Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
VnDoc.com xin gửi tới bạn đọc bài viết Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa để bạn đọc cùng tham khảo.
Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- I. Dàn ý Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài
- II. Văn mẫu Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài
- Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - mẫu 1
- Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - mẫu 2
- Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật người đàn bà hàng chài - mẫu 3
- Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 4
- Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 5
- Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 6
- Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 7
- Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 8
- Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 9
- Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 10
- Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 11
- Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 12
- Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 13
I. Dàn ý Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài
Dàn ý Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và nhân vật người đàn bà làng chài.
2. Thân bài
a. Ngoại hình
Trạc ngoài bốn mươi, thân hình cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Khuôn mặt mệt mỏi sau những đêm thức trắng, tấm lưng bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng.
Sinh nhiều con, cuộc sống túng quẫn, lão chồng trở nên hung bạo đánh đập vợ để trút giận.
b. Tính cách, phẩm chất
Nhẫn nhục, chịu đựng: Thường xuyên bị chồng đánh bằng roi mây một cách tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng chị không hề khóc than, không van xin cũng không chống trả.
Khi đứng trước quan tòa, vị chánh án khuyên bà bỏ chồng, bà van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.
→ Bà cam chịu, nhẫn nhịn vì con, muốn con có một gia đình và nuôi chúng nó khôn lớn.
Giàu tình yêu thương: Sự cam chịu, nhẫn nhịn của bà bắt nguồn từ tình yêu thương con vô bờ bến. Thương con, chị không muốn con chứng kiến cảnh bạo hành nên xin chồng đánh trên bờ, gửi thằng Phác lên rừng, chị cảm thấy có tội với nó khi vì thương chị mà nó hận bố nó.
Vị tha, bao dung: Bị người chồng đánh đập mà bà vẫn không hề căm giận, oán trách hay muốn trả mối hận. Thậm chí bà còn biết ơn người đã cùng bà chèo chống con thuyền trách nhiệm để nuôi con. Bà nhận mọi lỗi lầm về mình, bà nghĩ sự hung bạo của chồng cũng vì bà mà ra.
Thấu hiểu lẽ đời: Bà ý thức được thiên chức của người phụ nữ và quy luật ngàn đời của tạo hóa: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”.
c. Đánh giá chung
Người đàn bà là chân dung thành công của Nguyễn Minh Châu, để lại ấn tượng mạnh trong lòng mọi người.
Người đàn bà là biểu tượng nghệ thuật đầy ám ảnh mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải tư tưởng nhân đạo qua tác phẩm.
3. Kết bài
Khái quát lại vẻ đẹp nhân phẩm của người đàn bà làng chài và nội dung, nghệ thuật của truyện ngắn.
Dàn ý Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 2
1. Mở bài
- Kim Lân là nhà văn chuyên viết về nông thôn và cuộc sống người dân quê, có sở trường về truyện ngắn. Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc, viết về tình huống "nhặt vợ" độc đáo, qua đó thể hiện niềm tin mãnh liệt vào phẩm chất tốt đẹp của những con người bình dị trong nạn đói thê thảm.
- Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mĩ, cũng là cây bút tiên phong thời đổi mới. Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc ở thời kì sau, viết về lần giáp mặt của một nghệ sĩ với cuộc sống đầy nghịch lí của một gia đình hàng chài, qua đó thể hiện lòng xót thương, nỗi lo âu đối với con người và những trăn trở về trách nhiệm của người nghệ sĩ.
2. Thân bài
a. Làm rõ đối tượng thứ nhất
(bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
Nhân vật người vợ nhặt
- Giới thiệu chung: Tuy không được miêu tả thật nhiều nhưng người vợ nhặt vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc hoạ sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên trong, ban đầu và về sau.
- Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:
+ Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, là một lòng ham sống mãnh liệt.
+ Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người biết điều, ý tứ.
+ Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan.
b. Làm rõ đối tượng thứ 2
(bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích)
Nhân vật người đàn bà chài
- Giới thiệu chung: Là nhân vật chính, có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc hoạ sắc nét, theo lối tương phản giữa bề ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất.
- Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:
+ Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh.
+ Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có khát vọng hạnh phúc, can đảm, cứng cỏi.
+ Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời.
c. So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích, so sánh)
So sánh nét tương đồng, khác biệt
- Tương đồng: Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của hoàn cảnh. Những vẻ đẹp đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực lam lũ làm khuất lấp. Cả hai đều được khắc hoạ bằng những chi tiết chân thực...
