Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung

Văn mẫu: Phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 12 hay dành cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 12 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

Dàn ý phân tích Cảm Hoài

1. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Đặng Dung, bài thơ Cảm hoài.

2. Thân bài

a. Bốn câu đầu

- Hình ảnh: thế sự ngổn ngang, đất trời, đồ điếu công thành dễ, anh dùng hận xót xa.

=> Hình ảnh gợi ra tình thế của nhân vật trữ tình: đã có tuổi, đất nước thì loạn lạc

- Cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật trữ tình khi đối diện với hoàn cảnh tình thế đó:

  • Rối bời khi “việc đời dằng dặc mà ta đã già rồi” - bi kịch của người anh hùng bất lực trước cuộc đời
  • Xót xa, cay đắng trước tình cảnh của đất nước
  • Khao khát được làm nên công trạng.

b. Bốn câu sau

- Hình ảnh mang tính biểu tượng:

  • Xoay trục đất: hỗ trợ xoay chuyển địa trục (trục đất)
  • Rửa binh khí: chuẩn bị cho trận chiến
  • Kéo sông Ngân: mượn ý thơ của Đỗ Phủ thể hiện ý chí chiến đấu

    => Bộc lộ nỗi lòng sẵn sàng được chiến đấu bảo vệ đất nước.

- Nghệ thuật đối lập: quốc thù vị báo >< đầu tiên bạch.

=> Nhắc lại và nhấn mạnh vào tình huống bi kịch của người anh hùng với bao nỗi đắng cay.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Cảm hoài.

Phân tích tác phẩm Cảm hoài mẫu 1

Đặng Dung là danh tướng đời Hậu Trần, theo Trần Trùng Quang chống giặc Minh, lập được nhiều chiến công rất oanh liệt, về sau ông bị giặc bắt, giải về Trung Quốc, dọc đường ông nhảy xuống sông tự tử. Ông chỉ để lại một bài thơ duy nhất, bài "Cảm hoài ” được coi là bài thơ bi hùng nhất trong nền văn thơ cổ điển Việt Nam đầu thế kỉ XV, Nguyễn tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật:

“Thế sự du du nại lão hà,

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.

Thời lai đồ điếu thành công dị,

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.

Trí chủ hữu hoài phù địa trục,

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma”

Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy vong. Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần lập ra triều đại mới. Nhưng chẳng bao lâu sau, nhà Minh đem quân sang xâm lược nước ta: “Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ – Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh” (Bình Ngô đại cáo). Nước ta bị quân giặc chiếm đóng, thành Thăng Long bị chúng đổi thành Đông Quan. Dân tộc ta chìm trong đau thương tang tóc.

Cha con Hồ Quý Ly bị giặc Minh bắt đưa về Trung Quốc. Một bộ phận quý tộc nhà Trần tổ chức kháng chiến, tiêu biểu là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng. Nhưng đại sự không thành, nhiều anh hùng bị giặc bắt, bị giặc giết, trong đó có Đặng Dung. Bài thơ “Cảm hoài" được Đặng Dung viết trong những năm tháng cầm quân đánh giặc, cứu nước. Bài thơ là tiếng nói, là nỗi lòng của một thế hệ anh hùng cay đắng trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, quyết chiến đấu phục thù rửa hận.

Hai câu đầu phản ánh "thế sự" nước ta vào những năm 1407, 1408, 1409… khi quân "cuồng Minh" như sóng dữ ngập tràn non sông Đại Việt. Như một tiếng than khi đứng nhìn thời cuộc: “Việc đời thì dằng dặc mà tu đã già rồi, biết làm thế nào… Đúng là lòng dạ bối rối. Và đó là bi kịch của người anh hùng:

“Thế Sự du du nại lão hà,

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca”

(Việc đời bối rối tuổi già vay,

Trời đất vô cùng một cuộc say).

Nói rằng “thiên địa nhập hàm ca ” là biểu lộ một thái độ về sự đảo điên trong cuộc đời. Câu 1 và câu 2 tương phản về mặt ý nghĩa đã nói lên “nỗi lòng” cảm hoài của nhà thơ.

Hai câu trong phần “thực” đối nhau, nêu bật “gặp thời” và “thất thế” đối với người anh hùng. Như một chiêm nghiệm lịch sử đầy cay đắng:

Thời lai đồ điếu thành công dị,

Vận khứ anh hùng ẩm hận da

Đồ điếu: là đồ tể, người làm nghề mổ thịt; điếu: câu cá. Gặp thời, những kẻ “đồ điếu”, bần tiện cũng dễ dàng làm nên công trạng, sự nghiệp lớn. Câu thơ gợi nhớ đến những nhân vật như Phàn Khoái, bán thịt chó, Hàn Tín, câu cá, về sau giúp Lưu Bang mà làm nên sự nghiệp lớn. Trái lại, nhiều anh hùng thất thế (vận khứ) phải nếm, phải uống nhiều hận (ẩm hận đa). Lịch sử từ bao đời nay đã cho ta thấy rõ điều nhà thơ cảm hoài. Trong câu thơ như có nhiều lệ. Đây là lời thơ dịch khá hay của Phan Kế Bính:

“Bần tiện gặp thời, nên cũng dễ,

Anh hùng lỡ bước, ngẫm càng cay”.

Bảy trăm năm đã trôi qua, biết bao vật đổi sao dời, “phế, hưng mấy lớp” mà ba chữ “ẩm hận đa” vẫn làm nhức nhối lòng người. Đó là nỗi cảm hoài vậy. Đó là nỗi cay đắng của người anh hùng thất thế, lỡ bước.

Phần “luận” nói lên chí lớn của người anh hùng. Hình tượng thơ kì vĩ, tráng lệ:

“Trí chủ hữu hoài phù địa trục,

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà”.

