Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
Nhằm giúp các bạn học sinh ôn thi tốt nghiệp THPT Quốc gia, VnDoc.com xin giới thiệu tài liệu bài văn mẫu lớp 12 "Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" - Thạch Lam". Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.
Phân tích bức tranh phố huyện lúc chiều tàn
I. Dàn ý phân tích bức tranh phố huyện nghèo
I. Mở bài: giới thiệu truyện ngắn và bức tranh phố huyện trong Hai đứa trẻ
Ví dụ: Thạch Lam là một nhà văn viết truyện ngắn đặc sắc, các tác phẩm của ông đi sâu vào những hình ảnh giản dị đời thường, những bức tranh cuộc sống chân thực. chính vì những yếu tố ấy mà các tác phẩm của ông luôn được nhiều người yêu mến và yêu thích. Một trong những tác phẩm đặc sắc của ông đó là truyện ngắn Hai đứa trẻ. Tác phẩm thể hiện cuộc sống tại một huyện nghèo và những niềm mong ước nhỏ nhoi của con người nơi đây.
II. Thân bài: Phân tích bức tranh phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
1. Phố huyện lúc chiều tàn:
Một bức họa đồng quê quen thuộc của những vùng quê Việt Nam
Những tiếng ếch nhái kêu
Tiếng muỗi vo ve
Tiếng trống thu không
Cảnh chiều tàn mang một nét đặc trưng của miền quê Việt Nam
2. Phố huyện vào đêm khuya
Bóng tối bao trùm cả khu phố, khiến khu phố tràn ngập bóng tối
Bóng tối như một ám ảnh đối với con người nơi đây
Sinh hoạt của con người chỉ bên ngọn đèn le lói, nhấp nháy
Sự sống trong phố huyện bế tắc
Niềm hi vọng vào ánh sáng của đoàn tàu
III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về bức tranh phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
Ví dụ: Truyện ngắn Hai đứa trẻ đã được thể hiện cuộc sống khắc khổ và khó khăn của những con người nơi phố huyện nghèo. Một hình ảnh nổi bật vào những năm tháng gian khổ và khó khăn. Đồng thời ta còn thấy được niềm tin, niềm yêu quê hương của tác giả được thể hiện qua truyện ngắn.
II. Phân tích bức tranh phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
1. Phân tích bức tranh phố huyện mẫu 1
Thạch Lam là một thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn, là con người có tính cách đôn hậu, điềm đạm và tinh tế thế nên các tác phẩm của ông cũng mang cái vẻ trong sáng, giản dị, thâm trầm và sâu sắc. Ông là nhà văn có biệt tài về truyện ngắn, với nội dung thường khai thác những vẻ đẹp của cuộc sống đời thường bình dị ở không gian phố huyện ven đô ngoại thành, vốn là không gian sống quen thuộc của nhà văn trong thời thơ ấu cơ cực, vất vả tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Những ngày tháng ấy đã trở thành dấu ấn không thể phai mờ, trở thành một không gian nghệ thuật thường xuyên trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của Thạch Lam. Hai đứa trẻ nằm trong tập truyện Nắng trong vườn (1938), là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất mang đầy đủ phong vị sáng tác truyện ngắn theo cách riêng biệt của Thạch Lam. Nội dung chính của tác phẩm là khung cảnh phố huyện và bức tranh tâm hồn của nhân vật Liên với những xúc cảm đặc biệt, sâu sắc nổi bật lên trên cái nền tàn tạ, tối tăm của phố huyện lúc chiều tàn và khi đêm xuống.
Truyện dường như chẳng có gì: hầu như không có cốt truyện, chẳng có xung đột gay cấn, chắng có gì đặc biệt cả. Hai đứa trẻ chỉ là một mảng đời thường bình lặng của một phố huyện nghèo từ lúc chiều xuống cho tới đêm khuya, với hương vị màu sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng trống thu không cất trên một chiếc chòi nhỏ, một ráng chiều ở phía chân trời, một mùi vị âm ẩm của đất, tiếng chó sủa, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve… những âm thanh của mấy người bé nhỏ, thưa thớt, một quán nước chè tươi, một gánh hàng phở, một cảnh vãn chợ chiều với vỏ nhãn, vỏ thị, rác rưởi và những đứa trẻ con nhà nghèo đang cúi lom khom tìm tòi, nhặt nhạnh, một đoàn tàu đêm lướt qua… và nỗi buồn mơ hồ với những khao khát đến tội nghiệp của Hai đứa trẻ.
