Phân tích đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến
Phân tích đoạn 2 Tây tiến
Văn mẫu: Cảm nhận và phân tích đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 12 hay dành cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 12 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
1. Dàn ý phân tích đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến
1. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Quang Dũng và tác phẩm Tây Tiến
- Khổ 2 Tây Tiến thể hiện một thế giới lãng mạn và trữ tình ở vùng Tây Bắc với những kỉ niệm đẹp.
- Trích thơ:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
......
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
2. Thân bài
a. Tổng:
- Sơ lược về đoàn quân Tây Tiến
- Đôi nét về tác phẩm Tây Tiến
b. Phân
- Hai câu thơ đầu:
+ "Doanh trại": nơi sống và làm việc của bộ đội, khô khan, nghiêm khắc
+ Động từ "bừng": ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ
+ "Hội đuốc hoa": mang màu sắc tình yêu (từ chữ Hán có nghĩa là hoa chúc) vừa duyên dáng, vừa rạng rỡ
+ "Kìa em": Ngỡ ngàng, kinh ngạc, trìu mến
+ "Xiêm áo": Trang phục đẹp đẽ, xinh xắn
- Hai câu thơ sau:
+ "Khèn": nhạc cụ mang bản sắc riêng của Tây Bắc
+ "Man điệu": điệu nhạc, điệu múa mang âm hưởng Tây Bắc
+ "E ấp": sự ngại ngùng, thẹn thùng của các thiếu nữ dân tộc
+ "Xây hồn thơ": vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của tâm hồn người chiến sĩ
- Bốn câu thơ tiếp theo
+ Chiều sương": hình ảnh lãng mạn, nhẹ nhàng, thơ mộng khác với sự hùng vĩ dữ dội ở đầu bài
+"Ấy": đại từ khiến hình ảnh buổi chiều sương trở nên đặc biệt
+"Hồn lau": Tả dáng lau qua màn sương, đồng thời đem lại linh hồn cho cây cỏ
+"Nẻo bến bờ": Nẻo- hướng đi, lối đi. Đi đâu cũng thấy mênh mông, bao la
+Điệp ngữ: "Có thấy-có nhớ" thể hiện nỗi lưu luyến, nhớ nhung da diết
+"Dáng người trên độc mộc": Dáng vẻ uyển chuyển, thướt tha với sự làm duyên của cánh hoa đong đưa theo dòng nước lũ.
+"Dòng nước lũ- hoa đong đưa": Hình ảnh tưởng chừng đối lập mà hài hòa nên thơ
→ Bút pháp gợi mà không tả
c) Hợp
- Ngòi bút tài hoa,tinh tế nhưng không kém phần lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng
- Tình cảm của tác giả dành cho thiên nhiên và con người Tây Bắc cùng với các kỉ niệm đẹp.
3. Kết bài
Suy nghĩ, tình cảm của em Quang Dũng và tác phẩm Tây Tiến .
2. Phân tích đoạn thơ thứ hai bài Tây Tiến mẫu 1
Quang Dũng vốn là lính của đơn vị Tây Tiến, một đơn vị có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để giải phóng và bảo vệ miền biên cương phía Tây Tổ quốc. Sau đó Quang Dũng chuyển đơn vị công tác. Năm 1948, một lần ngồi ở làng Phù Lưu Chanh (một địa danh cũ thuộc tỉnh Hà Đông), nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến, tác giả cảm xúc viết lên bài thơ tuyệt bút – Tây Tiến. Tây Tiến không chỉ là bài thơ hay nổi tiếng của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung mà còn là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người lính, vẻ đẹp lãng mạn và tinh thần bi tráng được thể hiện qua thiên nhiên Tây Bắc và hình tượng người lính là hai nét đặc sắc trong cảm hứng và bút pháp nghệ thuật của Tây Tiến. Đoạn thơ sau viết về những kỉ niệm tình quân dân đầy thi vị và vẻ đẹp thơ mộng của sông nước Tây Bắc bằng những nét vẽ tinh tế mềm mại:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Từ “bừng” trong câu thơ đầu tiên của đoạn thơ đã gợi cho ta cảm giác đột ngột. Đó là sự “bừng” sáng của hội đuốc hoa, của lửa trại hay sự tưng bừng rộn rã của tiếng khèn, tiếng hát? “Đuốc hoa” vốn là một từ cổ để chỉ cây nến đốt lên trong phòng cưới đêm tân hôn “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng Mai xưa”. Hình ảnh này xuất hiện trong đêm vui liên hoan của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ kính vừa hiện đại, vừa thiêng liêng vừa ấm áp tình keo sơn quân dân gắn bó.
Đây là đoạn thơ bộc lộ rất rõ nét tài hoa của ngòi bút Quang Dũng. Hồn thơ lãng mạn của ông bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ. Vì thế, cảnh là cảnh trong hoài niệm vậy mà lời thơ lại cho ta cảm giác đó là cảnh đang diễn ra ngay trước mắt. Và nhà thơ như đang nói với người vũ nữ “Kìa em xiêm áo tự bao giờ!” – một giọng thơ thật trìu mến, thích thú, vui sướng! Vui sướng đến ngạc nhiên ngỡ ngàng trước vẻ đẹp vừa e thẹn, vừa tình tứ (nàng e ấp) với bộ xiêm y lộng lẫy trong một vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ (man điệu). Chỉ bằng 4 câu thơ mà Quang Dũng đã dựng được một bức tranh vừa phong phú về màu sắc đường nét, vừa đa dạng về âm thanh.
