Ý kiến của em về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ

Ý kiến của em về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ là tài liệu văn mẫu lớp 11 hay cho các em học sinh tham khảo. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.

Đề bài

Nêu ý kiến của em về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ. Theo anh/chị, đó là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ hay là câu chuyện về niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn?

(Nhà văn Thạch Lam cho rằng: "Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn". Em hãy dựa vào quan niệm này của tác giả để nhận xét chủ đề xuyên suốt qua tác phẩm Hai đứa trẻ.)

1. Dàn ý nêu ý kiến của em về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ

I. Mở bài

- Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn thành công và hết sức đặc sắc của Thạch Lam, qua truyện đã thấy được tài năng của tác giả.

- Khái quát chủ đề của truyện: Câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn, những cuộc đời tàn tạ và cũng là câu chuyện về niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.

II. Thân bài

- Nêu đoạn văn có thể giúp bạn đọc tìm kiếm được chủ đề của tác phẩm:

“Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu, như đã đem đến một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối dường như vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”.

a. Những dòng liên tưởng của Liên

– Dòng mơ tưởng của Liên khi con tàu đã rời ga phố huyện đem theo ánh sáng của cuộc sống kinh thành mà cô hằng khao khát. Niềm vui chợt đến lại mất đi ngay, chỉ còn lại sự tiếc nuối, khiến Liên lặng theo mơ tưởng. Một chữ “lặng” thôi mà như nói được bao điều buồn vui lẫn lộn của cô gái, diễn tả đúng tâm trạng của con người vừa được một cái gì lại mất đi ngay cái đó.

+ Đoàn tàu đã đi khuất xa lắm rồi, nhưng hiện thực trước mắt không còn nữa – dù hiện thực đó chỉ có giá trị như một mơ ước.

+ Liên chỉ còn biết mơ tưởng về một Hà Nội xa xăm, một Hà Nội ở đó đã sáng rực vui vẻ và huyên náo. Đó là Hà Nội trong kí ức tuổi thơ của Liên, của những kỉ niệm mà đã bấy lâu nay Liên khao khát muốn được sống lại những ngày hạnh phúc ấy, dù chỉ trong khoảnh khắc.

+ Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, thế giới sôi động, sầm uất, vang dội đủ thứ âm thanh của cuộc sống đời thường. Chỉ cần một chút thế thôi, Liên cũng cảm thấy lòng mình rộn rã hẳn.

+ Sống trong cảnh buồn chán, tẻ nhạt nơi phố huyện, Liên khao khát ánh sáng và sự hoạt động biết bao! Chỉ có sự háo hức chờ đợi tàu mỗi đêm là có thể giúp Liên như giải thoát nỗi buồn lặng lẽ ở nơi phố huyện nghèo này mà thôi.

- Nhưng cả Hà Nội xa xăm, cả con tàu đi qua phố huyện đều chỉ là ước mơ của cô bé tội nghiệp.

+ Cuối cùng thì dòng mơ tưởng ấy lại quay về với hiện thực mà Liên đang phải sống, quay về với vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Khác hẳn với ánh sáng nơi kinh thành, đây chỉ là vầng sáng leo lót của ngọn đèn con trên chõng hàng chị Tí và ánh lửa yếu ớt trong bếp lửa bác Siêu chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ, còn xung quanh thì bóng tối vẫn bao phủ kín mít.

=> Cái vầng sáng và ánh lửa của những con người nhỏ bé tội nghiệp sống lầm lũi nơi phố huyện nghèo nàn tăm tối không đẩy lùi được bóng tối đang bủa vây và đè nặng lên cuộc đời họ. Đó cũng là cuộc sống hiện tại của hai chị em Liên, cuộc sống đơn điệu đến nhàm chán và ngưng đọng.

+ Trong những dòng mơ tưởng đẹp đẽ về một Hà Nội kia, dường như tâm trạng của cô bé Liên buồn vui lẫn lộn trước những gì thuộc về quá khứ, trước hiện tại đáng buồn và hướng về một tương lai mơ hồ, xa xôi…

- Dòng mơ tưởng của Liên trong tác phẩm như mang một ý nghĩa nhân văn và nhân đạo sâu sắc: Con người ta bao giờ cũng hướng đến những cuộc sống tốt đẹp hơn, có ý nghĩa hơn chứ không hề muốn sống cam chịu một cuộc sống vô vị, nhạt nhẽo.

+ Tuy ở đây chưa có những hành động cụ thể để thay đổi cuộc sống (nhà văn lãng mạn Thạch Lam chưa thể làm được điều này), nhưng dòng mơ tưởng của Liên ở đây có giá trị như những ước mơ nhân đạo của con người. Và nhà văn Thạch Lam như muốn nhắn nhủ rằng chừng nào con người còn có ước mơ thay đổi cuộc sống thì chừng đó con người rất đáng được trân trọng.

+ Dòng mơ tưởng đó còn mang ý nghĩa rất hiện thực khi Liên nhớ đến vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu.

=> Bản thân hai hình ảnh này vốn mang ý nghĩa tượng trưng cho những kiếp người nhỏ bé tội nghiệp trong chế độ cũ, vì vậy khi Thạch Lam đưa nó vào dòng mơ tưởng của Liên thì giá trị khái quát càng cao, ý nghĩa hiện thực càng lớn.

+ Có thể nói rằng dòng ý nghĩa hiện thực đó lại càng rõ nét hơn khi nhà văn khép lại dòng mơ tưởng của Liên bằng bóng tối của phố huyện, đưa nhân vật về với cuộc sống mà Liên đang phải sống: Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng.

b. Chủ đề của tác phẩm

- Đoạn văn trên có thể xem như là sự cô đúc chủ đề của tác phẩm đặc sắc “Hai đứa trẻ” ở đây có hiện thực và ước mơ, có bóng tối và ánh sáng, có hai thế giới khác hẳn nhau, hai cuộc sống khác hẳn nhau với những con người nhỏ bé tội nghiệp: hai chị em Liên và An, chị Tí, bác Siêu… Những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo đối lập với vầng sáng ngọn đèn của chị Tí, ánh lửa của bác Siêu và đêm tối nơi phố huyện. Tất cả đã cho ta thấy rõ nội dung và chủ đề của truyện.

- Đầu tiên và trên nhất đó là số phận của những con người sống âm thầm, lay lắt, tàn lụi trong bóng tối của cuộc đời cũ. Họ như hiện thân là những kiếp người nhỏ bé vô danh, không bao giờ được biết đến ánh sáng và hạnh phúc, cuộc sống mãi mãi bị chôn vùi trong tăm tối, nghèo đói, buồn chán nơi phố huyện và nói rộng ra, trên đất nước còn chìm dần trong cảnh nô lệ, đói nghèo tại thời điểm đó. Người đọc đồng cảm sâu sắc với niềm xót thương vô hạn của Thạch Lam đối với những con người bất hạnh đó.

