Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung

Văn mẫu: Phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 12 hay dành cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 12 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

Phân tích tác phẩm Cảm hoài mẫu 1

Đặng Dung là danh tướng đời Hậu Trần, theo Trần Trùng Quang chống giặc Minh, lập được nhiều chiến công rất oanh liệt, về sau ông bị giặc bắt, giải về Trung Quốc, dọc đường ông nhảy xuống sông tự tử. Ông chỉ để lại một bài thơ duy nhất, bài "Cảm hoài ” được coi là bài thơ bi hùng nhất trong nền văn thơ cổ điển Việt Nam đầu thế kỉ XV, Nguyễn tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật:

“Thế sự du du nại lão hà,

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.

Thời lai đồ điếu thành công dị,

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.

Trí chủ hữu hoài phù địa trục,

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma”

Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy vong. Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần lập ra triều đại mới. Nhưng chẳng bao lâu sau, nhà Minh đem quân sang xâm lược nước ta: “Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ – Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh” (Bình Ngô đại cáo). Nước ta bị quân giặc chiếm đóng, thành Thăng Long bị chúng đổi thành Đông Quan. Dân tộc ta chìm trong đau thương tang tóc.

Cha con Hồ Quý Ly bị giặc Minh bắt đưa về Trung Quốc. Một bộ phận quý tộc nhà Trần tổ chức kháng chiến, tiêu biểu là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng. Nhưng đại sự không thành, nhiều anh hùng bị giặc bắt, bị giặc giết, trong đó có Đặng Dung. Bài thơ “Cảm hoài" được Đặng Dung viết trong những năm tháng cầm quân đánh giặc, cứu nước. Bài thơ là tiếng nói, là nỗi lòng của một thế hệ anh hùng cay đắng trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, quyết chiến đấu phục thù rửa hận.

Hai câu đầu phản ánh "thế sự" nước ta vào những năm 1407, 1408, 1409… khi quân "cuồng Minh" như sóng dữ ngập tràn non sông Đại Việt. Như một tiếng than khi đứng nhìn thời cuộc: “Việc đời thì dằng dặc mà tu đã già rồi, biết làm thế nào… Đúng là lòng dạ bối rối. Và đó là bi kịch của người anh hùng:

“Thế Sự du du nại lão hà,

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca”

(Việc đời bối rối tuổi già vay,

Trời đất vô cùng một cuộc say).

Nói rằng “thiên địa nhập hàm ca ” là biểu lộ một thái độ về sự đảo điên trong cuộc đời. Câu 1 và câu 2 tương phản về mặt ý nghĩa đã nói lên “nỗi lòng” cảm hoài của nhà thơ.

Hai câu trong phần “thực” đối nhau, nêu bật “gặp thời” và “thất thế” đối với người anh hùng. Như một chiêm nghiệm lịch sử đầy cay đắng:

Thời lai đồ điếu thành công dị,

Vận khứ anh hùng ẩm hận da

Đồ điếu: là đồ tể, người làm nghề mổ thịt; điếu: câu cá. Gặp thời, những kẻ “đồ điếu”, bần tiện cũng dễ dàng làm nên công trạng, sự nghiệp lớn. Câu thơ gợi nhớ đến những nhân vật như Phàn Khoái, bán thịt chó, Hàn Tín, câu cá, về sau giúp Lưu Bang mà làm nên sự nghiệp lớn. Trái lại, nhiều anh hùng thất thế (vận khứ) phải nếm, phải uống nhiều hận (ẩm hận đa). Lịch sử từ bao đời nay đã cho ta thấy rõ điều nhà thơ cảm hoài. Trong câu thơ như có nhiều lệ. Đây là lời thơ dịch khá hay của Phan Kế Bính:

“Bần tiện gặp thời, nên cũng dễ,

Anh hùng lỡ bước, ngẫm càng cay”.

Bảy trăm năm đã trôi qua, biết bao vật đổi sao dời, “phế, hưng mấy lớp” mà ba chữ “ẩm hận đa” vẫn làm nhức nhối lòng người. Đó là nỗi cảm hoài vậy. Đó là nỗi cay đắng của người anh hùng thất thế, lỡ bước.

Phần “luận” nói lên chí lớn của người anh hùng. Hình tượng thơ kì vĩ, tráng lệ:

“Trí chủ hữu hoài phù địa trục,

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà”.