Nếu khung cảnh đêm liên hoan văn nghệ trong những câu thơ trên đem đến cho người đọc không khí mê say ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gọi lên được cảm giác mênh mang, hoang dại, tĩnh lặng và mờ ảo thật chứa chan thi vị. Ở đây một lần nữa càng khẳng định rõ hơn nét tài hoa, lãng mạn, giấc mộng mơ của người lính. Thiên nhiên ở nơi chốn chỉ có “Núi sương giăng, đèo mây phủ” khi cảnh chiều về vốn đã mờ ảo lại càng mờ ảo thêm khi có lớp sương mờ bảng lảng choàng thêm một tấm áo như thực như mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh Tây Bắc như hiện về trong kí ức của tác giả làm cho giọng thơ của tác giả cất lên như lời tự hỏi “có nhớ? có thấy?” day dứt càng gợi cảm giác bâng khuâng xa vắng, đầy lưu luyến. Con người tài hoa và lãng mạn ấy thấy bạt ngàn hồn lau trong gió trong cây như xôn xao một nỗi niềm:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Hình ảnh này chúng ta đã từng gặp trong thơ của Chế Lan Viên:
Ai đi biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cùng với gió giao tranh
(Lau biên giới)
Hay những câu thơ viết về hồn lau trong gió gợi cảm giác về cảnh buồn vắng lặng tờ như thời tiền sử huyền thoại của thi sĩ kiêm họa sĩ Hoàng Hữu:
Trường vắng mưa mờ buông dốc xa
Dày leo nửa mái sắc rêu nhoà
Người xa phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân đồi như khói pha
(Hoa lau trường cũ)
Trong khung cảnh sông nước, chiều sương mang đậm màu sắc cổ kính huyền thoại ấy hiện lên hình ảnh con thuyền độc mộc với cái dáng mềm mại của cô gái và bông hoa trôi theo dòng nước lũ:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Câu nói của người xưa: “Thi trung hữu họa” thật đúng với trường hợp này. Ngòi bút tinh tế của Quang Dũng chỉ phác hoạ một vài nét mà không chỉ gợi được cái “hồn” của ngàn lau mà còn cả cái dáng rất tạo hình của cô gái lái đò người Mèo, người Thái, cái dáng ngả nghiêng rất tình tứ “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” của những bông hoa rừng như muốn làm duyên bên dòng nước lũ. Hai từ “thấy” và “nhớ” được tác giả dùng trong hai câu thơ trên cũng khá tinh tế. Dường như cái hồn thiêng của bông hoa lau đã in hình rõ nét trong mắt tác giả còn cái dáng mềm mại thon thả của cô lái đò cùng bông hoa rừng đong đưa lại khắc sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu cảnh đẹp non sông đất nước này. Không có một tâm hồn nhạy cảm tài hoa thì không thể bắt rất nhạy những hình ảnh giàu hình sắc của hoa như thế.
Bốn câu thơ như một bức tranh thủy mặc với những nét vẽ chấm phá, tinh tế, mềm mại, tài hoa đã truyền được cái hồn của cảnh vật. Hơn thế, đọc đoạn thơ này lên, người đọc có cảm giác đoạn thơ không chỉ được khắc, được phổ vào những nốt nhạc tinh tế mà nhạc điều đó còn được cất lên từ một tâm hồn say đắm với cảnh và người miền Tây Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cho nên rất có lí khi Xuân Diệu nhận xét “Đọc bài thơ Tây Tiến ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng”.
Đoạn thơ thể hiện bút pháp tài hoa của tác giả. Qua đó, người đọc thấy cảnh đêm liên hoan văn nghệ, cái sông nước Tây Bắc mang vẻ đẹp hiện thực lãng mạn mà huyền ảo với từng vần thơ vừa giàu chất nhạc vừa giàu chất họa. Đó cũng chính là sự kết hợp hài hòa tuyệt diệu giữa ba yếu tố: thơ, nhạc, họa trong thi phẩm của Quang Dũng.
3. Phân tích đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến mẫu 2
Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người. Cảnh trí miền Tây ở khổ thơ dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống: "Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc". Một miền Tây thơ mộng thi vị giàu sức cuốn hút. Đoạn thơ thứ 2 này được xem là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
"Bừng lên" vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Hai cụm từ "bừng lên" "hội đuốc hoa" thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa đậm chất lãng mạn. "Bừng lên" vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh.
"Hội đuốc hoa" đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không gian ấy "em" xuất hiện. "Em" xuất hiện lập tức trở thành trung điểm của mọi điểm nhìn.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
"Kìa em" lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.
Khèn lên man điệu nàng e ấp.
Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với người lính Tây Tiến vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Từ "man điệu" mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa u Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban đầu là "em" tiếp đến là "nàng" rồi sau lại là "em". Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh.
Sẽ rất thiếu sót nếu như chúng ta dừng lại ở đây. Bởi lẽ bốn câu sau của đoạn thơ mới thực sự thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. "Hồn lau" những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau đang giăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây ngất đắm say trước cảnh và người, ở đây cảnh như làm duyên với người.
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.
4. Phân tích đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến mẫu 3
Quang Dũng là nhà thơ – chiến sĩ, từng cầm súng đánh giặc và làm thơ thời kháng chiến chống Pháp. Năm 1948, tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây cũ), ông viết bài thơ "Tây Tiến" nói lên tình thương nhớ chiến trường miền Tây, nhớ đồng đội thân yêu một thời trận mạc. Mở đầu bài thơ là một lời nhắn gọi biết bao thiết tha bồi hồi:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi".