- Khác biệt: Vẻ đẹp được thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh, trong nạn đói thê thảm. Vẻ đẹp được khắc sâu ở người đàn bà hàng chài là những phẩm chất của một người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính, trong tình trạng bạo lực gia đình...
d. Lí giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học… (bước này vận nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
+ Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến đổi từ thấp đến cao (cảm hứng lãng mạn), trong khi đó người đàn bà chài lưới lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại(cảm hứng thế sự - đời tư trong khuynh hướng nhận thức lại)
+ Sự khác biệt giữa quan niệm con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con người đa dạng, phức tạp (Chiếc thuyền ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này
(có thể có thêm nhiều ý khác, tùy thuộc mức độ phân hóa của đề thi)
3. Kết bài
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
II. Văn mẫu Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài
Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - mẫu 1
Nguyễn Minh Châu từng tâm niệm trong sự nghiệp cầm bút của mình "Văn học và đời sống là những đường tròn đồng tâm và tâm điểm chính là con người". Quả thực là như vậy. Nếu như trước đó, bước vào văn nghiệp trong tâm thế của một cây bút lãng mạn, thì sau này, trong quá trình viết, tìm hiểu khai thác về cuộc đời, Nguyễn Minh Châu nhìn nhận ra được sử mệnh của người cầm bút. Tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" là một trong những truyện ngắn thể hiện rõ nét tư duy "nghệ thuật vị nhân sinh" - văn học sinh ra là vì con người, vì cuộc đời của ông. Đọc "Chiếc thuyền ngoài xa", mỗi nhân vật đều xuất hiện và tỏa sáng với những nét đẹp riêng nhưng có lẽ để lại nhiều ấn tượng cũng như trăn trở nhất trong lòng người đọc nhất chính là hình ảnh người đàn bà làng chài - đại diện điển hình cho những người phụ nữ có số phận bất hạnh nhưng chan chứa tình yêu thương.
Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" viết vào tháng 8 năm 1983, là đứa con tinh thần tiêu biểu cho cảm hứng đời tự thế sự gắn với vấn đề đạo đức và triết lý nhân sinh của Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm lúc đầu được in trong tập "Bến quê", sau đó được đưa vào tập truyện ngắn cùng tên (1987). Năm 1983, đó là một thời điểm khá đặc biệt khi cuộc chiến tranh chống Mỹ và tay sai đã kết thúc thắng lợi, chung ta trở về với khuôn mặt của đời thường. Và cũng trong thời điểm này, dân tộc đang bước vào giai đoạn đổi mới, cho nên cuộc sống có nhiều điều bất ngờ thú vị, có sức hút đối với văn nghệ sĩ, trong đó có Nguyễn Minh Châu. "Chiếc thuyền ngoài xa" kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển miền Trung. Và từ chuyến đi ấy, anh đã nhận ra rất nhiều khía cạnh của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiến anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người đàn bà hàng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.
Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng như một sự đẽo gọt sơ sài của tạo hóa nhưng lại giàu sức gợi. Đó là hình ảnh một người đàn bà trạc tuổi ngoài bốn mươi, cao lớn với những đường nét thô kệch. Dáng vẻ của người phụ nữ ấy đã nói hết cả quãng đời cơ cực, bất hạnh của mình:" Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Không dừng lại ở đó, người đàn bà đáng thương này lại được nhìn nhận qua góc độ của một người chồng, với cái nhìn cay nghiệt, trút giận vào "tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng." Đây chẳng khác gì một con người quen với nỗi cơ cực, cam chịu, sự nhọc nhằn lam lũ in hằn lên trên thân hình khắc khổ kia của chị.
