nam Cao muốn gửi gắm qua nhân vật này.
Chí Phèo có một tuổi thơ thật bất hạnh: Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo đã là một đứa con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ và không biết cha mẹ mình là ai. Chí lớn lên nhờ sự đùm bọc, cưu mang của dân làng. Lớn lên Chí đi ở hết nhà này đến nhà nọ. Cứ như thế, Chí lớn lên bình yên giữa những người dân nghèo khổ nhưng hiền lành. Chí cũng có ước mơ riêng của mình, đó là có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”. Đến năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một chàng trai có vẻ đẹp toàn vẹn từ ngoại hình mạnh khỏe cho đến nội tâm hiền lành. Nhưng rồi Chí đi làm cho nhà Bá Kiến và cũng chỉ vì chuyện ghen tuông vớ vẩn Chí bị đẩy vào tù, sau bảy, tám năm biệt tích trở về làng giờ đây Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi từ ngoại hình cho đến tính cách. Ngoại hình của Chí thật đáng sợ: cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết. Ngoại hình ấy ẩn chứa một tính cách đã hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như đất” nữa mà giờ đây hắn chuyên đi đập đầu, rạch mặt ăn vạ, hắn lấy rượu để bầu bạn với mình và rồi trong cơn say hắn đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng kết quả của cả hai lần là hắn đã bị Bá Kiến “ru ngủ” bằng rượu, thịt và tiền. Và rồi từ đó, Chí rơi vào trạng thái mất phương hướng, không biết ai là kẻ thù của cuộc đời mình và lại tiếp tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Bá Kiến đã giăng sẵn, hắn vào tù vì Bá Kiến và rồi khi ra tù lại tiếp tục biến mình thành tay sai cho chính kẻ thù của mình, còn gì nhục nhã hơn là điều đó.
Cứ thế, cuộc đời hắn trượt dài trong những bi kịch, hắn không làm gì ngoài việc rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Cuộc đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Cứ như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Cuộc đời hắn đã xem như là bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bản thân hắn cũng quên sự có mặt của hắn ở trên đời.
Nhưng rồi người nông dân bị lưu manh hóa ấy cuối cùng cũng đã thức tỉnh. Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá ấy của Chí vẫn còn le lói một ánh sáng của lương tâm, lương thiện chỉ cần có cơ hội thôi là sẽ bừng sáng. Và Nam Cao đã cho Chí một cơ hội để ánh sáng ấy có dịp bừng lên, đó là cho Chí được gặp gỡ với Thị Nở. Chính cuộc gặp gỡ ấy, sự chăm sóc ân cần của Thị cùng bát cháo hành nóng hổi nghi ngút khói đã làm sống dậy bản chất lương thiện của Chí. Được Thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay nào hắn có thấy ai tự cho ai cái gì, hắn phải dọa nạt hay cướp giật mới có. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, hắn bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ và cùng với đó là khát vọng được sống một cuộc sống khác, được hòa nhập cùng mọi người, họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Hắn tự đặt ra câu hỏi cho mình: hắn có thể làm bạn được sao lại chỉ gây thù? Thị Nở chính là người mà Chí đặt niềm tin vào, Chí tin Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối giúp Chí trở về với cuộc sống đó.
Nhưng rồi, khát khao sống một cuộc sống lương thiện của hắn vừa mới được nhen nhóm thì đã bị dập tắt. Chiếc cầu nối ấy đã bỏ hắn mà đi chỉ vì lời nói của bà cô: “Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”, bỏ lại Chí với nỗi đau khổ đến tột cùng, hắn đau xót nhận ra rằng sẽ chẳng còn chiếc cầu nào mang hắn về với cuộc sống của những người lương thiện nữa. Những lời lẽ cuối cùng đã bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm của Chí: “Tao muốn làm người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.
