Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm
Đóng
Điểm danh hàng ngày
  • Hôm nay +3
  • Ngày 2 +3
  • Ngày 3 +3
  • Ngày 4 +3
  • Ngày 5 +3
  • Ngày 6 +3
  • Ngày 7 +5
Bạn đã điểm danh Hôm nay và nhận 3 điểm!
Nhắn tin Zalo VNDOC để nhận tư vấn mua gói Thành viên hoặc tải tài liệu Hotline hỗ trợ: 0936 120 169

Phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung

Lớp: Lớp 12
Môn: Ngữ Văn
Dạng tài liệu: Văn mẫu
Bộ sách: Kết nối tri thức với cuộc sống
Loại File: Word + PDF
Phân loại: Tài liệu Tính phí

Văn mẫu: Phân tích bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 12 hay dành cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 12 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

Dàn ý phân tích Cảm Hoài

1. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Đặng Dung, bài thơ Cảm hoài.

2. Thân bài

a. Bốn câu đầu

- Hình ảnh: thế sự ngổn ngang, đất trời, đồ điếu công thành dễ, anh dùng hận xót xa.

=> Hình ảnh gợi ra tình thế của nhân vật trữ tình: đã có tuổi, đất nước thì loạn lạc

- Cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật trữ tình khi đối diện với hoàn cảnh tình thế đó:

  • Rối bời khi “việc đời dằng dặc mà ta đã già rồi” - bi kịch của người anh hùng bất lực trước cuộc đời
  • Xót xa, cay đắng trước tình cảnh của đất nước
  • Khao khát được làm nên công trạng.

b. Bốn câu sau

- Hình ảnh mang tính biểu tượng:

  • Xoay trục đất: hỗ trợ xoay chuyển địa trục (trục đất)
  • Rửa binh khí: chuẩn bị cho trận chiến
  • Kéo sông Ngân: mượn ý thơ của Đỗ Phủ thể hiện ý chí chiến đấu

    => Bộc lộ nỗi lòng sẵn sàng được chiến đấu bảo vệ đất nước.

- Nghệ thuật đối lập: quốc thù vị báo >< đầu tiên bạch.

=> Nhắc lại và nhấn mạnh vào tình huống bi kịch của người anh hùng với bao nỗi đắng cay.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Cảm hoài.

Phân tích tác phẩm Cảm hoài mẫu 1

Nói đến thơ văn Lí – Trần, ta phải nói đến nội dung chủ đạo của nó là chủ nghĩa yêu nước. Nội dung này đã bao trùm văn học suốt năm thế kỉ và trở thành chủ đề lớn nhất, nguồn cảm hứng trữ tình lớn nhất. Bên cạnh rất nhiều tác phẩm nổi tiếng về chủ đề yêu nước, ta phải nhớ đến Đặng Dung với một bài thơ duy nhất nhưng đã làm rung động tâm hồn độc giả bao thế kỉ, đó là bài Cảm hoài.

Bài thơ bộc lộ nỗi lòng của tác giả. Nỗi lòng ấy là nỗi lòng của một con người yêu nước, lo đời, muốn giúp nước mà không gặp thời vận để thoả sức vẫy vùng thực hiện chí lớn. Chính vì vậy bài thơ thấm đượm cảm xúc trữ tình bi tráng tự ngay hai câu thơ đầu:

Thế sự du du nại lão hà,

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

Thấm trong từng ý từng lời của câu thơ là nỗi buồn về cuộc đời của tác giả: “Việc đời dằng dặc mà ta già rồi, biết làm sao đây”. Câu thơ như một lời than, một câu hỏi đầy xót xa, cay đắng. Thời gian đã không ủng hộ nhà thơ. Ông đã già rồi vậy mà việc đời, việc nước cứ đằng đẵng trôi đi. Chẳng chờ đợi ai. Tuổi già đã làm ông bất lực trước thế sự, có lẽ chính nỗi buồn đó đã đưa tác giả vào những cuộc rượu hát nghêu ngao. Nhưng mà nhà thơ làm như vậy không phải để lãng quên tất cả và càng không phải muốn mặc sự đời. Ông vào các cuộc rượu hát chẳng qua vì ông quá uất hận khi thấy mình bất lực, không giúp gì được cho đời. Hơn nữa, lời ca của ông không mang cái tầm thường mà trong đó có cả cái mênh mông vô tận của trời đất. Điều đó cho chúng ta thấy được chí lớn lao của tác giả. Từ nỗi buồn đau của chính mình, nhà thơ đã rút ra một triết lí nhận xét về sự thành bại trong cuộc đời:

Thời lai đồ điêu thành công dị

Vận khứ anh hừng ẩm hận đa

Lời thơ đầy tràn nỗi đắng cay, uất hận. “Đã gặp thời thì anh hàng thịt, người câu cá cũng dễ làm nên công lớn. Chứ vận đã hết thì anh hùng cũng chỉ uống nhiều hận mà thôi”! Một triết lí thật đau xót nhưng có lẽ nó vẫn đúng đến đời sau. Và ở đây, chính tác giả là người anh hùng lỡ vận ấy: người anh hùng đã không may mắn gặp thời vận để có cơ hội mang sức mạnh, tài trí của mình ra cứu nước, giúp đời, nay thời vận đã qua, tuổi già cũng vừa đến, người anh hùng (tác giả) chỉ còn biết nuốt hận, bó tay trước thời cuộc mà thôi. Đặng Dung có những ước mong thật lớn lao:

Trí chủ hữu hoài phù địa trục

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà

Người ôm mộng lớn đã “những muốn giúp chúa nâng trục trái đất, muốn rửa giáp binh nhưng không có lối để kéo tuột sông ngân hà xuống”. Hình ảnh thơ kì vĩ làm sao. Tác giả mong muốn được mang sức mình xoay chuyển thời thế, giúp chúa đánh giặc góp phần đem lại nền thái bình cho nhân dân, đất nước, ước mong lập công ấy thật cao quý và nó cũng là mục đích của những người nam nhi thời bấy giờ. Lập công chính là làm nên sự nghiệp lớn với đời, giúp ích cho đất nước. Có như vậy, người nam tử mới được lưu danh sử sách, ước muốn lập nên sự nghiệp lớn, có dược công danh là khao khát muôn đời của biết bao nam nhi. Biết bao lời thơ đà bày tỏ khát vọng đó. Ca dao đã có câu:

Làm trai cho đáng nên trai

Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên

Người anh hùng Phạm Ngũ Lào trong bài thơ “Thuật hoài” cùng đã viết:

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu

Như bao người nam nhi, Đặng Dung cũng có những khát vọng lớn lao muốn cứu nước nhưng ông đã không thể thực hiện được:

Quốc thừ vị báo đầu tiên bạch

Kỉ độ long tuyền đái nguyệt ma

Câu thơ là nỗi xót xa vô tận của nhà thơ vì lực bất tòng tâm, sự nghiệp lớn mà sức không làm nổi. Ông buồn vì “thù nước chưa báo xong mà đầu tóc đã sớm bạc”. Ông dường như cảm thấy mình có lỗi vì chưa trả xong nợ công danh mà sự nghiệp cứu nước cũng lỡ dở, ông như trách mình vì đã không làm tròn sứ mệnh của một người nam nhi đối với đất nước đang bị lâm nguy. Có được tấm lòng như vậy đã là quý lắm rồi, tuy lực bất tòng tâm mà người anh hùng vẫn không chịu bó tay thì điều ấy còn đáng khâm phục hơn rất nhiều. Chí khí của người anh hùng muốn chống lại quy luật khắc nghiệt của tạo hoá. Ông không bi luỵ trước hoàn cảnh mà vẫn nuôi hùng tâm tráng chí, vẫn có khát vọng thực hiện ý nguyện diệt thù cứu nước. Câu thơ cuối đã khắc hoạ nên hình ảnh đẹp đẽ biết bao. Người anh hùng bao đêm không ngủ, mài gươm dưới bóng nguyệt. Người anh hùng ấy vẫn luôn trăn trở nghĩ về việc nước dù đã bạc mái đầu. Hình ảnh con người ấy lồng lộng giữa trời khuya bao la dưới ánh trăng vằng vặc. Thanh gươm báu hay chí khí lớn lao của con người ngày càng được tôi luyện sắc bén hơn, vững vàng hơn. Hình ảnh người anh hùng xiết bao cao đẹp ấy sẽ khắc sâu vào tâm hồn những người đả đọc bài thơ Cảm hoài.