Trên đường mưu đồ nghiệp lớn, cha bị Trần Ngỗi giết oan, ông đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, vẫn dãi gió dầm sương, xông pha trận mạc, để phò chúa, cứu nước, mong đem lại thái bình cho dân tộc. "Phù địa trục” (nâng trục đất), “vãn thiên hà” (lôi sông Ngân hà xuống) là hai hình ảnh kì vĩ, mang kích thước và tầm vóc vũ trụ, nói lên chí khí và khát vọng anh hùng trong thời loạn. Hai câu thơ hô ứng, đối chọi nhau, tạo nên giọng điệu anh hùng ca đầy ấn tượng. Câu thơ dịch khá hay, lột tả được ý vị cổ điển, trang trọng của vần thơ tráng lệ:

"Vai khiêng trái đất mong phò chúa,

Giáp gột sông trời khó vạch mây”

Hình ảnh người anh hùng mài gươm dưới ánh trăng đã "mấy độ”, trải qua nhiều năm tháng, mái tóc nay đã bạc, gợi lên màu sắc bi tráng. Trăng đã tà. Tuổi đã già. Thế mà "quốc thù” vẫn đè nặng tâm hồn nhà thơ:

“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma”

“Long tuyền” là gươm báu, thanh gươm để giết giặc, trả mối thù nước, đem lại thái bình cho đất nước và nhân dân. Đây là hai câu thơ đẹp nhất trong thơ văn Lý Trần, chói sáng "Hào khí Đông-A”. Đúng như Lý Tử Tấn, một danh sĩ đầu thời Lê đã viết: "Phi hào kiệt chi sĩ bất năng”. (không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể làm nổi).

Không thể lấy sự thành, bại để luận anh hùng. Đặng Dung là một anh hùng hào kiệt. Bài thơ thấm đượm một tình yêu nước, nhức nhối nỗi đau của người anh hùng lỡ bước. Cốt cách thi sĩ lồng trong cốt cách anh hùng. Đó là tư thế hiên ngang lẫm liệt, cho đến chết vẫn mang nặng mối thù nước không nguôi.

Đặng Dung đã “ẩm hận đa”, sự nghiệp “quốc thờ vị báo” không thực hiện được. Nhưng khí phách lẫm liệt, lòng yêu nước thiết tha của người anh hùng mãi mãi trường tồn cùng sông núi Đại Việt. Bài thơ “Cảm hoài” cùng với tên tuổi Đặng Dung mãi mãi là bài ca yêu nước chống xâm lăng:

“Thù trả chưa xong, đầu đã bạc,

Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày!”

Đó là “di hận” của người anh hùng vận khứ – lỡ vận. Nửa thế kỷ sau Nguyễn Trãi trong bài thơ "Quan hải” cũng nói về mối "di hận” ấy. Đó là nỗi đau muôn thuở:

“Họa phúc hữu môi phi nhất nhật,

Anh hùng di hận kỉ thiên niên

(Hoạ phúc có manh mối, đâu phải một ngày,

Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau).

“Cảm hoài ” là bài ca yêu nước bi tráng, là tiếng vọng sông núi nghìn năm.

Phân tích tác phẩm Cảm hoài mẫu 2

Tự hào hai tiếng thiêng liêng – Việt Nam, nước Việt ta có bề dày lịch sử lâu dài trong suốt bao nhiêu năm dựng nước và giữ nước. Cứ khi có chiến tranh xảy ra thì dân tộc ta lại đoàn kết chống lại kẻ thù. Nếu như đã có một thời hào khí Đông A như vang vọng thì nguồn hào khí đó đã khiến cho Đặng Dung lấy cảm hứng viết ra tác phẩm đặc sắc “Cảm hoài”.

Đặng Dung là một vị tướng tài ba, có tài văn chương nhưng nhắc đến thơ thì dường như toàn bộ bức chân dung của con người ông dường như đã lột tả được một cách vô cùng sâu sắc. Bài thơ “Cảm hoài” cũng thể hiện khát vọng được cống hiến tài năng, sức lực cho dân, khát vọng được dân hiến cho đất nước của mình cho dù là tuổi đã cao.