Chuyện hầu như chỉ có thế. Nhưng những hình ảnh tầm thường ấy, qua tấm lòng nhân hậu, qua ngòi bút tinh tế, giàu chất thơ của Thạch Lam lại như có linh hồn, lung linh muôn màu sắc, có khả năng làm xao động đến chỗ thầm kín và nhạy cảm nhất của thế giới xúc cảm, có khả năng đánh thức và khơi gợi biết bao tình cảm xót thương, day dứt, dịu dàng, nhân ái.
Đó là truyện của Hai đứa trẻ nhưng cũng là truyện của cả một phố huyện nghèo với những con người bé nhỏ thưa thớt, tội nghiệp đang âm thầm đi vào đêm tối.
Ít có tác phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi trở lại… như một ám ảnh không dứt như trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam: tác phẩm mở đầu bằng những dấu hiệu của một “ngày tàn” và kết thúc bằng một “đêm tịch mịch đầy bóng tối”, ở trong đó, màu đen, bóng tối bao trùm và ngự trị tất cả: đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối, tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Một tiếng trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn, khô khan, không vang động ra xa, rồi cũng chìm ngay vào bóng tối…
Cả đoàn tàu từ Hà Nội mang ánh sáng lướt qua trong phút chốc rồi cũng “đi vào đêm tối”… Trong cái phông của một khung cảnh bóng tối dày đặc này, là những mảnh đời của những con người sống trong tăm tối. Họ là những con người bình thường, chỉ xuất hiện thoáng qua, hầu như chỉ như một cái bóng, từ hình ảnh mẹ con chị Tí với hàng nước tồi tàn đến một gia đình nhà xẩm sống lê la trên mặt đất, cho đến cả những con người không tên: một vài người bán hàng về muộn, những đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom nhặt nhạnh, tìm tòi…
Tất cả họ không được Thạch Lam miêu tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân, số phận… nhưng có lẽ nhờ thế mà số phận họ hiện lên càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp, ai cũng sống một cách âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ. Văn Thạch Lam là như thế: nhẹ về tả, thiên về gợi và biểu hiện đời sống bên trong: sống trong lặng lẽ, tăm tối nhưng giữa họ không thể thiếu vắng tình người. Qua những lời trao đổi và những cử chỉ thân mật giữa họ ta nhận ra được mối quan tâm, gắn bó. Và tất cả họ dường như đều hiền lành, nhân hậu qua ngọn bút nhân hậu của Thạch Lam.
Nhưng giữa bấy nhiêu con người, nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới tâm hồn của hai đứa trẻ: Liên và An. Chúng chưa phải là loại cùng đinh nhất của xã hội nhưng là tiêu biểu cho những con nhà lành, đang rơi vào cảnh nghèo đói, bế tắc vì sa sút, thất nghiệp.
Không phải ngẫu nhiên tác giả lấy Hai đứa trẻ để đặt tên cho truyện ngắn của mình. Hình ảnh tăm tối của phố huyện và những con người tăm tối không kém, sống ở đây hiện lên qua cái nhìn và tâm trạng của chị em Liên, đặc biệt là của Liên. Mở đầu tác phẩm ta bắt gặp hình ảnh Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị” và “chị thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của “ngày tàn””. Thạch Lam không miêu tả tỉ mỉ đời sống vật chất của họ, nhà văn chủ yếu đi sâu thể hiện thế giới tinh thần của Liên với nỗi buồn man mác, mơ hồ của một cô bé không còn hoàn toàn trẻ con, nhưng cũng chưa phải là người lớn. Tác giả gọi “chị” là vì quả Liên là một người chỉ biết quan tâm săn sóc em bằng tình cảm trìu mến, dịu dàng, biết đảm đang tảo tần thay mẹ nhưng tâm hồn Liên thì vẫn còn là tâm hồn trẻ dại với những khao khát hồn nhiên, thơ ngây, bình dị.