Về bài thơ này, Lí Tử Tấn đã nhận xét: “Phi hào kiệt chi sĩ bất năng” (không phải kẻ sĩ hào kiệt thì không làm nổi). Với giọng điệu bi tráng, bài thơ đã bày tỏ tấm lòng cao quý của tác giả với đất nước và cũng chỉ con người anh hung như vậy mới thà nhảy xuống sông tự vẫn chứ không chịu đầu hàng giặc Minh xâm lược. Con người ấy hùng vĩ biết bao, cao đẹp biết bao dù đang lâm cảnh mạt vận, thất thế.

Phân tích tác phẩm Cảm hoài mẫu 2

Từ lâu, lòng yêu nước và tự hào dân tộc luôn là phần không thể thiếu trong tâm hồn người Việt, dù đối mặt với bất kỳ thử thách nào. Tinh thần này càng trở nên mãnh liệt hơn trong thời kỳ chiến tranh, khi ý chí chiến đấu dâng cao. Bài thơ 'Cảm hoài' của Đặng Dung thể hiện rõ ràng tinh thần này. Hai câu thơ đầu tiên diễn tả tâm trạng của tác giả khi nhận thức được mâu thuẫn trong hoàn cảnh:

Thế sự du du nại lão hà

Vô cùng thiên địa nhập hàn ca

Đây là mâu thuẫn giữa việc đời dài dằng dặc và tuổi tác của nhân vật trữ tình. Tác giả vừa nhận thức được bi kịch tuổi tác vừa đặt ra câu hỏi về cách giải quyết. Tuổi già là một bi kịch lớn mà khó có thể vượt qua, khi thời gian trôi đi, con người dù còn trí thức vẫn khó thực hiện được những hoài bão. Bi kịch không chỉ là tuổi tác mà còn là trách nhiệm của nhà thơ đối với việc bảo vệ đất nước và tiêu diệt giặc ngoại xâm. Chính vì vậy, câu hỏi “biết làm sao đây” không chỉ thể hiện sự tiếc nuối và trăn trở, mà còn là trách nhiệm đối với cuộc đời ngay cả khi đã về già. Đây là một quan niệm sống cao đẹp, biểu hiện của lòng kiên cường vượt lên hoàn cảnh. Câu thơ thứ hai, với hình ảnh thơ vĩ đại, phản ánh hoài bão của con người khi đối diện với thiên nhiên và cục diện, nâng cao trí tuệ của chủ thể trữ tình vượt lên bi kịch tuổi tác. Bi kịch ấy làm bật lên sự băn khoăn của con người ham đấu tranh, chiếm lĩnh thế giới, vượt lên giới hạn cuộc đời. Từ ý thức về hoàn cảnh của mình, nhà thơ thể hiện những suy nghĩ sâu sắc về thời thế:

Thời lai đồ điếu thành công dị

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa

Câu thơ gợi nhớ đến chuyện bán thịt, câu cá của Phàm Khoái, Hàn Tín, nhưng không nhằm nhấn mạnh rằng kẻ phàm thường cũng có thể thành công nếu gặp thời. Thực tế là những anh hùng không gặp thời thì cũng thất bại. Điều này được thể hiện rõ trong nhận xét của Nguyên Trãi về Hồ Quý Li: “Anh hùng để hận mấy trăm đời”. Hồ Quý Li không có nhân tài hỗ trợ, còn Đặng Dung thì không có thiên thời. Đây là những trải nghiệm từ cuộc đời của nhà thơ, kết tinh từ những năm tháng chiến đấu. Hai câu thơ này không chỉ dựa trên kinh nghiệm mà còn trên phân tích lý trí và cảm giác về kết cục buồn sắp tới.