Người đàn bà hàng chài mang trong mình một nỗi niềm bất hạnh. Vì xấu xí nên cơ hội hạnh phúc ít hơn những người khác, bệnh đậu mùa khiến chị rỗ mặt. Mặc dù gia đình khá giả, có nhà ở trên phố nhưng vì ngoại hình xấu xí nên không nên duyên được với ai. Dù vậy chị vẫn khát khao hạnh phúc cho thân phận hẩm hiu: có mang với một anh con trai nhà hàng chài rồi tiếp theo đó là chuỗi ngày lênh đênh, cơ cực sống trên biển với một gia đình đông đúc trên một con thuyền chật hẹp, nghèo túng quanh năm, với những ngày phải ăn xương rồng luộc chấm muối khi không thể đi biển được. Không những thế, người phụ nữ ấy còn trở thành nạn nhân của nạn bạo hành gia đình: "bị hành hạ" ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, và còn cả chuyện "bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh". Lời bộc bạch của người đàn bà bất hạnh ấy ẩn chứa một nỗi day dứt xót xa. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình. Ít ai biết rằng, ẩn sau dáng hình thô kệch xấu xí, ẩn sau số phận nghiệt ngã, khắc khổ kia của người đàn bà làng chài là những vẻ đẹp bên trong, là vẻ đẹp của sự thấu hiểu lẽ đời, giàu tình yêu thương. Đó là một tấm lòng vị tha cao cả đối với chồng, dù bị chồng nhẫn tâm đánh đập, hành hạ, thế nhưng người phụ nữ này không trách móc mà lại rất cảm thông, thấu hiểu, sẵn sàng chấp nhận nghịch cảnh éo le ấy. Không muốn nhìn thấy cảnh chồng đánh đập mình, chị xin chồng lên bờ mà đánh:" Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được lão... đưa tôi lên bờ mà đánh..." Lời nói trong ngập ngừng, đứt quãng, nỗi đau như đang dâng tràn trong tim. Người đàn bà đáng thương ấy không ngừng ra sức bảo vệ gia đình nhỏ của mình. Chị coi việc mình bị đánh độ như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy, khi được đề nghị giúp đỡ, chị chỉ biết van xin: "Xin các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu", "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó". Người đàn bà ấy tự nhận phần sai, thua thiệt về phía mình: "Cũng tại đàn bà ở thuyền chúng tôi nhiều quá", cũng không ngừng bênh vực cho chồng trước mặt Phùng và Đầu: "trước kia là một anh con trai hiền lành nhưng cục tính, do cuộc sống vất vả quá nên lão chồng chỉ còn cách đánh vợ để giải tỏa những bức bí của cuộc đời". Phải là một người rất yêu thương, giàu lòng bị tha, người đàn bà làng chài mới có thể có những đức tính hy sinh cao cả như vậy.
Không chỉ có vậy, người đàn bà ấy còn là một người phụ nữ rất mực thương con. Ngoài việc hy sinh vì con, xin chồng đừng đánh mình trước mặt con, người đàn bà hàng chài còn vì con mà cam chịu bao đau thương, nhục nhã. Khi phát hiện ra con mình - thằng Phác nhìn thấy cảnh ba đánh mẹ, người đàn bà hàng chài đau đớn, nhục nhã. Nhìn thấy con đánh cha để bảo vệ mẹ, người đàn bà ấy mếu máo: "Phác, con ơi !", rồi ngồi xếp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Hành động ấy là biểu hiện của một nỗi bất an, bấn loạn trong đau đớn đến tột cùng. Sự vái lạy ấy như một sự van xin, nhận lỗi về phía mình. Phải là một con người có lòng yêu thương con sâu sắc mới có thể cam chịu và hy sinh cao cả như thế.
Ẩn đằng sau lớp vỏ bọc tưởng như vô cảm, thất học kia lại là một người đàn bà vô cùng thấu hiểu lẽ đời. Người đàn bà hàng chài xuất hiện ở tòa án với những nét diễn biến thật ấn tượng. Từ hình ảnh một người dân nghèo, lam lũ, sợ sệt, "lúng túng tìm một góc tường để ngồi" bỗng chốc thay đổi hẳn. Nếu như lúc đầu người đàn bà xưng con, gọi là ông, quý tòa thì đến khi đối thoại với Đẩu, người đàn bà ấy lại xưng là chị, gọi là mấy chú, các chú. Để bảo vệ chồng, bảo vệ gia đình mình, người phụ nữ ấy trở nên khéo léo, thấu suốt, từ chối bỏ chồng bằng những lý lẽ thuyết phục. Chị biết rõ nỗi vất vả, cơ cực trên một chiếc thuyền không có đàn ông, chỉ biết dựa vào quá khứ tốt đẹp của chồng để thuyết phục. Hơn thế, người đàn bà ấy còn biết chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi, đời thường. "Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên như một nụ cười", vả lại, ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ. Và người phụ nữ ấy thật cao cả: "Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng tôi được ăn