Ở đây, nhà văn đã nhập vào vai của “hai đứa trẻ”, thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ và diễn tả cái thế giới tâm hồn trong sáng của chị em Liên: hình ảnh bóng tối và bức tranh phố huyện mà ta đã nói trên kia được cảm nhận chủ yếu từ nỗi niềm khao khát của hai đứa trẻ. Tâm hồn trẻ vốn ưa quan sát, sợ bóng tối và khát khao ánh sáng. Bức tranh phố huyện hiện ra chính là qua tâm trạng này: “Hai chị em gượng nhẹ (trên chiếc chõng sắp gãy) ngồi yên nhìn ra phố…” Liên trông thấy “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi” nhưng “chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó…”. Trời nhá nhem tối, bây giờ chị em Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra… Hai chị em Liên đứng sững nhìn theo bà cụ Thi đi lẫn vào bóng tối… “Hai chị em đành ngồi yên trên chõng đưa mắt theo dõi những người về muộn từ từ đi trong đêm”… “Từ khi nhà Liên dọn về đây… đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố xung quanh”… Đêm tối đối với Liên “quen lắm, chị không sợ nó nữa”. “Không sợ nó nữa” nghĩa là đã từng sợ. Chỉ mất từ “không sợ nó nữa” mà gợi ra bao liên tưởng. Hẳn là Liên đã từng sợ cái bóng tối dày đặc đã từng bao vây những ngày đầu mới dọn về đây. Còn bây giờ Liên đã “quen lắm”. Sống mãi trong bóng tối rồi cũng thành quen, cũng như khổ mãi người ta cũng quen dần với nỗi khổ. Có một cái gì tội nghiệp, cam chịu qua hai từ “quen lắm” mà nhà văn dùng ở đây. Nhưng ngòi bút và tâm hồn của Thạch Lam không chỉ dừng ở đấy. Cam chịu nhưng cũng không hoàn toàn cam chịu, nhà văn đã đi sâu vào cái nỗi thèm khát ánh sánh trong chỗ sâu nhất của những tâm hồn trẻ dại. Ông dõi theo Liên và An ngước mắt lên nhìn vòm trời vạn ngôi sao lấp lánh để tìm sông Ngân hà và con vịt theo sau ông thần nông như trẻ thơ vẫn khao khát những điều kì diệu trong truyện cổ tích, nhưng vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật, lại quá xa lạ làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát, hai em lại cúi nhìn về mặt đất, và quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động của chị Tí… Nhà văn chăm chú theo dõi từ cử chỉ, ánh mắt của chúng và ghi nhận lại thế thôi. Nhưng chỉ cần thế, cũng đủ làm nao lòng người đọc.
Sống mãi trong bóng tối, “quen lắm” với bóng tối, nhưng càng như hế, chúng càng khát khao hướng về ánh sáng, chúng theo dõi, tìm kiếm, chỉ mong ánh sáng đến từ mọi phía: từ “ngàn sao lấp lánh trên trời”, đếm từng hột sáng lọt qua phên nứa, chúng mơ tưởng tới ánh sáng của quá khứ, của những kỉ niệm về “Hà Nội xa xăm”, “Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo” đã lùi xa tít tắp; chúng mải mê đón chờ đoàn tàu từ Hà Nội về với “các toa đèn sáng trưng”; chúng còn nhìn theo cả cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng xa xa mãi...
Đó là thế giới của ao ước, dù chỉ là một ao ước nhỏ nhoi, dù chỉ như là một ảo ảnh.
Không thấm đượm một tấm lòng nhân ái sâu xa, không hiểu lòng con trẻ, không có một tâm hồn nhạy cảm giàu chất thơ thì không thể diễn tả tinh tế đến thế nỗi thèm khát ánh sáng của những con người sống trong bóng tối.
Đọc Hai đứa trẻ, ta có cảm giác như nhà văn chẳng hư cấu sáng tạo gì. Mọi chi tiết giản dị như đời sống thực. Cuộc sống cứ hiện lên trang viết như nó vốn như vậy. Nhưng sức mạnh của ngòi bút Thạch Lam là ở đấy. Từ những chuyện đời thường vốn phẳng lặng, tẻ nhạt và đơn điệu, nhà văn đã phát hiện ra một đời sống đang vận động, có bề sâu, trong đó ánh sáng tồn tại bên cạnh bóng tối, cái đẹp đẽ nằm ngay trong cái bình thường, cái khao khát ước mơ trong cái nhẫn nhục cam chịu, cái xôn xao biến động trong cái bình lặng hàng ngày, cái tăm tối trước mắt và những kỷ niệm sáng tươi…
Nét độc đáo trong bút pháp Thạch Lam là ở chỗ: nhà văn đã sử dụng nghệ thuật tương phản một cách hầu như tự nhiên, không chút tô vẽ, cường điệu, và nhờ thế, bức tranh phố huyện trở nên phong phú, chân thật, gợi cảm.