Bài thơ có 34 câu thơ thất ngôn, chia thành 4 đoạn, mỗi đoạn thơ là sự hồi tưởng bao kỉ niệm sâu sắc. Đây là đoạn thơ thứ hai có 8 câu mang vẻ đẹp như một bài hành nói về hai nỗi nhớ: nhớ hội đuốc hoa và nhớ chiều sương Châu Mộc:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
...
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
Từ "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói – Mai Châu mùa em thơm nếp xôi", Quang Dũng nhớ đến "hội đuốc hoa" thắm thiết tình quân dân:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".
Đuốc hoa là cây nến thắp lên trong phòng tối tân hôn. "Truyện Kiều" có câu: "Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa" (3096). Quang Dũng sáng tạo thành "hội đuốc hoa" để nói về đêm liên hoan lửa trại giữa các cán bộ chiến sĩ đoàn binh Tây Tiến với đồng bào các bản mường. Chữ "bừng" vừa chỉ ánh lửa, ánh đuốc sáng bừng lên, vừa tả âm thanh tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát, tiếng khèn vang lên tưng bừng rộn rã trong hội đuốc hoa. Đêm lửa trại, đêm liên hoan chắc là có múa sạp, có múa xòe của các cô gái Mường, cô gái Thái tham gia? Chữ "kìa" là đại từ để chỉ một đối tượng (người, vật) từ xa; trong văn cảnh thể hiện sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của chàng lính trẻ Tây Tiến khi nhìn thấy các "em", các "nàng" đến dự hội đuốc hoa trong bộ xiêm áo xinh đẹp. Hình ảnh "nàng e ấp" là một nét vẽ tài hoa và có hồn đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, kín đáo, tình tứ của các thiếu nữ miền Tây. Ánh lửa, tiếng hát, tiếng khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiều diễm của các "em", các "nàng" như đã "xây hồn thơ" các chàng lính trẻ. Con người thì trẻ chung, xinh đẹp, hào hoa, đa tình; ngòi bút của thi nhân cũng rất tài hoa, lãng mạn. Qua hội đuốc hoa, ta càng thấy đời sống tinh thần vô cùng phong phú của đoàn binh Tây Tiến nơi chiến trường miền Tây gian khổ ác liệt.
Bốn câu thơ tiếp theo dòng hồi tưởng "trôi" về một miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, nơi có dãy núi Pha Luông cao 1880m, nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng người lính chiến với tâm hồn thi sĩ đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú miền Châu Mộc. Năm tháng đã trôi qua, cảnh và người miền đất lạ ấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đông đưa".
"Chiều sương ấy" là chiều thu 1947. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu chiều thu ấy in đậm hồn người; hoài niệm càng trở nên mênh mang. Chữ "ấy" câu trên bắt vần với chữ "thấy" câu dưới tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi "có thấy" cất lên trong lòng. Hồn lau là hồn mùa thu. Hoa lau nở trắng cờ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu "nẻo bến bờ", nơi bờ sông bờ suối. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc "chiều sương" và "hồn lau nẻo bến bờ". Những thi liệu ấy đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển bức tranh suối rừng nơi miền đất lạ. Thấp thoáng trong vần thơ "Tây Tiến" là những câu cổ thi tuyệt bút:
"Sương đầu núi buổi chiều như dội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…"
(Chinh phụ ngâm)
Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau:
"Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng".
(Lau mùa thu – Chế Lan Viên)
Điệp ngữ "có thấy" và "có nhớ" làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Nhớ cảnh rồi nhớ đến người. Trong chia phôi còn "có nhớ". "Có nhớ" con thuyền độc mộc và "dáng người" chèo thuyền độc mộc? "Có nhớ" hình ảnh "hoa đong đưa" trên dòng nước lũ? "Hoa đong đưa" có phải là hoa rừng "đong đưa" làm duyên trên dòng nước lũ như giáo sư Phan Cự Đệ đã nói? Hay "Hoa đong đưa" là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây xinh đẹp lái thuyền độc mộc duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang "đong đưa" trên sông suối. Bài hát "Sơn nữ ca" của nhạc sĩ Trần Hoàn, "Nụ cười sơn cước" của nhạc sĩ Tô Hải cho ta cảm nhận ấy. Phải có "tay lái ra hoa" mới có thể "đong đưa" được như vậy.
Những dòng hồi tưởng trên đây về cảnh sắc và con người nơi suối rừng miền Tây, nơi cao nguyên Châu Mộc đã được thể hiện một cách tuyệt đẹp qua bút pháp tài hoa và hồn thơ lãng mạn. Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc vô cùng hoang vu, là chốn rừng thiêng liêng nước độc, nhưng Quang Dũng với tâm hồn lạc quan và yêu đời của một khách chinh phu thời đại mới đã cảm nhận và phát hiện bao vẻ đẹp thơ mộng, xinh tươi của cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Hoài niệm, kỉ niệm về chiến trường núi rừng miền Tây như được chắt lọc qua tâm hồn. Nhà thơ có gắn bó với cảnh vật và con người Tây Bắc, có vào sinh ra tử với đồng đội mới có kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá như thế.
Bức tranh chiều sương Châu Mộc và hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn kết hợp hài hòa với tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.
5. Phân tích đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến mẫu 4
Trong vườn hoa của thơ ca kháng chiến chống Pháp, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng - nở ra từ một tâm hồn phóng khoáng, hồn hậu, hào hoa, một ngòi bút tình tế và lãng mạn - được coi là bông hoa đầu mùa vừa đẹp vừa lạ. Bài thơ không chỉ khắc hoạ thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở hay những gian khó trập trùng nơi núi cao vực sâu mà bên cạnh đó, ta cũng có cơ hội được cảm nhận bức tranh thiên nhiên gợi cảm, nên thơ cùng những giờ phút liên hoan tưng bừng, lãng mạn giữa những tháng năm khói lửa hào hùng. Và 8 câu thơ ở khổ thơ thứ hai là những vần thơ đã khắc hoạ rõ nhất vẻ đẹp lãng mạn ấy.
