Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Soạn bài Chí Phèo - Phần 2: Phần tác phẩm

Soạn bài Chí Phèo do Nam Cao sáng tác thuộc môn Ngữ văn lớp 11 học kỳ 1. Bài soạn dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo, chuẩn bị sẵn sàng cho bài giảng sắp tới đây của mình. Chúc các bạn học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 11.

Soạn bài Chí Phèo phần tác phẩm mẫu 1

1. Khái quát về truyện ngắn Chí Phèo

Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, khẳng định được tài năng của tác giả, là một truyện ngắn có giá trị hiện thực sâu sắc, mới mẻ, chứng tỏ trình độ nghệ thuật bậc thầy của một nhà văn lớn.

2. Tóm tắt truyện ngắn Chí Phèo

Chí Phèo là một đứa con hoang bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ ngay từ khi mới lọt lòng, được dân làng truyền tay nhau nuôi lớn. Đến năm 20 tuổi Chí Phèo làm tá điền cho nhà bá Kiến. Chí Phèo vốn là một anh nông dân hiền lành, chăm chỉ, siêng năng làm việc nhưng do bị bá Kiến ghen và hãm hại Chí phải vào tù. Khi ra tù, Chí Phèo trở thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại, là tay sai đắc lực cho bá Kiến. Vào một đêm trăng, Chí Phèo say khướt thì gặp thị Nở. Được sự chăm sóc tận tình của thị Nở, Chí Phèo khao khát muốn làm người lương thiện. Bị bà cô thị Nở ngắn cấm, Chí Phèo rơi vào tuyệt vọng, uất ức. Chí Phèo đến nhà bá Kiến đòi làm người lương thiện, Chí đâm bá Kiến rồi tự sát.

3. Nội dung tác phẩm Chí Phèo

Phơi bày trần trụi cuộc sống của Chí Phèo và một số bộ phận người dân nghèo trước cách mạng.

Khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa.

Lên án đanh thép xã hội tàn bạo, tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay cả khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính.

4. Nghệ thuật tác phẩm Chí Phèo

Xây dựng thành công những nhân vật điển hình bất hủ, nghệ thuật trần thuật linh hoạt, tự nhiên mà vẫn nhất quán, chặt chẽ; ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc.

Nghệ thuật xây dựng diễn biến tâm lí nhân vật độc đáo, đưa nhân vật qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau từ đó bộc lộ được rõ hơn bản chất, tính cách của nhân vật.

Soạn bài Chí Phèo - Phần 2: Phần tác phẩm mẫu 2

Bố cục: 3 phần

- Phần 1 (từ đầu đến cả làng Vũ Đại cũng không ai biết): Chí Phèo xuất hiện cùng tiếng chửi.

- Phần 2 (tiếp đến không bảo người nhà đun nước mau lên): Chí Phèo mất hết nhân tính.

- Phần 3 (còn lại): Sự thức tỉnh, ý thức về bi kịch của cuộc đời Chí Phèo.

Nội dung chính

Tác phẩm là lời tố cáo đanh thép của Nam Cao về xã hội đương thời tàn bạo, thối nát đã đẩy người dân lương thiện vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Đồng thời ca ngợi vẻ đẹp của con người ngay cả khi bị vùi dập mất hết cả nhân hình, nhân tính.

Câu 1 (trang 155 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

  • Cách mở đầu truyện độc đáo, ấn tượng với hình ảnh Chí Phèo vừa đi vừa chửi trong đơn độc.
  • Ý nghĩa của tiếng chửi:
    • Cách phản ứng của Chí Phèo với toàn bộ cuộc đời, tâm trạng bất mãn vì bị xã hội phi nhân tính gạt ra khỏi thế giới loài người.
    • Sự cô đơn cùng cực, nỗi oán hận với những thế lực đã đẩy Chí vào con đường cùng, con đường tha hóa, lưu manh hóa.

Câu 2 (trang 155 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

Việc gặp gỡ thị Nở có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đời Chí Phèo:

  • Thị Nở: xấu xí, dở hơi, gia đình có mả hủi nên cả làng xa lánh, chê cười.
  • Thị Nở là người đầu tiên và duy nhất đem lại cho Chí Phèo sự quan tâm và tình thương yêu chân thành.
  • Nhờ bát cháo ấm áp tình thương của thị Nở, Chí Phèo từ tỉnh rượu đã tỉnh ngộ, từ con quỷ làng Vũ Đại trở lại làm người:
    • Sáng hôm sau Chí Phèo tỉnh rượu: cảm nhận được cuộc sống xung quanh.
    • Được thị Nở mang cho bát cháo hành: Chí Phèo ngạc nhiên, mắt ươn ướt rồi ăn ngon lành và thèm lương thiện, muốn xây dựng gia đình với thị Nở, muốn làm hòa với làng Vũ Đại.

=> Thị Nở vừa là ân nhân cảm hóa Chí Phèo, vừa gọi bản tính người trong Chí trở lại.

Câu 3 (trang 155 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

* Tâm trạng của Chí:

  • Từ chỗ tưởng thị đùa, sửng sốt khi biết là thật.
  • Ngửi thấy hơi cháo hành - chạy theo níu kéo - muốn ăn vạ.
  • Càng uống rượu càng tỉnh - hắn khóc như trẻ con.
  • Xách dao đi trả thù.

* Hành động giết Bá Kiến rồi tự sát là hành động dữ dội, quyết liệt và đầy bất ngờ.

Câu 4 (trang 155 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

Nghệ thuật điển hình hóa của Nam Cao:

  • Chí Phèo vừa là một người nông dân cụ thể, có cuộc đời riêng và số phận riêng nhưng lại vừa điển hình cho bộ phận những người nông dân bị đẩy vào đường cùng.
  • Bá Kiến vừa có những đặc điểm riêng trong tính cách, cuộc đời nhưng vừa điển hình cho giai cấp thống trị, bóc lột và đẩy người nông dân khốn khổ vào con đường cùng.

Câu 5 (trang 155 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả và ngôn ngữ nhân vật đặc sắc:

  • Nhà văn có khả năng nhập vào các vai.
  • Chuyển từ vai này sang vai khác một cách tự nhiên, linh hoạt, gây hấp dẫn cho người đọc.
  • Điểm nhìn trần thuật thay đổi linh hoạt.
  • Giọng điệu đan xen lẫn nhau, ngôn ngữ trở nên đa thanh và sống động.
  • Ngôn ngữ biến hóa, đan xen và hấp dẫn.

Câu 6 (trang 155 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

Tư tưởng nhân đạo, mới mẻ của Nam Cao:

  • Nhà văn quan tâm đến nỗi đau bị tàn phá thể xác, bị hủy diệt về tâm hồn, bị xã hội cự tuyệt quyền làm người của một bộ phận người nông dân
  • -am Cao phát hiện và miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người lao động ngay khi tưởng như họ đã hoàn toàn mất đi nhân hình, nhân tính.

Soạn bài Chí Phèo - Phần 2: Phần tác phẩm mẫu 3

1. Kiến thức cơ bản về tác phẩm Chí Phèo

Nam Cao (1917 - 1951) là một trong những cây bút viết truyện ngắn rất thành công của dòng văn học hiện thực phê phán thời kì trước Cách mạng.

Chí Phèo là tác phẩm thành công của Nam Cao viết về đề tài người nông dân. Nhân vật Chí Phèo thể hiện tấn bi kịch tinh thần lớn nhất của con người, đó là bi kịch bị tha hoá. Những thế lực tàn bạo đã tước đoạt của người nông dân chất phác hiền lành những khát vong và ước mơ về một cuộc sống lương thiện, biến họ thành kẻ lưu manh. Và khi lương tâm thức tỉnh, họ đã phải tự kết thúc đời mình khi nhận ra rằng mình không còn con đường trở về với cuộc sống lương thiện. Giá tri hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm đều được tập trung ở nhân vật Chí Phèo. Tác phẩm phản ánh hai mâu thuẫn gay gắt và tiêu biểu nhất trong xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám là: Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị với nhau và mâu thuẫn giữa bọn cường hào ác bá và người nông dân. Nhân vật đều đạt đến trình độ điển hình.

2. Tìm hiểu tác phẩm Chí Phèo

Tóm tắt đoạn trích Chí Phèo

Chí Phèo vốn không cha không mẹ, được dân làng truyền tay nhau nuôi lớn. Rồi đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Bá Kiến ghen tuông nên đã đẩy anh vào tù. Bảy tám năm sau, Chí ra tù và trở về làng với bộ dạng của một tên lưu manh. Hắn chuyên uống rượu, rạch mặt ăn vạ. Cả làng lánh xa hắn, Chí bị Bá Kiến lợi dụng thành công cụ cho hắn.

Chí gặp Thị Nở, hai người ăn nằm với nhau. Chí tỉnh rượu rồi ốm, được Thị Nở chăm sóc. Bát cháo hành và những cử chỉ chân thật của Thị Nở đã làm sống dậy khát vọng sống cuộc đời lương thiện của Chí. Nhưng bà cô Thị Nở ngăn cấm. Chí tuyệt vọng khi bị Thị Nở từ chối. Anh xách dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện. Anh đâm chết Bá Kiến và tự vẫn.

Xem thêm: Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Ý nghĩa tiếng chửi của Chí phèo ở đoạn mở đầu tác phẩm.

Tác phẩm được mở đầu bằng tiếng chửi với nội dung có vẻ bất thường nhưng rất tỉnh táo đã tạo nên sức hấp dẫn cho câu chuyện. Đây cũng là một thủ pháp nghệ thuật trong cách viết của Nam Cao. Nhà văn để nhân vật xuất hiện trong tâm trạng điển hình nhất. Vừa gây sự tò mò cho người đọc, vừa làm nổi bật tư tưởng của tác phẩm.