Trên đường mưu đồ nghiệp lớn, cha bị Trần Ngỗi giết oan, ông đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, vẫn dãi gió dầm sương, xông pha trận mạc, để phò chúa, cứu nước, mong đem lại thái bình cho dân tộc. "Phù địa trục” (nâng trục đất), “vãn thiên hà” (lôi sông Ngân hà xuống) là hai hình ảnh kì vĩ, mang kích thước và tầm vóc vũ trụ, nói lên chí khí và khát vọng anh hùng trong thời loạn. Hai câu thơ hô ứng, đối chọi nhau, tạo nên giọng điệu anh hùng ca đầy ấn tượng. Câu thơ dịch khá hay, lột tả được ý vị cổ điển, trang trọng của vần thơ tráng lệ:

"Vai khiêng trái đất mong phò chúa,

Giáp gột sông trời khó vạch mây”

Hình ảnh người anh hùng mài gươm dưới ánh trăng đã "mấy độ”, trải qua nhiều năm tháng, mái tóc nay đã bạc, gợi lên màu sắc bi tráng. Trăng đã tà. Tuổi đã già. Thế mà "quốc thù” vẫn đè nặng tâm hồn nhà thơ:

“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma”

“Long tuyền” là gươm báu, thanh gươm để giết giặc, trả mối thù nước, đem lại thái bình cho đất nước và nhân dân. Đây là hai câu thơ đẹp nhất trong thơ văn Lý Trần, chói sáng "Hào khí Đông-A”. Đúng như Lý Tử Tấn, một danh sĩ đầu thời Lê đã viết: "Phi hào kiệt chi sĩ bất năng”. (không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể làm nổi).

Không thể lấy sự thành, bại để luận anh hùng. Đặng Dung là một anh hùng hào kiệt. Bài thơ thấm đượm một tình yêu nước, nhức nhối nỗi đau của người anh hùng lỡ bước. Cốt cách thi sĩ lồng trong cốt cách anh hùng. Đó là tư thế hiên ngang lẫm liệt, cho đến chết vẫn mang nặng mối thù nước không nguôi.

Đặng Dung đã “ẩm hận đa”, sự nghiệp “quốc thờ vị báo” không thực hiện được. Nhưng khí phách lẫm liệt, lòng yêu nước thiết tha của người anh hùng mãi mãi trường tồn cùng sông núi Đại Việt. Bài thơ “Cảm hoài” cùng với tên tuổi Đặng Dung mãi mãi là bài ca yêu nước chống xâm lăng:

“Thù trả chưa xong, đầu đã bạc,

Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày!”

Đó là “di hận” của người anh hùng vận khứ – lỡ vận. Nửa thế kỷ sau Nguyễn Trãi trong bài thơ "Quan hải” cũng nói về mối "di hận” ấy. Đó là nỗi đau muôn thuở:

“Họa phúc hữu môi phi nhất nhật,

Anh hùng di hận kỉ thiên niên

(Hoạ phúc có manh mối, đâu phải một ngày,

Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau).

“Cảm hoài ” là bài ca yêu nước bi tráng, là tiếng vọng sông núi nghìn năm.

Phân tích tác phẩm Cảm hoài mẫu 2

Tự hào hai tiếng thiêng liêng – Việt Nam, nước Việt ta có bề dày lịch sử lâu dài trong suốt bao nhiêu năm dựng nước và giữ nước. Cứ khi có chiến tranh xảy ra thì dân tộc ta lại đoàn kết chống lại kẻ thù. Nếu như đã có một thời hào khí Đông A như vang vọng thì nguồn hào khí đó đã khiến cho Đặng Dung lấy cảm hứng viết ra tác phẩm đặc sắc “Cảm hoài”.

Đặng Dung là một vị tướng tài ba, có tài văn chương nhưng nhắc đến thơ thì dường như toàn bộ bức chân dung của con người ông dường như đã lột tả được một cách vô cùng sâu sắc. Bài thơ “Cảm hoài” cũng thể hiện khát vọng được cống hiến tài năng, sức lực cho dân, khát vọng được dân hiến cho đất nước của mình cho dù là tuổi đã cao.

Thế sự du du nại lão hà

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

Dịch:

Việc đời man mác, tuổi già thôi

Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi

Đây chính là một con người luôn có ý thức trước trách nhiệm với đất nước, với dân tộc nên lúc nào tác giả Đặng Dung cũng mang trong mình khát khao được cống hiến. Ở ông luôn luôn khao của nhà thơ gặp những giới hạn nhất định chính là một giới hạn về tuổi tác

Thế sự du du nại lão hà

Thế rồi chính việc đời dù còn mênh mông, có biết bao nhiêu việc cần cống hiến cần dốc sức hoàn thành, thế nhưng chính bản thân mình dù mang những khát vọng, hoài bão có được dâng hiến nhưng mình đã biết được mình làm sao. Câu hỏi đó thì nhà thơ cũng đã tự vấn với chính mình và luôn luôn day dứt đối với tuổi già của chính mình.

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

Câu thơ này ý muốn nói cuộc đời rộng lớn vô cùng, đành thu cả vào cuộc say ca. Khi đứng trước những khát khao lớn thế nhưng vì bất lực trước tuổi già nên nhà thơ chỉ có thể tự thu mình vào những cuộc say ca. Giống như để tìm đến một thú vui mà tạm quên đi những nỗi khắc khoải trong lòng. Chính vì thế mà sự cố gắng ấy trở nên vô ích, chính bởi Đặng Dung chính là một người trách nhiệm cho dù có tự quên đi hay cố tình làm cho quên nỗi buồn trong lòng của ông dường như cũng cứ thật day dứt và tự vấn:

Thời lai đồ điếu thành công dị

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa

(Gặp gỡ thời cơ may những kẻ

Tan tành sự thế luống cay ai)

Có thể nhận thấy được ở trong hai câu thơ này, nhà thơ Đặng Dung dường như cũng đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thời cơ và sự tiếc nuối khi vận số đã hết. Tất cả những vấn đề nhà thơ nêu ra có liên quan đến tư tưởng định mệnh trong Nho giáo, nhà thơ cũng đã cho rằng khi thời cơ đến thì ngay cả những kẻ tầm thường nhất như người bán thịt, bán cá thì cũng sẽ dễ dàng đạt được những thành công nhất định. Thực sự đó cũng chính là yếu tố thời cơ, bởi nếu thời cơ không đến thì dù tài giỏi đến đâu hay anh hùng như thế nào đi nữa thì cũng khó có thể làm nên việc lớn. Chính bởi không có hoàn cảnh cụ thể, mục tiêu cụ thể để thể hiện tài năng. Thế nhưng chính vì ngược lại, nhà thơ cũng nêu ra sự bi đát, thất vọng của những bậc anh hùng dù mang trong mình những chí khí lớn nhưng cũng không thành công vì đã hết thời, đành nuốt hận. Thế rồi ở đây ta có thể thấy hình ảnh của chính Đặng Dung trong câu thơ này, nhà thơ tự chế giễu, mỉa mai mình đã hết vận số, dù có mong mỏi nhưng cũng không thể làm gì để có thể cống hiến cho dân, cho nước.