Nếu đoạn thơ đầu tiên của Tây Tiến mở ra trước mắt người đọc không gian hùng vĩ, hiển trở của núi rừng Tây Bắc thì với 8 câu thơ tiếp theo của khổ thơ thứ hai, bạn đọc sẽ được hoà mình vào không gian từng bừng của buổi liên hoan doanh trại và sự lãng mạn, nên thơ của chiều sương Châu Mộc
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ"
Chữ "bừng" như một nét vẽ có thần, nó làm cho không gian như sáng bừng lên trong âm thanh, trong ánh lửa bập bùng và trong hơi ấm của tỉnh quân dân cá nước. Trong không gian ấy, người lính Tây Tiến phải ngạc nhiên đầy tình tứ, mà thốt lên hai tiếng "kìa em". Giây phút này đây họ nhưng rũ bỏ tất cả mọi gian truân, mệt mỏi được cùng hòa mình theo giai điệu của những bản nhạc nơi rừng núi, để sống trọn vẹn, trẻ trung, tận hưởng niềm vui với một tâm hồn lãng mạn
"Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
Ban đầu là "em" tiếp đến là "nàng" rồi sau lại là "em". Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh. Là một người nghệ sĩ đa tài, không chỉ làm thơ mà Quang Dũng còn viết nhạc, vẽ tranh,... chính điều đó đã khiến cho ngòi bút của Quang Dũng trở nên tài hoa, sống động hơn bao giờ hết. Trong thi có nhạc, có hoạ, từng nét vẽ, từng âm thanh, từng ánh lửa bập bùng cùng tiếng nhạc dân tộc dập dìu vui tươi tưởng như hiện lên thật hữu hình trước mắt, vang lên thật hữu thanh bên tai, để chính lòng ta cũng phải rạo rực mà hoà theo không khí rộn ràng ấy. Bốn câu thơ không chỉ khắc hoạ chân thực và lãng mạn buổi liên hoan doanh trại nơi vùng cao mà còn làm hiện lên tâm hồn trẻ trung, hào hoa của những người lính Tây Tiến, họ anh dũng, họ phi thường nhưng cũng có những giờ phút, những cảm xúc hết sức đời thường. Không chỉ thế, đoạn thơ còn làm nổi bật tình quân dân cá nước ấm nồng, dõi theo, tiếp thêm sức mạnh cho những chiến sĩ trên chiến trường gian lao, khói lửa.
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Thì ra không chỉ có những "dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm", hay "ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống" mà thiên nhiên miền cao Tây Bắc cũng có những nét đẹp hoang sơ, thơ mộng như vậy. 4 câu thơ với những nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều như vẽ nên một bức tranh thiên nhiên quá đôi nên thơ, quyến rũ. Chiều sương gợi mở một không gian huyền bí, cái thực cái mộng của một cõi trời nước Tây Bắc bảng lảng sương nhuốm một màu cổ tích Đại từ phiếm chỉ "ấy" càng làm cho khoảng thời gian trở nên mơ hồ không xác thực, thế nhưng nó lại rất rõ ràng, rất gợi, rất đáng nhớ trong ký ức của nhà thơ. Hình ảnh "lau" hiện lên không phải là một bông, một nhành, một bờ, mà là "hồn lau", dường như chẳng có một hình dung cụ thể nào, mà ta chỉ có thể cảm nhận ở đâu đây một chuyển động nhẹ nhàng, gợi cảm. Giữa không gian ấy, hình ảnh con thuyền độc mộc hiện lên làm cho bức tranh thiên nhiên cũng mang một vẻ trầm tĩnh như một bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tế vi, mờ ảo như hư vô, hư thực mà lại thơ mộng đến lạ lùng. Một lần nữa hình ảnh hoa lại xuất hiện trong bài thơ. Tính từ "đong đưa" gơi nên một chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế của bông hoa, như đang làm dáng làm duyên giữa dòng nước lũ đang dữ dội cuộn trào. Thật là một vẻ đẹp nguyên sơ, thanh khiết và gợi cảm đến nao lòng.
Bằng ngòi bút tài hoa hữu nhạc, hữu hoạ, kết hợp với những bút pháp miêu tả độc đáo, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp thơ mộng của Tây Bắc và những dấu ấn vui tươi của một thời chiến đấu bên đồng đội. Cũng chính đoạn thơ đã thể hiện rõ nét nhất cảm hứng lãng mạn, tâm hồn hào hoa và chất lãng tử của nhà thơ "xứ Đoài mây trắng". 8 câu thơ đã góp một phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm nói riêng và văn thơ cách mạng nói chung, để Tây Tiến trở thành một bông hoa mãi tươi xanh trong dòng chảy của thời gian.
6. Phân tích đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến mẫu 5
"Tổ Quốc ta bao giờ đẹp thế này chăng?"
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng thốt lên khi ông cảm nhận được vẻ đẹp của đất nước ta. Vẻ đẹp ở đây không chỉ ở những cánh đồng lúa mênh mông, bát ngát hay những bờ biển rì rào cát trắng mà nó còn ở trong chính con người Việt Nam ta. Cùng đề tài ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, con người, Quang Dũng đã khắc họa tài tình vẻ đẹp vùng núi Tây Bắc và phẩm chất của những người lính qua tác phẩm "Tây Tiến". Ông sáng tác bài thơ vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh sau khi ông rời đơn vị cũ. Quang Dũng gửi gắm mọi tâm tư, tình cảm, nỗi nhớ da diết của mình vào Tây Tiến, nổi bật hơn hết là những kỉ niệm đẹp cùng với hình ảnh đêm hội liên hoan và buổi chiều sương được thể hiện tinh tế qua đoạn thơ:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
...