- Tiếp sau nữa, thì qua dòng mơ tưởng của Liên, qua hình ảnh “hai đứa trẻ”, truyện còn muốn nói lên một điều có ý nghĩa nhân văn sâu sắc: cuộc sống của con người đâu phải chỉ có miếng cơm, manh áo mà còn là cuộc sống tinh thần, tình cảm. Cuộc sống đơn điệu, buồn chán và ngưng đọng ở cái phố huyện nghèo nàn tăm tối quả thực là một điều đáng sợ cho hai đứa trẻ và cũng là điều khiến ta phải suy nghĩ. Qua tâm trạng Liên, tác phẩm muốn lay tỉnh ở những tàm hồn uể oải, đang lụi tắt, đốt lên trong lòng họ ngọn lửa của lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang muốn chốn vùi họ. Truyện đã đem đến cho ta ước mơ thật đẹp của những con người sống trong cảnh đời cũ.

III. Kết bài

- “Hai đứa trẻ” một truyện không có chuyện, mà tràn đầy không khí tâm trạng. Không khí một cảnh quê, nơi có một ga xép nhờ một chuyến tàu đúng giờ ấy, khắc ấy chạy qua mà mang một chút dư âm, dư vị, đưa con người vào một tâm trạng buồn vui lẫn lộn không xác định được ranh giới. Khi trước “một cái gì thuộc về quá khứ, vừa hướng tới tương lai” (Phong Lê).

2. Bài văn mẫu 1: Nêu ý kiến của em về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ

Hành trình của văn học là hành trình đi từ trái tim đến những trái tim. Vì vậy, mỗi nhà văn khi đã cầm bút đều có thiên chức của mình. Như Thạch Lam quan niệm: "Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn". Ý thức được sâu sắc nhiệm vụ thiêng liêng đó, mỗi tác phẩm của Thạch Lam luôn nâng đỡ những yêu thương cao quý ở đời. "Hai đứa trẻ" là chút "Nắng trong vườn" vừa là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ vừa là câu chuyện về niềm khát kháo vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Mỗi tác phẩm văn học ra đời đều có một chủ đề khác nhau. Chủ đề là vấn đề cơ bản, trung tâm được nêu lên trong tác phẩm. Nó thể hiện được chiều sâu tư tưởng, khả năng nắm bắt những vấn đề cuộc sống của người viết. Qua đó biểu hiện nhận thức, sự đánh giá và tư tưởng của tác giả đối với đời sống hiện thực. Trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ", Thạch Lam không chỉ tái hiện số phận của những con người sống âm thầm, lay lắt, tàn lụi trong bóng tối của cuộc đời cũ nơi phố huyện nghèo mà còn gửi gắm giá trị nhân văn sâu sắc. Đó là niềm tin vào cuộc sống và lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khát khao thoát khỏi cuộc sống tăm tối mù mịt hiện tại. Chính vì thế, “Hai đứa trẻ" không chỉ là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ mà còn là câu chuyện về niềm khát kháo vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Trước hết, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là câu chuyện về một ngày tàn. “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru.” “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa” gọi buổi chiều nơi phố huyện. Trong ánh mặt trời dần lụi tàn ở "phương tây đỏ rực như lửa cháy", cảnh vật cũng dần bước vào trạng thái tàn lụi: “những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” và dãy tre làng “đen lại”, “cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Cả không gian ngập tràn âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng”, tiếng muỗi vo ve trong cửa hàng tối. Bóng tối lan dần, nuốt chửng lấy cả phố huyện “tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Trong bóng tối mênh mông ấy, chỉ có chút ánh sáng “le lói, lập loè, yếu ớt” của đàn đom đóm, một “quầng sáng lờ mờ” của ngọn đèn hàng nước chị Tí và những “hột sáng” nhỏ nhoi lọt qua phên nứa nơi gian hàng của chị em Liên. Cái buồn của ngày tàn lặng lẽ len lỏi vào cả những con người cũng đang dần chìm trong bóng tối và thấm thía vào tâm hồn Liên: “Đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không hiểu vì sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Khung cảnh ngày tàn được tái hiện qua những câu văn êm dịu, uyển chuyển, tinh tế. Mỗi câu như một nét vẽ đơn sơ, mộc mạc không cầu kỳ không kiểu cách nhưng lại gợi được cái hồn của cảnh vật và cái thần thái của thiên nhiên. Có thể nói, không gian phố huyện lúc chiều tàn hiện lên tuy buồn nhưng thơ mộng, mang dáng hình của một hồn quê Việt Nam quen thuộc, gần gũi vô cùng bình dị. Qua đó gửi gắm tình cảm gắn bó của Thạch Lam.

Trong không gian của ngày tàn còn có cả một câu chuyện về một phiên chợ tàn nơi xã hội thu nhỏ này. Phiên chợ đã "vãn từ lâu", "người về hết và tiếng ồn ào cũng mất", chỉ còn lại sự nghèo nàn, xơ xác với những "rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía", chỉ còn lại "mùi âm ẩm bốc lên", hơi nóng ban ngày, mùi cát bụi quen thuộc”. Cuộc sống tẻ nhạt, nghèo khổ từng nét hiện ra qua vẻ xác xơ, tiêu điều của phiên chợ tàn.

Và trên phông nền thời gian, không gian tàn lụi của một ngày tàn và một phiên chợ tàn là những cuộc đời tàn tạ, những kiếp người đang âm thầm hoà mình chìm trong bóng tối. Chân dung những con người nghèo khổ lam lũ của phố huyện hiện dần ra. Đó là “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Chợ đã vãn từ lâu, chúng tìm được gì ở nơi đã tàn ấy? Cuộc sống nghèo khổ gieo rắc bất hạnh lên những kiếp người, cướp đi tuổi thơ của chúng và trả về gánh nặng mưu sinh.

Không một ai thoát khỏi cảnh tù túng nơi phố huyện nghèo. Mẹ con chị Tí, “ngày mò cua bắt tép” tối đến lại lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng. Dù không kiếm được bao nhiêu, nhưng ngày nào chị cũng dọn giống như đang chờ đợi một điều gì đó. Còn gia đình bác Xẩm, họ ngồi trên manh chiếu với cái thau sắt để trước mặt, rồi không khách không tiền. Mệt mỏi, họ lăn ra đất và như đã lẫn vào trong đất. Bác Siêu với gánh hàng phở ế ẩm khốn khó. Hai chị em Liên với cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu mở ra từ ngày cả nhà rời Hà Nội về phố huyện này. Bà cụ Thi điên nghiện rượu, bà cười “khanh khách” rồi lảo đảo đi vào trong đêm tối gợi cho người đọc nỗi buồn thương về những kiếp người đang dần bị vùi lấp trong cái nghèo khố tối tăm và sự lãng quên của cuộc đời. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, khổ cực và tàn tạ.

Phố huyện nghèo kéo theo những kiếp người gần tàn vào bóng tối mênh mông mờ mịt. Ánh sáng âm ỉ trong bóng tối bao trùm, mong manh tới nỗi chỉ là “hột sáng” hắt ra từ ngọn đèn con của chị Tí, bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn Hoa Kì vặn nhỏ của chị em Liên. Chút ánh sáng ấy không làm cho đêm tối trở nên sáng sủa hơn mà ngược lại chỉ càng làm thêm mịt mù u tối. Với nghệ thuật đối lập khi miêu tả ánh sáng và bóng tối, Thạch Lam đã khắc họa thành công nhịp sống tẻ nhạt, u buồn lay lắt của con người nơi phố huyện nghèo. Trong khi bóng tối nuốt chửng cả phố huyện thì ánh sáng xuất hiện là “hột sáng”, “khe ánh sáng”, “đốm sáng”, “vệt sáng” thật bé nhỏ, chúng “mất đi rồi lại hiện ra trong đêm tối”. Ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt đó le lói cùng những phận người bấp bênh, trôi nổi. Nhịp sống ấy lặp đi lặp lại quẩn quanh, đơn điệu từ ngày này sang ngày khác.

“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu,

Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người”.​

Nhưng “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức” (Thạch Lam). Dưới cái nhìn đầy yêu thương của Thạch Lam, "Hai đứa trẻ" còn là một câu chuyện về niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn của những cuộc đời tàn tạ. Ngày tàn, phiên chợ cũng đã tàn nhưng không che lấp đi niềm tin và khao khát của những cuộc đời. Trong hoàn cảnh tàn tạ, con người vẫn ước mơ, vẫn hi vọng. Cuộc sống của họ vẫn tiếp diễn lặp lại dù họ biết mình không nhận được bao nhiêu. Nhưng dường như, họ vẫn luôn chờ đợi, chờ đợi điều gì đó chưa đến “Chừng ấy con người sống trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Và họ chờ, chờ chuyến tàu cuối ngày ngang qua phố huyện.

Trong cảnh chờ tàu, Thạch Lam đã sử dụng thủ pháp tương phản rất tự nhiên có sức khơi gợi về cuộc sống đời thường: tẻ nhạt, đơn điệu nhưng lại chứa bên trong nhũng vận động đến xôn xao. Ánh sáng bừng lên trong bóng tối, cái đẹp ẩn trong cái bình thường, nỗi khao khát và ước mơ ẩn mình trong cam chịu, sự xao động nằm trong sự tĩnh lặng, cái tăm tối lại hiển hiện những kỉ niệm sáng tươi và hé mở một tương lai hi vọng dù cho còn mơ hồ xa xăm. Đó là nhìn của một nhà văn lãng mạn nhưng giàu lòng nhân hậu với con người và cuộc đời. Hai đứa trẻ chờ đợi tàu trong vui buồn phức tạp. Thạch Lam đã khéo léo tái hiện “những rung động cực điểm của những tâm hồn thơ dại” khi miêu tả sự thiết tha chờ tàu chạy qua tới mức An đã buồn ngủ nhíu cả mắt mà vẫn dặn chị: “Tàu đến chị gọi em dậy nhé!”.

Đoàn tàu ngang qua đem đến cho phố huyện không khí náo nhiệt, rạo rực bởi âm thanh, hình ảnh, màu sắc và ánh sáng của nó. Tiếng còi gióng lên hối hả, tiếng các toa tàu dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng người đi lại ồn ào huyên háo. Trên những toa tàu, đèn điện sáng trưng: “Đồng và kền lấp lánh ở những ô cửa kính sáng”. Chuyến tàu ở Hà Nội mang cho phố huyện cả một thế giới hoa lệ “như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Một thế giới tươi sáng khác hẳn với chút ánh sáng le lói nơi đây. Chuyến tàu mang theo nuối tiếc về “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Nó thức dậy trong Liên một trời kỉ niệm đã qua để Liên sống với tuổi thơ trong chốc lát, sống lại một thời xa xôi nay chỉ còn trong hồi ức, thời mà thầy chưa mất việc, sống ở Hà Nội “chủ nhật được đi bờ hồ uống những cốc nước xanh đỏ”. Tàu đến rồi lại đi, lao về phía trước mở ra một chân trời tương lai khác mà không biết bao giờ con người mới đến được. Chị em Liên đứng nhìn theo con tàu mãi.

Qua khung cảnh đầy cảm động ấy, Thạch Lam với sự thức tỉnh ý thức cá nhân sâu sắc đã bày tỏ lòng xót thương vô hạn đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh không bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc. Trái tim của một nhà văn chân chính - "nhà nhân đạo từ trong cốt tủy" đã nâng niu và trân trọng niềm tin của con người, dù cho niềm tin ấy vô cùng mong manh.

Trong thiên truyện ngắn của mình, Thạch Lam đã sử dụng thành công ngôn ngữ truyện giàu cảm xúc, giọng văn thủ thỉ điềm tĩnh, nhẹ nhàng như ẩn chứa một tâm sự kín đáo có sức khơi gợi sâu vào cảm xúc người đọc kết hợp nghệ thuật đối lập tương phản, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật. Từ đó sáng tạo thành công một câu chuyện không có cốt truyện nhưng lại như một thứ thơ bằng văn xuôi ấn tượng. “Hai đứa trẻ” là bức tranh phác họa cảnh phố huyện nghèo trong một ngày tàn, qua một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của Liên. Bên cạnh niềm cảm thương chân thành đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm, Thạch Lam còn khẳng định và ngợi ca niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn của họ. Để rồi "Hai đứa trẻ" không những là tác phẩm tiêu biểu cho cây bút tài năng của "Tự lực văn đoàn" mà còn tiêu biểu cho tấm lòng nhân đạo, yêu thương và nâng đỡ con người của Thạch Lam.

Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" với chủ đề nhân văn cao đẹp, mang theo thiên chức cao quý của người cầm bút giống như viên ngọc sáng được thời gian mài giũa. Cho đến tận hôm nay, nó vẫn âm thầm sống mãi trong lòng độc giả với tuyên ngôn văn học của một nhà văn chân chính: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.

3. Bài văn mẫu 2: Suy nghĩ về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ

Thạch Lam được biết đến là một cây viết cứng và khỏe của nhóm Tự lực văn đoàn. Các tác phẩm của ông luôn khiến độc giả và rất nhiều nhà phê bình phải lưu tâm và nó để lại dấu chấm hỏi lớn đáng suy ngẫm. Những tác phẩm của ông được ví như “truyện mà không có cốt truyện”, song hàm chứa trong nó lại là những băn khoăn, trăn trở mà tác giả gửi gắm. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” được coi là một dấu ấn lớn trong sự nghiệp của Thạch Lam. Có ý kiến băn khoăn “truyện là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn hay là câu chuyện về niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn?”. Vậy theo bạn ý kiến của bạn là gì?

Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam chủ yếu hướng về cuộc sống quẩn quanh bế tắc đến tội nghiệp của những người dân nghèo khổ nơi phố huyện. Đó là tàn dư của chế độ thực dân nửa phong kiến mà con người phải hứng chịu trước cách mạng tháng Tám - 1945. Vì thế có thể khẳng định trước hết đó là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và một cuộc đời tàn.