Trí chủ hữu hoài phù địa trục

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà

Dịch

(Phò vua bụng những mong xoay đất

Gột giáp sông kia khó vạch trời)

Thế rồi chính những câu thơ này nhà thơ Đặng Dung lại thể hiện khát vọng lớn trong suốt cuộc đời mình. Thực sự đó cũng chính là dốc lòng giúp đỡ vua chúa, những mong làm nên được nghiệp lớn, rồi như chống đỡ được trục quả đất “Trí chủ hữu hoài phù đại trục”. Thông qua đây ta cũng có thể thấy những khát vọng của nhà thơ thật đẹp, thật vĩ đại. Tác giả Đặng Dung là con người có tài năng lại có chí. Tác giả như không hề mang các thế mạnh ấy để có thể mưu nghiệp cho bản thân và trung thành với nhà vua. Chính với khát vọng ấy được thể hiện ngay trong câu thơ sâu sắc “Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà” tức nhà thơ muốn rửa sạch giáp binh nhưng lại chẳng có cách nào kéo sông Ngân xuống. Việc rửa sạch giáp binh là gột sạch những những đau thương, chết chóc còn in hẳn trên đó, nó là máu, là sự hi sinh. Có bao giờ con người không còn phải đối mặt với chiến tranh thì cuộc sống mới bình yên và hạnh phúc. Chính với cái khát khao đến một cuộc sống không còn binh lửa, chết chóc ấy nhưng nhà thơ cũng thể hiện sự bất lực khi không thể kéo sông Ngân xuống.

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch

Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma

Dịch

(Đầu bạc giang san thù chưa trả

Long tuyền mấy độ bóng trăng soi)

Đọc đến hai thơ cuối cùng, nhà thơ Đặng Dung dường như cũng đã lại trở về với nỗi trăn trở, buồn bã của bản thâ. Thực sự đó cũng chính là sự mâu thuẫn giữa khát vọng được dâng hiến với giới hạn của đời người. Nhà thơ Đặc Dung cũng sẽ nhận thấy mối thù chung của dân tộc vẫn còn đó nhưng đầu cũng đã bạc đó là “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch”. Thêm với đó chính sự khát khao của nhà thơ trong việc dâng hiến còn thể hiện ở hành động đầy quyết tâm bằng câu “Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”. Câu thơ có ý nghĩa cũng đã bao phen đội trăng để mài gươm báu Long Tuyền.

Tóm lại bài thơ “Cảm hoài” dường như cũng chính là sự bộc lộ nỗi niềm, tâm sự của một con người nhập thế, luôn luôn hết lòng với dân tộc, với đất nước. Nhà thơ Đặng Dung cũng đã nguyện đem hết tài trí, sức lực hiến dâng cho sự nghiệp lớn, tiêu diệt quân thù đồng thời cũng mong muốn báo đền nợ nước. Bài thơ có âm hưởng bi tráng, triết lí sâu sắc ẩn chứa trong đó nỗi uất hận ngút trời, chí lớn khôn nguôi, tấm lòng vằng vặc. Bài thơ “Cảm hoài” được biết đến không chỉ là bức chân dung về con người cũng như khí phách của Đặng Dung mà còn là tác phẩm tiêu biểu cho hào khí Đông A một thời.

Phân tích tác phẩm Cảm hoài mẫu 3

Nói đến thơ văn Lí – Trần, ta phải nói đến nội dung chủ đạo của nó là chủ nghĩa yêu nước. Nội dung này đã bao trùm văn học suốt năm thế kỉ và trở thành chủ đề lớn nhất, nguồn cảm hứng trữ tình lớn nhất. Bên cạnh rất nhiều tác phẩm nổi tiếng về chủ đề yêu nước, ta phải nhớ đến Đặng Dung với một bài thơ duy nhất nhưng đã làm rung động tâm hồn độc giả bao thế kỉ, đó là bài Cảm hoài.

Bài thơ bộc lộ nỗi lòng của tác giả. Nỗi lòng ấy là nỗi lòng của một con người yêu nước, lo đời, muốn giúp nước mà không gặp thời vận để thoả sức vẫy vùng thực hiện chí lớn. Chính vì vậy bài thơ thấm đượm cảm xúc trữ tình bi tráng tự ngay hai câu thơ đầu:

Thế sự du du nại lão hà,

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

Thấm trong từng ý từng lời của câu thơ là nỗi buồn về cuộc đời của tác giả: “Việc đời dằng dặc mà ta già rồi, biết làm sao đây”. Câu thơ như một lời than, một câu hỏi đầy xót xa, cay đắng. Thời gian đã không ủng hộ nhà thơ. Ông đã già rồi vậy mà việc đời, việc nước cứ đằng đẵng trôi đi. Chẳng chờ đợi ai. Tuổi già đã làm ông bất lực trước thế sự, có lẽ chính nỗi buồn đó đã đưa tác giả vào những cuộc rượu hát nghêu ngao. Nhưng mà nhà thơ làm như vậy không phải để lãng quên tất cả và càng không phải muốn mặc sự đời. Ông vào các cuộc rượu hát chẳng qua vì ông quá uất hận khi thấy mình bất lực, không giúp gì được cho đời. Hơn nữa, lời ca của ông không mang cái tầm thường mà trong đó có cả cái mênh mông vô tận của trời đất. Điều đó cho chúng ta thấy được chí lớn lao của tác giả. Từ nỗi buồn đau của chính mình, nhà thơ đã rút ra một triết lí nhận xét về sự thành bại trong cuộc đời:

Thời lai đồ điêu thành công dị

Vận khứ anh hừng ẩm hận đa

Lời thơ đầy tràn nỗi đắng cay, uất hận. “Đã gặp thời thì anh hàng thịt, người câu cá cũng dễ làm nên công lớn. Chứ vận đã hết thì anh hùng cũng chỉ uống nhiều hận mà thôi”! Một triết lí thật đau xót nhưng có lẽ nó vẫn đúng đến đời sau. Và ở đây, chính tác giả là người anh hùng lỡ vận ấy: người anh hùng đã không may mắn gặp thời vận để có cơ hội mang sức mạnh, tài trí của mình ra cứu nước, giúp đời, nay thời vận đã qua, tuổi già cũng vừa đến, người anh hùng (tác giả) chỉ còn biết nuốt hận, bó tay trước thời cuộc mà thôi. Đặng Dung có những ước mong thật lớn lao:

Trí chủ hữu hoài phù địa trục

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà

Người ôm mộng lớn đã “những muốn giúp chúa nâng trục trái đất, muốn rửa giáp binh nhưng không có lối để kéo tuột sông ngân hà xuống”. Hình ảnh thơ kì vĩ làm sao. Tác giả mong muốn được mang sức mình xoay chuyển thời thế, giúp chúa đánh giặc góp phần đem lại nền thái bình cho nhân dân, đất nước, ước mong lập công ấy thật cao quý và nó cũng là mục đích của những người nam nhi thời bấy giờ. Lập công chính là làm nên sự nghiệp lớn với đời, giúp ích cho đất nước. Có như vậy, người nam tử mới được lưu danh sử sách, ước muốn lập nên sự nghiệp lớn, có dược công danh là khao khát muôn đời của biết bao nam nhi. Biết bao lời thơ đà bày tỏ khát vọng đó. Ca dao đã có câu:

Làm trai cho đáng nên trai

Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên

Người anh hùng Phạm Ngũ Lào trong bài thơ “Thuật hoài” cùng đã viết:

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu

Như bao người nam nhi, Đặng Dung cũng có những khát vọng lớn lao muốn cứu nước nhưng ông đã không thể thực hiện được:

Quốc thừ vị báo đầu tiên bạch

Kỉ độ long tuyền đái nguyệt ma

Câu thơ là nỗi xót xa vô tận của nhà thơ vì lực bất tòng tâm, sự nghiệp lớn mà sức không làm nổi. Ông buồn vì “thù nước chưa báo xong mà đầu tóc đã sớm bạc”. Ông dường như cảm thấy mình có lỗi vì chưa trả xong nợ công danh mà sự nghiệp cứu nước cũng lỡ dở, ông như trách mình vì đã không làm tròn sứ mệnh của một người nam nhi đối với đất nước đang bị lâm nguy. Có được tấm lòng như vậy đã là quý lắm rồi, tuy lực bất tòng tâm mà người anh hùng vẫn không chịu bó tay thì điều ấy còn đáng khâm phục hơn rất nhiều. Chí khí của người anh hùng muốn chống lại quy luật khắc nghiệt của tạo hoá. Ông không bi luỵ trước hoàn cảnh mà vẫn nuôi hùng tâm tráng chí, vẫn có khát vọng thực hiện ý nguyện diệt thù cứu nước. Câu thơ cuối đã khắc hoạ nên hình ảnh đẹp đẽ biết bao. Người anh hùng bao đêm không ngủ, mài gươm dưới bóng nguyệt. Người anh hùng ấy vẫn luôn trăn trở nghĩ về việc nước dù đã bạc mái đầu. Hình ảnh con người ấy lồng lộng giữa trời khuya bao la dưới ánh trăng vằng vặc. Thanh gươm báu hay chí khí lớn lao của con người ngày càng được tôi luyện sắc bén hơn, vững vàng hơn. Hình ảnh người anh hùng xiết bao cao đẹp ấy sẽ khắc sâu vào tâm hồn những người đả đọc bài thơ Cảm hoài.

Về bài thơ này, Lí Tử Tấn đã nhận xét: “Phi hào kiệt chi sĩ bất năng” (không phải kẻ sĩ hào kiệt thì không làm nổi). Với giọng điệu bi tráng, bài thơ đã bày tỏ tấm lòng cao quý của tác giả với đất nước và cũng chỉ con người anh hung như vậy mới thà nhảy xuống sông tự vẫn chứ không chịu đầu hàng giặc Minh xâm lược. Con người ấy hùng vĩ biết bao, cao đẹp biết bao dù đang lâm cảnh mạt vận, thất thế.

Phân tích tác phẩm Cảm hoài mẫu 4

Việt Nam là đất nước có bề dày lịch sử với những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, cũng từ đây mà các cuộc đấu tranh được đi vào văn học như thứ vũ khí đấu tranh mạnh mẽ vô cùng. Trong lịch sử văn học trung đại có một nhà văn nổi tiếng mang tên Đặng Dung, và khi nhắc tới Đặng Dung không thể không nhắc tới “Cảm hoài”, một tác phẩm vô cùng nổi tiếng cho thấy được nỗi đau của người anh hùng chiến bại.

Thế sự du du nại lão hà

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

(Việc đời man mác tuổi già thôi

Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi)

Một con người luôn mang trong mình tinh thần cao nhất đối với đất nước, đối với dân tộc, luôn dùng tài năng của mình để cống hiến cho đất nước nhưng con người có thể chiến thắng tất cả mọi thứ trừ thời gian, chính thời gian là yếu tố làm cho con người trở nên có giới hạn nhất định, đó chính là giới hạn về tuổi tác, khi đã về già, ở cái độ tuổi xế chiều thì tinh thần, lòng yêu nước, tính trách nhiệm, mong muốn cống hiến đối với ông chỉ có thể tồn tại trong suy nghĩ chứ không thể biến thành hành động được nữa rồi.

Những việc trong thiên hạ còn chưa yên, việc lớn giải phóng dân tộc còn chưa thành, quân xâm lược ngày càng lớn mạnh mà bản thân đã già rồi thì phải làm sao? một câu hỏi bản thân tác giả tự đặt ra cho mình đồng thời cũng tự cảm thấy bất lực trước những việc trong thiên hạ. Để rồi từ đây lấy rượu giải sầu, nâng chén cho say để quên đi những sự thật cay đắng đang hiện hữu ngay trước mắt, sự thật về tuổi già, sự thật về xã hội vẫn đang diễn ra ngoài kia, nhưng có vẻ như hơi men không thể thắng nổi tính trách nhiệm của ông, dù có say thì trong lòng vẫn day dứt một nỗi niềm với đất nước, để rồi từ đó ông nêu cao lên tầm quan trọng của thời cơ

Thời lai đồ điếu thành công dị,

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa!

(Gặp gỡ thời cơ may những kẻ

Tan tành sự thế luống cay ai!)

Ông tự cho rằng thời cơ là yếu tố quyết định để làm nên đại nghiệp, với những kẻ tầm thường mà gặp thời cũng có thể thành công, có thể làm nên kì tích, còn nếu cơ hội không đến thì dù có tài giỏi tới đâu cũng không thể làm nên việc lớn, có là anh hùng đi chăng nữa cũng sẽ thất bại trước những khao khát mong mỏi của bản thân. Dẫu biết thói đời xưa nay vẫn vậy nhưng trong lòng tác giả vẫn có một sự chua xót, đau đớn khi chính bản thân mình vướng vào nỗi đau này, đồng thời nêu ra sự lâm li bi đát của những anh hùng có trí lớn, có tài năng, không thể làm được việc lớn bởi đã hết thời, nhưng trong lòng vẫn mang theo khát vọng của cuộc đời mình

Trí chủ hữu hoài phù địa trục,

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.