Và cuối cùng, bi kịch đã biến thành thảm kịch. Tột đỉnh của sự khổ đau đã biến thành tột đỉnh của sự căm thù, uất hận. Chí thấy kẻ thù trước mắt cướp đi tình yêu của hắn chính là bà cô Thị Nở nhưng trong sâu thẳm tâm hồn có lẽ hắn vẫn ý thức được ai mới chính là kẻ thù gây nên một chuỗi dài bi kịch của cuộc đời mình. Hắn xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Trong sự bế tắc đến tột cùng, Chí đã tự tìm ra lối thoát cho riêng mình, đó là cái chết, chết để kết thúc tất cả bi kịch của cuộc đời Chí.
Nhân vật Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho số phận của người nông dân trong xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của mình đối với những người có số phận bất hạnh. Ở sâu thẳm trong tâm hồn họ chính là sự khát khao hạnh phúc, được yêu thương và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 14
Giữa những bộn bề phồn tạp của buổi chợ văn chương, giữa những náo nhiệt đông đúc của gian hàng hiện thực, phê phán, Nam Cao được nhận ra là một chủ cửa hàng khá đặc biệt, với tấm lòng nhân đạo sâu sắc về sự quan tâm đặc biệt dành cho những người nông dân nghèo trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã đưa người đọc đi sâu khám phá những đau đớn, khổ cực mà những con người cùng hơn cả dân cùng phải chịu đựng, phát hiện những vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn của họ. Tiêu biểu cho cuộc hành trình đó là tác phẩm Chí Phèo, đặc biệt qua nhân vật Chí Phèo ta sẽ thấy rõ được điều đó.
Quả thật không sai khi nói rằng, sản phẩm văn học chỉ được khai sinh ra khi nó là kết quả kết quả từ đời sống, nếu sáng tác văn học chỉ hoàn toàn là sản phẩm của sự hư cấu và tưởng tượng mà không mang hơi thở đời sống thì sẽ không truyền được cảm xúc đến với bạn đọc. Văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời, mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật. Nam Cao đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo và ông đã khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam hiện tại. Đồng thời tìm cho mình một phong cách hoàn toàn mới mẻ, khác với những nhà văn cùng thời.
Đọc Chí Phèo của Nam Cao ta sẽ thấy rõ được điều đó, tác phẩm được in thành sách lần đầu năm 1941, sau đó được in lại trong tập “Luống cày” năm 1946. Lúc đầu tác phẩm có tên là “Cái lò gạch cũ”, sau đó Nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”, đến năm 1946 Nam Cao đã đổi lại tên thành “Chí Phèo”.
“Chí Phèo” xoay quanh bi kịch của người nông dân trước cách mạng tháng 8, khác với Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan, Nam Cao không đi sâu vào bi kịch về mặt vật chất mà các nhân vật phải chịu đựng, ngược lại nhà văn đi sâu, khai thác bi kịch tinh thần đầy đau đớn của Chí Phèo. Đó là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, sinh ra là một con người nhưng không được mọi người công nhận.
Chí Phèo được xem là nhân vật điển hình trong tác phẩm, người đại diện cho tầng lớp nhân dân bần cùng hóa, lưu manh hóa trước cách mạng tháng Tám.
Cả cuộc đời của Chí Phèo là một con số 0 tròn trĩnh, không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dùi. Ngay từ khi sinh ra, cha mẹ đã không nhìn nhận hắn, cuốn hắn vào chiếc váy đụp rách, bỏ hắn ở cái lò gạch bỏ không, vắng người qua lại, may mắn thay một anh đi thả ống lươn nhìn thấy hắn, từ đó Chí lớn lên nhờ bát cơm của bác Phó cối và sự cưu mang của cả dân làng Vũ Đại. Năm 18 tuổi Chí Phèo làm canh điền cho nhà lý Kiến.
Khi làm canh điền cho nhà lý Kiến, Chí vốn là một anh nông dân hiền lành, chăm chỉ, hắn cũng đã từng mơ về một gia đình nhỏ bé, hạnh phúc, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải nuôi tằm, rồi chúng bỏ một con lợn làm vốn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Cuộc đời vốn không công bằng, thân phận nô lệ đâu để cho Chí Phèo được yên, bởi thói dâm dục của bà ba nhà lý Kiến, cùng tính ghen tuông của ông ta mà Chí Phèo bị đẩy vào tù, để rồi 7, 8 năm sau ra tù Chí Phèo đã thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính.