Mặc dù tuổi tác đã cao và thời vận không còn, Đặng Dung vẫn không từ bỏ:

Trí chủ hữu hoài phù địa trục

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà

Nhà thơ bày tỏ mong muốn cháy bỏng trong lòng, khát khao giúp vua, giúp nước, và nâng đỡ giang sơn đang gặp khó khăn. Câu thơ thứ sáu, mượn ý từ bài “Tẩy binh mã” của Đỗ Phủ, thể hiện mong muốn chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình cho dân. Mong muốn này được thể hiện qua những hình ảnh thơ vĩ đại và giọng điệu mạnh mẽ, khiến chủ thể trữ tình trở nên vĩ đại ngang với vũ trụ. Dù sức lực và thời vận đã kiệt, nhưng không gì có thể ngăn cản được ý chí và khát vọng của người anh hùng trong sự nghiệp cứu quốc. Dù ở bất kỳ thời điểm nào, tâm nguyện của Đặng Dung vẫn là mang tài năng để giúp vua đem lại hòa bình cho dân tộc. Tuy nhiên, thực tại khắc nghiệt vẫn khiến Đặng Dung không thể tìm ra con đường giải quyết chiến tranh. Mặc dù câu thơ thể hiện điều vĩ đại, nó vẫn mang lại cảm giác ngậm ngùi. Như bao người anh hùng khác, Đặng Dung cũng có khát vọng lớn lao để cứu nước nhưng không thể thực hiện được:

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch

Kỉ độ long tuyền đái nguyệt ma

Thù nước chưa được trả thì tóc đã bạc, điều này phản ánh một tình huống đầy bi kịch. Trong tâm thức tác giả, điều này luôn hiện hữu. Mặc dù có chút ngậm ngùi vì giới hạn tuổi tác trên con đường cứu nước chưa có lối thoát, nhưng tâm huyết và ý chí không hề phai nhạt. Câu kết của bài thơ là điểm sáng, vừa cảm thương cho số phận người anh hùng, vừa khơi dậy niềm tin vào ý chí kiên cường trước mọi hoàn cảnh. Dù thất bại, lòng không nản. Bài thơ vừa buồn vừa như một khúc tráng ca.

Bài thơ thể hiện rõ tinh thần kiên cường của nhân dân ta, dù bị ảnh hưởng bởi tuổi tác hay hoàn cảnh, với lòng căm thù giặc và quyết tâm bảo vệ đất nước. Đây là bài học cho thế hệ trẻ hôm nay, cần không ngừng cố gắng xây dựng quê hương đất nước.

Phân tích tác phẩm Cảm hoài mẫu 3

Truy tụng hai từ linh thiêng - Việt Nam, quê hương ta với lịch sử hùng vĩ kéo dài hàng nghìn năm xây dựng và giữ nước. Mỗi khi chiến tranh nổ ra, dân tộc ta hiệp nhất chống lại kẻ thù. Nếu những khoảnh khắc hào khí Đông A từng vọng lên, thì nguồn cảm hứng ấy đã thúc đẩy Đặng Dung sáng tác tác phẩm xuất sắc “Cảm hoài”.

Đặng Dung, tướng tài, văn thủ tinh tú nhưng khi nói đến thơ, ông đã vẽ nên bức chân dung sâu sắc. 'Cảm hoài' không chỉ thể hiện khao khát hiến dâng tài năng, sức mạnh cho dân, mà còn là ước nguyện được dân hiến cho đất nước, ngay cả khi tuổi đã cao.

Thế sự du du nại lão hà

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

Dịch:

Cuộc sống cay đắng, tuổi già nặng nề

Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi

Đây là hình ảnh của một con người luôn ý thức trách nhiệm với đất nước, với dân tộc. Ông luôn đặt mình trong tình trạng hạn chế về tuổi tác.

Thế sự du du nại lão hà

Thế rồi, việc đời còn mênh mông, còn bao nhiêu công việc cần hiến dâng, nhưng ông nhận ra rằng mình làm được điều gì. Điều này đặt ra câu hỏi về tuổi già và sự day dứt.

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

Cuộc sống rộng lớn, đành thu cả vào cuộc say ca. Đứng trước những ước mơ lớn, nhưng vì bất lực trước tuổi già, ông chỉ có thể chìm đắm trong những cuộc say.

Thời lai đồ điếu thành công dị

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa

(Gặp thời cơ may những kẻ

Tan tành sự thế luống cay ai)

Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của thời cơ và nuối tiếc khi vận số đã hết. Cả hai câu thơ này nói về sự tiếc nuối khi không có cơ hội làm nên điều lớn.

Trí chủ hữu hoài phù địa trục

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà

Dịch

(Phò vua bụng những mong xoay đất

Gột giáp sông kia khó vạch trời)

Ông muốn gỡ bỏ giáp binh, nhưng không thể kéo sông Ngân xuống. Điều này thể hiện sự bất lực trong việc thực hiện những ước mơ và xóa bỏ những gì đã trải qua.