(Phò vua bụng những mong xoáy đất

Gột giáp sông kia khó vạch trời)

Một khát vọng của đạo làm quân, khát vọng được phục vụ vua, được cống hiến tài năng của mình giúp vua trị vì đất nước, khát vọng xoay chuyển càn khôn, xoay chuyển đất trời, một khát vọng đẹp của con người có ý trí ngút trời. Một con người mang trong mình đầy đủ phẩm chất, tài năng để có thể đứng lên làm vua nhưng không, ông dùng tài năng đó không phải vì bản thân mà vì dân vì nước, giữ trong mình một lòng trung thành đáng ngưỡng mộ. Không chỉ có thể, ông còn là một người ưa chuộng hòa bình, căm ghét chiến tranh phi nghĩa làm dân tộc lầm than, ông muốn kéo sông Ngân xuống để dòng nước gột rửa những đau thương, mất mát mà con người đang phải gánh chịu nhưng không thể làm được. Cuối cùng sau tất cả tác giả lại trở về với những trăn trở trong lòng.

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch

Kỉ độ Long tuyền đới nguyệt ma

(Đầu bạc giang sơn thù chưa trả

Long tuyền mấy độ bóng trăng so)

Vẫn là sự day dứt đó, day dứt về một nước nhà chưa quét được hết quân thù mà tuổi đã già, tóc đã bạc, day dứt về cái trái ngang giữa tuổi già và khát vọng cống hiến đang cháy hừng hực trong ông, khát vọng được thể hiện qua những lần mài gươm dưới ánh trăng “Long tuyền mấy độ bóng trăng soi”, sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào. Qua đó thể hiện khí thế hừng hực, một cảm xúc bị dồn nén khi cảm thấy bản thân không thể chiến thắng được cái tuổi già yếu cuối đời.

Qua tác phẩm người đọc có thể thấy được một nỗi buồn to lớn, nỗi buồn của người anh hùng chiến bại, mang trong mình khả năng, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý trí to lớn nhưng vẫn phải khuất phục trước thời gian, trước tuổi già của bản thân, với âm hưởng bi tráng, cùng những câu thơ thể hiện uất hận ngút trời, bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh một người anh hùng của dân tộc mang trong mình hào khí Đông A.

Phân tích tác phẩm Cảm hoài mẫu 5

Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã trải qua biết bao thăng trầm. Song song với lịch sử phát triển của dân tộc là lịch sử của một nền văn học truyền thống, ở mỗi giai đoạn mỗi thời kì lịch sử khác nhau lại có những thế hệ nhà văn nhà thơ khác nhau góp tên mình vào bản đồ văn học nước nhà. Trong thời kì văn học Trung Đại Việt Nam ta không thể không nhắc tới Đặng Dung một tác giả trong thời kì hào khí Đông A, ông đã viết lên một tác phẩm mà đến tận bây giờ vẫn được người đời lưu truyền đó là tác phẩm “ Cảm hoài”.

Cảm hoài là một bài thơ tự sự bằng chữ Hán, được sáng tác trong hoàn cảnh khi ông đem quân giúp vua Trùng Quang Đế. Cảm hoài thể hiện ý chí tinh thần sắt đá của chân dung người anh hung tuy không gặp thời, gặp thế nhưng vẫn nuôi trong mình ý chí lớn. Đặng Dung không chỉ là một vị tướng tài ba mà còn có tài văn chương xuất trúng. Nhắc đến thơ của ông, dường dường như hiện lên cả chân dung con người ông được lột tả một cách sâu sắc qua từng câu thơ. Mở đầu bài thơ với hai câu thơ ngắn gọn nhưng đã thể hiện dc khát vọng của tác giả. Khát vọng được cống hiến tài năng, sức lực cho dân cho nước. Nhưng đồng thời cũng thể hiện sự bất lực của chính tác giả, bất lực trước tuổi tác đã cao mà trí lớn chưa thành.

Thế sự du du nại lão hà

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.

Luôn ý thức về trách nhiệm của bản thân mình trước đất nước và dân tộc thì tác gải lại càng thất vọng về hạn định về mặt tuổi tác, nhưng cũng không vì thế không vì tuổi tác mà quên đi khát khao trong chính bản thân tác giả. Theo tác giả việc đời dù có mênh mông bao nhiêu nhưng còn cống hiến được thì cần dốc hết sức để hoàn thành “ Thế sự du du nại lão hà”. Trong hai câu thơ đầu tiên này ta có thể thấy sự tài tình của tác giả khi đã đưa vào hai câu thơ trên thủ pháp tương phản, để làm đối lập những hình ảnh sự việc được nói đến cho thấy sự đối lập theo con mắt của tác giả. Trong câu thơ đầu tiên là sự đối lập giữa việc đời dằng dặc đối với hiện thực ta đã già rồi, ở câu thơ thứ hai là sự đối lập giữa trời đất mênh mông và cuộc rượu hát ca. Qua những hình ảnh đối lập này ta có thể thấy giới hạn của tự nhiên, sự mênh mông của trời đất “ vô cùng thiên tận” và “thế sự” là không bao giờ kết thúc chỉ có đời người và cuộc vui thì rồi cũng sẽ đến lúc tàn. Đó là sự đối lập giữa cái vô cùng của cuộc đời với cái hữu hạn của đời người. Cả hai câu thơ như lắng lại chút xót xa trong lòng người đọc như cũng đang xót xa cho chính mình. Từ đó ta có thể thấy được tâm trạng buồn bã và đau đớn của tác về nhân thế.

Thời lai đồ điếu thành công dị

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.

Biết chăng có mấy anh hung thời xưa gặp thời gặp thế? Nói đến thời thế khi gặp thời gặp thế thì kể cả những người bình thường cũng làm lên cơ nghiệp lớn. Còn bậc đấng anh hùng, nếu không gặp thời gặp thế thì cũng chẳng khác kẻ phàm nhân. Ở đây tác giả đã mượn chuyện Phàn Khoái bán thịt, Hàn Tín câu cá sau giúp hán Cao Tổ làm nên nghiệp lớn. Ở đây tác giả không muốn chê họ là những kẻ tầm thường, bất tài mà chỉ chủ yếu để nhấn mạnh rằng người anh hùng mà không gặp thời vận thì cũng chỉ biết ôm hận người bình thương nhưng gặp thời vận lại có thể làm nên nghiệp lớn. Tuy là một đấng anh hùng nhưng ở chính hai câu thơ này tác giả lại tự chế giễu mỉa mai chính mình đã hết vận số dù có mong mỏi cũng không thể làm được gì để có thể cống hiến cho dân cho nước. Đi từ những hạn định được chính ông xác định về mặt nhân thế, tác giả chuyển sang nhấn mạnh về tầm quan trong của thời thế trong việc giúp dân giúp nước. Ở hai câu thơ tiếp theo tác giả lại nói lên khát vọng lớn trong suốt cuộc đời minh.