Đọc Hai đứa trẻ ta bị ám ảnh day dứt không thôi trước đêm tối bao trùm phố huyện và xót xa thương cảm trước cuộc đời hiu quạnh cam chịu của những con người sống nơi đây. Nhưng Hai đứa trẻ cũng thu hút ta bởi cái hương vị man mác của đồng quê vào một “chiều mùa hạ êm như ru” và “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”… Nó làm sống lại cả một thời quá vãng, nó đánh thức tình cảm quê hương đậm đà, và làm giàu tâm hồn ta bởi những tình cảm “êm mát và sâu kín”.
2. Phân tích bức tranh phố huyện mẫu 2
"Tự lực văn đoàn" là nhóm bút phát triển mạnh mẽ trong thời kì văn học lãng mạn 1930 - 1945. Nhóm bút này có những cây viết rất độc đáo, sáng tạo và có tầm ảnh hưởng tới phần lớn các nam thanh, nữ tú thời bấy giờ. Bên cạnh những bài thơ được ví von như "ngôn tình thời xưa" được viết bởi nhà thơ Xuân Diệu, Chế Lan Viên... thì nhà văn Thạch Lam lại là một cái tên nổi bật trong làng truyện ngắn xuất thân từ nhóm bút này. Với những "Gió đầu mùa", "Nhà mẹ Lê"....đã khẳng định được vị trí của ông đối với nền văn học nước nhà. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông là truyện ngắn "Hai đứa trẻ". Trong tác phẩm đã khắc hoạ một cách chân thực, rõ nét nhưng cũng vô cùng lãng mạn cái khung cảnh buổi chiều tàn bên con phố huyện vắng vẻ, nổi bật lên là hình ảnh cô bé Liên với những dòng xúc cảm, hồi tưởng xốn xang đến nao lòng.
Gọi là truyện, thế nhưng truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam thường không mang tính kể hay có những diễn biến phức tạp. "Hai đứa trẻ" được viết như một chuyến du hành thời gian, có hiện tại, có quá khứ nhưng lại không có tình huống mở đầu hay thắt nút. Tác giả dường như muốn đặc tả không gian phố huyện nghèo có đường tàu chạy qua, nơi mà niềm vui của những đứa trẻ được gói gọn trong ngắm nhìn đoàn tàu đêm. Nhà văn sử dụng những chất liệu đời thường rất bình dị, miêu tả bức tranh phố huyện hiện lên với sự buồn bã từ con người đến cảnh vật, thêm vào đó là diễn biến tâm trạng của cô bé Liên khi chứng kiến khoảnh khắc lụi tàn của một ngày dài, điều đó đã mang đến cho người đọc những sự đồng cảm với những con người nơi đây.