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch

Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma

Dịch

(Đầu bạc giang san thù chưa trả

Long tuyền mấy độ bóng trăng soi)

Nhà thơ nhấn mạnh mối thù vẫn còn, nhưng ông đã già và ước nguyện cuối cùng là được giải thoát từ sự đau khổ. Cả bài thơ là bức tranh của sự đau khổ và lòng hy sinh vô điều kiện vì dân tộc.

Phân tích tác phẩm Cảm hoài mẫu 4

Đặng Dung là danh tướng đời Hậu Trần, theo Trần Trùng Quang chống giặc Minh, lập được nhiều chiến công rất oanh liệt, về sau ông bị giặc bắt, giải về Trung Quốc, dọc đường ông nhảy xuống sông tự tử. Ông chỉ để lại một bài thơ duy nhất, bài "Cảm hoài ” được coi là bài thơ bi hùng nhất trong nền văn thơ cổ điển Việt Nam đầu thế kỉ XV, Nguyễn tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật:

“Thế sự du du nại lão hà,

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.

Thời lai đồ điếu thành công dị,

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.

Trí chủ hữu hoài phù địa trục,

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma”

Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy vong. Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần lập ra triều đại mới. Nhưng chẳng bao lâu sau, nhà Minh đem quân sang xâm lược nước ta: “Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ – Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh” (Bình Ngô đại cáo). Nước ta bị quân giặc chiếm đóng, thành Thăng Long bị chúng đổi thành Đông Quan. Dân tộc ta chìm trong đau thương tang tóc.

Cha con Hồ Quý Ly bị giặc Minh bắt đưa về Trung Quốc. Một bộ phận quý tộc nhà Trần tổ chức kháng chiến, tiêu biểu là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng. Nhưng đại sự không thành, nhiều anh hùng bị giặc bắt, bị giặc giết, trong đó có Đặng Dung. Bài thơ “Cảm hoài" được Đặng Dung viết trong những năm tháng cầm quân đánh giặc, cứu nước. Bài thơ là tiếng nói, là nỗi lòng của một thế hệ anh hùng cay đắng trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, quyết chiến đấu phục thù rửa hận.

Hai câu đầu phản ánh "thế sự" nước ta vào những năm 1407, 1408, 1409… khi quân "cuồng Minh" như sóng dữ ngập tràn non sông Đại Việt. Như một tiếng than khi đứng nhìn thời cuộc: “Việc đời thì dằng dặc mà tu đã già rồi, biết làm thế nào… Đúng là lòng dạ bối rối. Và đó là bi kịch của người anh hùng:

“Thế Sự du du nại lão hà,

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca”

(Việc đời bối rối tuổi già vay,

Trời đất vô cùng một cuộc say).

Nói rằng “thiên địa nhập hàm ca ” là biểu lộ một thái độ về sự đảo điên trong cuộc đời. Câu 1 và câu 2 tương phản về mặt ý nghĩa đã nói lên “nỗi lòng” cảm hoài của nhà thơ. Hai câu trong phần “thực” đối nhau, nêu bật “gặp thời” và “thất thế” đối với người anh hùng. Như một chiêm nghiệm lịch sử đầy cay đắng:

Thời lai đồ điếu thành công dị,

Vận khứ anh hùng ẩm hận da

Đồ điếu: là đồ tể, người làm nghề mổ thịt; điếu: câu cá. Gặp thời, những kẻ “đồ điếu”, bần tiện cũng dễ dàng làm nên công trạng, sự nghiệp lớn. Câu thơ gợi nhớ đến những nhân vật như Phàn Khoái, bán thịt chó, Hàn Tín, câu cá, về sau giúp Lưu Bang mà làm nên sự nghiệp lớn. Trái lại, nhiều anh hùng thất thế (vận khứ) phải nếm, phải uống nhiều hận (ẩm hận đa). Lịch sử từ bao đời nay đã cho ta thấy rõ điều nhà thơ cảm hoài. Trong câu thơ như có nhiều lệ. Đây là lời thơ dịch khá hay của Phan Kế Bính:

“Bần tiện gặp thời, nên cũng dễ,

Anh hùng lỡ bước, ngẫm càng cay”.