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Tây Tiến là tên đoàn quân được thành lập năm 1947, chiến đấu ở vùng Tây Bắc. Đa số là thanh niên tri thức Hà Nội. Ban đầu bài thơ có tên "Nhớ Tây Tiến" nhưng để đảm bảo tính hàm súc cho tác phẩm thì Quang Dũng đã đổi tên thành "Tây Tiến". Dấu ấn hội họa và âm nhạc được tác giả thể hiện nổi bật ở những kỉ niệm đẹp và buổi chia li trong miền nhớ của ông
Mở đầu đoạn thơ là hình ảnh doanh trại lung linh, tưng bừng, vui như đi trẩy hội.
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ"
Thông thường khi nhắc đến "doanh trại" thì ta sẽ nghĩ đến không khí nghiêm túc, khô khan của các anh chiến sĩ, bộ đội. Nhưng không, trong thơ Quang Dũng hình ảnh doanh trại hiện lên cùng với hội đuốc hoa cùng với động từ "bừng" tạo nên không khí vui tươi, sôi động. Ở đây các anh chiến sĩ được thoải mái, thư giãn sau những chặng đường hành quân khó khăn, mệt mỏi. Động từ "bừng" như làm rực sáng cả câu thơ, như ánh sáng tỏa sáng rực rỡ, mạnh mẽ khắp doanh trại. Cụm từ cảm thán " kìa em" vang lên với sự ngỡ ngàng, kinh ngạc đồng thời lại đầy cảm xúc dạt dào, trìu mến. Các cô gái Tây Bắc với xiêm y lộng lẫy, đẹp đẽ bước ra mang đến hương sắc ngọt ngào, nhẹ nhàng tạo cho doanh trại một không khí đầy tươi vui, hạnh phúc.Một đêm hội tràn ngập ánh sáng, chan hòa âm nhạc và vũ điệu, thắm thiết tình quân dân
Tiếp đến hai câu thơ sau mang đến bản sắc dân tộc vùng Tây Bắc:
"Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
Khèn là nhạc cụ dân tộc ở núi rừng Tây Bắc, thường người Tây Bắc sẽ sử dụng loại nhạc cụ này trong các dịp lễ hội và các chàng trai, cô gái thì múa hoặc hát theo tiếng nhạc ấy. Tác giả đã đem vào thơ ca hình ảnh nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc ở Tây Bắc. "Man điệu" ở đây chỉ điệu nhạc hay điệu múa mang đậm đà bản sắc dân tộc xứ này. Tính từ "e ấp" thể hiện sự thẹn thùng, ngại ngùng của các cô thiếu nữ dân tộc đồng thời làm toát lên vẻ đẹp tinh tế, trong sáng của các cô gái. Tiếng nhạc hòa cùng các điệu múa nhẹ nhàng, uyển chuyển của các cô gái làm lay động, say mê các chàng thanh niên tri thức Hà Nội. Không khí đó đã xua tan mọi muộn phiền, mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến, như tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho họ để tiếp tục chặng đường đầy khó khăn cùng với ý chí "Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh" của mỗi người chiến sĩ. Trong không khí ấy, tâm hồn của người chiến sĩ hướng "về Viên Chăn xây hồn thơ". Hơn ở đâu hết, đoạn thơ này bộc lộ nét tài hoa và hồn thơ lãng mạng của Quang Dũng.
Hai câu thơ tiếp theo tả cảnh buổi chiều chia ly ở Tây Bắc, vừa tả thực vừa tả mộng tạo nên không gian huyền ảo, mộng mơ:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ"
Hình ảnh buổi chiều sương lãng mạn, nhẹ nhàng, thơ mộng khác với sự hùng vĩ dữ dội ở đầu bài. Một thế giới khác của thiên nhiên Tây Bắc được mở ra, không còn mạnh mẽ, khúc khuỷu, thăm thẳm mà lại chuyển sang nên thơ, mơ mộng hơn. Đặc biệt đại từ "ấy" tạo nên nét độc đáo cho buổi chiều sương, như nhắc lại kỉ niệm những buổi chiều sương đẹp đẽ, lung linh trong miền ký ức. Sương ở đây không phải là sương che lấp, che phủ mà sương thể hiện nỗi buồn man mác, nỗi lưu luyến của người đi Châu Mộc vào buổi chiều sương. Sau này, cùng hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ, nên thơ.đó, Tố Hữu đã có hai câu thơ ngợi tả cảnh đẹp ở Châu Mộc:
"Nông trường Châu Mộc như hoa nở
Giữa núi rừng Tây Bắc hát ca"
Còn buổi chiều của thơ Quang Dũng, ông miêu tả hình ảnh "hồn lau" tả dáng lau uyển chuyển, mỏng manh qua màn sương, đồng thời như mang đến làn gió thổi vào từng cây cỏ để tạo nên không gian thiên nhiên đầy sức sống, mãnh liệt.
Hai câu thơ cuối thể hiện hình ảnh con người hòa quyện cùng thiên nhiên thơ mộng:
"Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Bóng dáng người trên độc mộc với dáng vẻ lả lướt, thướt tha hòa cùng với sự làm duyên của cánh hoa đong đưa theo dòng nước lũ. Điệp ngữ "có nhớ- có thấy" làm tăng thêm xúc cảm, nỗi nhớ da diết, nồng nàn của tác giả dành cho nơi đây. Hình ảnh đối lập giữa dòng nước lũ và hoa đong đưa, dòng lũ cuộn trào mạnh mẽ với cành hoa nhẹ nhàng lung lay, hai hình ảnh như đối lập hoàn toàn nhưng lại hài hòa, nên thơ.Bút pháp gợi mà không tả với những nét vẽ cách điệu đã tạo nên bức tranh đậm đà chất hội họa hòa với chất thi vị trữ tình lôi cuốn người đọc, đưa ta vào một thế giới hoang sơ, cổ tích
Với ngòi bút hào hoa, tinh tế không kém phần thơ mộng và đầy lãng mạng, Quang Dũng đã phác họa nên bức tranh những kỉ niệm đẹp đầy lung linh, huyền ảo và hình ảnh buổi chiều sương mang đậm sự lưu luyến, nhớ nhung da diết. Chất họa và nhạc trong thơ ca Quang Dũng được bộc lộ hết ở khổ thơ trên.
Tây Tiến quả là tác phẩm để đời của nhà thơ Quang Dũng. Bài thơ vừa mang tính cách mạng lại còn đậm nét trữ tình nghệ thuật. Mang đến cho người đọc một thế giới khác của Tây Bắc, lung linh hơn, thơ mộng hơn đồng thời như cuốn nhật ký ghi lại những kỉ niệm đẹp nơi đây, chứa mãi trong miền ký ức, trong tim của tác giả.
7. Phân tích đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến mẫu 6
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”
Như Chế Lan Viên đã viết, lòng thương nhớ luôn dạt dào nơi trái tim khi ta đủ yêu, đủ gắn bó. Nhà thơ Quang Dũng cũng từng gắn bó với Tây Bắc, từng “súng bên súng, đầu sát bên đầu” với những người đồng đội và chính những yêu thương đã khơi nguồn nỗi nhớ, thôi thúc ông viết lên bài thơ Tây Tiến với những kỉ niệm đẹp hiện lên lung linh qua khổ thơ thứ hai.
Đến khổ thơ thứ hai ký ức một thời trận mạc đã trở thành hành trang của người lính Tây Tiến. Kỉ niệm khó quên nhất có lẽ là những đêm liên hoan lửa trại:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Đêm hội dường như thêm vui vẻ, ấm áp và quyến rũ, say lòng người khi có “em” đang yểu điệu, thướt tha , e ấp, dịu dàng. Đoạn thơ vẽ lên bức tranh đêm hội đuốc hoa thật vui vẻ ,ấm áp. Nếu Mai Châu có hương vị cơm nếp thật hấp dẫn,...thì Châu Mộc khoác lên vẻ mộc mạc mà đậm chất thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Bốn câu thơ theo dòng hồi tưởng “trôi” về miền đất lạ, đó là Châu Mộc với nét đẹp hoang sơ của nó đã trở thành mảnh tình trong tâm hồn của bao người.
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”
(Chế Lan Viên)
Nỗi nhớ kéo dài để lòng người nặng những hoài niệm, nặng những chơi vơi. Hoa đong đưa” là hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng nước hay cô gái miền Tây Bắc xinh đẹp trên dòng suối? Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc thật hoang sơ nhưng trong cái hoang sơ lại thật nên thơ và lãng mạn của cảnh và người . Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc vừa cổ điển vừa hiện đại.
Nhà thơ Quang Dũng đã vô cùng thành công với tác phẩm Tây Tiến đặc biệt khi khắc họa tượng đài những chiến binh hào hoa, dũng cảm, lãng mạn đã ghi dấu thật sâu trong trái tim bạn đọc.
“Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế !”
(Tố Hữu)
8. Phân tích đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến mẫu 7
"Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để thơ bén rễ và sinh sôi." (Puskin) Bắt rễ từ hiện thực đời sống, thơ Quang Dũng đã khắc họa thiên nhiên và con người vùng núi cao Tây Bắc một cách sống động và chân thực nhất. Bên cạnh những dốc cao, vực sâu, những dãy núi cao hiểm trở, hùng vĩ còn là những bản làng với biết bao kỉ niệm tươi đẹp. Và có lẽ, một trong những kỉ niệm không thể quên của người lính là đêm hội liên hoan ấm áp tình quân dân:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ."
Chất tài hoa, lãng mạn của người lính Tây Tiến đã được thể hiện rõ nét qua những câu thơ trên. Địa bàn hoạt động của những người lính Tây Tiến rất rộng, hành quân di chuyển thường xuyên nên có thể doanh trại mới chỉ được dựng lên. Chữ "bừng" là một nét vẽ có thần, đó là sáng bừng lên, không chỉ ánh sáng mà còn là âm thanh, tưng bừng, rộn rã. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả con người và cảnh vật dường như đều bốc men say ngây ngất, ngả nghiêng và rạo rực. Hai chữ "kìa em" và cụm từ "tự bao giờ" thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, say mê, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của bức tranh đêm nay là những cô thiếu nữ vùng cao bất ngờ xuất hiện trong xiêm áo sặc sỡ, độc đáo. Những cô gái ấy vừa e ấp, thẹn thùng, vừa dịu dàng tình tứ trong vũ điệu đậm đà bản sắc văn hóa đã khiến người lính Tây Tiến phải say mê thậm chí cảm phục. Đêm liên hoan thấm đượm tình quân dân ấy cũng từng được nhà thơ Hoàng Trung Thông nhắc đến:
"Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười rộn ràng xóm nhỏ."
Cảm hứng lãng mạn, bay bổng của đoạn thơ thể hiện qua câu thơ cuối. Đêm liên hoan diễn ra trong doanh trại nằm ở biên giới Việt - lào nên âm thanh réo rắt của tiếng khèn, tiếng nhạc vang vọng, bay bổng về tận với Viên Chăn. Đêm liên hoan ấy đã "xây hồn thơ" cho người lính trẻ, đó là sự bay bổng, phiêu diêu theo tiếng khèn, điệu nhạc.
Bốn câu thơ cuối, Quang Dũng đã tái hiện lại khung cảnh chiều sương Châu Mộc với nỗi nhớ thương da diết:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa."
Bốn câu thơ là nỗi nhớ sâu đậm của người lính Tây Tiến về bức tranh thiên nhiên miền Tây . Câu thơ gợi lên cả không gian và thời gian. Đó là một chiều sương bảng lảng tại Châu Mộc. KHông phải sương che, sương lấp mà sương giăng mắc khắp muôn nơi làm bức tranh cảnh vật có phần mờ nhòe, nhạt nhòa. Sự mờ nhòe, nhạt nhòa ấy không chỉ bởi màn sương hiện thực mà còn là màn sương của ký ức, hoài niệm. Nhưng cũng chính vid thế, cảnh vật trở nên mềm mại, có hồn hơn, hư ảo như bức tranh thủy mặc.
Cảnh sông nước mênh mang với bến bờ cỏ lau hoang dại đượm màu cổ tích gợi nên một không gian rộng lớn, hiu hắt. Hình ảnh hoa cỏ lau là nét đặc trưng của thiên nhiên núi rừng. Cái hay của đoạn thơ là khắc họa cảnh lẫn hồn thiên nhiên. Bông lau dại không còn vô tri vô giác nữa mà dường như cũng có linh hồn, góp phần giúp bức tranh thiên nhiên càng sinh động, chân thực hơn. Hồn lau trong thơ Quang Dũng cũng là hồn lau li biệt, có phảng phất chút buồn và đầy nỗi nhớ nhung, lưu luyến, bịn rịn. Trong thơ ca, lau cũng thường mang ý niệm của nỗi buồn thương, xa vắng, mênh mông.
"Người đi phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân trời như gió pha."
Bút pháp chấm phá tinh tế khiến không gian sông nước rộng lớn, cảnh thì thưa thớt, thấp thoáng, cỏ cây thì như có hồn. Điệp ngữ "có thấy", "có nhớ" luyến láy như xoáy sâu vào lòng người, gợi thương gợi nhớ những kỉ niệm xưa cũ. Câu thơ "có nhớ dáng người trên độc mộc" làm bức tranh hoang sơ trở nên bớt hiu quạnh khi có sự xuất hiện của con người. Dáng người trên độc mộc vừa mềm mại, uyển chuyển vừa vững chãi đưa con thuyền theo dòng nước lũ. Và đây cũng có thể hiểu rằng, dáng người ấy chính là các cô lái đò đang chèo đò chở các chiến sĩ qua sông trên chặng đường hành quân.
9. Phân tích đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến mẫu 8
Nhà thơ Văn Long đã từng nhận xét: “Nhà thơ Quang Dũng độc đáo một cách hồn nhiên, ông cứ sống tự nhiên như chim trên trời, cá dưới nước mà thành độc đáo. Bài thơ “Tây Tiến” hội tụ được cả cái bi, cái tráng của thời đại. Cái buồn lãng mạn của người tiểu tư sản, tiểu trí thức do biết mình được đón nhận một chân lý lớn nhưng cũng đồng thời đón nhận một gian nan lớn”. Thật đúng vậy, hồn thơ Quang Dũng phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn tài hoa. Đặc biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài mây trắng. Bài thơ “Tây Tiến” được viết vào cuối năm 1948 khi Quang Dũng chuyển đơn vị công tác. Trong dịp về dự đại hội toàn quân của làng Phù Lưu Chanh thuộc tỉnh Hà Đông cũ, Quang Dũng nhớ đơn vị cũ của mình da diết đã bật lên thành tiếng thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ về cuộc hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến trên nền cảnh thiên nhiên miền Tây. Nổi bật được thể hiện qua đoạn trích:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Đoạn thơ mở ra một thế giới khác của miền Tây tổ quốc. Cảnh núi rừng hoang vu, lạnh lẽo lùi dần để bất ngờ hiện ra vẻ mỹ lệ, nên thơ của cảnh vật và con người nơi đây. Quang Dũng đã bị hấp dẫn trước về đẹp mang màu sắc bí ẩn của cảnh sắc nơi xứ lạ phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong một đêm liên hoan lửa trại bập bùng và một buổi chiều sương mơ màng trên sông nước:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Bốn câu thơ trên gợi không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ. Một không gian thơ mộng ngay giữa lòng rừng núi, một đêm liên hoan đã diễn ra trong không khí hân hoan của mọi người. Câu thơ “doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” làm cho cả không gian núi rừng như sáng bừng lên. “Bừng lên” là một động từ diễn tả trạng thái đột ngột, mạnh mẽ của ánh sáng. Đó là sự bừng lên của lửa trại và cũng chính là sự bừng lên của tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói rộn rã. Những bó đuốc ấy được tác giả mỹ lệ hóa thành những ngọn “đuốc hoa”, gợi liên tưởng đến hoa chúc trong ngày hạnh phúc của cặp vợ chồng mới cưới. Ánh sáng của đuốc hoa xua tan đi cái u ám, cái lạnh giá của núi rừng, thắp sáng lên ngọn lửa hy vọng, tràn ngập niềm vui trong lòng người chiến sĩ trẻ. Trong không khí tưng bừng ấy, các cô gái đã xuất hiện mang đến nhiều bất ngờ mới “kìa em xiêm áo tự bao giờ”. Nhân vật “em” vừa xuất hiện đã trở thành linh hồn của đêm liên hoan lửa trại. Cuộc hội ngộ bất ngờ giữa chốn núi rừng hoang vu như tưới mát tâm hồn của những người lính. Họ hòa mình vào đêm lễ hội, cùng giao lưu trong tiếng nhạc rộn rã, tưng bừng. Một cảnh tượng rất vui tươi mà cũng rất tình tứ. Cụm từ “nàng e ấp” nói lên vẻ duyên dáng, kín đáo, tình tứ của những người con gái trong đôi mắt đa tình của người chiến sĩ trẻ. Tiếng khèn man điệu kết hợp với câu thơ toàn thanh bằng tạo nên độ dịu dàng, lãng mạn của tâm hồn người lính. Xua tan đi mọi cảm giác mệt mỏi, vất vả thay vào đó là tấm lòng yêu đời, yêu cuộc sống. Chính những giây phút đẹp đẽ của đêm lửa trại ấy đã để lại bao kỉ niệm đẹp đẽ trong đời lính. Hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh cũng không thể mờ đi tâm hồn lãng mạn, hào hoa nơi những chàng trai trẻ vốn ra đi từ đất Hà Thành. Bốn câu thơ tiếp theo là khung cảnh chia tay trên miền sông nước miền Tây hoang vắng, tĩnh lặng, đầy thơ mộng:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
……………………………....