Trí chúa hữu hoài phù địa trục

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.

Ở đây xuất hiện hai hình ảnh “ phù địa trục” và “ vãn thiên hà”, hai hình ảnh này đều là những hình ảnh đẹp có sức diễn tả khát vọng lớn lao. “ Phù địa trục” ở đây có nghĩa là xoay trục đất lại còn “ vãn thiên hà” có nghĩa là kéo tuột sông Ngân Hà xuống. Cả hai hình ảnh này đều mang tính phóng đại để thể hiện khát vọng cao cả của Đặng Dung đem hết sức mạnh, tài trí của mình để giúp cho đất nước mang lại nền thái bình cho nhân dân. Đồng thời nó cũng thể hiện sự bất lực của ông khi tuổi đã già, qua hai câu thơ ta có thể thấy tâm trạng bi tráng của nhà thơ. Trong thời Trung Đại đứng trước những biến cố của lịch sử các đấng anh hùng cũng không vì thế mà nguôi ngoai đi việc thực hiện trí lớn và Đặng Dung cũng vậy. Khát vọng của ông là dốc lòng giúp đỡ vua chúa những mong làm nên nghiệp lớn ví như chống đỡ được cả trục đất trời. Ta có thể thấy những khát vọng của nhà thơ thật đẹp, thật vĩ đại ông không chỉ là một người vừa có tài lại có trí lớn. Ông không mang những thế mạnh ấy để mưu nghiệp riêng cho bản thân mà luôn luôn trung thành với nhà vua cũng như là cả triều đại mà mình sinh sống. Khát vọng của ông mang tầm vóc vũ trụ, lớn lao muốn bảo vệ cho đất nước, giang san. Không chỉ là con người luôn nuôi trong mình trí lớn đối với sự nghiệp vận mệnh của quốc gia dân tộc mà ông còn luôn đề cao cuộc sống thanh bình không còn chiến tranh, lầm tham và những cuộc li biệt chết chóc. Khát vọng ấy được thể hiện rõ trong câu thơ “ Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà” có nghĩa là muốn rửa sạch binh giáp mà không có cách nào kéo được song Ngân Hà xuống. Rửa sạch giáp như muốn rửa đi sự đau thương trong binh đao loạn lạc. Bao giờ con người không còn phải đối mặt với chiến tranh thì cuộc sống mới bình yên và hạnh phúc. Khát khao đến cuộc sống không còn binh lửa chết chóc nhưng phần nào đó tác giả như đang nói lên sự bất lực của chính bản thân mình.

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch

Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.

Đến hai câu thơ cuối bài nhà thơ lại trở về với nỗi trân trở, buồn bã của bản thân,đó là sự mâu thuẫn giữa khát vọng được dâng hiến với giới hạn của đời người. Hai câu thơ thể hiện tráng trí của nhà thơ đó là hình ảnh của “ đầu tiên bạch” và “ Kỉ độ Long Tuyền”. Đây đều là những hình ảnh mang tính ước lệ tương trưng. Câu thơ đầu tiên ý muốn nói đến khát khao dân hiến còn thể hiện ở hành động quyết tâm “ Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”, tức là bao phen đội trăng để mài gươm báu Long Tuyền. Hai câu thơ cuối vừa khắc họa được tâm trạng đau buồn của một kẻ lỡ vận ngậm ngùi nhìn cuộc đời trôi đi bao nhiêu hoài bão vẫn còn dang dở. Tuy nhiên điều làm cho bài thơ không mang tính bi quan là sự xuất hiện của hình ảnh bao phen mài gươm dưới nguyệt. Hình anh này tô đậm khí chất của đấng anh hùng hay cũng chính là tác giả.

Bài thơ là chuỗi dòng cảm xúc bộc lộ nỗi niềm của một con người nhập thế, hết lòng với dân với nước. Ông không chỉ nguyện đem hết tài trí sức lực của mình cho dân cho nước, cho sự nghiệp lớn mà còn thể hiện khát vọng cho nhân dân có được một cuộc sống thanh bình không có sự đau thương. Bài thơ mang âm hưởng bi tráng, triết lí sâu sắc, uất hận ngút trời, chí lớn không nguôi cùng với tấm lòng cao cả. Bài thơ không chỉ là bức chân dung về con người khí phách của tác giả mà còn thể hiện sự hào hùng của hào khí Đông A.

Phân tích tác phẩm Cảm hoài mẫu 6

Từ lâu, lòng yêu nước và tự hào dân tộc luôn là phần không thể thiếu trong tâm hồn người Việt, dù đối mặt với bất kỳ thử thách nào. Tinh thần này càng trở nên mãnh liệt hơn trong thời kỳ chiến tranh, khi ý chí chiến đấu dâng cao. Bài thơ 'Cảm hoài' của Đặng Dung thể hiện rõ ràng tinh thần này. Hai câu thơ đầu tiên diễn tả tâm trạng của tác giả khi nhận thức được mâu thuẫn trong hoàn cảnh:

Thế sự du du nại lão hà

Vô cùng thiên địa nhập hàn ca

Đây là mâu thuẫn giữa việc đời dài dằng dặc và tuổi tác của nhân vật trữ tình. Tác giả vừa nhận thức được bi kịch tuổi tác vừa đặt ra câu hỏi về cách giải quyết. Tuổi già là một bi kịch lớn mà khó có thể vượt qua, khi thời gian trôi đi, con người dù còn trí thức vẫn khó thực hiện được những hoài bão. Bi kịch không chỉ là tuổi tác mà còn là trách nhiệm của nhà thơ đối với việc bảo vệ đất nước và tiêu diệt giặc ngoại xâm. Chính vì vậy, câu hỏi “biết làm sao đây” không chỉ thể hiện sự tiếc nuối và trăn trở, mà còn là trách nhiệm đối với cuộc đời ngay cả khi đã về già. Đây là một quan niệm sống cao đẹp, biểu hiện của lòng kiên cường vượt lên hoàn cảnh. Câu thơ thứ hai, với hình ảnh thơ vĩ đại, phản ánh hoài bão của con người khi đối diện với thiên nhiên và cục diện, nâng cao trí tuệ của chủ thể trữ tình vượt lên bi kịch tuổi tác. Bi kịch ấy làm bật lên sự băn khoăn của con người ham đấu tranh, chiếm lĩnh thế giới, vượt lên giới hạn cuộc đời. Từ ý thức về hoàn cảnh của mình, nhà thơ thể hiện những suy nghĩ sâu sắc về thời thế:

Thời lai đồ điếu thành công dị

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa

Câu thơ gợi nhớ đến chuyện bán thịt, câu cá của Phàm Khoái, Hàn Tín, nhưng không nhằm nhấn mạnh rằng kẻ phàm thường cũng có thể thành công nếu gặp thời. Thực tế là những anh hùng không gặp thời thì cũng thất bại. Điều này được thể hiện rõ trong nhận xét của Nguyên Trãi về Hồ Quý Li: “Anh hùng để hận mấy trăm đời”. Hồ Quý Li không có nhân tài hỗ trợ, còn Đặng Dung thì không có thiên thời. Đây là những trải nghiệm từ cuộc đời của nhà thơ, kết tinh từ những năm tháng chiến đấu. Hai câu thơ này không chỉ dựa trên kinh nghiệm mà còn trên phân tích lý trí và cảm giác về kết cục buồn sắp tới.