Nội dung của lời chửi có lớp lang, chứng tỏ người chửi vẫn đang rất có ý thức về việc làm của mình. Chửi từ đối tượng lớn nhất, chúng nhất và trừu tượng nhất (trời, đời, cả làng Vũ Đại) đến cụ thể nhất xác định rõ nhất (đứa nào không chửi nhau với hắn, đứa chết mẹ nào đẻ ra hắn). Tiếng chửi thể hiện sự bức bối, tâm trạng đầy bi kịch của Chí. Chí cất tiếng chửi để người ta đáp lại mình nhưng không ai đáp lại cả, bởi họ không chấp hoặc không muốn dây với một thằng say rượu, một kẻ lưu manh, một thằng cố cùng liều thân như anh. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với con người dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất. Nhưng cũng không được đáp lại. Không có ai đáp lời nên Chí càng uất ức. Lời chửi vùa thể hiện được đỉnh cao tấn bi kịch cô đơn, bị từ chối quyền làm người của Chí vừa dẫn dắt câu chuyện đến tình huống giới thiệu về hoàn cảnh xuất thân và số phận bất hạnh của Chí.

Các nhân vật Bá Kiến, Thị Nở đều có ý nghĩa đặc biệt đối với số phận và tính cách của Chí Phèo.

Mối quan hệ Chí Phèo - Bá Kiến thể hiện quá trình bị tha hóa của Chí Phèo. Từ anh canh điền khỏe mạnh, hiền lành Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù và khi trở về thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Mối quan hệ Chí Phèo – Thị Nở thể hiện quá trình hoàn lương của Chí. Sự chăm sóc của Thị Nở đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong Chí. Nó cũng chứng minh rằng những bản chất tốt đẹp của người lao động trong con người Chí không thể bị hủy diệt mà nó chỉ bị khuất lấp đi đằng sau cái vẻ bất cần đời của một con người bị xã hội dồn vào bước đường cùng mà thôi. Sau khi bị Thị Nở tù chối, Chí thà chết chứ không chịu quay lại cuộc sống của một kẻ lưu manh.

Tâm trạng của Chí Phèo sau cuộc gặp với Thị Nở

Sau cuộc gặp gỡ, Chí bị ốm rồi được Thị Nở chăm sóc. Lần đầu tiên, từ những ngày ở tù về, Chí thấy mình hoàn toàn tỉnh táo và lần đầu tiên sau những cớn say triền miên, kể từ ngày ở tù về hắn nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống đời thường. Và khao khát được sống lương thiện đã trỗi dậy trong anh. Chí bắt đầu nghĩ về đời mình về những ngày đã qua và những ngày sắp tới. Anh cảm nhận rõ sự cô độc và bất hạnh của đời mình. Chi mong ngóng Thị Nở, khao khát được cùng Thị xây dựng một gia đình. Bát cháo hành đã đánh thức phần người tốt đẹp còn sót lại trong Chí. Chí ngạc nhiên rồi cảm động (thấy mắt hình như ươn ướt), rồi bâng khuâng, vui buồn lẫn lộn. Và nhất là anh thấy ăn năn. Chí hóa hức, sốt ruột, cuống cuồng khi thấy Thị Nở về nhà qua lâu. Tâm trạng chờ đợi ấy thể hiện khao khát mãnh liệt được trở về cuộc sống lương thiện của người bình thường. Nhưng tất cả đã sụp đổ với sự trở lại và lời từ chối của Thị Nở.

Nhà văn đã nhập thân vào nhân vật, sử dụng nhiều kiểu giọng diệu trần thuật khác nhau để miêu tả diễn biến nội tâm phức tạp của Chí. Nhưng giây phút hạnh phúc và đầy hy vọng của Chí rất ngắn ngủi. Vì thành kiến mà bà cô Thị Nở không cho Thị Nở giao du và lấy Chí.

Nhà văn đã miêu tả một lần uống rượu đặc biệt nhất trong cuộc đời Chí, Chí lại lôi rượu ra uống nhưng càng uống hắn lại càng tỉnh "hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành". Đó là hương vị của tình yêu, của niềm hạnh phúc, niềm hạnh phúc ấy lần đầu tiên Chí được hưởng cho nên nó khó phai mờ trong tâm trí của anh. Sự tỉnh táo khiến cho Chí thấy tiếc hạnh phúc mà mình đã có và nhận ra sự thực cay đắng, chua chát trong lời bà cô Thị Nở. Phản ứng của bà cô Thị Nở là đại diện cho những định kiến xã hội đối với những con người đã vô tình hay cố ý gây là lỗi lầm. Chí đã bị lưu manh hoá và xã hội lương thiện đã không thể chấp nhận anh. Cái chết của Chí một lần nữa chỉ ra con đường cùng và kết cục bi thảm của nhận vật.

Khi xách dao đến giết Bá Kiến và tự sát chứng tỏ anh hoàn toàn tỉnh táo. Đây là lời tố cáo quyết liệt của nhà văn đối với xã hội có những kẻ cầm quyền như Bá Kiến. Bọn người thâm hiểm, tham lam và tàn độc ấy đã cướp đi của con người bản chất lương thiện. Cướp đi của người khác bất cứ thứ gì cũng là tội ác, nhưng cướp đi của con người hạnh phúc, ước mơ, bản chất lương thiện là tội ác dã man nhất, nó dã man hơn cả tội giết người.

Đặc sắc trong ngôn ngữ kể chuyện của tác giả và ngôn ngữ nhân vật

Giọng điệu trần thuật có sự kết hợp hài hòa giữa đối thoại với độc thoại, giữa lời gián tiếp và lời nửa tiếp. Vì vậy, nhiều đoạn có sự lồng ghép giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Ví dụ: đoạn kể về tiếng chửi của Chí, đoạn tả tâm trạng Chí sau cuộc gặp với Thị Nở và khi bị từ chối... Đối thoại Chí với Bá Kiến, Chí với Thị Nở... Giọng điệu trần thuật này là những đóng góp quan trọng của Nam Cao trong quá trình hiện đại hóa của thể loại truyện ngắn hiện đại Việt Nam.

So sánh hai truyện ngắn Lão Hạc và Chí Phèo để thấy nội dung hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm của Nam Cao

Cả hai tác phẩm đều khai thác đề tài số phận người nông dân nghèo ở nông thôn Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến. Qua số phận cùng cực của họ, nhà văn đã phản ánh một cách chân thực và sâu sắc xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Giá trị nhân đạo được thể hiện ở sự đồng cảm sâu sắc của nhà văn đối với bi kịch của người nghèo và phát hiện ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp vững bề của người lương thiện trong mỗi nhân vật.

Song ở mỗi tác phẩm nhà văn lại có những sáng tạo riêng trong việc thể hiện tư tưởng nhân đạo. Với nhân vật lão Hạc, nhà văn để nhân vật của mình vào một cuộc lựa chọn giữa cái chết và sống. Lão Hạc đã chọn cái chết để giữ được cho con trai mảnh vườn. Lão Hạc là một người nông dân có bản chất lương thiện và tấm lòng nhân hậu.

Chí Phèo khốn cùng hơn lão Hạc nhiều. Anh bất hạnh từ khi sinh ra cho đến lúc tự chấm dứt cuộc đời mình. Anh bị tha hóa, lưu manh hóa rồi bị từ chối quyền làm người. Cuộc đời của Chí là chuỗi bi kịch nhưng dù bị vui dập tàn nhẫn đến đau, bản chất lương thiện trong anh vẫn không hề bị huỷ diệt. Cuộc gặp gỡ, bát cháo hành của Thị Nở và những thanh âm trong trẻo của cuộc sống đời thường đã đánh thức bản chất lương thiện trong Chí. Qua tấn bi kịch của Chí, nhà văn đã thể hiện niềm tin và tình yêu thương của mình đối với những người nông dân nghèo.

3. Tư liệu tham khảo tác phẩm Chí Phèo

" ... Nam Cao đã diễn tả với một sức mạnh lạ thường quá trình lưu manh hóa của một số quần chúng cơ bản trong hoàn cảnh bị đè nén, áp bức, bóc lột của xã hội cũ. Nhân vật Nam Cao thường trải qua chuyển biến. Trong truyện Tư cách mõ Nam Cao viết: "Người ta tưởng ông trời sinh hắn ra như thế để mà làm mõ... Không!... Mới chỉ cách đây ba năm hắn vẫn còn được gọi là anh cu Lộ. Anh cu Lộ hiền như đất. Cờ bạc không, rượu chè không. Anh chỉ chăm chăm chú chú làm để nuôi vợ nuôi con". Chí Phèo hiện ra chỉ biết chửi rủa, kêu làng, vu vạ, cướp bóc, đâm chém, nhưng có một thời hắn là người "hiền lành như đất", Lí Kiến phải lấy làm "tội nghiệp" thấy hắn "vừa bóp đùi cho bà ba, vừa run run". Chí Phèo phá phách, hủy hoại chung quanh và tự hủy hoại mình, những hành động hầu như không tự giác, như sai khiến bởi một lực lượng vô hình. Thị Nở, tâm hồn vừa hé nở đón lấy hạnh phúc, đã vội cắt đứt với Chí Phèo: "Thị trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô". Mới thoáng yêu nhau, họ bỗng trở thành thù địch và cả thị lẫn Chí Phèo cũng chả hiểu ra làm sao cả.

Nhân vật Nam Cao thường không làm được những điều mình muốn và bắt buộc phải làm những điều không muốn..."