Thế sự du du nại lão hà

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

Dịch:

Việc đời man mác, tuổi già thôi

Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi

Đây chính là một con người luôn có ý thức trước trách nhiệm với đất nước, với dân tộc nên lúc nào tác giả Đặng Dung cũng mang trong mình khát khao được cống hiến. Ở ông luôn luôn khao của nhà thơ gặp những giới hạn nhất định chính là một giới hạn về tuổi tác

Thế sự du du nại lão hà

Thế rồi chính việc đời dù còn mênh mông, có biết bao nhiêu việc cần cống hiến cần dốc sức hoàn thành, thế nhưng chính bản thân mình dù mang những khát vọng, hoài bão có được dâng hiến nhưng mình đã biết được mình làm sao. Câu hỏi đó thì nhà thơ cũng đã tự vấn với chính mình và luôn luôn day dứt đối với tuổi già của chính mình.

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

Câu thơ này ý muốn nói cuộc đời rộng lớn vô cùng, đành thu cả vào cuộc say ca. Khi đứng trước những khát khao lớn thế nhưng vì bất lực trước tuổi già nên nhà thơ chỉ có thể tự thu mình vào những cuộc say ca. Giống như để tìm đến một thú vui mà tạm quên đi những nỗi khắc khoải trong lòng. Chính vì thế mà sự cố gắng ấy trở nên vô ích, chính bởi Đặng Dung chính là một người trách nhiệm cho dù có tự quên đi hay cố tình làm cho quên nỗi buồn trong lòng của ông dường như cũng cứ thật day dứt và tự vấn:

Thời lai đồ điếu thành công dị

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa

(Gặp gỡ thời cơ may những kẻ

Tan tành sự thế luống cay ai)

Có thể nhận thấy được ở trong hai câu thơ này, nhà thơ Đặng Dung dường như cũng đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thời cơ và sự tiếc nuối khi vận số đã hết. Tất cả những vấn đề nhà thơ nêu ra có liên quan đến tư tưởng định mệnh trong Nho giáo, nhà thơ cũng đã cho rằng khi thời cơ đến thì ngay cả những kẻ tầm thường nhất như người bán thịt, bán cá thì cũng sẽ dễ dàng đạt được những thành công nhất định. Thực sự đó cũng chính là yếu tố thời cơ, bởi nếu thời cơ không đến thì dù tài giỏi đến đâu hay anh hùng như thế nào đi nữa thì cũng khó có thể làm nên việc lớn. Chính bởi không có hoàn cảnh cụ thể, mục tiêu cụ thể để thể hiện tài năng. Thế nhưng chính vì ngược lại, nhà thơ cũng nêu ra sự bi đát, thất vọng của những bậc anh hùng dù mang trong mình những chí khí lớn nhưng cũng không thành công vì đã hết thời, đành nuốt hận. Thế rồi ở đây ta có thể thấy hình ảnh của chính Đặng Dung trong câu thơ này, nhà thơ tự chế giễu, mỉa mai mình đã hết vận số, dù có mong mỏi nhưng cũng không thể làm gì để có thể cống hiến cho dân, cho nước.

Trí chủ hữu hoài phù địa trục

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà

Dịch

(Phò vua bụng những mong xoay đất

Gột giáp sông kia khó vạch trời)

Thế rồi chính những câu thơ này nhà thơ Đặng Dung lại thể hiện khát vọng lớn trong suốt cuộc đời mình. Thực sự đó cũng chính là dốc lòng giúp đỡ vua chúa, những mong làm nên được nghiệp lớn, rồi như chống đỡ được trục quả đất “Trí chủ hữu hoài phù đại trục”. Thông qua đây ta cũng có thể thấy những khát vọng của nhà thơ thật đẹp, thật vĩ đại. Tác giả Đặng Dung là con người có tài năng lại có chí. Tác giả như không hề mang các thế mạnh ấy để có thể mưu nghiệp cho bản thân và trung thành với nhà vua. Chính với khát vọng ấy được thể hiện ngay trong câu thơ sâu sắc “Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà” tức nhà thơ muốn rửa sạch giáp binh nhưng lại chẳng có cách nào kéo sông Ngân xuống. Việc rửa sạch giáp binh là gột sạch những những đau thương, chết chóc còn in hẳn trên đó, nó là máu, là sự hi sinh. Có bao giờ con người không còn phải đối mặt với chiến tranh thì cuộc sống mới bình yên và hạnh phúc. Chính với cái khát khao đến một cuộc sống không còn binh lửa, chết chóc ấy nhưng nhà thơ cũng thể hiện sự bất lực khi không thể kéo sông Ngân xuống.