Trở về làng Vũ Đại sau một thời gian dài không ai nhận ra Chí, cái đầu thì trọc lốc, răng cạo trắng hơn, cái mặt đen, lại rất cong cơng. Hắn mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, trên người đầy những nét chạm trổ, rồng phượng, lại có cả hình một ông tướng cầm chùy trông rất gớm chết. Không chỉ thay đổi ngoại hình, mà Chí còn thay đổi cả nhân tính. Mới về hôm trước, hôm sau đã thấy hắn ngồi uống rượu với thịt chó từ trưa đến chiều, khi đã say hắn tìm đến nhà Bá Kiến gây sự, rạch mặt ăn vạ. Và cũng chỉ vì cơn say ấy, Chí Phèo đã bị Bá Kiến lợi dụng biến Chí Phèo trở thành tay sai đắc lực của mình.
Không phải ngẫu nhiên mà mở đầu câu chuyện Nam Cao bắt đầu bằng tiếng chửi của Chí Phèo, bao giờ cũng vậy say là hắn chửi. Hắn chửi trời, chửi đất, chửi cả dân làng Vũ Đại nhưng chẳng ai đáp lại tiếng chửi của hắn. Tiếng chửi của Chí Phèo thể hiện sự giao hòa, giao cảm, sự khát khao được sống với mọi người. Nhưng đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là tiếng của ba con cho giữ, điều đó chẳng khác nào Chí Phèo đã bị đánh tụt từ hàng con người xuống hàng con vật.
Đọc tác phẩm ta tưởng rằng cuộc đời của Chí Phèo sẽ trượt dài trên con dốc của sự tha hóa và biến chất, nhưng với tấm lòng nhân đạo của mình Nam Cao không hề hắt hủi nhân vật của mình. Ngược lại ngòi bút của ông dành cho nhân vật nồng nàn yêu thương, ông đã tìm ra lối thoát cho Chí Phèo, khơi gợi khát khao được làm người nơi Chí bằng cách cho Chí gặp Thị Nở. Ban đầu chí đến với Thị chỉ bằng bản tính thú vật của một gã say rượu, nhưng nào ngờ Thị Nở chính là nguồn ánh sáng duy nhất soi sáng cho trái tim của Chí Phèo. Sau đêm ăn nằm với Thị Nở, lần đầu tiên sau những cơn say Chí hoàn toàn tỉnh táo, hắn cảm giác nắng đã lên cao, nghe thấy tiếng chim hót ríu rít, tiếng của những người đi chợ về, những âm thanh này hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy những âm thanh quen thuộc này, đã chắp cánh cho ước mơ về một gia đình nhỏ trước kia của Chí Phèo quay về. Đọc đến đây ta bỗng nhớ đến tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân trong tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ” của Tô Hoài. Chính tiếng sáo ấy đã thôi thúc Mị khao khát sống mãnh liệt, giúp mị quên đi thực tại, đau đớn. Bỗng Chí Phèo như thấy trước tuổi già ốm đau và bệnh tật, rồi Chí Phèo bỗng cảm thấy sợ cô đơn…
May mà Thị Nở bước vào, không Chí Phèo không nên được mất. Thị Nở bước vào trong tay cắp một cái rổ, trong rổ là nồi cháo hành nóng hổi, thị múc ra bát đưa cho Chí Phèo, lúc này Chí Phèo cảm thấy yêu Thị Nở, cầm bát cháo hành trong tay Chí Phèo ăn một cách ngon lành, bởi đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho mà không cần cướp giật. Đã có ý kiến nhận xét rằng, Thị Nở chính là vị thiên sứ mà Nam Cao phái đến bên cạnh Chí Phèo. Thiên sứ ấy không có đôi cánh, nhưng có đôi bàn tay ấm áp như ngọn gió, ngọn lửa, thổi bay lớp tro tàn, thiêu đốt lớp vỏ quỷ dữ bên trong con người Chí Phèo. Bát cháo hành là chi tiết đặc biệt trong tác phẩm, nó như một liều thuốc giải độc, gột rửa lớp men rượu đưa Chí Phèo trở về làm người, với mong muốn trở về làm người lương thiện Chí Phèo tưởng rằng Thị Nở sẽ là cây cầu đưa Chí Phèo đến