Nhà văn Thạch Lam đã vẽ nên một bức tranh phố huyện vào thời khắc hoàng hôn, khi đã trải qua một ngày dài thì vạn vật đều mang một màu sắc ảm đạm thiếu sức sôngs. Bức tranh ấy mang cái vẻ buồn bã, não nề từ con người cho tới cảnh vật xung quanh. Ngày tàn, chợ vãn, những kiếp người cố gắng bám trụ vào mảnh đất nghèo ấy.... tất cả đã tạo nên một không khí nghèo khổ, heo hút cho nơi phố huyện. Khung cảnh ngày tàn ấy lại càng trở nên sinh động hơn với những âm thanh "tiếng trống thu không" báo hiệu kết thúc một ngày lao động từ "trên cái chòi huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều", "tiếng ếch nhái kêu ran" ngoài đồng ruộng và cả những "tiếng muỗi vo ve". Chiều tàn buông xuống đã làm phai mờ cảnh vật, màu chiều buồn báo hiệu cho một ngày đã trôi qua. Mặc dù rõ ràng là tả âm thanh, những thứ âm thanh dai dẳng, réo rắt nhưng người ta lại không cảm thấy được sự vui tươi, nhộn nhịp của con người sau một ngày dài lao động mà nó lại hiện lên sự não nề. Tiếng động vật, tiếng trống vẳng lại từ xa ấy cho ta cảm nhận được sự yên ắng, cô liêu của nơi phố huyện bởi chỉ vài âm thanh nhỏ bé ấy đã khuấy động được không gian nơi đây. Trên nền âm thanh ấy là những hình ảnh, màu sắc đượm buồn, "Phương Tây đỏ rực như lửa cháy", những đám mây "ánh hồng như hòn than sắp tàn". Màu của ráng chiều, màu cam, màu đỏ ối hòa quyện vào nhau, sắc hoàng hôn chỉ có thể nhìn ngắm khi sống ở vùng nông thôn. Và chỉ một lát nữa thôi, những màu sắc ấy sẽ bị thay thế bởi một màu đen thăm thẳm của màn đêm, bóng tối sẽ bủa vây và bao trùm lên tất cả. Dường như có những sự tiếc nuối, sự mong muốn níu giữ trong câu văn của tác giả. Những con người nơi phố huyện phải chăng là đang cố gắng cảm nhận, lắng nghe và ghi nhớ những khoảnh khắc cuối cùng của ngày tàn. Một bức tranh phong cảnh thiên nhiên quen thuộc ấy vậy mà sao lại buồn thương đến thế. Hoàng hôn đẹp đẽ, tráng lệ là vậy mà sao hiện lên lại thật ảm đạm, não nề".
Và trên cái nền không gian ảm đạm, não nề ấy hình ảnh con người hiện lên cũng mang những nét đượm buồn, ủ dột. Cảnh phiên chợ tàn cùng với sự xuất hiện của con người lại càng làm tăng thêm những sự xơ xác, đìu hiu của nơi phố huyện nghèo ấy. "Chợ đã vãn từ lâu", "chỉ còn một vài người bán hàng về muộn ở lại dọn hàng, họ trò chuyện vội vã với nhau vài câu", trên nền chợ chỉ còn lại rác rưởi, vỏ thị, vỏ bưởi,...". Con người ở đây xuất hiện tuy không lẻ loi, cô độc nhưng cái nghèo dường như đã ăn vào máu xương, vào cuộc sống của họ, "những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất, đi tìm tòi, nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay bất kì thứ gì còn sót lại". Những đứa trẻ nhà nghèo chỉ biết tìm những thứ người ta bỏ lại sau phiên chợ để có cái ăn, có đồ chơi.Những người dân ở nơi phố huyện này lần lượt được xây dựng với những tính cách đối lập, những hoàn cảnh khác nhau nhưng họ giống nhau bởi một chữ "nghèo". "Mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt ốc, đêm lại dọn hàng nước bán, dù chăm chỉ làm lụng nhưng vẫn không đủ sống", bà cụ Thí nghiện rượu lúc nào cũng say xỉn, cùng với tiếng cười khanh khách đầy ám ảnh, hai chị em Liên và An - những đứa trẻ còn nhỏ nhưng đã tự coi giữ một cửa hàng tạp hoá giúp mẹ. Rồi gánh phở nhà bác Siêu, một thức quà xa xỉ ở cái phố huyện quanh năm nghèo đói này, rồi gia đình bác Xẩm mù sống bằng nghề hát dạo qua ngày mong mỏi chút tấm lòng hảo tâm của những vị khách qua đường... Những số phận ấy, những con người tưởng chừng như đang ngày một lụi tàn, héo mòn nhưng vẫn ngày ngày bám víu, nương tựa vào mảnh đất này, cùng nhau tồn tại. Cuộc sống của họ mòn mỏi, lay lắt, sống dường như chỉ để qua ngày. Phải chăng cái nghèo, sự buồn chán đã rút hết đi sức sống của họ, hay chính cái hoàn cảnh éo le đã đưa đẩy họ về vùng đất này, để cùng cmar thông và chia sẻ với nhau.