Lê Đình Kỵ

(Nam Cao, con người và xã hội cũ, Theo Nam Cao, về tác giả và tác phẩm, Sđd, tr.58-59)

"Giữa lúc người ta đang đắm mình trong những truyện tình mơ mộng và hùa nhau "phụng sự " cái thị hiếu tầm thường của độc giả, ông Nam Cao đã mạnh bạo đi theo một lối riêng, nghĩa là ông đã không thèm đếm xỉa đến cái sở thích của độc giả. Những cạnh sắc của tài ông đã đem đến cho văn chương một lối văn mới, sâu xa, chua chát và tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn của con người biết tin ở tài mình, ở thiên chức của mình.

Quyển Đôi lứa xứng đôi có được độc giả hoan nghênh hay không, đó là một điều tôi chưa cần biết, tôi chỉ biết rằng lúc viết nó, ông Nam Cao đã không hạ mình xuống bắt chước ai, không nói những cái người ta đã nói, không tả theo lối người ta đã tả. Ông đã dám bước chân vào làng văn với những cạnh sắc của riêng mình... Dám nói và dám viết những cái khác người, ông Nam Cao đã đem đến cho ta những khoái cảm mới mẻ và ông đã tỏ ra một người có can đảm...".

(Lê Văn Trương, Tựa Đôi lứa xứng đôi, 1941. Theo Nam Cao, về tác giả và tác phẩm, Sđd, tr.108-112)

Sau khi học bài Chí Phèo, các em sẽ hiểu hơn về tấn bi kịch tinh thần lớn nhất của con người, đó là bi kịch bị tha hoá. Những thế lực tàn bạo đã tước đoạt của người nông dân chất phác hiền lành những khát vong và ước mơ về một cuộc sống lương thiện, biến họ thành kẻ lưu manh.

Soạn bài Chí Phèo - Phần 2: Phần tác phẩm mẫu 4

1. Tác Phẩm "Chí Phèo"

Xuất xứ

- Chí Phèo tên ban đầu là Cái lò gạch cũ in năm 1941 trong tập truyện Đôi lúa xứng đôi, với bút danh Nam Cao do nhà xuất bản Đời mới Hà Nội ấn hành, được đón nhận như là một hiện tượng văn học thời đó.

- Sau này, Nam Cao đổi tên tác phẩm thành Chí Phèo.

Nội dung chính

- Chí Phèo xuất thân không có cha mẹ, là đứa con hoang bị bỏ lại nơi cái lò gạch cũ. Chí được những người lao động cưu mang, lớn lên đi làm thuê ở nhà Bá Kiến.

- Bà ba vợ Bá Kiến bắt Chí Phèo xoa đùi, bóp chân và gợi ý chuyện xác thịt. Chí Phèo cảm thấy nhục khi bị đối xử như thế. Do ghen tuông mà Bá Kiến tìm cách tống Chí vào tù.

- Ra tù, Chí trở thành con người khác hẳn. Hắn uống rượu say đến nhà Bá Kiến đòi báo thù. Bá Kiến thủ đoạn đã biến Chí thành tay sai tác oai tác quái cả làng Vũ Đại. Ai cũng sợ Chí Phèo. Bá Kiến cấp cho Chí một ngôi nhà bỏ hoang bên bờ sông.

- Cuộc đời Chí Phèo ngày càng chìm sâu hơn xuống vũng bùn tội lỗi. Hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại từ lúc nào không hay.

- Tối nọ, tình cờ hắn bắt gặp Thị Nở, một cô gái xấu ma chê quỷ hờn, dở người, bên bờ sông cạnh nhà. Hắn làm tình với thị rồi hai người yêu nhau. Chí Phèo hi vọng thị Nở sẽ mở cánh cửa cho hắn bước vào cuộc đời.

- Bà cô thị Nở ngăn cản đám cưới của Chí Phèo. Căm giận, hắn uống say rồi quyết tâm đi trả thù nó, Hắn đến nhà Bá Kiến đâm chết ông ta rồi tự sát.

- Dân làngVũ Đại Xôn xao trước cái chết của Chí Phèo và Bá Kiến. Đội Tảo, kình địch của Bá Kiến oang oang nói giữa chợ: thằng bố chết phen này thằng con sẽ ăn bùn. Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng rồi nghĩ đến cái lò gạch bỏ hoang.

Cảm hứng sáng tạo

- Nét chủ đạo vẫn là cảm hứng hiện thực phê phán của chủ nghĩa hiện thực. Một mặt tác giả đồng cảm với người bị áp bức và mặt khác tố cáo, phê phán tội lỗi của kẻ ác gây cho dân lành.

- Cảm hứng sáng tạo của Nam Cao vẫn phảng phất yếu tố lãng mạn thông qua triết lí tình thương, niềm tin cao cả, sự vận động từ bóng tối đến ánh sáng, thiện thắng ác,... vào con người theo kiểu của văn hào Huy-gô. Đặt niềm tin vào thiên tính thiện của con người nên bản năng hướng thiện vẫn chiếm vị trí quan trọng trong tự sự của Nam Cao về cuộc đời Chí Phèo.

Cấu trúc bề mặt: làng Vũ Đại và cuộc đời Chí Phèo

- Đọc Chí Phèo, người đọc biết toàn bộ cuộc đời Chí Phèo, kể từ lúc mở mắt chào đời cho đến lúc giết Bá Kiến rồi tự sát. Cách kể hướng về biên niên sử của nhân vật chính của tác phẩm thường là độc quyền của tiểu thuyết. Truyện ngắn hiếm khi tái hiện đầy đủ cuộc đời nhân vật. Đây là đặc điểm độc đáo của Chí Phèo.

- Tuy nhiên, để làm giảm số trang cho truyện (nếu không thì truyện ngắn này có nguy cơ trở thành tiểu thuyết) thì ngoài việc lược bớt các sự kiện (chẳng hạn như không nói rõ ai là người sinh ra Chí và hoàn cảnh sống, tâm trạng của người mẹ ấy ra sao khi từ bỏ đứa con), Nam Cao còn sử dụng kĩ thuật hồi cố. Biện pháp này được trao cho người kể và buộc người kể trở thành người thông suốt hết mọi ngóc ngách trong đời Chí. Quả thật, lí lịch của Chí Phèo dần hiện lên rõ nét qua lời kể điềm tĩnh đầy chất suy tư: “Một anh đi thả ống lươn...”

- Nhờ đoạn hồi cố này mà người đọc không chỉ nhận biết rõ hoàn cảnh thương tâm của Chí mà còn thấu hiểu trọng tâm câu chuyện được đặt ở đâu. Nếu làm phép thống kê, ta thấy đoạn kể về quá khứ của Chí trước khi bị huỷ hoại nhân tính “hắn vừa đi vừa chửi” là vô cùng ngắn (chưa đến một trang) so với đoạn miêu tả Chí trong sự tha hoá (khoảng 20 trang). Hơn nữa, ngay từ lúc mở đầu, hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” đã bao hàm thông báo của người kể rằng câu chuyện bắt đầu bằng một con người không bình thường nữa.

- Trong tâm truyện đặt vào khát vọng hoàn lương chứ không phải vào quá trình tha hoá. Thế nhưng, với tư cách là một nhà hiện thực cần mẫn, Nam Cao vẫn cố tái hiện lại quá khứ của Chí Phèo đế báo cho người đọc biết vì sao Chí Phèo ra nông nỗi này. Hoàn cảnh nghiệt ngã của xã hội đã tiếp tay cho Bá Kiến trong việc làm biến chất Chí Phèo.

- Trong cái làng Vũ Đại đó tồn tại nhiều thế lực cường hào tranh nhau quyền lợi bằng cách ức hiếp dân lành: cánh Bá Kiến, cánh Đội tảo, cánh Bát tùng,…

- Nông dân là nạn nhân của bọn họ và chính bản thân họ cũng mâu thuẫn xâu xé lẫn nhau. Tất cả tạo nên một diện mạo quái gở ngay trước khi con quỷ làng Vũ Đại Chí Phèo xuất hiện.

Những số phận tương đồng

- Cấu trúc bề mặt còn hàm chứa một ý đồ nghệ thuật vượt ra ngoài khuôn khổ tái hiện trọn vẹn cuộc đời Chí. Người kể dùng quá khứ của Chí Phèo đó để đối chiếu với nhiều cảnh ngộ tương tự quá khứ của Chí.

- Đấy chính là cuộc đời của Binh Chức và Năm Thọ. Lối kể nghe chừng dễ dãi ngỡ như gặp đâu kể đó song lại chuyển tải một kĩ thuật tự sự bậc thầy: đồng quy nhiều số phận để nói rằng trong xã hội ấy Chí Phèo không phải là cá biệt.

- Ba cuộc đời trong quá khứ đó tạo ra ba tầng truyện hay ba tuyến cốt truyện: truyện về Năm Thọ, truyện về Binh Chức và truyện về Chí Phèo.

- Ngoài ra, truyện còn có Tự Lãng sống một mình vì con gái chửa hoang bỏ lão mà đi. Nguyên nhân dẫn đến các cảnh đời bi thương của họ ít nhiều đều xuất phát từ chuyện đàn bà. Năm Thọ thì đưa vợ con ra làm cái cớ để uy hiếp Bá Kiến: kẻ dám giết vợ con mình thì đâu có chùn tay trước người khác. Binh Chức thì cũng đưa vợ con ra đe dọa Bá Kiến. Những lí do thì khác với Năm Thọ. Binh Chức ngầm đổ tội Bá Kiến tiêu tiền của mình gửi về cho vợ. Bá Kiến phải nhượng bộ.