gần hơn với mọi người. Nhưng Chí Phèo đâu biết rằng Thị Nở và tình yêu của Thị Nở chỉ như cây cầu vồng lung linh bảy sắc, xuất hiện và biến mất sau cơn mưa. Chí Phèo chưa bước chân lên cầu thì cây cầu đã rút ván, bởi xã hội lúc bấy giờ còn quá nhiều định kiến, nên việc Chí Phèo muốn trở về làm người lương thiện còn quá nhiều khó khăn. Những lời Thị Nở trút lên đầu Chí Phèo đã cho thấy định kiến nặng nề như thế nào? Quá đau khổ Chí Phèo lại tìm đến rượu, nhưng lúc này càng uống càng tỉnh, mùi cháo hành thoang thoảng đâu đây. Quá căm phẫn uất, Chí Phèo cầm dao đi trả thù. Miệng thì nói đâm chết con đĩ Nở, con khọm già, nhưng đôi chân lại đưa Chí đến nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí Phèo hiểu rằng Bá Kiến chính là người đã đẩy Chí Phèo đến ngày hôm nay, xóa tên Chí Phèo khỏi cuốn sổ của những con người lương thiện. Có lẽ trong cuộc đời tối tăm của Chí Phèo hành động vung dao kết liễu tên cáo già Bá Kiến là những giây phút rực rỡ nhất. Dù Chí Phèo đã chết nhưng câu hỏi “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất đi những vết mảnh trai trên khuôn mặt này”, vẫn còn để lại những nhức nhối trong lòng người đọc.
Với cách xây dựng nhân vật điển hình, độc đáo, ngôn ngữ sắc sảo, góc cạnh mang tính khẩu ngữ Nam Cao đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Chí Phèo, với bi kịch tinh thần đầy đau đớn, khắc khoải. Hình tượng nhân vật Chí Phèo đã để lại trong lòng bạn đọc nhiều niềm xúc động và sự cảm thông sâu sắc, đối với một kiếp người cùng hơn cả dân cùng trước cách mạng tháng tám. Cùng với hình tượng chị Dậu, Anh Kha, Lão Hạc, nhân vật Chí Phèo đã khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp để đòi lại quyền sống chính đáng cho con người. Cho đến ngày hôm nay những nhân vật văn học ấy vẫn là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu thương, trân trọng hơn hạnh phúc mình đang có, đồng thời phải biết cống hiến để cuộc sống tốt đẹp hơn lên.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 15
Truyện ngắn “Chí Phèo” là một kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại của nhà văn hiện thực và nhân đạo Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả đã vẽ nên một bức tranh thê thảm, đầy bi thương của những kiếp sống lương thiện nhưng đói nghèo đã bị tha hóa cả về thể xác lẫn linh hồn. Tiêu biểu cho những kiếp người đó chính là nhân vật “Chí Phèo” và những bi kịch mà hắn phải chịu đựng, nếm trải trong chặng đường đời của mình.
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, người đọc dõi theo từng bước chân của Chí từ một người dân lương thiện bình thường cho đến khi trở thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại và cuối cùng là cái chết tuy bi thảm nhưng lại là cách giải thoát tốt nhất khỏi những bi kịch mà Chí đang phải chịu đựng. Người đọc không thể quên hình ảnh của Chí lúc mới ở tù ra với “cái đầu trọc lốc, răng cạo trắng hớn, mặt đen lại”, “cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy trông gớm chết”. Để rồi từ đó, cuộc đời hắn chìm trong men rượu, trong cơn say hắn đã làm biết bao tội ác, hắn phá vỡ hạnh phúc của biết bao nhiêu gia đình, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người lương thiện.