Bức tranh phố huyện tạm bợ, nghèo đói nay lại càng trở nên ảm đạm, ủ dột hơn dưới con mắt của bé Liên. Là nhân vật trung tâm, điểm nhìn của tác giả cũng bắt nguồn từ nhân vật này. Cô bé đã cảm nhận được sự tiêu điều nơi phố huyện, cô xót thương cho những số phận bất hạnh, lận đận của mẹ con nhà chị Tí, cho bà cụ Thi, tiếc nuối cái quãng thời gian mà gia đình khá giả còn được sống nơi phố thị sung túc, đủ đầy. Tâm hồn nhạy cảm, từng trải và lối suy nghĩ già trước tuổi của mình, bé Liên đã cảm nhận được "mùi âm ẩm bốc lên trọn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc", sự ẩm mốc ấy lại trở thành một thứ gì đó quen thuộc trong cuộc sống. Đáng lẽ ra, trẻ con phải có được một cái nhìn ngây thơ, non nớt, lạc quan, yêu đời, thế nhưng với Liên, cô bé như cảm nhận cùng cảnh vật, có yên tĩnh, có buồn thương, có tiếc nuối, có buông bỏ. Dù trong hoàn cảnh cùng cực, cô bé vẫn nhận thấy được sự chăm chỉ, cần mẫn cố gắng, yêu thương nhau của mẹ con nhà chị Tí, vẫn "rót đầy một cút rượu ty" cho bà cụ Thi điên dở, động lòng thương cho những đứa trẻ đang nhặt rác nhưng đành ngậm ngùi quay đi bởi không có tiền cho chúng, và cũng không quên dành những tình cảm của một người chị cho đứa em - cậu bé An. Liên là nhân vật duy nhất trong tác phẩm được miêu tả có diễn biến cảm xúc, đồng thời nhà văn Thạch Lam cũng lấy điểm nhìn của bé Liên để miêu tả cảnh sắc buổi chiều của nơi phố huyện nghèo. Qua góc nhìn đó, những miêu tả vừa đảm bảo được tính cụ thể, chân thực lại có sự trữ tình, lãng mạn theo cảm nhận của một cô bé đang lớn.
Bức tranh phố huyện hiu hắt, buồn thương được Thạch Lam khắc họa bằng cả tài và tình, người đọc vừa có dịp được sống trong không khí của một phố huyện nghèo, vừa xót thương cho những số phận bất hạnh, tẻ nhạt nơi đây. Thế nhưng ẩn sâu trong những con người ấy vẫn là niềm tin, là sự cố gắng, tin vào bản chất tốt đẹp của con người và cùng mong chờ vào ánh sáng của cuộc đời sẽ soi chiếu cho họ. Cảnh sắc thiên nhiên đẹp nhưng buồn, sự quẩn quanh bế tắc của con người cũng đã đặt ra những nỗi niềm băn khoăn cho người đọc về một kiếp đời sống mòn, đồng thời thể hiện sự tôn trọng, cảm mến với những con người có ước mơ, có nghị lực. Giọng văn miêu tả độc đáo mà gần gũi đã làm nên cái chất của Thạch Lam, làm nên tên tuổi để đời của một thời kì văn học đỉnh cao của nước nhà.
3. Phân tích bức tranh phố huyện mẫu 3
Tác giả Thạch Lam là một thành viên của nhóm “Tự lực văn đoàn”, tuy nhiên ông lại mang một phong cách sáng tác riêng biệt, không thể lẫn lộn với bất cứ nhà văn nào. Lời văn của ông nhẹ nhàng mà sâu sắc, man mác và dìu dặt. Truyện “Hai đứa trẻ” là tiêu biểu cho những câu chuyện không có cốt truyện, mọi thứ được viết bằng chất liệu nhẹ mà sâu lắng. Truyện ngắn đã vẽ lên bức tranh khung cảnh phố huyện nghèo với những mảnh đời tăm tối, lầm lũi trong xã hội.
Sự nhẹ nhàng trong câu chuyện đã làm nên nét độc đáo trong văn của Thạch Lam, ông luôn khiến cho người đọc nhân ra sự tinh tế trong tâm hồn và trong những câu văn. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống của hai chị em Liên và An tại phố huyện nghèo với những công việc nhàn nhạt lặp đi lặp lại hàng ngày. Qua cuộc sống của hai chị em cũng như một số nhân vật khác, tác giả muốn gửi gắm tới người đọc về hoàn cảnh, cuộc sống và những khó khăn mà họ đã trải qua. Khung cảnh phố huyện nghèo hiện lên ở những câu văn đầu tiên “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ, từng tiếng một vang xa đê gọi buổi chiều…”.