Mở đầu câu chuyện đó là khung cảnh của một phiên chợ tàn vùng quê nghèo xơ xác “Chiều chiều rồi, một chiều êm ả như ru văng vẳng tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Đó cũng là một buổi chiều với tiếng trống thu không như gọi chiều yên ả và tĩnh mịch đến cô liêu. Hình ảnh mặt trời đỏ rực, những cây tre quen thuộc,… Như càng tô đậm vẻ tịch liêu đến hoang xơ nơi vùng quê yên bình. Đó cũng là dấu hiệu bắt đầu của màn đêm buông xuống, “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Tất cả khung cảnh vũ trụ chìm vào bóng đen mịt mờ bóng tối bao trùm mọi cảnh vật.

Nỗi buồn đó càng được khắc họa rõ nét qua cảm nhận của nhân vật Liên “Liên không hiểu vì sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Dẫu không có bất cứ lời văn nào u uất hay thấm đẫm buồn thương thế nhưng Thạch Lam đã phần nào khiến người đọc mường tượng ra được không gian một buổi chiều tà đầy lặng lẽ buồn thương đến nao lòng.

Đây cũng là lúc mọi hoạt động của con người dường như cũng tạm ngưng. Nó càng khiến cho lòng người trở nên ảm đạm và chan chứa nỗi niềm xúc động.

Ai đó đã từng nói “muốn biết tình hình đời sống của một khu dân cư chỉ cần nhìn vào buổi chợ của những con người nơi đó”. Những thứ xót lại của buổi chợ tiêu điều này sẽ cho bạn cảm nhận được về cuộc sống con người nơi đây. “Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía”. Đó là những thứ biểu trưng cho sự nghèo nàn xơ xác đời sống khốn khó của người dân nơi đây. Những dư vị còn xót lại của phiên chợ chỉ còn là mùi đất xộc lên. Chao ôi cái mùi vị của cuộc sống nghèo khó, lầm than đến xót xa tội nghiệp.

Hòa cùng với khung cảnh tiêu điều đó là những mảnh đời héo hon đến tội nghiệp. Lầm lũi trong bóng đêm càng tô đậm sự cô tịch. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo lom khom mặt đất lạnh nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay bất thứ cái gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại”. Đáng nhẽ ở cái tuổi ấy chúng sẽ được đến trường, được vui chơi tận hưởng một cuộc sống vui vẻ thế nhưng lại phải bon chen đánh vật với cuộc sống mưu sinh. Hình ảnh những người lớn cũng chẳng khá khẩm hơn bao nhiêu. Chị Tí mò cua bắt tép đến tối lại dọn cái chõng tre ra bán nước, bác phở Siêu với gánh hàng phở ế ẩm khốn khó, anh phu xe, chị hàng gạo… Những mảnh đời bé nhỏ bất hạnh như chìm vào trong bóng tối của màn đêm ảm đạm.

Trong cái hoàn cảnh đó, Liên và An cũng không thoát ra được cái nghèo. Từ ngày bố mất việc rời Hà Nội về sống với mảnh đất nghèo khó này. Mẹ chúng lăn lộn với gánh hàng xáo, hai chị em trông coi cái cửa hàng tạp hóa bé xíu. Tuổi thơ của chúng cũng không được học hành tử tế, thậm chí đối với hai chị em bát phở của bác Siêu cũng trở thành những món quà vặt đầy xa xỉ.

Không gian tiêu điều của phố huyện càng được tô điểm bởi những hột sáng hắt ra từ ngọn đèn Hoa Kì vặn nhỏ của chị em Liên, của ánh đèn của chị Tí và bác Phở Siêu. Tưởng rằng những thứ ánh sáng ấy có thể khiến không gian sáng sủa hơn nhưng nó chỉ làm cho bóng đêm trở nên thăm thẳm hơn. Hình ảnh ngọn đèn con ở chõng tre của chị Tí đã trở thành những hình ảnh có sức gợi đặc biệt. Nó tô đậm sự nhỏ nhoi của những mảnh đời khiến tâm trạng người đọc trở nên u buồn day dứt.

Cái ngày tàn của phố huyện sẽ là những chuỗi ngày nối tiếp nhau dài bất tận, ngày mai, ngày kia và hôm nào cũng thế. Thế nhưng dường như sự nghèo đói không khiến ước mơ của con người bị dập tắt. Bởi con người nếu không có hi vọng sẽ không thể tồn tại được. Họ vẫn mong chờ vào một thứ gì thật tươi sáng mặc dù đó là những thứ rất mơ hồ. Hình ảnh những đứa trẻ ngóng chờ sự xuất hiện của đoàn tàu đêm càng khắc họa mảnh đời bất hạnh ở đó.

Sự đối lập giữa khung cảnh bên ngoài với sự nhộn nhịp của đoàn tàu càng khiến khung cảnh bên ngoài thêm đìu hiu. Họ chờ đợi để bán hàng dù chỉ đôi bao diêm gói thuốc thế nhưng nó mang đến giá trị tinh thần lớn lao. Đã là thứ khát vọng gửi gắm vào thứ ánh sáng phồn hoa kia dù nó rất mơ hồ. Khát vọng vì một ngày mai tươi sáng những mảnh đời bất hạnh sẽ không còn lầm than nữa. Đây chính là dụng ý nghệ thuật cũng là sự nhạy cảm về tâm hồn của Thạch Lam.

Có thể nói trong tác phẩm này Thạch Lam đã khắc họa thành công một buổi chợ tàn, một buổi chiều tàn và một cuộc đời tàn bên cạnh đó còn gửi gắm những khát vọng vì cuộc sống tươi sáng. Hình ảnh đoàn tàu mang ý nghĩa ẩn dụ lớn lao thể hiện giá trị tinh thần nhân đạo mà nhà văn gửi gắm vào tác phẩm của mình.

4. Bài văn mẫu 3: Cảm nghĩ của em về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ

“Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”.

(Nguyễn Đình Thi, Tiếng nói của văn nghệ)

Tác phẩm của Thạch Lam như những bài thơ trữ tình chứa đựng tâm hồn của người sáng tác, chứa đựng biết bao tình cảm yêu mến chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước những biến đổi của cảnh vật và lòng người. Một trong những tác phẩm hay như thế là truyện ngắn Hai đứa trẻ, câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ hay là câu chuyện về niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn?

Trước hết, chúng ta tìm hiểu chủ đề của câu chuyện. Chuyện kể về một phố huyện nghèo nàn vào một buổi chiều tối với những nhân vật như chị Tí, bà Lực, cụ Thi, bác Siêu… và nhân vật chính là chị em Liên và An. Từ đó câu chuyện thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía niềm xót thương của tác giả đối với những kiếp người cơ cực, quẩn quanh, tăm tối ở phố huyện nghèo trước Cách mạng. Đồng thời cũng biểu lộ sự trân trọng ước mong đổi đời tuy còn mơ hồ của họ.