- Chí Phèo thì lại là nạn nhân của Bá Kiến. Ông ta ghen Chí vì Chí bị bà Ba bắt bóp đùi. Như thế nền tảng của cốt truyện hay của xung đột cơ bản của Chí Phèo là chuyện tranh nhau đàn bà. Từ mối hằn học này mới nảy sinh ra những xung đột sau đó. Dần dần các xung đột xã hội hiện lên. Đây là điểm đặc biệt trong xung đột của Chí Phèo. Nó giải thích tại sao khi những quan hệ xã hội đã thay đổi thì Chí Phèo vẫn còn được tiếp tục đón đọc.

Cấu trúc chiều sâu: Bi kịch của Chí Phèo

a. Con người bị tha hóa

- Chí Phèo chưa phải là nhân vật bị tha hóa thành lưu manh đầu tiên trong dòng văn học hiện thực, những nhân vật này là một cá biệt, một điển hình xuất sắc nhất.

- Xuất thân của Chí Phèo là một nông dân lương thiện. Nếu không có những biến động xã hội bên ngoài thì cuộc sống của Chí Phèo cứ bình dị trôi đi. Nỗi khao khát giản dị “chồng cày thuê, vợ cuốc mướn” luôn thường trực trong Chí, để sau này khi mọi thứ đều đổ vỡ thì đó là nỗi khắc khoải vô cùng tận trong suốt cuộc đời Chí.

- Những chi tiết về quãng đời lương thiện của Chí được tác giả kể lướt qua hoặc đan xen trong các đoạn hồi tưởng. Như thế, đây không phải là trọng tâm tự sự của tác giả. Nam Cao chỉ dùng những chi tiết quá khứ của Chí Phèo vừa đủ để soi rọi cảnh ngộ thực tại: một Chí Phèo đang lao nhanh vào con đường tội lỗi mà không thể nào cưỡng.

- Mặt khác những chi tiết hồi cố này được sử dụng như những nốt nhấn nhận thức đế Chí và cả người đọc luôn ý thức được vấn đề bi kịch mà Chí đang gánh chịu.

- Khi bị kẻ xấu làm cho tha hóa, Chí Phèo tiếp tục bị bọn chúng lợi dụng để đẩy tiến xa hơn hơn vào con đường tội lỗi. Cứ thế, mỗi lần cố chống trả, Chí Phèo càng bị nhấn chìm hơn vào tội lỗi. Từ con người nạn nhân, Chí biến thành con người tội nhân. Và cho dẫu là tội nhân thì Chí vẫn cứ là nạn nhân của xã hội đó. Cái nhìn của Nam Cao ở đây sâu sắc và nhân đạo biết bao!

- Sự tha hóa của Chí Phèo diễn ra cả ở hình thức lẫn tâm hồn, tính cách. “Con quỷ dữ của làng Vũ Đại” mang một khuôn mặt bị rạch dọc ngang chẳng chịt, mở miệng là chửi bới và gào thét la làng ăn vạ. Tiếng nói của Chí Phèo nổi tiếng đến mức mà khi hắn cất lên thì dân làng Vũ Đại cứ để mặc hắn với âm thanh ngậu xị của lũ chó, vốn là loài không biết phân biệt phải trái.

- Những cơn say triền miên của Chí là biểu hiện rõ nét ý thức về nỗi bi kịch của chính cuộc đời Chí. Những hành động bất lương của Chí đều diễn ra trong những cơn say.

b. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

– Đây chính là vấn đề trọng tâm của tác phẩm. Bi kịch của sự tha hóa chỉ là cái nền để xuất hiện bi kịch của sự cự tuyệt con người lỡ sa cơ quay về cuộc đời lương thiện.

- Thị Nở là trọng tâm của bi kịch này. Nếu không có cái đêm Chí Phèo gặp thị Nở bên bờ sông thì có lẽ vĩnh viễn đời Chí chỉ dừng lại ở bi kịch bị tha hóa mà thôi.

- Hai nhân vật cô độc này ngủ với nhau như chưa bao giờ được ngủ. Được làm tình, được yêu thương, họ được sống trọn vẹn nghĩa của một con người.

- Khoảnh khắc hạnh phúc ngắn ngủi trong Chí được nhen nhóm từ thị Nở đã hé mở cho Chí con đường quay về với cộng đồng. Chỉ hi vọng cuộc đời mình sẽ thay đổi. Thế nhưng, nỗi đau của Chí lại tiếp tục bị đẩy đến một giới hạn mới. Ngay đến cả cái con người mà xã hội vứt ra bên lề như thị Nở lại cũng có lí do cự tuyệt tình cảm của Chí. Từ đó, Chí nhận ra rằng, thế giới làng Vũ Đại không còn thuộc về Chí. Cánh của cuộc đời đã khép chặt. Chí không còn lối thoát nào khác là giết chết kẻ gây ra thảm họa đời Chí và tự sát.

- Khát vọng “muốn làm người lương thiện” của Chí đâu có chỗ đứng trong một xã hội bất nhân và phi lương cùng tận. Một khi nó đã làm con người biến chất, thì chỉ có cái chết chờ đón họ. Xã hội đó, không cho phép con người được sống với ước mơ chính đáng của chính mình.

- Đỉnh điểm của bi kịch cự tuyệt này là hành động giết chết Bá Kiến của Chí Phèo. Xung đột truyện đã được giải quyết. Kẻ gây ra tội lỗi phải gánh chịu hậu quả. Một cái chết mang nặng chất cổ tích, nhưng đằng sau nó vẫn mênh mang những vấn đề bi thiết về cuộc sống con người. Cái chết của Chí là một biểu hiện của sự bế tắc. Âm vang của thiên bi kịch vẫn lan tỏa theo cái lò gạch trong suy nghĩ của thị Nở, trong lời nói đầy thách thức của các thế lực đối lập với Bá Kiến ở chợ.

- Như thế, bi kịch của Chí được khai thác ở các góc độ:

+ Quyền làm con: Chí bị bố mẹ bỏ rơi ở cái lò gạch cũ.

+ Quyền được yêu: bà ba bắt bóp đùi, bà cô thị Nở ngăn cấm, Thị Nở từ chối Chí Phèo.

+ Quyền được làm một công dân: do ghen tuông, Bá Kiến lợi dụng quyền lực của mình tống Chí Phèo vào tù. Ra tù, Chí bị Bá Kiến lợi dụng, trở thành tay sai của hắn và dần biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Nhân vật Bá Kiến

- Bá Kiến cho Chí đi tù, mới đọc đoạn đầu tác phẩm thì nguyên nhân cụ thể thì chẳng ai biết. Người ta đưa ra hai giả thuyết và cả hai đều liên quan đến bà Ba: bà Ba tin dùng Chí và bà Ba muốn Chí quan hệ xác thịt. Nhưng đến gần cuối tác phẩm, khi Bá Kiến đợi mãi mà bà Tư không về, ông ta suy ngẫm về sự lẳng lơ của bà ta và ao ước “muốn cho tất cả những thằng trai trẻ đi ở tù”, thì điều này lại góp phần xác minh lí do bị ở tù của Chí từ hai giả thuyết trên.

- Rõ ràng, chỉ vì ghen tuông mà Bá Kiến cho Chí đi tù. Mới hay khi lên cơn ghen thì con người ta dẫu khôn đến mấy cũng mù quáng và sức tố cáo sự bất nhân của kẻ lạm quyền và cả luật pháp phi lí của xã hội từ thiên truyện vì thế cũng sẽ tăng lên,

- Ngoài những câu nói vận dụng tục ngữ (“Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân”) hoặc những câu đúc kết kinh nghiệm cụ thể “ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi dắt nó lên để nó đền ơn”... thì câu chuyện còn rất thành công ở lối nói lấp lửng. Chính cách nói này tạo ra biên độ mở cho tác phẩm, kích thích trí tưởng tượng của độc giả. Chí Phèo xuất hiện ở cái lò gạch bỏ hoang. Không ai biết xuất xứ cho nên người đọc tha hồ nghĩ cho Chí một xuất xứ. Ngay đến cả câu nói của Bá Kiến: “Ai chứ anh với nó (Lí Cường) còn có họ kia đấy” khi dỗ dành Chí, thì vẫn gợi cho người ta suy nghĩ Chí Phèo có quan hệ đặc biệt nào đó với Bá Kiến hoặc chí ít thì Bá Kiến cũng hiểu rất rõ lai lịch Chí Phèo...

- Chí Phèo không chỉ là chuyện xâm hại, áp bức mà còn là chuyện báo thù và chuyện kẻ báo thù bị lợi dụng. Trong số ba nhân vật, trừ Năm Thọ, còn lại Binh Chức và Chí Phèo là những kẻ báo thù. Không phải họ mạnh hơn Bá Kiến mà là tình thế đẩy họ đến cùng đường nên họ buộc phải vùng lên để tìm đường sống. Bản năng sống của con người sẽ mạnh hơn tất cả, mạnh hơn ngay chính kẻ xâm hại họ. Thế là một sự hoán vị xảy ra: Bá Kiến, kẻ xâm hại trở thành kẻ bị xâm hại. Đây là chuyện thường tình. Sự đổi ngôi thống trị không phải là điều hiếm thấy trong cộng đồng. Nhưng cả Binh Chức lẫn Chí Phèo không phải thực sự là kẻ xâm hại. Bản thân họ không thể mạnh hơn Bá Kiến. Do vậy, họ phải mượn một sức mạnh từ bên ngoài chứ không phải từ bản chất của họ. Điều này dễ nhận thấy qua việc mỗi khi Chí Phèo thi hành một phi vụ thì trước hết anh phải uống cho thật say.Thế rồi con ma men quái ác thay Chí làm mọi điều tội lỗi.