Những tưởng cuộc đời hắn sẽ trượt dài trong tội lỗi nhưng rồi ở phần cuối của tác phẩm, Chí Phèo đã có ý thức vươn lên khao khát được làm người lương thiện, đỉnh điểm của khát khao đó là hành động xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện. Khi nhận ra một sự thật đau khổ đến mức tuyệt vọng là hắn không thể trở lại làm người lương thiện được nữa thì hắn đã giết Bá Kiến – nguyên nhân chính tạo nên mọi bi kịch của cuộc đời Chí và tự kết liễu đời mình để giải thoát khỏi cuộc sống đau khổ hiện tại. Vậy động lực nào đã thúc đẩy Chí hoàn lương? Đó chính là tình thương của Thị Nở và bát cháo hành của Thị.
Bát cháo hành của Thị Nở tuy giản đơn, mộc mạc chỉ có một chút cháo trắng với hành nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự hồi sinh thức tỉnh của Chí. Bát cháo được nấu lên bằng tình yêu thương chân thành, sự cảm thông, thấu hiểu của Thị Nở dành cho Chí, chính vì vậy mà nó có sức lay động mạnh mẽ bản chất lương thiện vốn đã bị vùi sâu trong tâm hồn Chí. Nếu như trước đây, hắn chỉ biết uống rượu, rạch mặt, ăn vạ, rồi gây nên biết bao nhiêu tội ác thì giờ đây sau khi ăn bát cháo hành của Thị Nở hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với Thị như với mẹ. Chưa bao giờ ta thấy hắn hiền như lúc này…Khi nhận được bát cháo hành từ tay Thị, Chí rất ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt. Vậy là Chí đã khóc, một con người đã lấy đi biết bao nhiêu nước mắt của người khác vậy mà giờ đây chính hắn lại khóc. Hắn đã khóc, khóc vì đây là lần thứ nhất hắn được người ta cho, lại được cho bởi tay một người đàn bà. Trước đây, chỉ toàn là đi cướp giật của người khác, hắn thấy “xưa nay có thấy tự nhiên ai cho ai cái gì”. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng, vừa vui vừa buồn và một cái gì nữa giống như là ăn năn, hối lỗi…Và đây cũng là lần đầu tiên Chí biết đến cái duyên của một người, đó là khi Thị Nở múc cháo “nhìn trộm hắn rồi lại cười toe toét. Trông Thị thế mà có duyên”. Nhìn Thị hắn nghĩ lại quá khứ khi mà hắn phải chăm sóc cho bà ba, phải làm những việc xấu xa hắn thấy nhục hơn là thích. Bát cháo hành của Thị Nở có sức mạnh thật kì diệu, nó đã làm cho một người như Chí phải suy nghĩ: “Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây thù?”.
Đồng thời, bát cháo ấy đã lấy lại sức khỏe cho hắn bởi vì hắn càng ăn mồ hôi lại càng ra nhiều. Và tất nhiên, điều này rất tốt đối với một người bị cảm gió như hắn. Tuy chỉ là bát cháo hành bình thường thôi nhưng nó đã giúp Chí khỏi bệnh, hắn thấy bát cháo mới thơm ngon làm sao, những người suốt đời không ăn cháo hành sẽ không biết rằng cháo hành ăn rất ngon…nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo, tự hỏi để rồi tự mình trả lời. Đó chính là bởi vì đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi tay một người đàn bà. Sự gặp gỡ với Thị Nở như là một điều kì diệu đối với Chí, hình ảnh của Thị giống như một vị cứu tinh trong cuộc đời u ám, say triền miên với những chuỗi dài bi kịch của Chí Phèo. Điều đặc biệt hơn, đây là tình cảm đáng trân trọng giữa những con người có cảnh ngộ khốn cùng.
------------------------------------
Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Phân tích nhân vật Chí Phèo của tác giả Nam Cao. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu soạn bài văn mẫu bài Chí Phèo, tóm tắt tắc phẩm Chí Phèo, Văn mẫu lớp 11 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.