Một buổi chiều tàn, cả cảnh vật và con người đang đắm chìm vào cái buồn man mác của nắng chiều. Khác với những cảnh chiều tàn quen thuộc trong văn học, không có hình ảnh cánh chim bay về tổ hay sự sum vầy đoàn viên, nhưng cảnh chiều vẫn nhuốm thẫm màu buồn. Đó là một phố huyện nghèo nàn, khung cảnh buổi chiều tà trên chợ tàn đã thể hiện rõ điều đó: “Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng ban ngày lẫn với cát bụi quen thuộc quá khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Chỉ bằng vài câu văn, toàn bộ khung cảnh của một khu phố nghèo lúc ngày tàn đã hiện lên trước mắt người đọc với sự héo úa, tiêu điều, hiu quạnh và ô nhiễm.
Tác giả vẽ nên khung cảnh ấy làm cho người đọc liên tưởng tới chính hiện thực xã hội bấy giờ của miền Bắc nước ta, mọi thứ từ cảnh vật dến con người dường như đều không còn sự sống, chông chênh và mờ nhạt, hằn rõ sự nghèo đói. Khu phố huyện nghèo ấy là một không gian vắng lặng và đìu hiu, bóng tối bom trùm khắp các con ngõ, khắp cảnh vật và cả con người. Bóng tối xuất phát từ nhiều thứ, từ đám mây sắp tàn, rặng tre đen kịt, tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve trong góc nhà,…Bóng tối thật đáng sợ, nó len lỏi và bao trùm lên mọi thứ, cũng giống như số phận và cuộc đời tăm tối của những người dân nơi đây.
Trong cái u ám ấy xuất hiện bóng dáng những đứa trẻ “Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất lại tìm tòi…nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được. Liên động lòng nhưng chính chị cũng không có tiền cho chúng”. Bức tranh ấy thật ẩm đạm, éo le và vô cùng chân thực, sự xuất hiện của những con người nghèo khổ đã làm nhân đôi thêm vẻ nghèo và cái khốn khó của mảnh đất nơi đây. Trong phố huyện ấy có nhiều số phận khác nhau, mỗi người được miêu tả với gương mặt và cuộc sống riêng.
Chị Tí mò cua bắt tép cả ngày tối đến vẫn cố mở hàng nước dù “chẳng kiếm được bao nhiêu”, bác phở Siêu cả buổi chẳng bán được đồng nào, hay chính hai chị em Liên đang bán hàng giúp mẹ trong gian hàng nhỏ thuê lại của người khác. Tất cả họ đều đang chung số phận nghèo đói, họ lẳng lặng, cần cù và lặng nhìn theo cái đói nhưng không làm gì được. Kiếp người khổ cực ấy còn được thể hiện rõ hơn ở bà cụ Thi điên, uống rượu say rồi cười khanh khách, lảo đảo đi, khiến người đọc thấm thía và xót xa những kiếp người sống trong uất ức, bức ép, sống dật dờ. Tất cả họ đều mong ngóng và chờ đợi một cái gì đó tươi sáng hơn, mong một chuyến tàu từ Hà Nội về sẽ mang theo sự huyên náo, ồn ào và tấp nập hơn nữa. Chuyến tàu có lẽ chính là ánh sáng của niềm tin, là khát vọng được vươn ra ánh sáng và cuộc đời tốt đẹp hơn của những con người tại nơi phố huyện nghèo này.
“Hai đứa trẻ” tuy không phải truyện lên án sâu sắc tới những vấn đề trong xã hội, nhưng chính sự nhẹ nhàng, không gân guốc ấy lại khiến cho người đọc thấy ám ảnh về những mảnh đời và mảnh đất sống trong nghèo nàn, khổ cực, lầm than trong những năm đất nước ta còn chìm trong bom đạn.
Mời bạn đọc cùng tải về bản PDF để xem đầy đủ nội dung nhé
- Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Phân tích hình ảnh chuyến tàu đêm chạy qua phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Tóm tắt tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam