Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Văn mẫu: Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 12 hay dành cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 12 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
1. Dàn ý cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
I. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Quang Dũng
– Giới thiệu về tác phẩm và đôi nét về cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã tạo lên sự thành công của thi phẩm “Tây Tiến”.
II. Thân bài
* Cảm hứng lãng mạn:
– Khái niệm: Cảm hứng lãng mạn trong văn học chính là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan để phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn luôn tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập với ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ.
+ Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó đã nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng.
– Biểu hiện của cảm hứng lãng mạn
+ Cảm hứng lãng mạn thể hiện đậm nét trước hết ở cái tôi của tác giả- Quang Dũng. Đầu tiên là phải nói đến nỗi nhớ của nhà thơ đối với đoàn quan Tây Tiến.
+ Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn thể hiện đậm nét trong bút pháp lãng mạn được sử dụng tài tình của tác giả. Những thủ pháp như cường điệu, đối lập được sử dụng rộng rãi, sáng tạo đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mĩ của con người và thiên nhiên của người lính Tây Tiên và thiên nhiên Tây Tiến.
+ Thiên nhiên nơi vùng núi Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang có vẻ đẹp đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang sơ mà ấm áp, làm say lòng người.
+ Những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách ghê gớm với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… được nhắc đến không chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang sơ.
=> Nó vừa gợi ra sự gian nan, bí ẩn, thách thức, vừa gợi sự tò mò, háo hức của những chàng trai thành thị. Tất cả khung cảnh thiên nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc đến mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát hiện ra vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”.
* Tinh thần bi tráng
– Khái niệm: Cái bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việc không né tránh hiện thực, miêu tả cái bi, tức cái gian khổ, đau thương của hiện tại. Cái bi nhưng không phải là bi lụy mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết đó nhưng không hề bi lụy mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được biểu hiện ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
– Biểu hiện:
+ Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở chỗ lời thơ không hề né tránh cái bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải là cái chết bi lụy mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ nhẹ tự long hồng. Cái chết như đi vào cõi bất tử.
+ Trên nền thiên nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo của núi rừng nhà thơ đã tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng bút pháp lãng mạn, nhưng không hề thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng không hề nói đến trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn hình dung được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Với ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã miêu tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi cảm xúc đau thương.
+ Hình ảnh gợi lại những hiện thực đau thương như hình ảnh những nấm mồ “rải rác biên cương mồ viễn xứ” càng nhân lên cảm xúc bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
=> Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi trẻ một thời không chỉ tự nguyện chấp nhận mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng dâng hiến cả sự sống, cả tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, yêu lí tưởng, dâng hiến cả đời xanh, đời trai trẻ đầy hi vọng của mình cho tổ quốc. Đây không phải chỉ là cách nói của thơ ca mà thực sự đây là dũng khí tinh thần và hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc thanh thản đến lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lí gì với họ.
+ Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hi sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Giây phút vĩnh biệt đồng đội vang lên không phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có linh hồn, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, thương tiếc, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông Mã.
+ Sự hi sinh của những người lính Tây Tiến thấm đẫm tinh thần bi tráng và đậm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi, trở thành hồn thiêng của đất nước. Bài thơ 3 lần nói đến cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này: “Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được thiên nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và cường điệu đã đẩy chất bi tráng lên đến đỉnh cao, kì diệu của nó. Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng miêu tả chân dung người lính Tây Tiến.
Chiến trường Tây Tiến ác liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong… Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên con đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã không né tránh cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Một thời đại mà câu“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trở thành một niền tin tuyệt đối. Tinh thần của cái tráng lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại anh hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
– Đánh giá:
Như vậy, cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên linh hồn bất diệt của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp độc đáo của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp đặc sắc của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định giá trị đích thực của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng của một thời đại anh hùng rực lửa, không thể nào quên.
III. Kết bài
- Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và giá trị bền vững của bài thơ Tây Tiến.
- Tiếng thơ đầy bi tráng cùng với hồn thơ cực lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một khung cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử – một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc mà người đọc muôn đời yêu quý, tự hào.
2. Phân tích bài Tây Tiến hay và chất
Nhằm giúp các em học sinh có thêm tư liệu dẫn chứng và ý tưởng phân tích bài thơ Tây Tiến, VnDoc đã biên soạn tài liệu hay và chất riêng cho bài thơ này. Mời các bạn click vào đường link sau để xem mẫu dàn ý và phân tích bài thơ Tây Tiến do chúng tôi cung cấp: Phân tích Tây Tiến hay và chất.
3. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến mẫu 1
Ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc - Quân xanh màu lá dữ oai hùm - Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm - Rải rác biên cương mồ viễn xứ - Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
"Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà "đời vẫn cứ tươi" như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ
"Tây Tiến đoàn quân ..... khúc độc hành"
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi "
hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. 2 chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật hoá" người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ
"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu"
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết
"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân"
Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một môtíp mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lsử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tquốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về HNội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
"Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long"
Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đsống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội.
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Trong Chinh phụ ngâm:
"Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ:
"Áo bào thay chiếu anh về đất"
Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong "Viếng bạn" cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế
"Ở đây không manh ván
Chôn anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cứa Ngàn
Tặng tôi ngày sơ tán"
Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung , một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.
4. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến mẫu 2
“Tây Tiến” là một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào chống lại thực dân Pháp. Đa phần những người lính trong binh đoàn Tây Tiến đều là học sinh sinh viên, trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Năm 1948, sau khi chuyển sang đơn vị khác, nhà thơ đã nhớ về binh đoàn Tây Tiến và sáng tác ra “Tây Tiến”. Bài thơ là sự kết hợp bởi cảm hứng lãng mạn cũng như tinh thần bi tráng.
Trước hết, cảm hứng lãng mạn là một khái niệm được dùng trong văn học, hướng đến cái tôi tràn đầy cảm xúc và lý tưởng. Cảm hứng lãng mạn hướng ngòi bút của tác giả tìm đến những cái độc đáo, khác thường và vượt lên trên những cái quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày. Ngôn ngữ trong cảm hứng lãng mạn giàu tính biểu cảm, tạo được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, các tác giả chủ yếu hướng đến thể hiện trong việc khẳng định phương diện lý tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Đây là một trong những cảm hứng chủ đạo trong sáng tác văn học không chỉ ở Việt Nam, mà còn trên thế giới.
Trong bài thơ “Tây Tiến”, cảm hứng lãng mạn trước hết thể hiện qua cái tôi của Quang Dũng. Tây Tiến được sáng tác khi nhà thơ không còn hoạt động trong binh đoàn Tây Tiến, nhớ về đơn cũ nên đã sáng tác ra bài thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ của tác giả dường như đã trải dài khắp con sông Mã. Nỗi nhớ đến trống vắng, hụt hẫng. “Tây Tiến” là cụm từ để chỉ một đoàn quân nhưng tiếng gọi “ơi” lại vang lên thật trìu mến. Đó là tiếng gọi hết sức thân thương của tác giả với quân đội cũ của mình. Tuy đã xa cách nhưng kỉ niệm, tình cảm vẫn còn đó. Nỗi nhớ về những đêm hành quân đến hội đuốc hoa, từ đêm mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm” đến bản làng vùng cao “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. Đâu đâu cũng chứa đựng một tình cảm sâu sắc, chân thành.
Cảm hứng lãng mạn còn được thể hiện qua bút pháp miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình. Nhà thơ nhớ đến những cuộc hành quân gian khổ nhưng cũng thật hào hùng:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Những người lính Tây Tiến họ phải vượt qua những chặng đường gian khổ. Họ vốn là những thanh niên đất Hà thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch... được nhắc đến không chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi và heo hút. Những con dốc cứ dựng đứng giữa trời đầy nguy hiểm để rồi họ vẫn phải cố gắng vượt qua. Những đỉnh núi cao cao vút như chạm tới mây để rồi có một hình ảnh thật đặc sắc “súng ngửi trời”. Mũi súng trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao nhất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính. Đó là chất tinh nghịch, hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây Tiến. Thiên nhiên hùng tráng là như vậy, nhưng người lính vẫn hiên ngang đứng vững.
Hình ảnh đoàn binh hành quân trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội mà nên thơ. Mưa rơi mịt mù khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông ở lưng chừng núi thấp thoáng không rõ. Câu thơ toàn thanh bằng gợi không gian mênh mông. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường - nơi có những mái nhà dân hiền hòa, yêu thương và ấm áp tình quân dân.
Không chỉ vậy, gian khổ còn là những “thác gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo cái oai linh, bí ẩn của rừng đại ngàn. Vẻ hoang vu của nơi rừng núi được khám phá ở thời gian “đêm đêm”, “chiều chiều”. Việc miêu tả ở cả không gian, thời gian. Nó luôn là mối đe dọa sẵn sàng nuốt chửng con người. Đặc biệt họ toàn là những người lính trẻ thủ đô mới lần đầu rời thành phố đến rừng đại ngàn. Vì thế ấn tượng về Tây Bắc với những địa danh xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, ác liệt, không kém cuộc đọ sức với quân thù.
Nhưng thiên nhiên Tây Bắc cũng đầy thơ mộng: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Và đặc biệt nhất là đoạn thơ:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Khung cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, đầy hoang dại, huyền ảo. Cảnh vật dường như trở nên có hồn hơn. Hình ảnh những bông hoa lau nở trắng sáng, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là những thi liệu cổ điển quen thuộc nhưng khi đi vào thơ của Quang Dũng như mang hồn lưu luyến của cảnh chia ly. Trên dòng nước đó xuất hiện dáng người trên thuyền độc mộc. “Hoa đong đưa” vừa là hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đong đưa làng duyên trên dòng nước lũ; vừa là hình ảnh ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc. Các cô như những bông hoa rừng đong đưa trên sông nước. Vẻ đẹp của những cô gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài thơ càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm hành quân gian khổ, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm dừng chân bên bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Gói xôi chứa chan tình cảm của cô gái Mai Châu. Những cô gái miền sơn cước xinh đẹp làm nhiệm vụ nuôi quân không quản ngại vất vả, hiểm nguy đã để lại trong lòng người lính trẻ một nỗi nhớ. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp ngày mùa lẫn tình em ấm áp.
Hay những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi:
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc. Hai chữ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của người lính. Những cô gái Tây Bắc trong bộ xiêm áo đang múa điệu múa truyền thống trong. Tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn.
Còn tinh thần bi tráng được thể hiện qua hình ảnh người lính Tây Tiến. Trước hết, bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việc miêu tả hiện thực, không né tránh cái bi, tức cái gian khổ, đau thương. Cái bi nhưng không phải là bi lụy mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết nhưng không bi lụy mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được biểu hiện ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở chỗ lời thơ không né tránh cái bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải là cái chết bi lụy mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử.
Hai câu thơ đầu là hình ảnh thật chân thực về binh đoàn Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Trong những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ khó khăn, bom đạn hóa chất của kẻ thù đã làm cho mái tóc của người lính không còn đẹp đẽ nữa. Nhưng ở đây lại là “không mọc tóc” có nghĩa là người lính Tây Tiến đã chủ động lựa chọn cạo trọc đầu để thuận tiện cho sinh hoạt kháng chiến. Kế tiếp là hình ảnh “quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi ra hai cách hiểu. Đó có thể là màu xanh của lớp lá ngụy trang. Trên đường hành quân nơi chiến trường, người lính phải ngụy trang để tránh khỏi tai mắt của kẻ thù. Ở đây, màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của cây rừng. Cách hiểu thứ hai chính là khuôn mặt xanh xao của những người lính bởi những cơn sốt rét rừng. Dù hiểu theo cách nào, người đọc cũng sẽ thấy được những khó khăn gian khổ mà người lính phải trải qua. Nhưng không vì những khó khăn ấy mà họ mất đi tinh thần lạc quan của. Họ luôn sẵn sàng đối mặt với mọi khốc liệt nơi chiến trường bom đạn.
Mạnh mẽ là thế, nhưng cũng có đôi lúc người lính cũng đầy thơ mộng:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Những người lính tuổi đời chỉ mới mười tám đôi mươi. Họ lên đường chiến đấu khi vẫn còn mang trong mình nhiều khát khao của tuổi trẻ. Hình ảnh “mắt trừng” gợi đến một đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm. Đôi mắt ấy “gửi mộng qua biên giới” với khát vọng về một hòa bình cho tổ quốc, cho nhân dân. Để rồi khi đêm đến họ mơ về “Hà Nội dáng kiều thơm”. Đó có thể là những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch. Trên con đường hành quân gian khó ấy, họ nhớ đến hình ảnh Hà Nội - thủ đô của đất nước với một niềm mong ước chiến thắng được trở về thăm lại quê hương.
Và rồi có trận chiến nào mà không phải trải qua những mất mát, hy sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Hai câu thơ này là hình ảnh tả thực về cái chết của những người lính. Từ láy “rải rác” kết hợp với cụm từ Hán Việt “biên cương mồ viễn xứ” làm cho câu thơ trở nên trang trọng hơn. Đó không phải là một cái chết mà rất nhiều cái chết. Cho dù có vậy, các anh vẫn ra đi chẳng tiếc tuổi trẻ, chẳng tiếc đời mình:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các anh đang mặc. Điều kiện chiến tranh khắc nghiệt, thiếu thốn đến không có cả chiếu để bọc thi thể người lính đã hi sinh. Những người đồng đội của các anh phải lấy chiếc áo mà các anh đang mặc để chôn cất. Cách nói “về đất” là nói giảm, nói tránh để giảm bớt đau thương và cũng là sự ngợi ca, trân trọng dành cho người anh hùng của quê hương đất nước. Hình ảnh cuối cùng “sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự thành kính đưa tiễn các anh.
Với giọng thơ trang trọng, Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh người lính mang vẻ đẹp bi tráng. Họ dường như được bất tử hóa - trở thành tượng đài trong lòng mỗi người đọc.
Qua phân tích trên, có thể thấy được Tây Tiến đã được xây dựng dựa trên cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
5. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến mẫu 3
Quang Dũng là nhà một trong số những nhà thơ có nhiều sáng tác xuất sắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp với hồn thơ đặc biệt lãng mạn, phóng khoáng và hào hoa. Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm tiêu biểu, nổi bật trong đó có bài thơ Tây Tiến. Một trong số những yếu tố làm nên nét nổi bật trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng chính là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng . Nhờ hai nguồn cảm hứng như vậy mà Quang Dũng thành công trong việc xây dựng hình ảnh người lính lãng mạn mạn mà vẫn đậm chất bi tráng.
Đoàn quân Tây Tiến thành lập năm 1947 với nhiệm vụ là phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt-Lào bao gồm phần lớn là thanh niên Hà Nội. Làm đại đội trưởng ở đó đến cuối năm 1948 thì Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Nhà thơ nhớ về đơn vị cũ nên viết bài thơ này ở Phù Lưu chanh. Có lẽ chính vì vậy mà nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến, về những tháng ngày làm việc cùng với biết bao anh em khiến cho nhà thơ nuôi dưỡng cho mình trạng thái cảm xúc mãnh liệt trong những vần thơ và hình ảnh thơ trong bài.
Cảm hứng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt một tác phẩm thể hiện đồng thời suy nghĩ, tình cảm mãnh liệt của người viết từ đó nó trở thành một vũ khí vô hình tác động không nhẹ đến người đọc. Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến được thể hiện trong việc hướng tới những cái đẹp, những cái lạ, những cái khác thường trong cuộc sống hàng ngày hay tô đậm cái phi thường và ấn tượng mạnh mẽ về những cái phi thường. Còn cảm hứng bi tráng giúp người viết tái hiện những hình ảnh trong thực tế với những khó khăn và thách thức nhưng mọi thứ hiện lên vẫn không hề tầm thường, nhỏ bé. Cảm hứng lãng mạn và bi tráng luôn luôn song hành với nhau trong suốt bài thơ đan xen hòa quyện với nhau trong từng phần phần làm nên những nét đặc sắc rất riêng của Tây Tiến.
Cảm hứng lãng mạn trước hết được thể hiện qua những câu thơ miêu tả về thiên nhiên vùng núi Tây Bắc. Cảnh vật thiên nhiên trong nỗi nhớ của Quang Dũng là hiện thực cuộc sống đó là sự khắc nghiệt hoang sơ, dữ dội. Nhưng qua cách viết của tác giả thì trước thực tế như vậy, người lính vẫn luôn cảm nhận được sự thơ mộng của cảnh vật trong trạng thái lạc quan, yêu đời. Từ nỗi nhớ mở đầu về dòng sông Mã, nhà thơ nhớ về chặng đường hành quân. Trước tiên đó là hình ảnh màn sương dày đặc lạnh buốt che lấp mỗi bước đi của đoàn quân khiến cho họ trở nên mệt mỏi “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Hay đó là hình ảnh dốc núi quanh co, hiểm trở:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Bên cạnh việc sự thực khắc nghiệt của cuộc sống được tô đậm thì nhà thơ Quang Dũng cũng tái hiện lại những chi tiết hình ảnh mượt mà nhẹ nhàng và đầy màu sắc của trí tưởng tượng bay bổng. Đó là hình ảnh “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Đi qua địa danh Mường Lát vào ban đêm họ như thấy mùi hương hoa theo về, đi trong màn sương dày đặc lạnh buốt mà tưởng như trong một đêm hơi bồng bềnh, huyền ảo. Có lẽ chính sự tưởng tượng và cảm hứng lãng mạn đã tạo nên một chi tiết vô cùng thi vị và nên thơ dành cho người lính Tây Tiến. Không chỉ vậy nét thơ mộng của cảnh vật tiếp tục được tái hiện ở câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” câu thơ chỉ toàn thanh bằng khiến cho chúng ta cảm nhận được một cảm giác bình yên nhẹ nhàng và thoải mái. Chúng ta có thể hình dung ra một khung cảnh thơ mộng khi người lính sau một chặng đường vất vả vượt dốc cao có thể dừng chân bên trên dốc núi phóng tầm mắt nhìn ra xa để để ngắm nhìn một không gian mịt mù sương núi. Không dừng lại ở đó, vẫn dưới cái nhìn của một tâm hồn nhạy cảm, thiên nhiên Tây Bắc tiếp tục được tái hiện trong những vần thơ miêu tả cảnh sông nước:
“Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Đây là cảnh thiên nhiên vào một buổi chiều ở Châu Mộc có sương giăng mắc bảng lảng, mơ hồ với dòng sông thi vị nên thơ và bến bờ hoang dại với cả những hồn lau. Trên nền thiên thiên này nổi bật lên hình ảnh con người, dáng đứng trên độc mộc. Đó là dáng đứng đẹp, khỏe khoắn, hùng dũng và hiên ngang của con người Tây Bắc. Những câu thơ trên cũng cho thấy sự đối lập giữa cái dữ dội của thiên nhiên (dòng nước lũ) với sự mềm mại tươi mát của hoa đong đưa. Những cánh hoa như có cảm xúc biết làm duyên làm dáng bên dòng nước… Chỉ bằng vài nét gợi tả Quang Dũng đã khắc họa được một bức tranh phong cảnh với vẻ đẹp huyền ảo, xa xăm và thơ mộng cho thiên nhiên Tây Bắc.
Không chỉ thiên nhiên, cảm hứng lãng mạn còn được thể hiện ở hình ảnh người lính Tây Tiến – những thanh niên của tuổi trẻ Hà thành đầy phong lưu, nhiệt huyết. Điều này thể hiện ở cách nhìn của người lính đối với thiên nhiên. Họ nhìn màn sương với cảm giác bồng bềnh: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Họ tếu táo vui, đùa trước độ cao của dốc núi qua hình ảnh “súng ngùi trời”. Họ phóng tầm mắt mình ra xa để cảm nhận hơi ấm từ những ngôi nhà mịt mù trong sương: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đặc biệt họ hòa mình vào đêm liên hoan nhộn nhịp, sống động với: “Khèn lên man điệu nàng e ấp /Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Có lẽ cảm hứng lãng mạn được thể hiện đậm nét nhất khi Quang Dũng tái hiện chân dung người lính Tây Tiến bằng những nét vẽ gân guốc, lạ hóa, phi thường “không mọc tóc”, “xanh màu lá”, “dữ oai hùm”, “mắt trừng gửi mộng”. Qua những chi tiết miêu tả ngoại hình kỳ lạ chúng ta thấy được vẻ kiêu hùng oai phong, lẫm liệt của những chiến sĩ can trường. Chính vẻ đẹp lãng mạn như vậy đã nâng đỡ người chiến sĩ vượt qua những khó khăn của thực tế nghiệt ngã. Qua đó chúng ta cũng cảm nhận được về tinh thần lạc quan của thế hệ thanh niên trong cuộc kháng chiến đến mà sự trở về là là một điều mong manh.
Song song với cảm hứng lãng mạn, cảm hứng bi tráng cũng làm nên vẻ đẹp của người lính Tây Tiến và sự thành công của bài thơ. Người lính Tây Tiến phải đối diện với rất nhiều khó khăn trong thực tế. Đó có thể là hình ảnh sương dày đặc trên đường hành quân, cũng có thể là những lần vượt dốc lội suối với những hiểm nguy và tất nhiên cái chết cũng luôn cận kề. Những cơn sốt rét rừng hành hạ rồi nơi rừng thiêng nước độc không có thuốc đầy đủ khiến cho người lính “không mọc tóc”, “xanh màu lá”. Chính vì như vậy những nấm mồ vô danh nằm rải rác khắp mọi nơi lạnh lẽo:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Sự hi sinh của những người lính Tây Tiến chính là nỗi đau, sự mất mát lớn đối với không chỉ tác giả mà với toàn dân tộc Việt Nam mọi thế hệ. Thế nhưng, qua ngòi bút của Quang Dũng, sự hi sinh ấy, cái bi ấy đã vơi bớt đau thương, không còn là bi lụy nữa mà trở thành hình tượng bi tráng – hình tượng những người con đất Việt dũng cảm, anh hùng. Sáng lên ở đoàn quân Tây Tiến là tinh thần quyết tâm vượt qua khó khăn, gian khổ, ở tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh ” Chiến trường đi chẳng tiếc tuổi xanh”. Quang dũng đã thật tài tình khi miêu tả cái chết của người lính trong chiếc áo bào “Áo bào thay chiếu anh về đất” để thể hiện cái tráng. Thật là một hình ảnh xúc động! Tấm áo người lính được gọi một cách trang tọng là “áo bào” – tấm chiến bào rực rỡ của các danh tướng ngày xưa ra trận. Cách nói trang tọng ấy đã giảm phần thê lương của cái chết. “Anh về đất” – Họ không chết mà chỉ đi tiếp con đường của tổ tiên để giữ vững non sông đất nước. Anh đang trở về với đất mẹ, với Tổ tiên khi đã hoàn thành nhiệm vụ với Tổ quốc. Âm thanh miêu tả âm thanh của dòng sông Mã cũng là một cách để thể hiện cái tráng ở đây : “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Không giọt lệ rơi, không lời ai điếu, không loạt đạn tiễn đưa mà chỉ một tiếng gầm đã diễn tả đầy đủ nỗi đau dữ dằn thấm thía. Cái chết của người lính hoàn toàn không còn thê thảm, đau thương mà ngược lại, nó tráng lệ và cao đẹp vô cùng!
Có thể thấy, cảm hứng lãng mạn và bi tráng luôn đi liền với nhau trong suốt tác phẩm. Nhờ có hai nguồn cảm hứng như vậy mà Quang Dũng đã có thể tạc lên bức tượng đài bất tử về người lính trên nền thiên nhiên với nhiều màu sắc đẹp đẽ. Cả nội dung và nghệ thuật của bài thơ một lần nữa lại được in đậm.
Tóm lại, cảm hứng lãng mạn và bi tráng là hai cảm ứng độc đáo trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng. Chính nhờ hai nguồn cảm hứng như vậy mà Quang Dũng đã tạo nên một kiệt tác khiến cho người đọc có thể hình dung được về bức tượng đài mang tên người lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp yêu đời lạc quan nhưng cũng đầy kiên cường trước những khó khăn thử thách của thực tế.
6. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến mẫu 4
Quang Dũng là nhà thơ đa tài có khả năng cảm nhận và diễn tả vẻ đẹp của thiên nhiên của con người một cách tài hoa tinh tế nhưng cũng rất mực bình dị chân thành. Bài thơ Tây Tiến tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Không lẩn tránh đề cập đến cái bi nhưng nhà thơ đã đem đến cho nó một cảm hứng lãng mạn, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Tinh thần bi tráng, cảm hứng lãng mạn đã được triển khai trên nền cảm xúc kí ức một thời Tây Tiến.
Cuối năm 1947 Quang Dũng ra nhập đoàn quân Tây tiến, tham gia phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Lào – Việt. Địa bàn hoạt động của Đoàn quân khá rộng: Mai Châu, Mộc Châu,Sầm Nứa rồi vòng về miền tây Thanh Hoá. Phần đông họ là những thanh niên trí thức Hà Nội, sinh hoạt của họ vô cùng thiếu thốn gian khổ, đánh trận thương vong ít, sốt rét tử vong nhiều. Nhưng họ vẫn chiến đấu rất dũng cảm, vẫn lạc quan yêu đời. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, xa đơn vị ít lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (Hà Đông cũ), ông viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”, sau in lại năm 1975, ông bỏ chữ “Nhớ”. Bởi cả bài thơ đã ngập tràn nỗi nhớ niềm tự hào của tác giả về đoàn binh Tây Tiến.
Nếu như các nhà thơ cùng viết về người lính bằng cảm hứng hiện thực với vẻ đẹp hồn nhiên, chân chất giản dị. Thì Quang Dũng lại tạc vào thời gian, vào lịch sử dân tộc hình tượng người lính có một không hai bằng cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng
Có một thời, nhắc đến khái niệm “lãng mạn” người ta thường đồng nhất nó với những gì xa rời thực tế, cá nhân, tiêu cực, mềm yếu… và người ta phản đối, phê phán, thậm chí tẩy chay nó. Nhưng nếu xét đến tận cùng, phần lãng mạn ấy không thể thiếu trong đời sống tinh thần, trong tâm hồn con người và cái gọi là “lãng mạn” ấy cũng thật nhiều vẻ, nhiều hình. Nó có thể làm con người ta nhỏ lại, yếu hèn đi nhưng cũng có thể đem đến cho con người có sức mạnh phi thường để làm nên những điều phi thường.
Cuộc sống tinh thần của mỗi con người hay cả một cộng đồng dân tộc sẽ nghèo nàn, cằn cỗi và nhàm chán biết bao nếu thiếu đi những ước mơ bay bổng, thiếu đi trí tưởng tượng phong phú, diệu kì… Lãng mạn hiểu theo nghĩa đúng đắn, chắp cánh cho những ước mơ, thúc giục con người hướng tới cái đẹp, cái cao cả và sự hoàn thiện mà hiện thực cuộc sống còn chưa đạt tới.Vì nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Nên cảm hứng lãng mạn thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Trong văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 nó chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn của bài thơ trước hết là nỗi nhớ tha thiết khắc khoải của tác giả. Một thời của Tây Tiến tưởng như đã lùi vào kỷ niệm. Nhưng rồi khi ngồi ở Phù Lưu Chanh, trong phút chốc, những kỷ niệm đó lại trở về trong nỗi nhớ thương cồn cào tha thiết đến mức tác giả không thể kìm nén được đã phải thốt ra lời.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Con sông cuồn cuộn chảy giữa những ngày gian truân vất vả của người chiến sĩ Tây Tiến. Nay đã “xa rồi”, đã là quá khứ rồi, nhưng nỗi nhớ thì không thể nào nguôi được, mà dường như nó da diết đến quặn lòng: “Nhớ chơi vơi”. Đó là nỗi nhớ không định hình, khó nắm bắt, khó diễn tả bằng lời. Nhưng nó cũng thật bao la bát ngát lại vừa có chiều sâu như xoáy vào lòng người.
Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên thân thiết như tiếng gọi người thân. Từ cảm “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng tha thiết sâu lắng bồi hồi ngân dài trong lòng người vọng vào thời gian, lan rộng trong không gian. Hai tiếng “Xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ hô ứng với điệp từ “nhớ”ở câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây.
Sau tiếng gọi tha thiết ấy biết bao hòai niệm về một thời gian khổ của chiến trường Tây Bắc xưa hiện về trong tâm tưởng của người lính Quang Dũng. Cứ như thế, nỗi nhớ trải dài theo hình sông thế núi, qua những tên bản tên mường với những chặng đường hành quân vất vả:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Để rồi vượt lên trên những gian khổ hy sinh, hành trang của người lính đầy ắp những kỷ niệm đẹp về tình quân dân.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Cạnh núi rừng hiểm trở với độ cao rợn người là mái nhà thấp thoáng ẩn hiện trong làn mưa mỏng nơi lưng chừng núi; bên cạnh vùng đất hoang dại chứa đầy bí mật ghê gớm của rừng thiêng với thác gầm thét, cọp trêu người là một bản làng có cơm lên khói, có mùi thơm của cơm nếp xôi và những cô gái xinh đẹp như những bông hoa rừng. Đây là khung cảnh thực của chiến trường Tây Tiến đã được khúc xạ qua tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những anh lính người Hà thành. “Nhớ ôi”, “cơm lên khói”, đó là tiếng lòng dạt dào của các anh khi nhớ tới cảnh tượng đầm ấm của tình quân dân
Không chỉ có nỗi nhớ, chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn chính là cảm hứng bay bổng của nhà thơ hướng tới vẻ đẹp hào hùng và hào hoa của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Trong hòai niệm của nhà thơ, thiên nhiên Tây Bắc trở thành một hình tượng lớn, nhằm tô đậm cái ý chí dấn thân của người lính Tây Tiến
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Đó chính là sự gian khổ mà người lính phải vượt qua. Còn đỉnh núi: mù sương cao vút, núi cao tưởng chừng như chạm tới mây: Cồn mây – Súng ngửi trời. Mây và sương mù tụ lại thành cồn heo hút, người lính đi trên những ngọn núi cao ấy như đi trên những cồn mây, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Mũi súng của người chiến sĩ đã được nhân cách hoá đầy chất lính nhưng cũng thật ngộ nghĩnh hồn nhiên yêu đời “súng ngửi trời”,
Hình ảnh đó khiến ta liên tưởng tới hình ảnh “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu.Tại đây , cái đẹp của thiên nhiên và con người đã gặp chỗ tương đồng. Thiên nhiên và con người đã trở nên thân thiết đến mức khó tin: Súng(người chiến sĩ) ngửi trời (thiên nhiên).
Các anh đi trong sương lấp, đêm hơi, vượt dốc cao, vực thẳm lên đến tận cồn mây heo hút trong lam sơn chướng khí, gió núi mưa ngàn. Bao quanh các anh là mọi hiểm nguy như đe doạ, án ngữ bước chân các anh, như chực bóp nát đoàn quân mệt mỏi. Ngoại cảnh sẽ làm các anh chùn bước chăng ? Không! Qua giây phút rợn ngợp ban đầu, các anh lại tiến lên dũng mãnh hơn. Để rồi khi chiếm lĩnh được mọi tầm cao, dừng chân trên một đỉnh đèo nào đó, phóng tầm mắt ra xa, qua không gian mù mịt của sương rừng mưa núi, các anh chợt vỡ oà niềm vui sướng hạnh phúc trước cảnh làng quê êm đềm tuyệt đẹp như trải ra trước mắt:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Câu thơ toàn thanh bằng êm ả mềm mại, nhẹ nhàng như một làn gió mát làm khô đi những giọt mồ hôi mệt nhọc của các anh, và trải rộng trước mắt các anh hình ảnh thôn xóm xanh tươi thanh bình hòa lẫn trong làn mưa bụi bay gợi nỗi nhớ quê nhà. Dưới con mắt hào hoa và lãng mạn của người lính Tây Tiến Hà thành, núi rừng sâu thẳm bỗng đẹp lạ kỳ, vẻ đẹp nên thơ và hết sức hào hùng
Vẻ đẹp ấy được cảm nhận từ một hiện thực gian khổ và đầy khốc liệt, khó khăn. Chính vì thế, chất lãng mạn của bài thơ càng đáng trân trọng, nâng niu. Nói đúng hơn, chính nhờ chất lãng mạn ấy mà người lính Tây Tiến có thể vượt qua được mọi vất vả gian lao, mọi khó khăn thử thách. Chất lãng mạn trong Tây Tiến xuất hiện dường như để lại ”thăng bằng” cho cảnh vật và tâm hồn của con người. Vì thế bên cạnh một thiên nhiên hiểm trở, dữ dằn, những núi đá cheo leo, những cảnh rừng thiêng nước độc… ta lại thấy một thiên nhiên thơ mộng đến say người, một Tây Bắc đẹp như tranh thuỷ mạc:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Một dòng sông trong một buổi chiều sương giăng mắc, đôi bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Và nổi bật trên dòng sông huyền thoại ấy là Hình dáng mềm mại uyển chuyển của người cầm lái trên chiếc thuyền độc mộc cùng hồn lau và hoa đong đưa làm duyên bên dòng nước lũ. Tất cả, người và cảnh đều hài hòa duyên dáng thơ mộng.
Ngòi bút của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Ông không tả cây lau mà chỉ gọi hồn lau. Ông không nhớ con người Châu Mộc mà nhớ dáng vóc mềm mại của họ in bóng trên sông nước. Không nhớ những bông hoa mà tác giả chỉ nhớ cái ngả nghiêng đong đưa tình tứ của những bông hoa rừng.
Qua vài nét loáng thoáng, cảnh vật trong thơ Quang Dũng như có hồn. Nhà thơ không chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi ra được cái phần thiêng liêng của cảnh vật. Cách tự hỏi “có nhớ”, “có thấy” của tác giả đã tạo cho âm hưởng của khổ thơ man mác bâng khuâng như đang ru hồn ta vào cõi mộng. Chất nhạc, chất hoạ, chất thơ cũng toát ra từ đó. Và cũng qua đây ta càng hiểu thêm vẻ đẹp trong tâm hồn của các chiến sĩ Tây Tiến: Trong gian khổ và thử thách, trong gian truân và chết chóc, họ vẫn lạc quan yêu đời, hồn nhiên và thơ mộng.
Và không chỉ Thiên nhiên Tây Bắc cứ “chơi vơi” trong nỗi nhớ của nhà thơ giữa hai gam màu vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa tươi tắn, thơ mộng. Mà chất lãng mạn bay bổng này còn thể hiện rõ khi tác giả khắc họa chân dung người lính Tây Tiến.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Thơ ca kháng chiến khi viết về người lính thường hay đề cập đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí” đã trực tiếp miêu tả căn bệnh này: “Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh. Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”. Còn Tố Hữu trong bài “Cá nước”, cũng không quên căn bệnh quái ác đó: “Giọt giọt mồ hôi rơi. Trên má anh vàng nghệ”. Quang Dũng trong “Tây Tiến” cũng không hề che dấu những gian khổ khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hy sinh lớn lao của người lính. Chỉ có điều tất cả những cái đó không hiện ra một cách trần trụi, mà nó được nhà thơ phản ánh qua cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn.
Đoàn binh không mọc tóc: hình ảnh thơ muốn nói đến những người lính đầu trọc lốc. Phải chăng đây là hình ảnh ly kỳ giật gân, sản phẩm của trí tượng bịa đặt của nhà thơ? Không! Chứa đựng trong đó là sự thật nghiệt ngã: các chiến sĩ Tây Tiến người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng cả tóc.
Còn hình ảnh “quân xanh màu lá” thì sao? Màu xanh ấy là của lá ngụy trang hay của màu áo ? Có lẽ cả hai, nhưng cái quan trọng hơn là nhà thơ muốn nói đến căn bệnh sốt rét rừng. Những ngày đói ăn, thiếu mặc cùng căn bệnh sốt rét đã làm các anh tóc rụng da xanh tiều tụy
Và như thế hình ảnh “không mọc tóc” và “quân xanh màu lá”đã phản ánh cái khốc liệt, cái dữ dội của chiến tranh, của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng ngọn tầm vông chống lại sắt thép quân thù. Nhưng ẩn dưới cái vẻ ngoài tiều tụy ấy, các chiến sĩ Tây Tiến là những người ốm nhưng không yếu. ở họ toát lên sức mạnh tinh thần phi thường “Không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” nhưng “dữ oai hùm”,dữ dằn oai phong như hổ. Hình ảnh ẩn dụ “dữ oai hùm” đã nói lên chí khí hiên ngang tinh thần quả cảm. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản. Quang Dũng đã lấy cái thô, cái mộc để tô đậm cái oai phong cái dữ dằn của người lính Tây Tiến.Và sự dữ dằn ấy còn được thể hiện qua ánh mắt: “Mắt trừng”è Đó là ánh mắt giận dữ, dữ dội, nảy lửa đầy áp đảo đối với kẻ thù.
Như vậy chỉ với mấy câu thơ, tác giả đã chạm khắc vào lịch sử hình ảnh đoàn quân phi thường độc đáo có một không hai trong cuộc đời cũng như trong thơ ca. Không chỉ có sức mạnh phi thường các anh còn có đời sống nội tâm phong phú , có những nét hào hoa mơ mộng gửi về hai phía chân trời: Mộng qua biên giới: mộng tiêu diệt kẻ thù bảo vệ biên cương, mộng lập nên chiến công nêu cao truyền thống anh hùng. Còn mơ, những tâm hồn, những trái tim rạo rực yêu đương ấy lại
Mơ về Hà Nội dáng kiều thơm.
Nếu người nông dân mặc áo lính của Chính Hữu mang theo nỗi nhớ giếng nước gốc đa, nhớ mái nhà gianh, nhớ ruộng nương, người vệ quốc trong thơ Hồng Nguyên nhớ người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya, thì người lính trong thơ Quang Dũng, nỗi nhớ ấy gắn với mơ: Mơ dáng kiều thơm. Mơ tới những tà áo trắng những thiếu nữ thân quen nơi trường xưa phố cũ. Họ vốn là các sinh viên Hà thành xếp bút nghiên theo việc cung kiếm, giàu lòng yêu nước nhưng cũng rất độ hào hoa “Từ thuở mang gươm đi mở nước, Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Nên sống giữa núi rừng miền Tây ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mùng nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội thân yêu. Trong trái tim mỗi người ra trận, làm sao có thể quên được những hàng me hàng sấu. Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thân quen.
Đó là vầng những sáng lung linh của người lính. Và chính vầng sáng lung linh ấy đã tạo nên sự cân bằng thư thái trong tâm hồn người chiến sĩ sau mỗi chặng đường hành binh vất vả. Nó không làm thối chí nản lòng các anh mà ngược lại nó như làm tăng thêm sức mạnh, tăng thêm nhiệt tình cách mạng. Bởi các anh là người hiểu hơn ai hết mình chiến đấu vì ai, vì cái gì. Và các anh cũng hiểu hơn ai hết giá trị của tình yêu, của độc lập tự do của một dân tộc được đo bằng chính xương máu của hàng ngàn hàng vạn con người Việt Nam .
Để giúp cho trí tưởng tượng bay cao, bay xa và tình cảm, cảm xúc được diễn tả một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất, nhà thơ đã vận dụng rộng rãi thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa cái hùng vĩ, dữ dội với cái tuyệt mĩ, thơ mộng, giữa gian khổ, vất vả với anh hùng, bất khuất, giữa cái bi và cái hùng… tô đậm cái phi thường, đồng thời cũng để tạo sự”cân bằng” giữa hai màu sắc – hiện thực và lãng. Sự đối chọi này được thể hiện trong từng câu thơ, từng đoạn thơ cũng như toàn bài thơ
Tính chất lãng mạn của bài thơ còn thể hiện ở một phương diện khác. Đó là chất bi tráng. Nhà thơ đề cập đến những mất mát đau khổ, hi sinh nhưng không gợi cho người đọc cảm giác bi quan, chán nản. Cảm xúc, hình tượng trong tác phẩm khỏe khoắn, mạnh mẽ, khơi gợi cho người đọc đến niềm tin, khát vọng về cuộc sống
Sự phi thường nét hào hoa của người lính Tây Tiến không chỉ được thể hiện trong tính cách của họ lúc sống chiến đấu mà còn được thể hiện một cách tập trung sâu đậm qua cái chết bất tử.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Mới đọc qua, ta tưởng như nó chỉ làm nhiệm vụ thông báo bình thường nhưng lại có sức gợi tả thật lớn lao. Từ “rải rác” không những không gợi được sự thưa thớt ít ỏi vốn có của nó mà lại gợi cho người đọc cảm giác nhiều, nhiều vô kể.( rải rác – biên cương – mồ – viễn xứ à gợi ra cảm giác dài xa xôi hoang vắng). “Mồ viễn xứ”: những ngôi mộ xa xứ. Đồng nghĩa với những ngôi mộ vô chủ không ai hương khói. Cụm từ ấy như xoáy sâu vào lòng người một sự nhức nhối xót xa đến trào nước mắt.
Những ngôi mộ xa xứ kia rồi sẽ ra sao ? Ai là người thắp cho họ nén nhang cho hương hồn họ siêu thoát. Những nấm mồ không tên, những cái chết vô danh vĩnh viễn nằm lại nơi biên cương xa xôi hoang vắng đến ghê người. Không một giọt nước mắt mẹ già, người thân. Không một lời vĩnh biệt. Thời gian sẽ qua đi, tất cả sẽ xoá nhòa vào lòng đất. Các anh sẽ mãi mãi là những chiến sĩ vô danh, không còn ai nhớ đến chăng? Câu thơ mang âm điệu trầm hùng bi tráng phơi bày hiện thực phũ phàng, đưa người ta đến vực thẳm của sự bi quan.
Nhưng mỗi lần như thế, Quang Dũng lại được nâng đỡ bởi đôi cánh của lý tưởng của tinh thần lãng mạn. Chính vì thế mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi kia như bị mờ đi trước lý tưởng quên mình vì tổ quốc của người lính Tây Tiến.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Đời xanh là đời trai trẻ, là tuổi thanh xuân của những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng. Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh: Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn . Dường như cái chết đã được đặt ra từ trước, họ đâu có băn khoăn trước sự mất còn. Cái chết với họ nhẹ tựa lông hồng.
Câu thơ không bi quan uỷ mị mà nó vang lên như một lời thề thiêng liêng cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc theo tinh thần thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Chính vì thế mà họ bất chấp tất cả gian khổ hi sinh để ra đi chiến đấu một cách kiêu hùng.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Các tráng sĩ giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây là niềm kiêu hãnh. Còn các chiến sĩ Tây Tiến chỉ có chiếc áo rách vai mà các anh gọi lá áo bào: Thực ra đó cũng chỉ là cách nói sang trọng, một cái cười gượng gạo trên môi nhà thơ trước một thực tế quá trần trụi đau buốt tâm can: Họ hy sinh mà không một manh chiếu che thân. Anh về đất là è các anh đã chết, đã hy sinh. Chiến đấu giết giặc vì quê hương đất nước, các anh ngã xuống là các anh về đất, là nằm trong lòng đất mẹ Tổ quốc thân yêu. Anh về đất là các anh đã thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình, các anh hóa thân cho dáng hình xứ sở. Anh về đất nghĩa là hồn các anh đã hòa vào cây cỏ, sông núi để trở thành hồn thiêng đất nước.
Diễn tả về sự mất mát lớn lao mà Quang Dũng nói thật nhẹ nhàng, thật thanh thản. Nhà thơ không dùng từ chết hay hy sinh mà là “về đất” để ca ngợi, để làm bình thường hoá vấn đề và tạo nên vẻ đẹp lãng mạn mang tính chất bi hùng. Và người lính Tây Tiến ra đi cũng không cần một lời điếu văn, một giọt nước mắt. Mà chỉ có trời đất chứng giám, thu nhận thể xác linh hồn họ vào lòng. Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Động từ “gầm” dội xuống mạnh mẽ tạo nên âm trầm vang như tiếng đạn đại bác tiễn đưa linh hồn người đã khuất về cõi vĩnh hằng, như tiếng kèn đồng trong bài chiêu hồn tử sĩ.
Sông Mã gầm lên như một nghi lễ trang trọng tiễn biệt các anh. Các anh vĩnh viễn nằm lại nơi đây. Nhưng dòng sông Mã còn mãi cuồn cuộn chảy về xuôi mang theo truyền thuyết về những người con đất Việt anh hùng.
Vẫn là thủ pháp nghệ thuật tương phản đối chọi nhau. Bi mà không lụy, buồn đau mà hùng tráng, mất mát hi sinh mà vẫn lạc quan. Và như thế chính chất lãng mạn của bài thơ đã nâng được người đọc lên, vực dậy những người lính mệt mỏi đang “dãi dầu không bước nữa”, xoá tan đi bao nhọc nhằn đau khổ, lãng quên đi bao nỗi hiểm nguy và lấy lại cân bằng trong tâm hồn người lính, giúp họ vững bước đi lên… Chất lãng mạn ấy là sức mạnh và vẻ đẹp của người lính Tây Tiến.
Với bút pháp lãng mạn cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ chiến sĩ, Với cái nhìn nhiều chiều, bằng sự chọn lọc ngôn từ, tình chọn những nét tiêu biểu nhất của người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể bất tử về người lính vô danh. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài đó, chúng hòa quyện vào nhau, nương tựa nâng đỡ cho nhau tạo nên vẻ đẹp bi tráng, thần thái chung của bức tượng đài.
7. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến mẫu 5
“Tây Tiến” là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm sún, bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa và phong độ hào hùng của một nhà thơ chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca, và lòng người hình ảnh chiến sĩ vô danh của Thăng Long - Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Là một thi phẩm xuất sắc đạt gần đến độ toàn bích, bài thơ Tây Tiến ở đoạn nào cũng có những câu đặc sắc, những hình ảnh thơ độc đáo. Nhưng sức hấp dẫn của bài thơ chính là vẻ đẹp của chủ nghĩa lãng mạn và tinh thần bi tráng khi khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến - người lính cách mạng xuất thân từ thành thị tham gia vào cuộc kháng chiến gian khổ mà hào hùng của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lý tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện đậm nét trước hết ở cái tôi của Quang Dũng. Nó trào ra từ đầu bài thơ đầy ắp và mãnh liệt một nỗi nhớ - nhớ chơi vơi, một nỗi nhớ rất lạ, hình như nhẹ tênh mà nặng trĩu vô cùng, để rồi sau đó tuôn chảy ào ạt như một dòng suối trong suốt bài thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ trải dài theo dòng sông Mã trùng điệp theo hình non thế núi. Nhớ đến hụt hẫng, trống vắng trong lòng người. Tây Tiến là một đoàn quân, nhưng tiếng gọi “ơi” lại trìu mến như tiếng gọi với một người thân. Ba vần “ơi” như da diết vang vọng vào vách núi. Đó là nỗi nhớ của tác giả với Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ da diết, lan tỏa thấm đượm trong từng câu thơ, hình ảnh thơ. Cái tôi Quang Dũng có mặt khắp nơi, lắng đọng từng chỗ, từ cảnh chiến trường hiểm trở, hoang sơ đến cảnh sông nước thanh bình thơ mộng đến đêm hội đuốc hoa đầy màu sắc xứ lạ phương xa, từ nỗi nhớ bản làng “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” đến “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật hào hoa, lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn thể hiện đậm nét trong bút pháp lãng mạn. Những thủ pháp cường điệu, đối lập được sử dụng rộng rãi, sáng tạo đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mĩ của con người và thiên nhiên. Thiên nhiên miền Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang sơ mà ấm áp, làm say đắm lòng người. Trí tưởng tượng bay bổng khiến thi nhân hình dung ra một “đêm hơi’, không chỉ có sương rừng ướt lạnh mà còn có cái lãng đãng, huyền ảo, cảm được cái oai linh của thần núi, thấy được cái “hồn lau nẻo bến bờ” và nghe thấu được cả tiếng “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Nhà thơ nhớ những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách ghê gớm với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch... được nhắc đến không chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang sơ. Nó vừa gợi ra sự gian nan, bí ẩn, thách thức, vừa gợi sự tò mò, háo hức của những chàng trai thành thị. Tất cả khung cảnh thiên nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc đến mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát hiện ra vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”. Những bông hoa núi với hương thơm ngan ngát hiện ra dần dần mờ ảo qua đêm sương, qua cái nhìn say mê lãng mạn, khiến cái mệt mỏi của đoàn quân dường như tan biến. Bao đèo cao, dốc thẳm dựng thành phía trước mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Dốc lên thì khúc khuỷu, gập ghềnh, ngoằn ngoèo; dốc xuống thì thăm thẳm, dựng đứng. Câu thơ giàu chất tạo hình như họa lại một chặng đường hành quân hiểm trở. Dốc núi ngoằn ngoèo, dốc vút lên ngàn thước, rồi lại đổ xuống thẳng đứng ngàn thước. Câu thơ cũng gập ghềnh với nhiều thanh trắc và cách ngắt nhịp 4/3 bẻ gập câu thơ tạo thế núi hoang dại, khủng khiếp. Độ cao của dốc như được đo bằng hơi thở dồn dập của người lính vượt đèo, nên càng ấn tượng. Những đỉnh núi cao mù sương, cao vút như chạm mây, mây nổi thành cồn heo hút ở lưng trời. Mũi súng trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao nhất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính. Đó là chất tinh nghịch, hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây Tiến. Thiên nhiên hoành tráng, hùng vĩ nhưng người lính không hề bị chìm đi mà vẫn nổi lên đầy thách thức. Nó khẳng định ý chí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao để đi tới. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người, người lính trèo lên đỉnh núi như đi trong mây quả cảm và lãng mạn vô cùng.
Cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội mà nên thơ. Mưa mịt mù khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông ở lưng chừng núi thấp thoáng trong mưa như bồng bềnh trên biển khơi. Câu thơ toàn thanh bằng gợi không gian mênh mông, ngập chìm trong mưa qua cái nhìn từ trên cao trải xuống. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành, yêu thương, nơi các anh đã và đang đem máu xương và lòng dũng cảm để bảo vệ. Gian khổ với các chiến sĩ còn là “thác gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo cái oai linh, bí ẩn của rừng đại ngàn. Vẻ hoang dại ấy không chỉ mở ra ở không gian cụ thể mà còn được khám phá ở thời gian “đêm đêm”, “chiều chiều”. Tác giả miêu tả thời gian, nhưng lại gợi được không gian núi rừng, lúc nào cũng âm u, hoang vu như trong bóng tối. Nó luôn là mối đe dọa sẵn sàng nuốt chửng con người. Đặc biệt họ toàn là những người lính trẻ thủ đô mới lần đầu rời thành phố đến rừng đại ngàn. Vì thế ấn tượng về Tây Bắc với những địa danh xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, ác liệt, không kém cuộc đọ sức với quân thù. Nhưng cảnh ấy cũng càng kích thích chiến sĩ không ngại ngần xông pha với tinh thần hào hứng hăng say.
Đối lập với sự khắc nghiệt là vẻ đẹp tuyệt mỹ của thiên nhiên Tây Bắc. Vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc như được kết bằng hoa rừng: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đặc biệt đoạn thơ:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tất cả gợi nhớ cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, hoang dại thật huyền ảo. Cảnh vật như nhòe đi, như mềm mại và có hồn hơn. Chữ “ấy” ở câu trên và chữ “thấy” ở câu dưới bắt thành một vần lưng giàu âm điệu. Hoa lau nở trắng sáng, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là những thi liệu cổ điển quen thuộc nhưng khi đi vào thơ của Quang Dũng như mang hồn lưu luyến của cảnh chia ly. Nổi bật trên dòng nước là dáng uyển chuyển thanh tú trên thuyền độc mộc của các cô gái Tây Bắc. Hình ảnh “hoa đong đưa” vừa là hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đong đưa làng duyên trên dòng nước lũ vừa như ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc như những bông hoa rừng đong đưa trên sông nước. Đó là những vần thơ thi trung hữu họa, khiến người đọc như lạc vào cái đẹp của cõi mơ. Mơ nhưng rất thực, làm say lòng người, nhất là các chiến sĩ Tây Tiến lãng mạn, trẻ trung, nó ẩn chứa tình yêu sâu nặng với thiên nhiên đất nước của Quang Dũng và của các chiến sĩ Tây Tiến. Hình ảnh những cô gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài thơ càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm hành quân gian khổ, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm dừng chân bên bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Gói xôi ấm tình cô gái Mai Châu, những cô gái miền sơn cước xinh đẹp làm nhiệm vụ nuôi quân không quản ngại vất vả, hiểm nguy đã để lại trong lòng người lính trẻ một nỗi nhớ không nguôi. Nỗi nhớ cất lên thành lời tha thiết “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói”. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp ngày mùa lẫn tình em ấm áp. Làng bản Mai Châu, bóng hình sơn nữ, hương nếp xôi quyện lại trong hình ảnh thơ thành nỗi nhớ ngọt ngào, bâng khuâng, lãng mạn trong tâm hồn của người lính trẻ.
Những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi trong ánh lửa đuốc lung linh, trong âm thanh của tiếng kèn réo rắt, trong tâm hồn say sưa đắm đuối của người lính trẻ:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc. Hai chữ “kìa em” diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng đến say mê, rạo rực của người lính trẻ. Hình ảnh các cô gái Tây Bắc bất ngờ hiện ra lộng lẫy trong bộ áo xiêm rực rỡ dưới ánh đuốc lung linh nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp, tình tứ trong điệu múa lạ như múa sạp, múa xòe... trong tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn. Nét đẹp những đêm liên hoan văn nghệ trên biên cương xa xôi như đã “xây hồn thơ” cho thấy tâm hồn trong sáng, giàu mộng mơ, giàu lí tưởng trong kí ức của chiến sĩ trẻ. Giọng thơ hân hoan, say mê hòai niệm nhung nhớ một thời gian khổ mà hào hùng, lãng mạn đầy ắp nghĩa tình. Qua đó càng cho thấy đời sống tinh thần vô cùng trong sáng, phong phú, lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến ở nơi chiến trường gian khổ ác liệt xưa.
Đặc biệt bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ những nét vẽ phi thường, khác lạ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Cả đoàn binh không mọc tóc vì sốt rét rừng khắc nghiệt, hoặc vì chủ trương cạo trọc tóc để tiện cho việc đánh giáp lá cà với địch. Quang Dũng không né tránh hiện thực của cuộc kháng chiến gian khổ này. Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng thường nói về căn bệnh sốt rét rừng: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh. Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” trong Đồng chí của Chính Hữu.
Nhưng Quang Dũng cảm nhận sự thật này trong cảm hứng lãng mạn, anh hùng nên khắc họa được vẻ đẹp kiêu dũng của người lính vượt lên xem thường mọi gian khổ thiếu thốn. Từ ngữ mạnh bạo mang âm hưởng mạnh mẽ. Chữ “đoàn binh” có âm vang và mạnh hơn chữ “đoàn quân”; còn “không mọc tóc” thì gợi nét ngang tàng, chủ động, hiên ngang lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến trước hoàn cảnh. “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là màu da xanh xao do sốt rét rừng, nhưng qua nét bút lãng mạn và cảm hứng anh hùng của Quang Dũng thì màu xanh ấy lại mang vẻ tươi xanh đầy sức sống của núi rừng. Hình ảnh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” gợi ánh mắt quyết liệt, hướng đến quân thù, khao khát giết giặc lập công cho tổ quốc. Nhưng bên ngoài dáng vẻ oai phong đó là tâm hồn trẻ trung, trong sáng, giàu mộng mơ. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – lối diễn đạt này có vẻ cầu kỳ nhưng phù hợp với tâm hồn những người lính trẻ thu đô xa người yêu đi kháng chiến. Nhớ về các cô gái hà thành, bóng dáng những thiếu nữ Hà Nội yêu kiều thơ mộng không hề phai nhạt trong tâm hồn những người lính ngay cả trong khói lửa chiến tranh. Lãng mạn đó là vẻ đẹp lạc quan, yêu đời của những người lính xuất thân từ thành thị đi kháng chiến.
Còn bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việc miêu tả hiện thực, không né tránh cái bi, tức cái gian khổ, đau thương. Cái bi nhưng không phải là bi lụy mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết nhưng không bi lụy mà là cái chết hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được biểu hiện ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.
Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở chỗ lời thơ không né tránh cái bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải là cái chết bi lụy mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử.
Trên nền thiên nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo, nhà thơ tô đậm hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng bút pháp lãng mạn, nhưng không thoát li hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng không hề nói đến trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn hình dung được sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Nhưng bằng ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã miêu tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ cũng gợi cảm xúc đau thương. Hình ảnh những nấm mồ “rải rác biên cương mồ viễn xứ” càng nhân lên cảm xúc bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp theo:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Đã khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi trẻ một thời không chỉ tự nguyện chấp nhận mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng dâng hiến cả sự sống, cả tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, yêu lý tưởng, dâng hiến cả đời xanh, đời trai trẻ đầy hi vọng của mình cho tổ quốc. Đây không phải chỉ là cách nói của thơ ca mà thực sự đây là dũng khí tinh thần và hành động của nhiều thế hệ trong những năm kháng chiến. Với lí tưởng đánh giặc thanh thản đến lạ lùng như thế thì cái chết có nghĩa lý gì với họ.
Các tráng sĩ xưa ở chốn sa trường từng lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh thì ở đây các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ của đồng bào tặng hay chỉ bằng tấm áo đẫm máu và mồ hôi của các anh cũng tạc nên sự hi sinh bất tử. Sự kết hợp một từ Hán Việt và một từ thuần Việt: “áo bào” khiến tấm áo liệm thân của liệt sĩ trở nên trang trọng. Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân yêu. Một sự hy sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Giây phút vĩnh biệt đồng đội vang lên không phải bằng lời ngợi ca hay những giọt nước mắt, mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông được nhân hóa như có linh hồn, có tâm trạng, cất lên tiếng khóc xót xa, thương tiếc, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của Sông Mã. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến thấm đẫm tinh thần bi tráng và đậm đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi, trở thành hồn thiêng của đất nước. Bài thơ 3 lần nói đến cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê hương và nhất là được thiên nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và cường điệu đã đẩy chất bi tráng lên đến đỉnh cao, kì diệu của nó.
Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng miêu tả chân dung người lính Tây Tiến. Những cặp hình ảnh đối lập giữa ngoại hình tiều tụy với phong thái “dữ oai hùm”; giữa “mắt trừng” và “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”; và nhất là sự đối lập giữa gian khổ, hy sinh với lý tưởng vì nước quên thân khiến sự hi sinh của người lính Tây Tiến trở nên cao đẹp bi hùng. Chiến trường Tây Tiến ác liệt hoang vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong... Nhiều chiến sĩ ngã xuống trên con đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang Dũng đã không né tránh cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Cái tráng này là của Quang Dũng và của cả một lớp trai trẻ sống với bầu máu nóng: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cái tráng ấy lại gặp luồng gió yêu nước của thời đại anh hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm bài thơ làm nên vẻ đẹp riêng của Tây Tiến, nhưng điều đó do đâu mà có? Ở đây có sự gặp gỡ giữa hồn thơ lãng mạn, hào hùng của thi nhân cùng nhân vật trữ tình là những người lính Tây Tiến cũng hào hoa, lãng mạn, với cái thời anh hùng rực lửa của buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, và chiến trường Tây Tiến ác liệt, dữ dội nhưng lại rất thơ mộng, trữ tình. Bốn yếu tố khách quan và chủ quan này như đã hội tụ mãnh liệt và da diết trong nỗi nhớ của Quang Dũng để trào ra cảm hứng lãng mạn và bật thành tinh thần bi tráng trong phút xuất thần của hồn thơ để sinh ra đứa con đầu lòng hào hoa tráng kiện - Tây Tiến. Như vậy, cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên linh hồn bất diệt của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp độc đáo của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp đặc sắc của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định giá trị đích thực của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng của một thời đại anh hùng rực lửa, không thể nào quên.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và giá trị bền vững của bài thơ Tây Tiến. Đó là vẻ đẹp của một thời hoa lửa hào hùng một đi không trở lại. Những tiếng thơ bi tráng và hồn thơ lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một khung cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử - một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vô danh ưu tú của dân tộc mà người đọc muôn đời yêu quý, tự hào.
8. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến mẫu 6
Nhắc đến nhà thơ Quang Dũng không ai không thể ko nhớ đến Tây Tiến. Bởi lẽ nó đã gắn bó một thời sâu sắc với nhà thơ, một kiệt tác văn học. Quang Dũng là nhà thơ tiêu biểu của chùm thơ chiến sĩ. Với lời thơ hào hùng, lãng mạn những sáng tác của ông đều để lại âm vang trong lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Và "Tây Tiến" là một trong những tác phẩm như thế.
Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt - Lào, đánh tiêu hao địch ở Thượng lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến ở những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về qua miền tây Thanh Hoá. những nơi này lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng dày, nhiều thú dữ.
Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc số này). Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kỳ gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.
Bài thơ “Tây Tiến” có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở "cái tôi" đầy tình cảm, cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ.
Thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người Tây Bắc càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hy sinh tất cả cho lí tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc.
“Tây Tiến” không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi lụy. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất lãng mạn hòa hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi cao, sông sâu, vực thẳm, rừng dày… liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ sau:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Khổ thơ này là một bằng chứng “thi trung hữu họa” (trong thơ có họa). Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng Tây Bắc, địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “cồn mây”, “súng ngửi trời” đã diễn tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo Tây Bắc. Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi cao dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.
Nếu như câu thứ ba nhìn lên và nhìn xuống thì câu thứ tư là nhìn ngang. Có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng mưa núi thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi. Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét vẽ rất mềm mại (câu thứ tư toàn thanh bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ.
Cái vẻ hoang dại dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng Tây Bắc được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cả chiều thời gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Vậy là cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ… những tên đất lạ Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, những hình ảnh đầy giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả và nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu thơ có nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình lên thế giới khác thường vừa đa dạng, vưà độc đáo của núi rừng Tây Bắc. Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt suối, lội đèo, những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói cơm nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên. Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áo, chuẩn bị tâm thế cho người đọc bước sang đoạn thơ thứ hai.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của Tây Bắc. Cảnh núi rừng hoang vu, hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mỹ lệ, thơ mộng, duyên dáng của miền đất này. Những nét vẽ táo bạo, khoẻ, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Và ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này. Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa.
Cảnh ấy, người ấy được thể hiện lên trong một thời gian làm nổi rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang. Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu buồn e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Cả doanh trại “bừng sáng” gợi sự tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của ngọn lửa đuốc trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng tây bắc bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy vừa e thẹn, vừa tình tứ trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ đã thu hút cả hồn viá những chàng trai Tây Tiến. Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gợi lên được cái cảm giác mênh mang, mờ ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hòa hợp với con người, những bông hoa rừng cũng "đong đưa" làm duyên trên dòng nước lũ. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi, vậy mà cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút của ông như có hồn phảng phất trong gió, trong cây. Ông không chỉ làm hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật. Đọc đến đoạn thơ này ta như lạc vào thế giới của cái đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc. Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên tự tâm hồn ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hòa quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ của Tây Bắc, đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuất hiện với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát được cái gương mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hòa quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ nhau, tạo nên vẻ đẹp bi tráng - cái thần thái chung của cả bức tượng đài. Thơ ca thời kháng chiến chỉ viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài “Đồng chí” đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài “Cá nước” với những hình ảnh thật cụ thể:
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hy sinh lớn lao của người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngòi bút của ông, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc của người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kỳ, giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng bịa đặt của nhà thơ mà chứa đựng một sự thật nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc trọc đầu.
Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên cái oai phong dữ dằn của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ “mắt trừng gửi mộng” của họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng, không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng dữ dằn bề ngoài của họ, là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm).
Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ. Ngòi bút của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gọi lên qua hình ảnh của những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì tổ quốc của những người lính Tây Tiến (Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh).
Những người lính tây Tiến tiều tụy, tàn tạ trong hình hài nhưng vẫn chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp của những người tráng sĩ thuở xưa, coi nhẹ cái chết tựa lông hồng. Cái sự thật bi thương: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có cả đến manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm “anh về đất” và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Trong cái âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hy sinh của những người lính Tây Tiến không bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này sang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của cái thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng cái linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Cái tinh thần “nhất khứ bất phục hoàn” thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt với những ngày Tây Tiến, những nơi mà Tây Tiến đã qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành một thời điểm một đi không trở lại. Lịch sử dân tộc không bao giờ lặp lại cái thời thơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
9. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến mẫu 7
Một trong những nét nổi bật trong nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật của tác phẩm chính là cảm hứng lãng mạn và bị tráng trong Tây Tiến.
Cảm hứng lãng mạn chính là sự khẳng định về cái tôi cá nhân tràn đầy hào hứng về lý tưởng. Nó chính là cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường và độc đáo, vươn lên trên mọi cái tầm thường và quen thuộc của cuộc sống hàng ngày.
Một tác phẩm có cảm hứng lãng mạn bay bổng là tác phẩm mà ở đó những cảm xúc của nhân vật trữ tình được thể hiện với cường độ mạnh, trí tưởng tượng được phát huy hết mức, những cái phi thường tuyệt mĩ được tô đậm và thủ pháp đối lập được sử dụng một cách rộng rãi, thường xuyên.
Tây Tiến quả là một tác phẩm hết sức lãng mạn. Điều dễ nhận thấy trước tiên là độ sâu, độ mạnh trong cảm xúc của nó. Cả bài được bao bọc trong một nỗi nhớ ăm ắp, nồng nàn, vừa xoáy sâu, vừa lan tỏa. Không có nỗi nhớ đó thì chắc chắn không có cả bản thân bài thơ, bởi tất cả những điều được nói tới trong bài đều thuộc về quá khứ, giờ đây qua ký ức, nhờ nỗi nhớ mà sống dậy. Không phải tình cờ mà từ “nhớ” xuất hiện nhiều lần trong bài và cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà thoạt đầu tên của tác phẩm gồm ba chữ: Nhớ Tây Tiến. Mở đầu bài thơ, tác giả đã viết
“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi “
Hai câu này đã nói lên rất rõ niềm thôi thúc bên trong khiến tác giả đã viết nên Tâỵ Tiến. Chính nỗi “nhớ chơi vơi” chứ không phải cái gì khác đã dẫn ngòi bút của tác giả đi miên man trong thế giới thơ. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là nỗi nhớ vừa có vẻ xa xôi, vời vợi lại vừa có vẻ gần gũi, lửng lơ, ám ảnh hòai không cho người ta được yên, buộc người ta phải đắm chìm trong hòai niệm.
Như mọi bài thơ thấm đẫm cảm hứng lãng mạn khác; bài thơ Tây Tiến chứa đựng nhiều hình ảnh gây ấn tượng mạnh cho độc giả. Đối tượng miêu tả ở đây có thật nhiều nét phi thường. Hãy đọc một đoạn tả dốc trong bài:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi “
Dốc cứ cao lên, cao mãi hút mắt nhìn để rồi đổ gập xuống, sâu dường như vô cùng tận. Ta tưởng như gặp lại mảnh núi non hiểm trở, hùng vĩ, đầy thách thức từng được thi hào Lý Bạch nói tới trong bài Thục đạo nan (Đường Thục khó): “Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên (Đường Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh). Dốc đã thế, mưa cũng mịt mùng bủa vây tứ phía khiến cho trong mắt của các chiến sĩ đang hành quân, những ngôi nhà sàn như đang trôi bồng bềnh trong biển nước. Cái dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc còn được tô đậm trong hai câu có âm điệu hết sức mạnh mẽ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Thật là một cuộc “diễu võ dương oai” đầy ngoạn mục của núi rừng, khiến cho những kẻ yếu bóng vía có thể run lên vì sợ hãi. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến không phải chỉ thuần những cảnh ghê gớm như thế. Đã bao lần nó phô ra vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng, say đắm của mình trước con mắt háo hức quan sật của người lính chiến:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Đúng là một vẻ đẹp quá đỗi nguyên sơ, thanh khiết, gợi cảm đến nao lòng. Những bông lau xám bạc phất phơ bên bờ suối, những cánh hoa rừng chòng chành, “đong đưa” trên dòng nước lũ nhự giấu trong mình cả một câu chuyện cổ tích về núi rừng miền Tây mà ta chưa có điều kiện khám phá hết được.
Việc miêu tả những nét độc đáo khác thường của thiên nhiên là một trong những điều kiện quan trọng tạo nên cảm hứng lãng mạn cho bài thơ. Cảm hứng lãng mạn đó còn được đẩy lên một mức nữa khi tác giả đi sâu khám phá bản tính lãng mạn, mộng mơ của những người lính Tây Tiến. Thật ra thì tất cả những câu nói về vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc đã dẫn ra trên kia đều đã bao hàm ý khẳng định chất thi nhân của các anh “bộ đội Cụ Hồ”.
Trên đường hành quân, họ chưa một lần bỏ lỡ cơ hội ngắm nhìn những vẻ đẹp hiếm thấy trong đời. Mắt nhìn dốc cao, dầu gội trong mưa lớn, tai nghe tiếng thác thét gầm, cả sinh mạng đối diện cùng thú dữ, chừng ấy trải nghiệm đã khiến cho máu phiêu lưu trong họ bị kích thích mạnh.
Còn khi được sống với cảnh “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, với cảnh chiều sương” nơi Châu Mộc, chắc chắn họ cảm thấy nỗi niềm thơ thức dậy dạt dào. Chẳng thế mà giữa những ngày gian khổ, họ vẫn hào hứng tổ chức các đêm lửa trại tưng bừng náo nhiệt. Trong cái đêm vui đó, những “dáng hồng” sơn cước đã làm họ ngất ngây say:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Làng mạn đến mức ấy, quả khó ai hơn được!”
Trong các tác phẩm được viết theo cảm hứng lãng mạn, thủ pháp đối lập thường rất được chú ý khai thác. Bài Tây Tiến cũng nằm trong thông lệ đó. Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến còn được thể hiện qua sự đối lập có nhiều cấp độ, trước hết là đối lập về hình ảnh. Ta có thế thấy rõ điều này qua các đoạn của bài thơ. Ở đoạn một, ngòi bút tác giả nghiêng về miêu ta sự hào hùng, dữ dội của thiên nhiên, còn ở đoạn hai, nét thơ mộng của nó được ưu tiên nhấn mạnh. Cũng có khi, sự đối lập đó được thể hiện trong hai câu liền kề nhau:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
Câu trên nhấn mạnh sự khắc nghiệt, đe dọa, còn câu dưới lại diễn tả một cảnh tượng làm ấm lòng người; Cũng qua hai câu này, đặc biệt là câu sau, ta còn nhận ra sự đối lập về thanh điệu đã được Quang Dũng sử dụng rất tài tình trong cả bài thơ: có những câu thơ “khổ độc” (khó đọc) dày đặc thanh trắc đi kèm những câu toàn thanh bằng gợi cảm giác nhẹ nhõm, lâng lâng. Thử so sánh câu “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” với câu “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, ta sẽ thấy rất rõ điều đó.
Tất nhiên không phải sự đối lập nào cũng bao gồm những nét tương phản loại trừ nhau. Trên thực tế, các mặt đối lập, tương phản có thể gắn với nhau trong một thể thống nhất, như phẩm chất can trường gắn với phẩm chất lãng mạn trong bản thân mỗi người lính Tây Tiến vậy.
Ở cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến, Quang Dũng thường sử dụng những cách ví von độc đáo, táo bạo làm nổi bật tính chất khác thường của sự vật. Chẳng hạn theo góc nhìn từ dưới lên, nhà thơ thấy mũi súng trên vai người lính đi trên đỉnh dốc đang “ngửi trời”. Ở một câu khác, tác giả diễn tả sự rình rập của cọp dữ bằng hai chữ “trêu người” rất ấn tượng… Tất cả những điều này đều góp phần nhất định làm nên phong vị lãng mạn đậm đà của tác phẩm.
Có một thời kỳ dài bài thơ Tây Tiến bị ngại nhắc đến. Những người không thích nó chắc có lẽ dị ứng với âm hưởng bi tráng vốn thấm đẫm trong từng chữ từng câu của bài thơ. Giờ đây, đọc lại Tây Tiến, có lẽ không còn ai cảm thấy cấn cái với nó nữa, và chất bi tráng cũng đã được nhìn nhận khác đi. Khi nói đến chất bi tráng của một tác phẩm văn học nào đó, người ta thường nói sự tổn tại song song, hòa quyện giữa hai yếu tố “bi” và “tráng”. “Bi” là đau buồn, bi ai và “tráng” là khỏe khoắn, mạnh mẽ. Tác phẩm có giọng bi tráng thường không tránh né những chuyện xót xa, đau lòng nhưng bao giờ cũng đưa đến được cho độc giả những xúc cảm mạnh và rắn rỏi.
Đọc suốt bài thơ, người ta dễ nhận ra một điều: cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến đã được Quang Dũng không ít lần viết về cái chết và chưa bao giờ nói cho nhẹ đi những gian khổ chất chồng mà các chiến sĩ phải đương đầu. Lắng nghe âm điệu của những câu tả dốc, ta thấy dội lên tiếng thở nặng nhọc của các anh lính Tây Tiến. Hành quân đường dài qua núi cao, vực sâu, trong “đoàn quân mỏi” có người đã ngã xuống:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Dù đã cố dùng lối diễn tả khô, gọn, nhà thơ vẫn không giấu nổi lòng mình. Trong hai chữ “dãi dầu” ta đọc thấy có biết bao niềm xót xa thương cảm vô bờ bến. Là người đã từng trải qua những ngày Tây Tiến, Quang Dũng nhìn rõ hơn ai hết khuôn mặt hung tợn của tử thần có tên gọi là “sốt rét”. Chính căn bệnh quái ác nơi núi rừng âm u này đã tàn phá thể chất các chiến sĩ một cách phũ phàng.
Tóc họ không mọc nổi, da xanh mét như tàu lá, con người luôn đứng chân nơi biên giới mong manh giữa cái chết và sự sống. Đã bao lần nhiều người trong họ đành phải ôm hận lìa đời. Các anh là ai trong số những nấm “mồ viễn xứ” nằm “rải rác biên cương’ dài vô tận? Đọc thơ Quang Dũng, có lẽ tất cả chúng ta đều cảm thấy đau nhói trong lòng. Chi tiết “Áo bào thay chiếu anh về đất” đã cực tả những thiếu thốn khó tưởng tượng nổi của đoàn quân Tây Tiến. Một chiến sĩ hi sinh, nhiều khi đồng đội không tìm nổi một mảnh chiếu để liệm xác.
Tinh thần bi tráng là gì? Tinh thần bi tráng trong văn học được thể hiện ở việc không né tránh hiện thực, miêu tả cái gian khổ và đau thương ở hiện tại mà không hề né tránh. Cái bi ở đây không phải là cái lụy, mà chính là cái bi tráng và hào hùng. Là cái chết nhưng mà là cái chết vĩnh hằng đi vào cõi bất tử. Cái bi hùng này còn được thể hiện ở âm hưởng, màu sắc và giọng điệu tráng lệ.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến còn được thể hiện ở sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ: “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Bao nhiêu thương yêu của nhà thơ trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo nhà thơ không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao nhiêu thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. hoàng Lộc trong “Viếng bạn” cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế
Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca.
Có thể thấy, cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến luôn cộng hưởng, gắn bó cũng như nâng đỡ nhau trong suốt chiều dài của tác phẩm. Chính điều này đã làm nên sự bất diệt về chân dung của người lính cũng như giá trị to lớn cho nội dung của bài thơ. Đã có không ít những tác phẩm trải qua cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng vẫn định hình được trong lòng bạn đọc. Và bài thơ Tây Tiến chính là ví dụ điển hình cho điều đó.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến của Quang Dũng đã giúp làm sáng ngời lên tư tưởng nội dung cũng như nghệ thuật của bài thơ. Tác phẩm như một kỷ niệm đẹp sống mãi trong lòng nhà thơ Quang Dũng bởi đó chính là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến.
10. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến mẫu 8
Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến ngay từ những ngày đầu thành lập. Chính những kỉ niệm gắn bó với nơi đây đã khiến nhà thơ xúc động mà viết lên "Tây Tiến". Bài thơ được coi là thi phẩm toàn bích hiếm có của thơ ca cách mạng, rất tiêu biểu cho hồn thơ Quang Dũng. Tác phẩm đã giúp người đọc cảm nhận được cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn là một đặc điểm quan trọng của văn học cách mạng những năm 1945 - 1975. Cảm hứng đó được thể hiện trong bài thơ "Tây Tiến" bằng việc tác giả miêu tả bức tranh thiên nhiên nên thơ, trữ tình và hình ảnh người lính lãng mạn, hào hoa. Còn cảm hứng bi tráng thì gợi ra cho người đọc thực tế những khó khăn và thử thách trên con đường hành quân của người lính. Nhà thơ nói về cái bi mà không hề sướt mướt, ủy mị. Mặc dù phải sống và chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn nhưng họ vẫn hiên ngang, dũng cảm bước tiếp. Cảm hứng lãng mạn và bi tráng đồng hành với nhau trong suốt cả bài thơ để làm nên cái hay cho thi phẩm "Tây Tiến".
Đầu tiên, cảm hứng lãng mạn được nhà thơ thể hiện rất rõ qua bức tranh thiên nhiên miền Tây nên thơ, trữ tình. Câu thơ "Mường Lát hoa về trong đêm hơi" mang vẻ đẹp lãng mạn, gợi ra một không gian huyền ảo, mông lung. "Hoa về" là hoa đuốc hay hoa rừng? Đó có thể là những bó đuốc đỏ rực rỡ soi rõ bước đường hành quân hay những bông hoa rừng hiện dần trong đêm để chào đón đoàn quân. Ý thơ khiến người đọc không thể cắt nghĩa một cách rõ ràng mà chỉ có thể cảm nhận bằng trực giác. Và cũng chính vẻ đẹp trữ tình của thiên nhiên miền Tây đã lại phần nào hé lộ tâm hồn nhạy cảm, lãng mạn của người lính. Bức tranh thiên nhiên miền Tây nên thơ còn được thể hiện qua câu thơ "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Hai Tiếng "nhà ai" vang lên đầy xao xuyến, gợi nỗi niềm hoài thương. Câu thơ có bảy thanh bằng kết hợp với giọng thơ nhẹ nhàng, du dương giúp ta cảm nhận được sự thanh thản, nhẹ nhõm trong tâm hồn người lính. Sau những ngày dài hành quân vất vả, có lẽ đây là lúc họ được nghỉ ngơi, được ngắm nhìn vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên. Không chỉ nhớ về thiên nhiên miền Tây, người lính còn nhớ về con người nơi đây. Điều đó được thể hiện qua ý thơ "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/Mai Châu mùa em thơm nếp xôi". Đây là nỗi nhớ về những cô gái miền Tây với sóng mắt nồng nàn, với đôi bàn tay thơm thảo làm rung động lòng người. Đặc biệt, họ còn nhớ về những cô gái Hà Nội xinh đẹp. Cụm từ "dáng kiều thơm" đã thể hiện rất khéo léo giấc mộng đời thường của những người chiến sĩ. Họ mang vào cuộc chiến không chỉ là ý chí chiến đấu mà còn là sự lãng mạn, hào hoa của người lính Hà Thành. Vậy qua đây, người đọc có thể cảm nhận được cảm hứng lãng mạn sâu sắc được nhà thơ Quang Dũng gửi gắm.
Đọc bài thơ, độc giả không chỉ cảm nhận được chất lãng mạn mà còn cả tinh thần bi tráng. Nhà thơ nói về cái bi nhưng không hề bi lụy, đau thương. Trên con đường hành quân, người lính gặp phải vô vàn khó khăn, thử thách, thậm chí là đối diện với cái chết. Câu thơ "Anh bạn dãi dầu không bước nữa" đã nhấn mạnh được cái vất vả, khó khăn khiến cho bước chân người lính trở nên mệt mỏi. Trước những gian truân đó, người lính đã phải "Gục lên súng mũ bỏ quên đời". Đây là kí ức buồn của tác giả về người chiến binh trên nẻo đường hành quân. Ý thơ có thể hiểu theo hai nghĩa. Đầu tiên có thể hiểu đó là giấc ngủ chập chờn, vội vã của người lính trên con đường ra trận. Nhưng cũng có thể cắt nghĩa rằng chặng đường hành quân gian khó đã vắt kiệt sức của người lính khiến các anh ngã xuống và chìm vào giấc ngủ ngàn thu. Tư thế "gục lên súng mũ" đã làm nổi bật sự hiên ngang của người anh hùng xứ sở. Tinh thần đó giống với bài thơ của Lê Anh Sơn "Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất/Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng/Và anh chết khi đang đứng bắn/Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng/ Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất/Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân".
Bước vào cuộc chiến, người lính phải đối mặt với vô vàn hiểm nguy và bệnh tật. Câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" như khắc sâu trong tâm trí người đọc hình ảnh thật đặc biệt. Không phải họ không có tóc mà do căn bệnh sốt rét rừng khiến cho mái tóc không còn nữa. Tuy nhiên, Quang Dũng nói về hiện thực bằng bút pháp lãng mạn. Vậy nên dù diện mạo có khác thường thì người lính vẫn toát lên sự can trường, mạnh mẽ. Hai chữ "đoàn binh" mang âm hưởng trầm hùng. Và cách nói "không mọc tóc" ẩn chứa chất ngang tàng, chủ động, đầy thách thức của người lính. Quang Dũng đã xây dựng sự đối lập giữa diện mạo bên ngoài và thần thái bên trong của họ. Vẻ bề ngoài của người lính xanh xao, khắc khổ nhưng bên trong lại "dữ oai hùm". Đó giống như một cái hất đầu đầy kiêu hãnh và ngạo nghễ thách thức mọi khó khăn.
Chất bi thương trong bài thơ được khắc họa rất rõ qua câu thơ "Rải rác biên cương mồ viễn xứ". Ý thơ đã trực tiếp nói về sự hi sinh của người lính trên đường hành quân. Câu thơ được cất lên khiến ta hình dung đến những nấm mồ nhỏ bé, đơn côi, hoang lạnh nằm rải rác khắp nẻo rừng hoang viễn xứ, không người hương khói, ít kẻ qua lại, đang chìm dần vào quên lãng. Qua đây, người đọc không khỏi xót xa, ngậm ngùi với những hi sinh trong cuộc đời người lính. Bước vào cuộc chiến và hiểu rõ những mất mát mình sẽ gặp phải những người lính chưa bao giờ chùn bước, sợ hãi. Họ vẫn hiên ngang đương đầu với khó khăn, thử thách. Chi tiết "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" đã khắc họa tuyệt đẹp tư thế lên đường của người lính. Hai chữ "chẳng tiếc" đặt giữa dòng thơ vang lên như một lời thề vĩnh quyết chứa đựng lí tưởng sống cao cả của những người lính sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc.
Bằng hình ảnh thơ gợi hình, xây dựng sự đối lập tương phản, Quang Dũng đã mang đến cho độc giả một bài thơ hay với cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đặc sắc. Và qua đây, người đọc hiểu được rằng những người lính ra đi nhưng các anh vẫn sẽ là mầm để cho sự sống mới được nảy nở như một người cựu chiến binh đã từng viết "Người hi sinh đất hồi sinh/Tim người hóa ngọc lung linh giữa đời".
Mời các bạn cùng tải về bản PDF để xem đầy đủ nội dung