- Nhưng Bá Kiến đâu phải tay vừa. Quá quen thuộc với những tay đầu bướu đầu bò bất đắc dĩ ấy bấy lâu, ông ta đã nắm được thóp của họ. Bằng đồng tiền và thủ đoạn mềm nắn rắn buông, ông ta đưa họ vào quỹ đạo: gây tội lỗi, xâm hại người khác ngoài mình. Bá Kiến đã điều tiết được sức mạnh xâm hại đó. Dần dần kẻ xâm hại bị biến thành kẻ bị xâm hại hoặc kẻ tự xâm hại mình. Rốt cuộc, Bá Kiến đã xâm hại Binh Chức, Chí Phèo đến hai lần.

- Năm Thọ và Binh Chức thì chẳng trừng trị được Bá Kiến. Có thể họ không phát hiện ra chân tướng của ông ta. Còn Chí Phèo thì khác. Anh ta hiểu mọi nhẽ, kể cả việc không thể nào tìm được sự bình yên giữa cõi đời khi hoàn lương. Động lực thúc đẩy Chí quay về nẻo thiện không phải do giác ngộ một lí tưởng sống nào đó mà do sự đánh thức bản năng người trong Chí.

- Trở lại với diễn biến trước cái chết của Chí Phèo. Người kể tái hiện đầy dụng ý cảnh Bá Kiến bực mình trước việc bà Tư đi lâu về và ghen bóng ghen gió. Lần này thì chẳng liên quan gì đến Chí những cơn bực bội ấy đã khiến Bá Kiến mất khôn ngoan, không đủ sáng suốt để phán xét tình hình nên không thể xoa dịu cơn giận của Chí. Điều đó đã chóng đưa Bá Kiến đến cái chết.

- Nếu Nam Cao bỏ qua đoạn miêu tả sự ghen tuông thầm kín này mà lập tức để cho Chí Phèo đâm chết Bá Kiến ngay sau câu nói đòi lương thiện thì ắt hắn tác phẩm sẽ kém hấp dẫn và rất có thể rơi vào sự khuôn sáo, sách vở. Phải để nhân vật sống những giây phút thật là người nhất thì mọi ý nghĩa xã hội cũng như bản thể nhân vật hiện lên hình tượng và sâu sắc hơn. Nói không ngoa, nếu bà Ba gây hoạ cho Chí thì bà Tư gây hại cho Bá Kiến.

- Trước Bá Kiến bao giờ Chí cũng sợ hãi nên ước muốn báo thù của Chí sẽ chẳng mang lại kết quả như mong muốn. Chính nỗi sợ hãi cố hữu của Chí đã biến Chí thành công cụ trong tay Bá Kiến. Nhưng cuối cùng, khi nhân phẩm, lương tri được đánh thức, Chí đủ sức mạnh giết chết Bá Kiến.

Thực hành thành ngữ, điển cố là bài học nổi bật trong Tuần 6 của chương trình học theo SGK Ngữ Văn 11, học sinh cần Soạn bài Thực hành thành ngữ, điển cố, đọc trước nội dung, trả lời câu hỏi trong SGK.

2. Tự Luận

Vai trò của những người đàn bà trong đời Chí Phèo

Gợi ý làm bài

Trong tác phẩm, đời Chí xê dịch và biến thiên cơ bản bởi tay hai người phụ nữ, chưa kể người đã sinh ra Chí mà đến cả Chí cũng không biết. Thoạt tiên, là bởi bà Ba dâm dật và sau cùng là bởi Thị Nở dở hơi. Sự kết hợp với hai người phụ nữ bất bình thường là dấu hiệu cho thấy bi kịch của đời Chí. Với bà Ba, Chí rơi vào đường tù tội. Với Thị Nở, Chí lại được làm người. Ở hai chặng của cuộc đời, Chí được người kể nhấn mạnh đến sự tự ý thức của nhân vật. Với bà Ba, Chí thấy nhục. Với Thị Nở, Chí muốn sống, muốn làm lại cuộc đời. Nhưng cho dẫu sự nhận thức có được nhấn mạnh đến đâu chăng nữa thì bao giờ cuộc đời Chí cũng phát triển theo chiều ngược lại:

- Ý thức về nhân phẩm (cảm thấy nhục khi bóp đùi bà Ba) thì bị tống vào tù.

- Khao khát hoà nhập cộng đồng (muốn lấy Thị Nở, xao xuyến khi nghe tiếng người trên đê) thì phải tự sát.

Bi kịch của Chí Phèo trên bề mặt vì thế là bi kịch của nhận thức mà sự bế tắc trong hành động dẫn đến cái chết đầy bạo lực cuối truyện là đỉnh điểm. Bi kịch đó bị chi phối ở tầng sâu là sự thức tỉnh nhân cách và cú huých để nhận cách, lương tri Chí sống lại là cú huých đến từ sự thức tỉnh bản năng tính dục. Nếu không có cuộc gặp gỡ tình cờ giữa Chí và Thị Nở bên bờ sông hôm đó thì chẳng thể nào có được một Chí Phèo có khả năng khóc. Bởi khóc là dấu hiệu chính xác nhất của sự khôi phục nhân tính. Trước đây, Huy-go cũng đã sử dụng chi tiết này để khắc hoạ nhân vật thằng gù Ca-di-mô-đô trong Nhà thờ Đức bà Pa-ri. Chí Phèo cũng có xuất xứ giống thằng gù, một đứa bé bị bỏ rơi.

Môtíp nhân vật trẻ thơ bị bỏ rơi trong truyện cổ về sau thường được xác nhận (qua những tín hiệu người bỏ rơi cố tình để lại bên nó như tấm khăn, đôi giày chẳng hạn) là con của một gia đình quý phái, giàu có thậm chí là thuộc hoàng tộc. Cuối cùng những đứa bé đó đều có kết cục hạnh phúc và người nuôi nấng chúng vì thế cũng sẽ sung sướng theo. Đây là kiểu truyện nhằm để giáo huấn lòng độ lượng của con người trước những cảnh ngộ thương tâm của những đứa bé bơ vơ bị chối bỏ. Quả thật không ít người từ tâm đã nghe theo luật nhân quả ấy, bị cám dỗ bởi cái kết hạnh phúc bất ngờ đó nên đã vui lòng nhận làm người bảo trợ cho những hoàn cảnh đáng thương kia.

Nhưng đây là truyện cổ tích và đây cũng là sự tính toán của phó Giáo chủ nhà thờ Phrô-lô khi quyết định nhận nuôi thằng gù. Nhưng kết cục của thằng gù lẫn Chí Phèo đều không thể giống như truyện cổ. Qua bao gian nan, đã sống chân thành, sau khi thức tỉnh nhưng thằng gù và Chí Phèo đều phải chấp nhận một cái chết thương tâm: tự nguyện chết. Chết cho tình yêu được thiên thu vĩnh hằng (Ca-di-mô-đô), Chết cho lương tri con người sẽ luôn toả rạng (Chí Phèo). Cả hai đều bắt đầu bằng những giọt nước mắt.

Chí Phèo được đánh thức khỏi những cơn say bất tận của mình chưa phải bằng bát cháo hành như bao nhận định bấy lâu mà trước tiên được đánh thức bởi bản năng giống đực mà như đã nói chủ yếu là bản năng tính dục. Tiếp đó còn là bản năng nữa là bản năng bầy đàn, khao khát được quay về với những nguyên tắc bầy đàn. Chỉ hi vọng Thị Nở “sẽ mở cánh cửa” cho Chí. Chỉ cần thị chấp nhận thì cộng đồng cũng sẽ chấp nhận Chí.

Những vật cản xuất hiện. Bà cô Thị Nở ngăn cản cháu mình vì sự đố kị, bởi bà ta chưa được thoả mãn dục tính như mọi phụ nữ bình thường khác: “Cũng có lúc bà tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dài dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm. Bà uất ức, uất ức với ai không biết.” Ấn ức đó được ngụy trang bằng một loạt những đạo lí cũ mèm: “Người đàn bà đức hạnh (Nam Cao mỉa mai bà ta) thấy cháu bà sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt (...). Ngoài ba mươi tuổi... ai lại còn đi lấy chồng (...). Mà có lấy thì lấy ai chứ?... Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đi đâm đầu lấy một thằng không cha (...). Nhục nhã ơi là nhục nhã! Hỡi ông cha nhà bà!”. Lời lẽ viện dẫn để chửi mắng cô cháu thật thấu tình đạt lí quá mức. Trong trường hợp ấy Thị Nở biết phải làm sao? . Nhưng tất cả mọi lí lẽ, mọi viện dẫn, mọi lập luận đó đều nhằm để che đậy một động cơ thật của người đàn bà năm mươi tuổi ấy: cũng muốn được chung đụng xác thịt với một người đàn ông cho dẫu đó có là Chí Phèo.

Bản chất của mọi toan tính, mọi hành động và lập luận của các nhân vật trong Chí Phèo đều không thoát khỏi những bản năng gốc ấy. Có thể nói, Nam Cao đã thực hiện được sự đối thoại độc đáo giữa những vấn đề xã hội và những vấn đề thuộc về bản chất con người. Ông đã ý thức rất rõ điều này nên trong văn bản khi miêu tả ngôn ngữ và hành động nhân vật, nhà văn đã không ít lần sử dụng lối giễu nhại: “bà tủi thân cho bà”, “bà gào lên như con mẹ dại”, “Con người ấy có quyền nói thế, bởi con người ấy năm mươi tuổi rồi, năm mươi tuổi còn ai lấy chồng.”

Như thế vì hai người phụ nữ không được thoả mãn dục tính libiđô, bà Ba và bà cô Thị Nở, nên một lần Chí bị tống vào tù và lần khác thì Chí bị đoạn tuyệt quyền làm người, cụ thể ở đây là làm chồng. Như thế nguyên nhân của mọi xung đột, của mọi vấn đề mang tính xã hội đều xuất phát từ những xung đột rất thầm kín, đầy bản năng của con người. Tầng sâu của dục vọng xác thịt, tuy không được người kể đặc tả nhưng nó là xuất phát điểm để tạo nên chuỗi xung đột tiếp theo, qua đó những vấn đề thời đại, xã hội mới có dịp phát lộ.