Mặc dù tuổi tác đã cao và thời vận không còn, Đặng Dung vẫn không từ bỏ:

Trí chủ hữu hoài phù địa trục

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà

Nhà thơ bày tỏ mong muốn cháy bỏng trong lòng, khát khao giúp vua, giúp nước, và nâng đỡ giang sơn đang gặp khó khăn. Câu thơ thứ sáu, mượn ý từ bài “Tẩy binh mã” của Đỗ Phủ, thể hiện mong muốn chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình cho dân. Mong muốn này được thể hiện qua những hình ảnh thơ vĩ đại và giọng điệu mạnh mẽ, khiến chủ thể trữ tình trở nên vĩ đại ngang với vũ trụ. Dù sức lực và thời vận đã kiệt, nhưng không gì có thể ngăn cản được ý chí và khát vọng của người anh hùng trong sự nghiệp cứu quốc. Dù ở bất kỳ thời điểm nào, tâm nguyện của Đặng Dung vẫn là mang tài năng để giúp vua đem lại hòa bình cho dân tộc. Tuy nhiên, thực tại khắc nghiệt vẫn khiến Đặng Dung không thể tìm ra con đường giải quyết chiến tranh. Mặc dù câu thơ thể hiện điều vĩ đại, nó vẫn mang lại cảm giác ngậm ngùi. Như bao người anh hùng khác, Đặng Dung cũng có khát vọng lớn lao để cứu nước nhưng không thể thực hiện được:

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch

Kỉ độ long tuyền đái nguyệt ma

Thù nước chưa được trả thì tóc đã bạc, điều này phản ánh một tình huống đầy bi kịch. Trong tâm thức tác giả, điều này luôn hiện hữu. Mặc dù có chút ngậm ngùi vì giới hạn tuổi tác trên con đường cứu nước chưa có lối thoát, nhưng tâm huyết và ý chí không hề phai nhạt. Câu kết của bài thơ là điểm sáng, vừa cảm thương cho số phận người anh hùng, vừa khơi dậy niềm tin vào ý chí kiên cường trước mọi hoàn cảnh. Dù thất bại, lòng không nản. Bài thơ vừa buồn vừa như một khúc tráng ca.

Bài thơ thể hiện rõ tinh thần kiên cường của nhân dân ta, dù bị ảnh hưởng bởi tuổi tác hay hoàn cảnh, với lòng căm thù giặc và quyết tâm bảo vệ đất nước. Đây là bài học cho thế hệ trẻ hôm nay, cần không ngừng cố gắng xây dựng quê hương đất nước.

Phân tích tác phẩm Cảm hoài mẫu 7

Từ xưa đến nay nhân dân ta luôn có trong mình lòng yêu nước, tự hào dân tộc và muốn xây dựng quê hương đất nước dù có gặp bất cứ khó khăn gì. Tinh thần ấy càng được thể hiện rõ hơn khi đất nước có chiến tranh, tinh thần chiến đấu càng dâng cao mãnh liệt. Và Bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung đã thể hiện rõ tinh thần ấy. Hai câu thơ mở đầu đã bày tỏ tâm sự của tác giả khi ý thức được tình huống đầy mâu thuẫn:

Thế sự du du nại lão hà

Vô cùng thiên địa nhập hàn ca

Đó là mâu thuẫn giữa việc đời dài dằng dặc với chủ thể trữ tình đã già, biết phải làm sao? Vừa ý thức được bi kịch vừa đặt ra câu hỏi: tuổi tác là bi kịch lớn của đời người là hạn chế mà ta khó thể vượt qua. Thời gian trôi đi ta lại già đi khiến người ta cho dù còn trí hướng thì khó đạt được. Bi kịch không đơn giản về tuổi tác mà ý thức trách nhiệm của nhà thơ với việc nước. Đó là việc bảo vệ đất nước, tiêu diệt giặc ngoại xâm. Vì thế vấn đề tuổi tác lại một lần nữa tạo nên nhân tố bi kịch khiến nhà thơ phải thốt lên câu hỏi “biết làm sao đây” là tiếc, trăn trở, một chút ngậm ngùi vì bất lực nhưng lại là cách đặt ra trách nhiệm với cuộc đời ngay khi tuổi đã già. Đây là quan niệm sống cao đẹp, là lẽ sống cống hiến có ý nghĩa với nước với dân, là biểu hiện kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh. Nhưng câu thơ thứ hai với hình ảnh thơ kì vĩ thấy được hoài bão của con người trước thiên nhiên để xoay chuyển cục diện đã nâng tầm trí tuệ của chủ thể trữ tình vượt lên trên bi kịch tuổi tác. Từ bi kịch đó mà làm bật lên sự băn khoăn của con người ham đấu tranh, chiếm lĩnh thế giới vượt lên giới hạn cuộc đời. Từ ý thức về hoàn cảnh của mình nhà thơ bày tỏ những suy nghĩ sâu sắc về thời và thế.

Thời lai đồ điếu thành công dị

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa

Câu thơ có nhắc đến chuyện bán thịt, câu cá của Phàm Khoái, Hàn Tín nhưng không phải nhấn mạnh kẻ phàm thường cũng có thể thành công nếu gặp thời. Vì vậy kẻ anh hùng không gặp thời lỡ vận thì cũng tất yếu. Mất thời không thế dẫu là người tài thì cũng thất bại mà thôi. Vậy mà khi viết về Hồ Quý Li một ông vua nhà cải cách vĩ đại thế kỉ XV Nguyên Trãi nhận xét: “Anh hùng để hận mấy trăm đời” Mối hận Hồ Quý Li là không có nhân hào không có người hiền tài để chống đỡ còn Đặng Dung là mối hận người anh hùng lỡ vận không có thiên thời. Đây là những trải nghiệm được đúc kết từ cuộc đời của nhà thơ từ những kinh nghiệm đầy máu, nước mắt từ những năm tháng cầm quân đánh giặc. Hai câu thơ không chỉ được viết bằng trải nghiệm mà bằng sự phân tích đầy lí trí, sự linh cảm về kết cục đáng buồn mà mình sắp phải gánh chịu.