Trước tiên, truyện ngắn Hai đứa trẻ là câu chuyện về một ngày tàn. Bức tranh đời sống ở phố huyện nghèo lúc chiều tối được bắt đầu bằng âm thanh của một “tiếng trống thu không” vang vọng như đang gọi: “Chiều, chiều rồi”. Đó là một tiếng kêu ngậm ngùi trước cảnh ngày tàn. Cảnh vật thiên nhiên trong ánh mặt trời đang lụi tàn “đỏ rực” như lửa đang cháy khiến cho những đám mây ánh hồng lên như “hòn than sắp tàn”. Tiếp đến là những luỹ tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Đó là một buổi chiều “êm ả như ru” trong những âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng” được “ngọn gió nhẹ hoang vu” mang theo vào phố huyện. Hoà vào đó là tiếng muỗi kêu vo ve thật gợi buồn. Phố huyện nghèo giờ đây chìm ngập trong bóng tối dày đặc, mênh mông, “tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối càng mênh mông dày đặc hơn khi tác giả điểm vào đó những điểm sáng “le lói, lập loè, yếu ớt” của đàn đom đóm, một “quầng sáng lờ mờ” của ngọn đèn hàng nước chị Tí, những “hột sáng” nhỏ nhoi lọt qua phên nứa nơi gian hàng của chị em Liên. Nỗi buồn của buổi chiều quê được thể hiện thấm thía qua tâm hồn của nhân vật Liên: “Đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thìa vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không hiểu vì sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất chân thật, vừa thấm đượm cảm xúc trữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương day dứt cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.

Ngày tàn nơi phố huyện cũng báo hiệu sự ngưng lại của những hoạt động chung trong cái xã hội thu nhỏ này. Phiên chợ tàn cũng gieo vào lòng người nhiều nỗi niềm xúc động. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu: “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện, ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, vỏ bưởi vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế cho nhà văn: “Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện đầy sức ám ảnh vì những màu sắc và hương vị như thế. Điều đó đủ thấy nhắc đến phố huyện là nhắc đến sự nghèo khó, lầm than, lam lũ. Chao ôi! Cái mùi quê hương buổi chợ tàn thân thiết quá nhưng cũng thật tội nghiệp, xót xa!

Trên cái nền thời gian và không gian đã tàn lụi là những cuộc đời tàn tạ, những kiếp người cũng đang âm thầm hoà mình vào bóng tối. Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Đó là “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này…”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Cảnh đêm tối càng làm cho phố huyện chìm dần trong cái mênh mông mờ mịt. Có chăng chỉ thỉnh thoảng có những “hột sáng” hắt ra từ ngọn đèn con của chị Tí, bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn Hoa Kì vặn nhỏ của chị em Liên. Những đốm lửa ấy chẳng làm cho đêm tối trở nên sáng sủa hơn mà ngược lại chỉ càng làm thêm mịt mù dày đặc. Hình ảnh ngọn đèn con nơi chõng hàng chị Tí trở đi trở lại tới bảy lần trong tác phẩm là một hình ảnh có sức gợi cảm rất nhiều về những kiếp người nhỏ nhoi mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời. Thạch Lam đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập để miêu tả bóng tối và ánh sáng. Nếu như bóng tối nuốt chửng tất cả phố huyện vào trong cái dạ dày tối thui của nó thì ánh sáng xuất hiện với tần số thấp. Đó chỉ là “hột sáng”, “khe ánh sáng”, “đốm sáng”, “vệt sáng”… tất cả đều hiện lên thật bé nhỏ tội nghiệp “mất đi rồi lại hiện ra trong đêm tối”. Và cùng với ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt đó là những phận người với cuộc sống bấp bênh, trôi nổi và lụi tàn, le lói như ngọn đèn trước gió. Nhịp sống ấy cứ lặp đi lặp lại một cách quẩn quanh, đơn điệu, buồn tẻ gây cho người đọc một tâm trạng u buồn day dứt. Đây là ý nghĩa cảm động và sâu sắc của thiên truyện. Bức tranh đời sống nơi phố huyện không chỉ là cuộc sống nghèo khổ của những người dân vì nếu giá trị của tác phẩm chỉ có vậy thì có nghĩa lí gì so với Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Chí Phèo của Nam Cao…? Cái hay của tác phẩm là ở chỗ nó đã diễn tả được nhịp sống nơi phố huyện. Cảnh ngày tàn, chợ tàn, và đời tàn nơi phố huyện tối nay sẽ giống như hôm qua và sẽ lặp lại trong ngày mai, ngày kia… Chiều nào cũng vậy, mẹ con chị Tí lại lễ mễ dọn hàng, bác Xẩm lại trải chiếu ra, bác Siêu lại quẩy hàng… để chờ đợi những người cũng bần hàn như họ. Và chị em Liên cũng vậy, tối nào hai chị em cũng ngồi lên chõng tre dưới gốc bàng để ngắm nhìn trời đêm và nhìn những người từ từ đi vào đêm. Mọi người chờ đợi những điều mà họ vẫn chờ đợi. Nhịp sống ấy vẫn lặp đi lặp lại, ngày này sang ngày khác, buồn tẻ, đơn điệu vô cùng.

“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu,

Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người”.

Cuối cùng, truyện ngắn Hai đứa trẻ là câu chuyện về niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong hoàn cảnh tàn tạ ấy, những đứa trẻ cũng ước mơ, cũng hi vọng nhưng chúng chỉ là những đứa trẻ còn thơ dại nên cũng chỉ biết ngóng đợi đoàn tàu đêm đêm vẫn đi qua nơi phố huyện của đời mình. Bởi âm thanh, hình ảnh, màu sắc, ánh sáng của con tàu khi vào ga đem đến cho phố huyện cả một không khí náo nhiệt, rạo rực. Tiếng còi gióng lên hối hả, tiếng các toa tàu dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng người đi lại ồn ào huyên háo. Trên những toa tàu, đèn điện sáng trưng: “Đồng và kền lấp lánh ở những ô cửa kính sáng”. Chuyến tàu ở Hà Nội về. Ở Hà Nội cũng có nghĩa là ở nơi phồn hoa đô hội. Con tàu ấy đã mang về phố huyện cả một thế giới hoa lệ, “con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Con tàu từ Hà Nội về, “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Con tàu ấy đã thức dậy trong Liên một trời kỉ niệm để Liên sống với tuổi thơ trong chốc lát, sống lại một thời “vàng son”nay chỉ còn vang bóng. Đó là cái thời thầy chưa mất việc, gia đình ở Hà Nội, mẹ có nhiều tiền, “chủ nhật được đi bờ hồ uống những cốc nước xanh đỏ”. Nghĩ đến ngày ấy là lòng hai đứa trẻ u hoài nuối tiếc. Nhưng tàu đến rồi tàu lại đi. Con tàu lao về phía trước mở ra một chân trời tương lai mà con tàu cuộc đời Liên không biết bao giờ mới đến được. Chị em Liên cứ đứng nhìn theo con tàu mãi không thôi. Con tàu chính là con thoi rực sáng lấp lánh những kỉ niệm từ quá vãng trở về hiện tại và khơi dậy một tương lai trong mắt người nhìn. Thạch Lam đã miêu tả rất tinh tế “những rung động cực điểm của những tâm hồn thơ dại”. Hai đứa trẻ đợi tàu với một niềm thiết tha mong chờ và những vui buồn phức tạp. Chỉ riêng điểm này đã cho thấy Thạch Lam yêu thương, đồng cảm như thế nào đối với trẻ em Việt Nam. Như vậy, đợi tàu là nhu cầu của đời sống tinh thần. Đợi tàu là một nhu cầu bức xúc để chốc lát thoát ra khỏi cuộc sống tù túng tẻ nhạt của hiện tại. Đợi tàu là để sống với một thế giới khác, khác hẳn cái thế giới buồn tẻ mà chúng đang phải sống. Thể hiện tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ, Thạch Lam với sự thức tỉnh ý thức cá nhân sâu sắc muốn bày tỏ lòng xót thương vô hạn đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh không bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc.

Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông phác hoạ bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của nó. Bức tranh làng quê mù xám với một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ. Ngòi bút của nhà văn thấm đẫm niềm cảm thương chân thành đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm nhưng vẫn toát lên niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ đó, ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó bằng bức thông điệp: Xin đừng để tắt ngọn lửa của lòng khao khát. Vì con người không còn khao khát đợi chờ gì nữa thì cũng có nghĩa cuộc đời đã hết. Và tất cả đều trở nên vô nghĩa. Phải biết ước mơ thì cuộc đời mới được chắp cánh bay cao bay xa hơn. Và đây cũng chính là “Tuyên ngôn văn học” của Thạch Lam trong bài giới thiệu tập truyện ngắn Gió đầu mùa xuất bản trước Cách mạng tháng Tám:

“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.

5. Bài văn mẫu 4: Cảm nghĩ của em về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ

Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả những gì dẹp nhất, trong sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi riêng. Dưới con mắt của ông, đời không chỉ có tình yêu mãnh liệt đến quên cả đất trời, quên cả mọi người mà còn có cả những nỗi đau. Ngòi bút Thạch Lam hòa cùng cuộc sống, lách vào sâu những ngõ ngách tâm hồn con người để từ đó chắt lọc ra cả một bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ) mà ở đó bóng tối đè nặng lên cuộc sống cùng cực, luẩn quẩn của con người.

Bức tranh đời sống huyện bắt đầu với cảnh nhá nhem tối và kết thúc với cành chờ tàu của chị em Liên và mọi người. Toàn bộ bức tranh là bóng tối, bóng tối lan tỏa, bao trùm lên cảnh vật, tạo nên bầu không khí nặng nề, u uất. Dường như cuộc sống ở đây chỉ có một màu đen xám xịt. Bóng tối ớ rặng tre, bóng tối ở góc quán, bóng tối ở ánh sáng lập lòe của đom đóm. Tất cả, tất cả đều chìm vào bóng tối. Cuộc sống con người nơi phố huyện vốn đã không sung túc gì lại bị màn đêm bao trùm, đè nặng lại càng trở nên côi cút, lẻ loi đến tội nghiệp. Đâu đó vài đứa trẻ nhặt nhạnh nơi góc chợ hoang vắng lúc vào đêm. Chị em Liên quanh quẩn cùng quán hàng xén vốn đã vắng khách. Hàng phở của bác Siêu lặng lẽ lăn bánh.. Những hình ảnh lẻ loi, đơn chiếc ấy cùng vài ánh sáng nhỏ nhoi không đủ để xua tan bóng tối dày đặc, lan tỏa đang dần đè lên cuộc sống của họ - những con người mà số lượng có thể đếm được trên đầu ngón tay “mấy chú”, “mấy người”. Bóng tối cùng người bạn đồng hành của mình là sự im lặng đã thống trị trên cõi người. Thời gian bỗng chốc trở nên im lặng, uất ức đến lạ kì. Không gian bị uất nghẹn của kiếp người. Bức tranh ấy gợi lên bao nỗi xót xa.

Nhưng Thạch Lam - người nghệ sĩ của tâm hồn ấy không dừng lại ở khắc họa bóng tối. Bóng tối đã đáng sợ nhưng cuộc sống quẩn quanh ở góc phố còn đáng sợ hơn. Họ ở đây chỉ toàn những người nghèo. Đó là gia đình chị em Liên do túng quẫn mà phải về phố huyện. Đó là bà cụ Thi hơi điên: là gia đình bác Xẩm; là gánh hàng chị Tí; là quán phở của bác Siêu... Những mảnh đời nghèo khó nơi phố huyện tụ họp lại không đủ để làm nên cuộc sống ồn ào. Cả một sự tẻ nhạt đến kinh khủng hiện ra. Chỉ qua một chi tiết nhỏ: chị em Liên không ngoái lại cùng biết tiếng cười khanh khách đằng sau là của bà cụ Thi, nhìn đốm sáng xanh lúc ẩn lúc hiện đằng xa cũng biết là gánh phở của bác Siêu. Dường như bao năm, bao tháng rồi họ chỉ một công việc lập đi lập lại đó. Một công việc nhàm chán, tẻ nhạt như chính cuộc đời của họ. Những sự việc ấy làm cho cuộc sống của họ thêm tù túng, ngột ngạt, không có lối thoát., không biết đi đâu. Đối với họ, tương lai dường như không có mà chỉ có thực tại u buồn, quẫn bách. Trước mắt họ, tương lai đã khép kín cánh cửa. Họ không hi vọng điều gì, không ngóng đợi ai. Hiện tại chỉ là những nghèo khó, cơ cực, tù túng cùng những công việc nhàm chán. Bức tranh ấy xoáy lên một nỗi đau trong tâm hồn độc giả, bật lên thành những tiếng kêu uất ức mà không có lời giải đáp.

Tất cả những hành động, sự việc và cuộc đời con người ở phố huyện nghèo đều lặp lại và nhàm chán. Duy chỉ có con tàu vẫn lặp đi lặp lại nhưng không nhàm chán. Con tàu là hiện thân của ước vọng, của tương lai đối với mọi người. Họ tìm đến với con tàu, chờ đợi nó không phải chỉ để buôn bán mà còn đón chờ một cái gì lạ lẫm đối với cuộc sống chung quanh vốn đã đơn điệu. Con tàu đó với tiếng máy gầm phá tan bầu không khí vốn đã u uất nặng nề, với ánh sáng chói lọi, rực rỡ xé toang màn đêm bao phủ rồi lại rơi vào tối tăm như cũ. Với chị em Liên, con tàu còn là hiện thân của quá khứ huy hoàng với cuộc sống sung túc ở Hà Nội, là chút gì mới mé ở hiện tại và cả niềm mơ ước ờ tương lai. Hình ảnh con tàu vụt qua đã làm giảm bớt sự bế tắc tù túng của một cuộc sống để lại ước mơ - một ước mơ hết sức tội nghiệp cho mỗi con người.

Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn đã xa rời thực tại, thi vị hóa cuộc sống thì Thạch Lam lại gắn chặt ngòi bút với đời sống, dù ông là thành viên chủ chốt của văn đàn ấy. Nếu đồng nghiệp của ông ca ngợi tình yêu khi say đắm, khi đau đớn, lúc xô bồ (Hồn bướm mơ tiên, Trăng sáng, Tình tuyệt vọng...) thì Thạch Lam lại đến với tình người. Văn chương Thạch Lam lay động đến cõi sâu thẳm nhất của tâm hồn con người và thức tỉnh họ bằng những nỗi đau. Với phong cách vừa lãng mạn, vừa hiện thực, ngòi bút Thạch Lam thực sự xuất sắc khi viết về cuộc sống con người nghèo khổ, cùng những nỗi đau âm thầm, nhẹ nhàng nhưng khi gấp sách lại ta không sao quên được. Không phải là những nụ cười đên thắt ruột, cười ra nước mắt của Nguyễn Công Hoan, không phải cái xót xa đến tận xương tủy như Nam Cao nhưng những trang văn nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng của Thạch Lam đã lột tả hết cuộc sống phố huyện và cũng là cuộc sống của xã hội Việt Nam tù túng, ngột ngạt đương thời, đem đến cho người đọc những tình cảm thương xót đầy tính nhân bản.

Dù chưa mạnh mẽ và nhất quán ở hành động như một số nhà văn giàu tính cách mạng, nhưng với quan niệm nghệ thuật sâu sắc và đúng đắn: Văn chương không phải là một cách để thoát li hay lãng quên, mà trái lại, văn chương "phải thực sự là thứ vũ khí thanh cao và đắc lực”, là tiếng kêu thương thoát ra những kiếp lầm than, khổ cực, Thạch Lam đã khác xa với những nhà văn lãng mạn cùng thời và bức phủ điêu quý giá ấy của ông nơi Hai đứa trẻ sẽ còn mãi xúc động đối với người đọc.

6. Cảm nghĩ của em về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ mẫu 5

Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: "Thạch Lam là một nhà văn yêu mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học". Nguyễn Tuân là nhà văn cùng thế hệ với Thạch Lam, cùng có chân trong Tự lực văn đoàn, Nguyễn Tuân đã khẳng định mình thẩm mĩ độc đáo và tình cảm nhân đạo đằm thắm trong những trang văn Thạch Lam.

Truyện của Thạch Lam không có chuyện, mỗi tác phẩm như một bài thơ văn xuôi, thấm đẫm chất trữ tình, man mác xót thương. Đó là loại truyện tâm tình nồng nàn ý vị. "Dưới bóng hoàng lan'', "Nhà mẹ Lê", "Cô hàng xén", "Hai đứa trẻ" ... là những truyện ngắn rất hay của Thạch Lam.

Truyện "Hai đứa trẻ" in trong tập "Nắng trong vườn", nhà xuất bản "Đời tay", Hà Nội, 1938. Truyện ngắn này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Thạch Lam, khai thác những mẫu đời thường mà nơi sâu kín tâm hồn của mảnh đời nào cũng chứa đầy bao nỗi xót xa, thương cảm.

Bối cảnh câu chuyện là một phố huyện nghèo nàn, xơ xác, có đường tàu đi qua, một ga xép, một cái chợ nhỏ bé nằm giữa thôn xóm và cánh đồng. Thời gian là một buổi chiều muộn và cảnh đầu hôm cho đến lúc chuyến tàu chạy qua. Có hai đứa trẻ ngồi trong một ngôi hàng xén nhỏ nhoi ngắm nhìn cảnh vật và cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua.

Chuyện mở ra một thời điểm là phố huyện lúc chiều xuống. Tiếng là phố huyện nhưng chỉ là một thị trấn nhỏ bé, nghèo nàn ở nước ta những năm đầu thế kỉ XX mà Tú Xương có nói đến: "Phố phường tiếp giáp với bờ sông" ... Cảnh một chiều hè muộn ở đồng quê. "phương Tây đỏ rực như trời cháy...", "Một chiều êm ả như ru" có tiếng trống thu không, tiếng ếch nhảy kêu ran ngoài đồng. Màn đêm dần dần buông xuống, tiếng muỗi kêu vo ve trong các cửa hàng hơi tối. Cảm xúc của nhà văn như tràn ra câu chữ, biểu lộ một tấm lòng sâu nặng gắn bó với quê hương. Bức tranh quê hiện lên dưới ngòi bút tinh tế của Thạch Lam trở nên gần gũi, thân thiết, bình dị mà nên thơ.

Nhưng "Hai đứa trẻ" không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà trước hết còn là bức tranh đời sống. Đó là bức tranh đời sống của phố huyện nghèo ngày xưa lúc chiếu tối và đêm xuống, được quan sát và cảm nhận qua tâm hồn ngây thơ nhạy cảm của hai đứa trẻ - hai chị em Liên và An.

Trước cái giờ khắc của ngày tàn, Liên ngồi yên lặng bên mấy quá thuốc sơn đen, cô thấy "lòng buồn man mác", đôi mắt "bóng tối ngập đầy dần" và cái buồn của buổi chiều quê thấm thìa vào tâm hồn ngây thơ của cô. Trời nhá nhem tối, các nhà đã lên đèn: "Đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dây sáng xanh trong hiệu khách...". Cát trên phố "lấp lánh từng chỗ", đường "mấp mô thêm" trong cảnh tranh sáng tranh tối. Chợ "vãn từ lâu" là một cảnh buồn và xơ xác của bức tranh đời sông phố huyện nghèo lúc buổi chiều tối. Không một tiếng ồn ào, vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, bã mía và rác rưởi còn lại trên đất. Vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ lom khom đi lại tìm tòi "nhặt thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại". Chúng đi lại chập chờn như những linh hồn bơ vơ. Thấy chúng nó, Liên động lòng thương nhưng chị cũng không có tiền mà cho chúng nó. Cái nghèo là cảnh đời chung cua mọi người, mọi nhà, và cái mùi ẩm ẩm bốc lên, mùi cát bụi lẫn hơi nóng mà Liên tưởng là "mùi riêng của đất, của quê hương". Đó chính là mùi vị của cái "Ao đời", của lầm than và nghèo khó.