Trong số mười hai nhân vật (Chí Phèo, Bá Kiến, Binh Chức, Năm Thọ, Thị Nở, Bà cô Thị Nở, Bà Ba, Con gái Tự Lãng, Đội Tảo, Lí Cường, Mụ hàng rượu, Tự Lãng) xuất hiện trong tác phẩm (trừ một vài nhân vật phụ khác như bà Cả, bà Hai (vợ Bá Kiến), vợ Đội Tảo...) thì mụ hàng rượu và Tự Lãng tuy được miêu ta trực tiếp trong quan hệ với Chí Phèo nhưng ta khó xác định được hai kiểu bản năng gốc như đã chi phối mười nhân vật còn lại. Mụ hàng rượu là nhân vật không quan trọng của tác phẩm nên Nam Cao không tập trung đặc tả. Tuy nhiên, Tự Lãng vẫn có vai trò quan trọng trong diễn biến truyện. Có thể xem lão là một cái tôi đồng dạng với Chí Phèo. Lão lớn tuổi hơn Chí, lão cô độc và bảo tám năm nay “vợ lão chết”, “con gái lão chửa hoang bỏ lão đi” nên lão buồn (cũng có phần vì dục tính libiđô không được giải tỏa), lão tìm nguồn vui từ rượu. Lão gọi bạn rượu tình cờ Chí Phèo là “Ông bạn lạc đường ở cung trăng”. Triết lí mời rượu của lão là “có giàu có sang, có làm nên ông cả bà lớn nữa, chết cũng không ai gọi là “cụ lớn mả”! Lão sống đến hơn năm mươi năm rồi mà chưa thấy một cụ lớn mả nào sốt! Chỉ có cái mả, cái mả đất. Ai chết cũng thành cái mả, say sưa chết cũng thành cái mả, lo gì?” Chí Phèo tỏ ra đồng cảm với Tự Lãng và gián tiếp Tự Lãng giúp Chí thức tỉnh lương tri. “Người ta đứng lên bằng cái gì?”. Câu hỏi bâng quơ này lúc đó Chí Phèo chưa trả lời song nó hắn vẫn đồng hành trong tâm trí Chí để ngay sau đó, Chí gặp Thị Nở bên bờ sông, nếm khoái cảm xác thịt, biết yêu và biết “đứng lên bằng cái gì”. Các nhân vật nữ của Chí Phèo, trừ mụ hàng rượu, đều liên quan đến vấn đề tình dục. Từ bà Ba, bà Tư đến Thị Nở, bà cô Thị Nở, vợ Binh Chức đến cô con gái của Tự Lãng đều phải đối đầu với vấn đề bản năng gốc của mình. Ắt hẳn, Nam Cao thấu hiểu, thời của ông và cả ngàn năm trước đó, phụ nữ Việt Nam đều bị ẩn ức libiđộ dày vò do phải khuôn theo lễ giáo phong kiến.

Điểm đặc biệt của thiên truyện là người kế thông miêu tả trực tiếp bà Ba, trong khi đó thì Thị Nở và bà cô Thị Nở trực tiếp xuất hiện trong tác phẩm. Bà Ba hiện diện qua dòng hồi tưởng của người kể: “Người bà ấy phấp pháp, má bà ấy hây hây.” Nhưng chủ yếu, bà ta vẫn hiện rõ qua dòng hồi tưởng của chính Chí Phèo. Dòng hồi tưởng này được người kể đọc lại: “Vả lại bị một con đàn bà gọi đến mà bóp chân! Hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ (...). Bà thấy xa xôi không được phải làm đến nơi. Bà bảo hắn rằng: “Mày thực thà quá! Con trai gì hai mươi tuổi mà đã như ông già (...). Chả nhẽ tao gọi mày vào chỉ để bóp chân thế này thôi ư?”.

“Nhưng hắn thèm lương thiện”.

Kí ức của Chí Phèo về bà Ba là kí ức về một phụ nữ nặc nô với tính dục bạo liệt, trơ trẽn. Hắn thấy nhục vì đấy chẳng phải là yêu đương. Điều đó chúng tôi dẫu cho được sinh ra nơi cái lò gạch bỏ hoang nhưng thiên lương Chí Phèo vẫn trong sáng. Hắn vẫn luôn khao khát được sống cuộc đời bình thường “chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải” của một tình cảm yêu thương thực sự. Vậy nên, hướng thiện là bản năng cốt lõi ở nhân vật này. Thế nhưng, như nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập chính nhà tù thực dân phong kiến đã làm băng hoại thiên lương của Chí. Trở lại làng Vũ Đại, Chí không có mong ước gì hơn là trả thù Bá Kiến người gây ra tấn thảm kịch cho đời Chí. Nhưng cách thức Chí Phèo sự dụng để đối đầu với Bá Kiến quả không phải là tối ưu: rạch mặt ăn vạ. Mục đích là gây họa cho Bá Kiến. Giả thiết đặt ra ở đây là tại sao ngay lần ấy Chí Phèo không đâm chết Bá Kiến mà phải đợi mãi sau này khi bị Thị Nở cự tuyệt, Chi mới hành động? Chí Phèo muốn dùng sức mạnh côn đồ để uy hiếp Bá Kiến nhưng thực chất việc làm của Chí lại bộc lộ sự yếu thế của Chí, Chí phải mượn rượu khi không có rượu, cái sự cố hữu trong Chí trỗi dậy. Thì ra, trước Bà Kiến bao giờ Chí cũng sợ hãi nên ước muốn xâm hại để báo thù của Chí sẽ chẳng mang lại kết quả như mong muốn. Cuối cùng, chính nỗi sợ hãi cố hữu của Chí đã biến Chí thành công cụ trong tay Bá Kiến.

Cần lưu ý, Chí Phèo chỉ gây ra tội lỗi trong lúc say. Say là biện pháp hữu hiệu để Chí chôn vùi ý thức. Chỉ sợ ý thức thức tỉnh sẽ mang lại cho mình nỗi đau đớn vô bờ. Như thế, nếu tỉnh rượu, ý thức làm người của Chí sẽ trỗi dậy. Nhưng đã trót thành quỷ dữ thì Chí khó có thể được xã hội chấp nhận trở lại vào cộng đồng những con người bình thường. Chí luôn ý thức được điều đó. Chính vì thế bi kịch của Chí diễn ra thường trực và ngay trước khi gặp Thị Nở, Chí đã tự trang bị cho mình một kiểu vô thức mới: vô thức của sự lãng quên.

Đánh mất lịch sử, con người không còn là người nữa. Chí không chỉ không nhớ nổi tuổi của mình mà không còn khả năng giao tiếp với xã hội. Hắn mở miệng ra là chửi. Sống trong lãng quên chí muốn tự đánh mất mình. Nhưng khi bản năng tình dục được khơi dậy, Chí móc nối cuộc đời quỷ dữ của mình với Thị Nở và hi vọng thị sẽ đưa Chí trở về với mọi người. Xem ra, bản năng hướng thiện là bản năng có sức mạnh vô song hơn mọi bản năng khác. Nó luôn chờ cơ hội để lên tiếng đòi quyền lợi chính đáng cho bản thân mình. Chỉ muốn làm người lương thiện.

Nhưng “Ai cho tao lương thiện”...

Bởi khi đã được nếm mùi nhục cảm, khi đã biết lắng nghe được tiếng nói của những con người bình thường, khi “nghĩ đến rượu” hắn biết “rùng mình”. thì Chí không còn là quỷ dữ nữa. Hắn mềm yếu như trước đây đã từng mềm yếu. Hắn ý thức ra rằng hắn không phải là kẻ mạnh mà “muốn ác, phải là kẻ mạnh”. Do vậy, hắn không thể nào ác. Hắn đã biết “hối hận về tội ác”... Hàng loạt nhân thức này đang dần đưa Chí trở lại với cuộc đời, với bản tính thiện sơ khai của nó. Nếu Thị Nở chấp nhận Chí...

Nhưng giả thiết ấy sẽ chẳng bao giờ thành hiện thực. Cho dù thị có “kiêu ngạo vì đã cứu sống cho một người,” cho dù thị “thấy ngường ngượng mà thích” khi nghĩ đến hai chữ vợ chồng... thì thị vẫn chịu khuất phục bởi một bản năng xâm hại tối thượng: tính đố kị của con người, mà nguy hại thay lại là của người có quyền uy tuyệt đối. Bản năng tình dục trong Thị Nở không thắng được bản năng xâm hại của bà cô. Đấy là điểm khác biệt giữa Thị Nở và Chí Phèo. Và đấy là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cái chết của Chí. ở đây ta không thể trách Thị Nở. Bởi ngay từ đầu Nam Cao đã cho thị là người dở hơi rồi cơ mà.

Cho đến lúc chết, Chí Phèo không mạnh hơn Bá Kiến. Thậm chí ngay với chính bản thân mình, Chí cũng chẳng mạnh hơn. Hành động của Chí bao giờ cũng mượn qua hơi rượu. Vậy nên hành động xâm hại của Chí lại chính là việc tự xâm hại chính bản thân mình. Càng lún sâu vào con đường tội lỗi, Chí càng tự huỷ hoại hết nhân tính của mình. Nhưng ngay chính việc mượn rượu để hành động đã nói lên sự khắc khoải về bản thể của kẻ lỡ sa cơ này. Xét từ góc độ này, Chí Phèo có nét gần gũi với Giăng Van-giăng của Huy-gô. Cả hai đều là nông dân lương thiện, bị luật pháp bất công tống vào tù. Nhà tù làm thay đổi tâm tính họ. Sự ruồng rẫy của xã hội càng khiến họ thù hận con người... Đến đây cách giải quyết của Nam Cao khác với Huy-gô và nó cũng cho thấy sự khác nhau cơ bản giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Nếu Huy-gô để Giăng Van-giăng gặp linh mục Mi-ri-en, người đánh thức thiện tính trong Giăng và hướng cuộc đời của người tù khổ sai đang tuyệt vọng ấy sang nẻo thiện, thì Nam Cao để cho Chí Phèo tìm đến rượu và đi trả thù Bá Kiến, một kẻ ác và thế là Chí trở thành kẻ ác. Lô-gích hành động của Chí Phèo là hợp lí nhưng vì thế thiên tính thiện trong con người này càng bị huỷ hoại và không có điều kiện toả sáng.