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Giây phút vui vẻ ấy đã kết thúc, cuộc hội ngộ nào rồi cũng đến lúc chia tay. Giây phút chia tay ấy đã để lại bao luyến thương trong lòng kẻ ở người đi. “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy” cách sử dụng từ vô cùng hàm xúc. “Chiều sương ấy” nói lên sự tài hoa của Quang Dũng. Đọc câu thơ ta như lạc vào một buổi chiều sương giăng mờ ảo trên sông nước mênh mang. Vậy người ra đi ở đây là ai? Là những người lính họ phải rời xa mảnh đất miền Tây nơi từng có bao kỉ niệm đẹp. Chữ “ấy” như lạc vào miền ký ức sâu thẳm, vừa thực vừa mộng. Trong buổi chiều sương mờ ảo ấy tưởng như mỗi cảnh vật đều có một linh hồn. Cách nói “hồn lau nẻo bến bờ” gợi cảm giác trong mỗi nhành cây ngọn cỏ là một mảnh hồn thiêng nào đó. Đó là linh hồn tạo vật hay chính nỗi nhớ thương của nhà thơ đã cho những tạo vật ấy có một linh hồn. Cuộc đời người lính gắn liền với hoa lau vùng Tây Bắc, nay phải tạm chia xa. Nỗi nhớ ấy càng trở nên da diết, bâng khuâng. Trên những dòng sông giữa đôi bờ cổ tích ấy hiện lên dáng hình uyển chuyển, mềm mại của một người con gái trên chiếc thuyền độc mộc. Trong khổ thơ này Quang Dũng đã mở đầu hai câu thơ bằng hai cụm từ nghi vấn “có thấy”, “có nhớ”. Nhờ đó câu hỏi tu từ cũng như lời tự vấn da diết khắc khoải. Phải chăng đó là dáng hình kiêu dũng của người lính Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt thác tiến thẳng về phía trước. Câu thơ cuối “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” sử dụng biện pháp đối. Đối giữa cái dữ dội của dòng nước đang cuộn trào chảy với cái mềm mại của hoa đong đưa. Thiên nhiên như hòa vào cảm xúc của con người. Tạo lên một bức tranh vùng Tây Bắc thật lãng mạn nhưng cũng không kém phần hào hùng.
Khổ thơ đã tái hiện lại kỷ niệm đẹp về một đêm liên hoan lửa trại ấm áp tình quân dân. Đọc xong đoạn thơ, ta như lạc vào thế giới của cái đẹp. Đó là vẻ đẹp toát lên từ cảnh vật, từ lòng người. Đoạn thơ cũng là minh chứng cho tính lãng mạn trong hồn thơ Quang Dũng. Nếu xem Tây Tiến là một bài hát về người lính thì đoạn thơ là khúc hát mang giai điệu êm đềm. Đoạn thơ như khiến ta được sống lại với những năm tháng cuộc đời kháng chiến chống Pháp tuy gian khổ mà đầy tươi vui.
Đoạn thơ góp phần làm nên sự thành công của bài thơ Tây Tiến. Tác phẩm thể hiện rõ bút pháp lãng mạn của Quang Dũng trong cách nhìn, cách miêu tả. Nhà thơ sử dụng ngôn ngữ gợi cảm, nhiều chi tiết hình ảnh cây liên tưởng thú vị. Kết hợp với giọng thơ sâu lắng, thơ mộng, trữ tình vẽ lên một bức tranh miền Tây tổ quốc tuyệt đẹp.
Bài thơ Tây Tiến đã cho thấy sự thành công của Quang Dũng trong việc dựng lên bức tượng đài bất tử về hình tượng người lính. Với âm hưởng thơ hòa quyện giữa hiện thực và lãng mạn Quang Dũng đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hoang sơ hiểm trở lại vừa thơ mộng trữ tình. Xen vào đó là hình tượng con người với vẻ đẹp hào hoa, bi tráng. Tây Tiến đã trở thành một dấu ấn thiêng liêng với nhà thơ Quang Dũng và với tất cả chúng ta. Nó đã biến đoàn quân Tây Tiến thành bất tử, sống mãi với thời gian.
Mời các bạn cùng tải về bản PDF để xem đầy đủ nội dung