Bóng tôi như phủ đầy thiên truyện, phủ mờ cảnh vật và đè nặng lên cuộc đời của những con người "bé nhỏ" nơi phố huyện nghèo xác xơ. Cửa hàng bé xíu phên nứa dán giấy nhật trình, chiếc chõng tre nơi chị em Liên ngập đầy bóng tối. Càng về đêm "đường phố và các ngõ con dán dần chứa đầy bóng tối". Con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Tiếng trống cầm canh, tiếng ếch nhái kêu ran từ đồng xa vọng đến tiếng động khẽ của hoa bằng rụng xuống vai Liên, tiếng đòn gánh kĩu kịt của người bán quà rong, tiếng cười "giòn giã" của bà cụ Thi... tất cả mọi âm thanh ấy "chìm ngay vào bóng tối". Phố huyện càng về đêm càng tịch mịch và đầy bóng tối.

Trong cảnh xác xơ, tiêu điều và ngập đầy bóng tối hiện lên những mảnh đời lầm lũi, đáng thương. Cuộc đời mẹ con chị Tí như gắn liền với màn đêm bóng tối. "Thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng và trong ngõ đi ra". Mẹ của nó, chị Tí đi theo sau "đội cái chõng trẽn đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc...". Ngày thì mò cua bắt tép, chiều nào cũng dọn hàng "từ chập tối cho đến đêm" mà "chả kiếm được bao nhiêu!". Hình ảnh hai mẹ con chị Tí đã làm ta nhớ đến cuộc đời hai mẹ con cái Hiên trong truyện "Gió lạnh đầu mùa" : mẹ thì mò cua bắt ốc, con thì áo rách phong phanh, đứng co ro trước làn gió lạnh... Thạch Lam đã dành cho những bà mẹ nghèo, những em bé nghèo khổ nhiều trắc ẩn, xót thương!

Hình ảnh bà cụ Thi hơi điên "tiếng cười khanh khách", tay cầm cút rượu soi lên rồi cười giòn giã, "vừa đi vừa ngửa cổ ra đằng sau", dốc cút rượu uống một hơi cạn sạch, chép miệng "lảo đảo" trong bóng tối... cũng gợi cho ta nhiều thương xót về một cuộc đời xế bóng nơi phố huyện nghèo.

Cảnh gia đình bác xẩm mới thê lương. Tiếng đàn bầu bần bật, ngồi trên manh chiếu, trước mắt là cái chậu thau sắt trắng, thằng con ngồi trên đất "nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường". Và bác bán phở rong trong đêm, một thứ quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được. Đòn gánh bác kêu "kĩu kịt", bóng bác "mênh mang ngã xuống được một vùng...". Tất cả góp phần vào cảnh đời đầy bóng tối nơi phố huyện nghèo nàn xơ xác, những kiếp sống lầm than, tàn tạ và cơ cực.

Có thể nói, hai chị em Liên là hình ảnh trung tâm của bức tranh đời sống của phố huyện nghèo. Cảnh nhà sa sút, bố Liên mất việc, cả nhà bỏ Hà Nội về quẽ, mẹ làm hàng xáo. Hai chị em được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, vách dán giấy nhật trình, bán lèo tèo vài bao diêm, dăm miếng xà phòng, một ít rượu. Liên là một cô gái mới lớn, biết làm dáng, cô hãnh diện với cái dây xà tích bạc ở thắt lưng. Từ ngày xa Hà Nội "một vùng sáng rực và lấp lánh, Hà Nội nhiều đèn quá". Liên quen dần với bóng tối nơi phố huyện nghèo. Ngọn đèn của Liên... "từng hột sáng lọt qua phên nứa", đèn hoa kì leo lét trong căn nhà ông Cửu, quầng sáng ngọn đèn "lay động trên chõng hàng chị Tí" chấm lụa nhỏ và vàng "lơ lửng" nơi gánh phở bác Siêu... từ đêm này qua đêm khác. Liên vẫn ngồi trên chõng ngắm nhìn. Càng về khuya, "tâm hồn Liên yên tĩnh ăn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu".

Đêm nào cũng vậy, An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt, nhưng vẫn cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua. Liên đón nhìn con tàu từ xa "ngọn lửa xanh biếc, nát mặt đất như ma trơi", tiếng còi tàu vang lại kéo dài ra theo gió xa xôi đoàn tàu đến gần, vụt qua "các toa đèn sáng trưng", rồi nó "đi vào đêm tối. để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt". Tàu đã chạy xa mà hai chị em Liên còn nhìn theo "cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng..."

Với nhiều man mác bâng khuâng. Chuyến tàu đêm như một niềm an ui, mội nỗi khao khát mơ hồ, một ước mơ không bao giờ tắt, một chút tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày. Chuyến tàu đêm "như đã đem một chút thế giới khác đi qua". Chờ tàu đến, nuối tiếc con tàu chạy qua. Rầm rộ lên chốc lát. lừng sáng lên khoảnh khắc, đế rồi sau đó, "tử phía ga, bóng đêm lồng với bóng người đi về". Chuyến tàu đêm đã thành một biến cố trọng đại nơi phố huyện nghèo: "Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một điều gi tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ".

Bức tranh đời sống phố huyện nghèo sau khi con tàu chạy vụt qua, đêm khuya dần càng trở nên yên tĩnh mênh mông. Chỉ có đêm khuya, "tiếng trống ấm canh và tiếng chó cắn". Chị Tí sửa soạn đồ đạc, bác xẩm đã ngủ gục trên mành chiếu. Liên chìm dần vào giấc ngủ yên tĩnh "tịch mịch và đầy bóng tối" như đêm yên tĩnh trong phố hụyện nghèo.

Cảnh phố huyện nghèo với những mảnh đời quanh quẩn và lầm than, nghèo khổ và tối tăm. Chị em Liên, mẹ con chị Tí, bà cụ Thi hơi điên, bác Siêu bán phở rong, vợ chồng bác xẩm héo hon, những phu gạo, phu xe ngồi hút thuốc ! Bấy nhiêu con người nhỏ bé đáng thương. Thạch Lam đã miêu tả cả phố huyện nghèo bằng những cảnh, những người, những chi tiết rất chân thật và cảm động. Ông đã dành cho con người quê hương, những con người nghèo khổ, tăm tối một sự cảm thông và xót thương nồng hậu. Cảnh phố huyện nghèo vừa hiện thực vừa chứa chan tinh thần nhân đạo. Trong "Thay lời bạn" - Tuyển tập Thạch Lam, Nhà xuất bản Văn học, năm 1988, nhà văn Nguyễn Tuân viết: "Truyện Hai đứa trẻ có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về dĩ vãng, đồng thời cũng đóng lên một cái gì còn ở trong tương lai... Nơi thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc "Hai đứa trẻ", thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái và sâu kín.

---------------------------------------------

Tài liệu tham khảo thêm:

Trên đây là một số bài văn mẫu hay nêu ý kiến về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ mà VnDoc.com sưu tầm được, mong rằng nội dung này sẽ có ích cho bài văn của em. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu bổ ích nhé.

Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 11 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 11 và biết cách soạn bài lớp 11 các bài Tác giả - Tác phẩm Ngữ Văn 11 trong sách Văn tập 1 và tập 2.

Đánh giá bài viết
1 10.292
Sắp xếp theo

    Văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức

    Xem thêm