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch

Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma

Dịch

(Đầu bạc giang san thù chưa trả

Long tuyền mấy độ bóng trăng soi)

Đọc đến hai thơ cuối cùng, nhà thơ Đặng Dung dường như cũng đã lại trở về với nỗi trăn trở, buồn bã của bản thâ. Thực sự đó cũng chính là sự mâu thuẫn giữa khát vọng được dâng hiến với giới hạn của đời người. Nhà thơ Đặc Dung cũng sẽ nhận thấy mối thù chung của dân tộc vẫn còn đó nhưng đầu cũng đã bạc đó là “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch”. Thêm với đó chính sự khát khao của nhà thơ trong việc dâng hiến còn thể hiện ở hành động đầy quyết tâm bằng câu “Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”. Câu thơ có ý nghĩa cũng đã bao phen đội trăng để mài gươm báu Long Tuyền.

Tóm lại bài thơ “Cảm hoài” dường như cũng chính là sự bộc lộ nỗi niềm, tâm sự của một con người nhập thế, luôn luôn hết lòng với dân tộc, với đất nước. Nhà thơ Đặng Dung cũng đã nguyện đem hết tài trí, sức lực hiến dâng cho sự nghiệp lớn, tiêu diệt quân thù đồng thời cũng mong muốn báo đền nợ nước. Bài thơ có âm hưởng bi tráng, triết lí sâu sắc ẩn chứa trong đó nỗi uất hận ngút trời, chí lớn khôn nguôi, tấm lòng vằng vặc. Bài thơ “Cảm hoài” được biết đến không chỉ là bức chân dung về con người cũng như khí phách của Đặng Dung mà còn là tác phẩm tiêu biểu cho hào khí Đông A một thời.

Phân tích tác phẩm Cảm hoài mẫu 3

Nói đến thơ văn Lí – Trần, ta phải nói đến nội dung chủ đạo của nó là chủ nghĩa yêu nước. Nội dung này đã bao trùm văn học suốt năm thế kỉ và trở thành chủ đề lớn nhất, nguồn cảm hứng trữ tình lớn nhất. Bên cạnh rất nhiều tác phẩm nổi tiếng về chủ đề yêu nước, ta phải nhớ đến Đặng Dung với một bài thơ duy nhất nhưng đã làm rung động tâm hồn độc giả bao thế kỉ, đó là bài Cảm hoài.

Bài thơ bộc lộ nỗi lòng của tác giả. Nỗi lòng ấy là nỗi lòng của một con người yêu nước, lo đời, muốn giúp nước mà không gặp thời vận để thoả sức vẫy vùng thực hiện chí lớn. Chính vì vậy bài thơ thấm đượm cảm xúc trữ tình bi tráng tự ngay hai câu thơ đầu:

Thế sự du du nại lão hà,

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

Thấm trong từng ý từng lời của câu thơ là nỗi buồn về cuộc đời của tác giả: “Việc đời dằng dặc mà ta già rồi, biết làm sao đây”. Câu thơ như một lời than, một câu hỏi đầy xót xa, cay đắng. Thời gian đã không ủng hộ nhà thơ. Ông đã già rồi vậy mà việc đời, việc nước cứ đằng đẵng trôi đi. Chẳng chờ đợi ai. Tuổi già đã làm ông bất lực trước thế sự, có lẽ chính nỗi buồn đó đã đưa tác giả vào những cuộc rượu hát nghêu ngao. Nhưng mà nhà thơ làm như vậy không phải để lãng quên tất cả và càng không phải muốn mặc sự đời. Ông vào các cuộc rượu hát chẳng qua vì ông quá uất hận khi thấy mình bất lực, không giúp gì được cho đời. Hơn nữa, lời ca của ông không mang cái tầm thường mà trong đó có cả cái mênh mông vô tận của trời đất. Điều đó cho chúng ta thấy được chí lớn lao của tác giả. Từ nỗi buồn đau của chính mình, nhà thơ đã rút ra một triết lí nhận xét về sự thành bại trong cuộc đời:

Thời lai đồ điêu thành công dị

Vận khứ anh hừng ẩm hận đa

Lời thơ đầy tràn nỗi đắng cay, uất hận. “Đã gặp thời thì anh hàng thịt, người câu cá cũng dễ làm nên công lớn. Chứ vận đã hết thì anh hùng cũng chỉ uống nhiều hận mà thôi”! Một triết lí thật đau xót nhưng có lẽ nó vẫn đúng đến đời sau. Và ở đây, chính tác giả là người anh hùng lỡ vận ấy: người anh hùng đã không may mắn gặp thời vận để có cơ hội mang sức mạnh, tài trí của mình ra cứu nước, giúp đời, nay thời vận đã qua, tuổi già cũng vừa đến, người anh hùng (tác giả) chỉ còn biết nuốt hận, bó tay trước thời cuộc mà thôi. Đặng Dung có những ước mong thật lớn lao:

Trí chủ hữu hoài phù địa trục

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà

Người ôm mộng lớn đã “những muốn giúp chúa nâng trục trái đất, muốn rửa giáp binh nhưng không có lối để kéo tuột sông ngân hà xuống”. Hình ảnh thơ kì vĩ làm sao. Tác giả mong muốn được mang sức mình xoay chuyển thời thế, giúp chúa đánh giặc góp phần đem lại nền thái bình cho nhân dân, đất nước, ước mong lập công ấy thật cao quý và nó cũng là mục đích của những người nam nhi thời bấy giờ. Lập công chính là làm nên sự nghiệp lớn với đời, giúp ích cho đất nước. Có như vậy, người nam tử mới được lưu danh sử sách, ước muốn lập nên sự nghiệp lớn, có dược công danh là khao khát muôn đời của biết bao nam nhi. Biết bao lời thơ đà bày tỏ khát vọng đó. Ca dao đã có câu:

Làm trai cho đáng nên trai

Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên

Người anh hùng Phạm Ngũ Lào trong bài thơ “Thuật hoài” cùng đã viết:

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu

Như bao người nam nhi, Đặng Dung cũng có những khát vọng lớn lao muốn cứu nước nhưng ông đã không thể thực hiện được:

Quốc thừ vị báo đầu tiên bạch

Kỉ độ long tuyền đái nguyệt ma

Câu thơ là nỗi xót xa vô tận của nhà thơ vì lực bất tòng tâm, sự nghiệp lớn mà sức không làm nổi. Ông buồn vì “thù nước chưa báo xong mà đầu tóc đã sớm bạc”. Ông dường như cảm thấy mình có lỗi vì chưa trả xong nợ công danh mà sự nghiệp cứu nước cũng lỡ dở, ông như trách mình vì đã không làm tròn sứ mệnh của một người nam nhi đối với đất nước đang bị lâm nguy. Có được tấm lòng như vậy đã là quý lắm rồi, tuy lực bất tòng tâm mà người anh hùng vẫn không chịu bó tay thì điều ấy còn đáng khâm phục hơn rất nhiều. Chí khí của người anh hùng muốn chống lại quy luật khắc nghiệt của tạo hoá. Ông không bi luỵ trước hoàn cảnh mà vẫn nuôi hùng tâm tráng chí, vẫn có khát vọng thực hiện ý nguyện diệt thù cứu nước. Câu thơ cuối đã khắc hoạ nên hình ảnh đẹp đẽ biết bao. Người anh hùng bao đêm không ngủ, mài gươm dưới bóng nguyệt. Người anh hùng ấy vẫn luôn trăn trở nghĩ về việc nước dù đã bạc mái đầu. Hình ảnh con người ấy lồng lộng giữa trời khuya bao la dưới ánh trăng vằng vặc. Thanh gươm báu hay chí khí lớn lao của con người ngày càng được tôi luyện sắc bén hơn, vững vàng hơn. Hình ảnh người anh hùng xiết bao cao đẹp ấy sẽ khắc sâu vào tâm hồn những người đả đọc bài thơ Cảm hoài.

Về bài thơ này, Lí Tử Tấn đã nhận xét: “Phi hào kiệt chi sĩ bất năng” (không phải kẻ sĩ hào kiệt thì không làm nổi). Với giọng điệu bi tráng, bài thơ đã bày tỏ tấm lòng cao quý của tác giả với đất nước và cũng chỉ con người anh hung như vậy mới thà nhảy xuống sông tự vẫn chứ không chịu đầu hàng giặc Minh xâm lược. Con người ấy hùng vĩ biết bao, cao đẹp biết bao dù đang lâm cảnh mạt vận, thất thế.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 12

    Xem thêm