Tuy biết mình tuổi cao thời vận hết nhưng không buông xuôi tuyệt vọng:

Trí chủ hữu hoài phù địa trục

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà

Bày tỏ mong muốn của tác giả vọng lên trong tâm can cháy lên trong khát khao muốn được giúp vua giúp chúa muốn nâng đỡ giang sơn đang nghiêng lệch. Câu thơ thứ sáu có mượn ý của bài “Tẩy binh mã” của Đỗ Phủ để bộc lộ mong muốn chấm dứt chiến tranh lập lại hào bình cho dân cho nước. Mong muốn ấy được gửi vào những hình ảnh thơ kì vĩ bộc lộ qua giọng điệu mạnh mẽ khiến chủ thể trữ tình trở nên lớn lao sánh ngang vũ trụ. Dù sức tài lực kiệt, dù thời vận không đến nhưng không gì có thể ngăn cản được ý chí tâm huyết và khát vọng người anh hùng trong sự nghiệp kinh bang cứu thế. Cho dù bất cứ thời điểm nào thì tâm nguyện của Đặng Dung là mang tài năng của mình giúp vua đem thái bình cho dân tộc. Đó là tâm nguyện người anh hùng nhưng thật đáng tiếc là không thể vượt qua thực tại khắc nghiệt vẫn đối mặt với nỗi đau của sự bất lực. Đến thời điểm này Đặng Dung vẫn chưa tìm thấy con đường nào để đi tiếp chấm dứt chiến tranh mà đều bế tắc. Vì vậy dù nói về điều kì vĩ nhưng câu thơ vẫn đọng lại sự ngậm ngùi. Như bao người nam nhi, Đặng Dung cũng có những khát vọng lớn lao muốn cứu nước nhưng không thể thực hiện được:

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch

Kỉ độ long tuyền đái nguyệt ma

Thù nước chưa trả thì mái tóc đã bạc sớm mất rồi vẫn là một tình huống đầy bi kịch ý thức tuổi tác lại là trở ngại. Trong tâm thức tác giả điều luôn canh cánh trong lòng đã hiện hữu một cách trực tiếp. Tuy có chút ngậm ngùi về giới hạn tuổi tác trên con đường cứu nước chưa có lối thoát nhưng hùng tâm tráng trí thì vẫn chưa phai nhạt. Trong câu kết hình ảnh người anh hùng một lão tướng tóc đã bạc nhưng biết bao lần mang gươm báu mà dưới ánh trăng. Hình ảnh một con người với hành động kiên định không chịu cúi đầu không thua cuộc bền bỉ nung nấu ý nguyện được trả thù. Có thể coi câu kết là điểm sáng bài thơ để nhận ra ngoài sự cảm thương cho số phận người anh hùng lỡ vận thì cảm giác hào sảng bởi hùng khí ngút trời cứ dấy lên trong người đọc niềm tin vào ý chí bất khuất của con người trước mọi hoàn cảnh để thấy rằng dù thất bại mà lòng không nản. Bài thơ vừa buồn mà như khúc tráng ca.

Bài thơ đã thể hiện rất rõ tinh thần của nhân dân ta dù có bị vấn đề tuổi tác hay ngoại cảnh tác động với lòng căm thù giặc đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi đất nước. Đó chính là bài học cho thế hệ trẻ chúng ta phải không ngừng cố gắng xây dựng đất nước.

Phân tích tác phẩm Cảm hoài mẫu 8

Đặng Dung, danh tướng thời Hậu Trần, từng lập nhiều chiến công oanh liệt chống giặc Minh. Ông bị bắt và giải về Trung Quốc, trên đường ông nhảy sông tự tử, để lại một bài thơ duy nhất - 'Cảm hoài', được coi là tuyệt phẩm bi hùng của văn thơ cổ điển Việt Nam thế kỉ XV. Bài thơ viết bằng chữ Hán, theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật:

“Thế sự du du nại lão hà,

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.

Thời lai đồ điếu thành công dị,

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.

Trí chủ hữu hoài phù địa trục,

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma”

Thế kỷ XIV, nhà Trần suy vong, Hồ Quý Ly cướp ngôi lập triều đại mới, nhưng Minh xâm lược nước ta. Đất nước chìm trong đau thương tang tóc. Đặng Dung và nhiều anh hùng khác chiến đấu cứu nước, nhưng nhiều người bị bắt, giết. 'Cảm hoài' là tiếng thanh khi đứng nhìn thời cuộc, nỗi đau của người anh hùng lỡ bước:

“Thế Sự du du nại lão hà,

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca”

(Việc đời bối rối tuổi già vay,

Trời đất vô cùng một cuộc say).

Thời lai đồ điếu thành công dị,

Vận khứ anh hùng ẩm hận da

“Đồ điếu” là những người bần tiện, nhưng có thể làm nên công trạng. Anh hùng thất thế phải nếm nhiều hận:

“Trí chủ hữu hoài phù địa trục,

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà”

Người anh hùng vẫn đứng vững giữa thách thức, mài gươm dưới ánh trăng mấy độ, tóc đã bạc, lòng yêu nước vẫn mãnh liệt:

“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma”

“Long tuyền” là gươm giết giặc, hình ảnh anh hùng lỡ vận vẫn lưu mãi:

“Thù trả chưa xong, đầu đã bạc,

Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày!”

Đặng Dung đã “ẩm hận đa”, nhưng tình yêu nước mãi mãi trường tồn, bài thơ “Cảm hoài” là bản hùng ca yêu nước vĩ đại.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Chọn file muốn tải về:
Đóng Chỉ thành viên VnDoc PRO/PROPLUS tải được nội dung này!
Đóng
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Xác thực tài khoản!

Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

Số điện thoại chưa đúng định dạng!
Số điện thoại này đã được xác thực!
Bạn có thể dùng Sđt này đăng nhập tại đây!
Lỗi gửi SMS, liên hệ Admin
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 12

    Xem thêm
    Chia sẻ
    Chia sẻ FacebookChia sẻ TwitterSao chép liên kếtQuét bằng QR Code
    Mã QR Code
    Đóng