Bản năng tình dục cũng như bản năng xâm hại trong tác phẩm đều chi phối Chí Phèo theo cả hai mặt tốt và xấu. Vì dục tính của bà Ba mà Chí phải đi tù. Nhưng nhờ sự “hớ hênh” của Thị Nở mà thiên tính thiện trong Chí được đánh thức. Cũng thế, vì bị Bá Kiến xâm hại nên Chí trở thành quỷ dữ làng Vũ Đại, song khi bản chất thiện trong Chí sống lại, Chí đã xâm hại trở lại Bá Kiến, giết chết y để chứng tỏ giá trị làm người của mình sẽ không bị phai mờ.

Tính biện chứng trong vận động tính cách, hành vi của nhân vật thể hiện qua các mặt đối lập đã cho thấy sự am hiểu sâu sắc của tác giả về bản chất của con người và quy luật vận động tất yếu của xã hội đặt trên sự vận động bản năng trong vô thức của từng cá thể. Nam Cao vĩ đại là nhờ ông đã biết khai thác tối ưu những phạm trù cơ bản trong cõi vô thức của con người. Chí Phèo vĩ đại là nhờ cho dù bản thân bị hủy hoại bởi hai bản năng gốc xâm hại và tính dục từ người khác nhưng anh ta đã biết đứng lên bằng cả hai bản năng đó và sâu xa hơn nữa là bằng sự tinh túy từ cốt cách của mọi bản năng: bản năng hướng thiện. Đấy là điểm luôn gặp gỡ trong cách nhìn nhận về con người của bất kì cây bút trác tuyệt nào của nhân loại.

Nhận định của anh (chị) về giọng điệu “Chí Phèo”

Gợi ý làm bài

Dẫu chưa tạo được cuộc cách mạng về ngôn từ mang tầm cỡ thế giới, nhưng Chí Phèo của Nam Cao vẫn luôn là kiệt tác, luôn nhận được sự yêu quí của người Việt. Đặt trọng tâm cái nhìn trần thuật vừa lên thế giới nội tâm nhân vật vừa dẫn dắt đến những xung đột cơ bản của cá nhân, thời đại, Nam Cao cũng đã tạo được lối viết lạ cho tác phẩm. Ngôn ngữ kể chuyện của ông luôn có ý thức xâm nhập vào cõi bí ẩn trong vô thức con người. Điều đó không chỉ giúp sáng tác của ông thành công ở phương diện tư tưởng mà còn mang lại một giọng điệu độc đáo cho Chí Phèo.

Trước khi khảo sát giọng của nhân vật trung tâm, chúng tôi muốn điểm qua giọng của một vài nhân vật trong tác phẩm này. Độc giả hẳn còn nhớ giọng của cụ Bá khi nói với những phần tử tha hoá như Năm Thọ, Chí Phèo: cứ mở miệng là quát để nắn gân. Cuộc đời cụ, theo Nam Cao thì có rất nhiều lần xuống giọng, cứ một lần là có một thắng lợi. Nhưng lần sau cùng, Bá Kiến không thành công phải... đi chầu Diêm Vương. Sự xê dịch giữa hai giọng điệu chứng tỏ vị thế ổn định đầy tàn nhẫn của con người này. Việc xuống giọng, với Bá Kiến cũng chỉ là một hình thức khác của chất giọng quyền uy.

Đến giọng của Thị Nở. Con người “ngớ ngẩn” ấy đâu có nhiều lời, có nói thì cũng chẳng thành câu cú gì: chỉ giỏi lườm, cấu véo. Ấy thế mà giọng nàng cũng rành mạch lắm, nghe lên là biết đích thị ngay của ai rồi: “Vừa thổ hả?”, “Đi vào nhà nhé?”, “thì đứng lên”. Đáp lại những lời yêu đương ấy, Chí không kém: “Giá thế này mãi thì thích nhỉ?”, “Hay là đằng ấy sang đây ở một nhà với tớ cho vui?”. Thực là xứng đôi vừa lứa. Song điều chúng tôi quan tâm ở những đối thoại “cộc lốc” (phần lớn là những câu hỏi thiếu hồi âm) này là ở ý nghĩa hụt hẫng của thân phận mà nó chuyển tải. Trong đối thoại, nếu Bá Kiến nói càng nhiều càng rõ ràng bao nhiêu thì Chí, Thị Nở càng rất ít nói và kém phần tự tin bấy nhiêu. Điều này báo hiệu một kết cục bất bình thường trong các quan hệ mà trước tiên cuộc tình của họ tan vỡ và sau rốt là cái chết của Chí Phèo.

Giọng của người kể chuyện rất đặc biệt. Nhiều nhà nghiên cứu thường nhắc đến kiểu giọng văn trắng ở kiệt tác này. (Dĩ nhiên thế nào là “trắng” và thế nào là “không trắng” thì tuỳ thuộc vào quan điểm của từng người). Chúng tôi đồng ý với nhận định trên nhưng cần phải xét về cấp độ. Xưa nay chúng ta thường nhắc đến kiểu giọng văn trắng trong Vụ án của Káp-ka và Người xa lạ của Ca-mút. Ở đó, người kể chuyện trần thuật lại các sự kiện (kể cả sự kiện của 1 cuộc đời mình) mà không hề tỏ bày chút xúc cảm nào. Còn Nam Cao khi Chí Phèo là “hắn”, Thị Nở là “thị” thì đã tạo được thái độ khách quan lạnh lùng.

Song lạnh lùng chưa đến mức đoạn tuyệt như ở hai bậc tiền bối ấy bởi lẽ: (1) Tác phẩm còn nhiều đoạn miêu tả thiên nhiên (chẳng hạn, ánh trăng xộc xệch theo chân Chí) hoặc ngoại cảnh (tiếng thuyền chài đánh cá, giọng người đi chợ...). Các cảm thán từ (trời ơi, than ôi) nên ít nhiều cảm xúc của người kể đã bộc lộ. Do vậy, sắc thái giọng văn của tác phẩm, theo chúng tôi chỉ nên xếp vào hàng tương đối “trắng” hoặc trung tính mà thôi.

Bao trùm lên toàn bộ Chí Phèo là kiểu giọng gián tiếp của người kể phân tích tâm lí nhân vật. Điều này mang lại hai hiệu quả:

1) Đối thoại trực tiếp của các nhân vật rất hiếm và phần lớn là bị hoà tan trong lời dẫn dắt tâm trạng của người kể chuyện. Nếu tính số lượng lời thoại (xuất hiện với dấu gạch đầu dòng) chúng tôi thống kê được năm mươi tham thoại.

2) Lời nửa trực tiếp xuất hiện nhiều xen trong những biến tấu giọng điệu đột ngột. Hãy quan sát giọng của người kể chuyện và giọng của Thị Nở khi thị sang nhà nhân tình để “đổ cơn tức” bởi bị bà cô mắng: (a) “Thị giậm chân xuống đất rồi nhảy cẫng lên như thượng đồng. (b) Hắn thú vị quá, lắc lư cái đầu cười. (c) Lại còn cười! (d) Nó nhạo thị, trời ơi! (e) Thị điên lên mất, trời ơi là trời”. Phát ngôn (a), (b) là lời miêu tả của người kể chuyện. Phát ngôn (c), (d), (e) thoạt tiên là lời phân tích tâm trạng của Thị Nở, nhưng đọc kĩ chúng ta sẽ có các giọng sau: (c) là lời của Thị Nở, (d), (e) (được in nghiêng) là lời của người kể chuyện. Nếu chúng ta nối các phần (c), (d), (e) (không in nghiêng) thì có lời của Thị Nở, lại còn cười trời ơi, trời ơi là trời.

Tuy nhiên, việc phân tích rạch ròi này chỉ là một cách tiếp cận. Cách hiểu khác là xếp các phát ngôn (c), (d), (e) vào kiểu lời nửa trực tiếp bởi ở đó giọng của người kể chuyện và giọng của nhân vật cùng đan cài, hoà tan. Đặt các giọng gần nhau hoặc xâm nhập lẫn nhau, Nam Cao đã thành công trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật, trong việc sáng tạo lên một thế giới ngôn từ đổ vỡ. Và ba động của ngôn từ ấy cũng là sóng đời bất trắc của thế giới thực tại đây âu lo. Kĩ thuật này tuy làm chậm tốc độ phát triển truyện song nó vẫn tạo ra được nét quyến rũ bởi tâm tính nhân vật được phô bày dần qua việc thay đổi giọng của những phát ngôn.

Khác với Bá Kiến, Chí có rất nhiều kiểu giọng mà tuỳ từng trường hợp để mang ra đối phó. Chỉ có giọng bên trong của độc thoại, độc thoại nội tâm (những toan tính trước cụ Bá, suy nghĩ về hành vi bóp chân cho bà Ba) và giọng bên ngoài bao gồm: giọng của tiếng chửi, giọng tỏ tình, giọng của con người sợ sệt khi hơi rượu đã tản mát bay, giọng dõng dạc của con người đòi lương thiện... Chỉ bấy nhiêu kiểu giọng cũng đủ ghi nhận tính chất cơ cùng của kiếp người này. Nhưng điều quan trọng hơn là chúng tôi muốn đề cập đến bước chuyển biến giọng điệu giữa người kể chuyện và Chí mà tập trung nhất là ở khổ mở đầu.