Bảy trăm năm đã trôi qua, biết bao vật đổi sao dời, “phế, hưng mấy lớp” mà ba chữ “ẩm hận đa” vẫn làm nhức nhối lòng người. Đó là nỗi cảm hoài vậy. Đó là nỗi cay đắng của người anh hùng thất thế, lỡ bước. Phần “luận” nói lên chí lớn của người anh hùng. Hình tượng thơ kì vĩ, tráng lệ:

“Trí chủ hữu hoài phù địa trục,

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà”.

Trên đường mưu đồ nghiệp lớn, cha bị Trần Ngỗi giết oan, ông đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, vẫn dãi gió dầm sương, xông pha trận mạc, để phò chúa, cứu nước, mong đem lại thái bình cho dân tộc. "Phù địa trục” (nâng trục đất), “vãn thiên hà” (lôi sông Ngân hà xuống) là hai hình ảnh kì vĩ, mang kích thước và tầm vóc vũ trụ, nói lên chí khí và khát vọng anh hùng trong thời loạn. Hai câu thơ hô ứng, đối chọi nhau, tạo nên giọng điệu anh hùng ca đầy ấn tượng. Câu thơ dịch khá hay, lột tả được ý vị cổ điển, trang trọng của vần thơ tráng lệ:

"Vai khiêng trái đất mong phò chúa,

Giáp gột sông trời khó vạch mây”

Hình ảnh người anh hùng mài gươm dưới ánh trăng đã "mấy độ”, trải qua nhiều năm tháng, mái tóc nay đã bạc, gợi lên màu sắc bi tráng. Trăng đã tà. Tuổi đã già. Thế mà "quốc thù” vẫn đè nặng tâm hồn nhà thơ:

“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,

Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma”

“Long tuyền” là gươm báu, thanh gươm để giết giặc, trả mối thù nước, đem lại thái bình cho đất nước và nhân dân. Đây là hai câu thơ đẹp nhất trong thơ văn Lý Trần, chói sáng "Hào khí Đông-A”. Đúng như Lý Tử Tấn, một danh sĩ đầu thời Lê đã viết: "Phi hào kiệt chi sĩ bất năng”. (không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể làm nổi). Không thể lấy sự thành, bại để luận anh hùng. Đặng Dung là một anh hùng hào kiệt. Bài thơ thấm đượm một tình yêu nước, nhức nhối nỗi đau của người anh hùng lỡ bước. Cốt cách thi sĩ lồng trong cốt cách anh hùng. Đó là tư thế hiên ngang lẫm liệt, cho đến chết vẫn mang nặng mối thù nước không nguôi.

Đặng Dung đã “ẩm hận đa”, sự nghiệp “quốc thờ vị báo” không thực hiện được. Nhưng khí phách lẫm liệt, lòng yêu nước thiết tha của người anh hùng mãi mãi trường tồn cùng sông núi Đại Việt. Bài thơ “Cảm hoài” cùng với tên tuổi Đặng Dung mãi mãi là bài ca yêu nước chống xâm lăng:

“Thù trả chưa xong, đầu đã bạc,

Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày!”

Đó là “di hận” của người anh hùng vận khứ - lỡ vận. Nửa thế kỷ sau Nguyễn Trãi trong bài thơ "Quan hải” cũng nói về mối "di hận” ấy. Đó là nỗi đau muôn thuở:

“Họa phúc hữu môi phi nhất nhật,

Anh hùng di hận kỉ thiên niên”

(Hoạ phúc có manh mối, đâu phải một ngày,

Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau).

“Cảm hoài ” là bài ca yêu nước bi tráng, là tiếng vọng sông núi nghìn năm

Mời các bạn cùng tải về bản PDF để xem đầy đủ nội dung

Chọn file muốn tải về:
Đóng Chỉ thành viên VnDoc PRO/PROPLUS tải được nội dung này!
Đóng
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
30 lượt tải tài liệu
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%

Có thể bạn quan tâm

Xác thực tài khoản!

Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

Số điện thoại chưa đúng định dạng!
Số điện thoại này đã được xác thực!
Bạn có thể dùng Sđt này đăng nhập tại đây!
Lỗi gửi SMS, liên hệ Admin
Sắp xếp theo
🖼️

Văn mẫu lớp 12

Xem thêm
🖼️

Gợi ý cho bạn

Xem thêm