“Hắn vừa đi vừa chửi (...) bắt đầu hắn chửi trời” là lời của người kể chuyện. Tiếp đó “Có hề gì? Trời của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời” vẫn là giọng của người kể chuyện phân tích tâm lí nhân vật, nhưng trên nền ấy đã xuất hiện bóng dáng suy luận của Chí (có hề gì?). “Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại”. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng tự nhủ “chắc trừ mình ra”, “Không ai lên tiếng cả”. Đến đây dòng tâm trạng của Chí chuyển biến. Lời của Chí dồn dập hơn. Lô-gích suy luận bên trong dần chuyển thành lô-gích bên ngoài ở hành vi lời nói, giọng của Chí tăng dần lấn át giọng người kể chuyện để xuất hiện: “Tức thật! Tức thật! ồ! Thế này thì tức thật. Tức chết đi mất”. Giọng của Chí hoàn toàn chiếm ưu thế. Với kĩ thuật này, dòng nội tâm nhân vật dần dần bị lộn trái ra ngoài bởi việc xâm nhập từng bước giọng của Chí vào giọng người kể chuyện. “Con người ý thức” của Nam Cao, như một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra, có thể nói không ngoa rằng, đó là “con người giọng điệu” đang tự ý thức khẳng định mình.

Giọng điệu giữ một vai trò rất quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật. Nó không những chỉ rõ bản sắc, thiên tài của nghệ sĩ mà còn ghi nhận sự kiên trì của nhà văn trên chất liệu. Thế kỉ XX trong văn học được mệnh danh như là thế kỉ của những cách tân và giọng điệu là một trong những mục tiêu để nhà sáng tạo hướng đến. Chí Phèo chưa đổi mới triệt để bằng Vụ án, Người xa lạ về giọng điệu và cũng nặng nề hơn bởi giọng của người kể chuyện ở ngôi thứ ba luôn chiếm ưu thế. Tuy nhiên, kiệt tác đã tạo nên một diện mạo riêng về giọng điệu: hoà tiếng chửi của một thằng say vào lời xót xa của một người kể chuyện tỉnh, khá lạnh lùng song tận cùng vẫn là tiếng “đoạn trường” cho kiếp cùng khổ.

Anh (chị) có nhận xét gì về kết cấu của Chí Phèo

Gợi ý làm bài

- Đọc Chí Phèo, người đọc biết toàn bộ cuộc đời Chí Phèo, kể từ lúc mở mắt chào đời cho đến lúc giết Bá Kiến rồi tự sát. Cách kể hướng về biên niên sử của nhân vật chính của tác phẩm thường là độc quyền của tiểu thuyết. Truyện ngắn hiếm khi tái hiện đầy đủ cuộc đời nhân vật. Đây là đặc điểm độc đáo của Chí Phèo. Tuy nhiên, để làm giảm số trang cho truyện (nếu không thì truyện ngắn này có nguy cơ trở thành tiểu thuyết) thì ngoài việc lược bớt các sự kiện (chẳng hạn như không nói rõ ai là người sinh ra Chí và hoàn cảnh sống, tâm trạng của người mẹ ấy ra sao khi từ bỏ đứa con), Nam Cao còn sử dụng kĩ thuật hồi cố. Biện pháp này được trao cho người kể và buộc người kể trở thành người thông suốt hết mọi ngóc ngách trong đời Chí. Quả thật, lí lịch của Chí Phèo dần hiện lên rõ nét qua lời kể điềm tĩnh đầy chất suy tư: “Một anh đi thả ống lươn...”

- Nhờ đoạn hồi cố này mà người đọc không chỉ nhận biết rõ hoàn cảnh thương tâm của Chí mà còn thấu hiểu trọng tâm câu chuyện được đặt ở đây. Nếu làm phép thống kê, ta thấy đoạn kể về quá khứ của Chí trước khi bị hư hoại nhân tính “hắn vừa đi vừa chửi” là vô cùng ngắn (chưa đến một trang) so với đoạn miêu tả Chí trong sự tha hoá (khoảng 20 trang). Hơn nữa, ngay từ lúc mở đầu, hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” đã bao hàm thông báo của người kể rằng câu chuyện bắt đầu bằng một con người không bình thường nữa. Trọng tâm truyện đặt vào khát vọng hoàn lương chứ không phải vào quá trình tha hoá. Thế nhưng, với tư cách là một nhà hiện thực cần mẫn, Nam Cao vẫn cố tái hiện lại quá khứ của Chí Phèo để báo cho người đọc biết vì sao Chí Phèo ra nông nỗi này. Hoàn cảnh nghiệt ngã của xã hội đã tiếp tay cho Bá Kiến trong việc làm biến chất Chí Phèo.

- Tuy nhiên, cấu trúc bề mặt vẫn hàm chứa một ý đồ nghệ thuật vượt ra ngoài khuôn khổ tái hiện trọn vẹn cuộc đời Chí. Người kể dùng quá khứ của Chí Phèo đó để đối chiếu với nhiều cảnh ngộ tương tự quá khứ của Chí. Đấy chính là cuộc đời của Binh Chức và Năm Thọ. Lối kể nghe chừng dễ dãi ngỡ như gặp đâu kể đó song lại chuyển tải một kĩ thuật tự sự bậc thầy: đồng quy nhiều số phận để nói rằng trong xã hội ấy Chí Phèo không phải là cá biệt.

– Ba cuộc đời trong quá khứ đó tạo ra ba tầng truyện hay ba tuyến cốt truyện: truyện về Năm Thọ, truyện về Binh Chức và truyện về Chí Phèo. Ngoài ra, truyện còn có Tự Lãng sống một mình vì con gái chửa hoang bỏ lão mà đi. Nguyên nhân dẫn đến các cảnh đời bị thương của họ ít nhiều đều xuất phát từ chuyện đàn bà. Năm Thọ thì đưa vợ con ra làm cái cớ để uy hiếp Bá Kiến: kẻ dám giết vợ con mình thì đâu có chùn tay trước người khác. Binh Chức thì cũng đưa vợ con ra đe dọa Bá Kiến. Nhưng lí do thì khác với Năm Thọ. Binh Chức ngầm đổ tội Bá Kiến tiêu tiền của mình gửi về cho vợ. Bá Kiến phải nhượng bộ. Chí Phèo thì lại là nạn nhân của Bá Kiến. Ông ta ghen Chí vì Chí bị bà Ba bắt bóp đùi. Như thế nền tảng của cốt truyện hay của xung đột cơ bản của Chí Phèo là chuyện đàn ông - đàn bà. Từ đây các xung đột xã hội hiện lên. Đây là điểm đặc biệt trong xung đột của Chí Phèo. Nó giải thích tại sao khi những quan hệ xã hội đã thay đổi thì Chí Phèo vẫn còn được tiếp tục đón đọc.

Sự nghiệp văn học của nhà văn Nam Cao

1. Quan điểm nghệ thuật

Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề “sống và viết” rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Có thể nói, đến Nam Cao, chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam từ năm 1930 đến 1945 mới thực sự tự giác, đầy đủ về những nguyên tắc sáng tác của nó.

Khi mới cầm bút, Nam Cao chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời. Nhưng ông đã dần nhận ra thứ văn chương đó rất xa lạ với đời sống lầm than của nhân dân lao động và ông đã đoạn tuyệt với nó để tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa.

Sau Cách mạng, Nam Cao tích cực tham gia kháng chiến, sẵn sàng hi sinh thứ “nghệ thuật cao siêu” của mình với ý nghĩ: lợi ích của dân tộc là trên hết. Tuy ấp ủ hoài bão sáng tác nhưng ông vẫn tận tụy trong mọi công tác phục vụ kháng chiến với quan niệm “sống đã rồi hãy viết”; góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn.

2. Các đề tài chính

Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tập trung vào hai đề tài chính: người trí thức nghèo và người nông dân nghèo.

Sau Cách mạng, Nam Cao là cây bút tiêu biểu của văn học giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954).

3. Phong cách nghệ thuật

Trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nam Cao là nhà văn có phong cách độc đáo. Nam Cao đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần của con người, luôn có hứng thú khám phá “con người trong con người” dù viết về người nông dân hay người trí thức.

Nam Cao có khuynh hướng tìm vào nội tâm, đi sâu vào thế giới tinh thần của con người. Ông là nhà văn có biệt tài diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật.

Do am hiểu tâm lí nhân vật nên Nam Cao đã tạo được những đoạn đối thoại, độc thoại nội tâm rất chân thực, sinh động. Nam Cao là nhà văn có giọng điệu riêng: buồn thương chua chát, dửng dưng lạnh lùng mà đầu thương cảm, đằm thắm yêu thương.

Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sáng tác của ông đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách càng sáng ngời. Thời gian càng lùi xa, những tác phẩm của ông lại càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.

---------------------------

Trên đây VnDoc.com vừa gửi tới bạn đọc bài viết bài viết Soạn bài Chí Phèo - Phần 2: Phần tác phẩm, chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài viết rồi đúng không ạ? Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu để học tập nhé. Mời các em tham khảo thêm Đề thi học kì 1 lớp 11, Soạn văn lớp 11 ngắn gọn, Soạn bài lớp 11, Học tốt Ngữ văn 11, Tài liệu học tập lớp 11 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
9
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Soạn bài lớp 11

    Xem thêm