nó". Một người đàn bà ít học nhưng lại thấu suốt lẽ đời, giàu đức hi sinh, thật đáng ca ngợi và khâm phục! Người đàn bà hàng chài với cuộc đời đầy sự bất ngờ không thể lý giải được, cứ tưởng chị yếu hèn, nhu nhược nhưng hóa ra lại vô cùng cao cả, lớn lao; cứ tưởng chị dốt nát, kém hiểu biết nhưng hóa ra lại vô cùng trải nghiệm, sâu sắc và thấu tỏ lẽ đời dù cho chị tự nhận những suy nghĩ của mình là cái sự lạc hậu. Chị hiểu việc mình làm và chấp nhận cuộc sống ấy chứ hoàn toàn không phải do dốt nát, lạc hậu như chị tự nhận, vì trong một lẽ nào đó, con người có khi phải sống trong bi kịch, buộc phải chấp nhận bi kịch. Với người đàn bà này, cội rễ của sự cam chịu chính là tình mẫu tử, vì chị sống cho những đứa con, vì chị là một người mẹ - một người mẹ không chỉ biết đủ miếng ăn cho con mà còn muốn con lớn lên đúng nghĩa một con người, một người mẹ âm thầm không muốn làm tổn thương những tâm hồn trẻ thơ non nớt nên chỉ biết cầu xin chồng lên bờ đánh. Chị biết cách dạy còn hơn nhiều người mẹ khác khi cho con lên bờ ở với ông ngoại, chị không giống những người mẹ muốn lôi kéo con làm đồng minh nên sẵn sàng kể tội, nói xấu bố chúng. Người phụ nữ ấy thật vị tha và vô cùng cao thượng. Trước mắt Phùng, chị không còn là nạn nhân để cho công lý và lòng tốt dang tay cứu vớt, lòng thương hại ở Phụng đã nhường chỗ cho sự kính trọng và niềm khâm phục.
Với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, mang ý nghĩa phát hiện về đời sống, nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật chân thực và sâu sắc cùng cách kể chuyện sinh động, ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn sâu trong nhân vật, Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, cuộc sống khó khăn, nghèo đói, tủi cực, bị ngược đãi về cả thể xác lẫn tinh thần nhưng trái tim lúc nào cũng ấm nóng tình yêu thương và giàu lòng vị tha, nhân hậu để rồi qua đó thể hiện nỗi quan hoài thường trực của Nguyễn Minh Châu đối với con người trong cuộc sống, niềm khao khát tìm kiếm, tôn vinh vẻ đẹp con người cùng những khắc khoải, lo âu trước cái xấu, cái ác.
Hình ảnh người đàn bà hàng chài đã trở thành "nỗi ám ảnh" với chính nhân vật người nghệ sĩ Phùng, cũng là hình ảnh đem đến những ấn tượng đặc biệt trong lòng đọc giả. Một chút ồn ào, một chút đau đớn, một chút tủi hờn, một chút xót thương, một chút đồng cảm,.. tôi vẫn nghĩ rằng những cảm xúc bản thân còn lưu lại sau khi đọc xong câu chuyện này còn nhiều hơn như thế. Và hình ảnh người đàn bà hàng chài vẫn đẹp đẽ, thánh thiện, bao dung. Người đàn bà ấy là biểu trưng cho biết bao nhiêu những người phụ nữ hàng chài khác mang trong mình một vẻ đẹp khuất lấp, chỉ cần gạt nhẹ một chút đã thấy sáng lấp lánh, long lanh.
Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - mẫu 2
Hình tượng người phụ nữ là đề tài trở đi trở lại trong văn học. Sự yêu thương giành cho những người phụ nữ sâu sắc bao nhiêu thì trước nỗi đau thân phận của họ những trang viết lại càng nhức nhối bấy nhiêu. Nỗi đau ấy từ thân phận nàng Kiều, những người chinh phụ chảy trong tim những nghệ sĩ đến với những Thị Nở, những cô vợ nhặt…và trở nên đầy ám ảnh trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Ở đây tác giả đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quá của người phụ nữ.
Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.
Nguyễn Minh Châu được coi là “người mở đường tinh anh và tài năng” trong nền văn học nước nhà. Là nhà văn luôn đi tìm tòi, khám phá con người ở chiều sâu nội tâm nên những tác phẩm của ông như những văn bản tự sự cỡ nhỏ. Nhà văn óc thể chỉ “Cắt lấy một lát”, “cưa lấy một khúc” và “chớp lấy một khoảnh khắc” để phản ánh bi kịch của cả một đời người và đưa ra triết lí nhân sinh. Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.
Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù..Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: Người đàn bà xấu xí, người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.
Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta…. như một sự xóa mờ nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chỉ mình người đàn bà đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị. Nhân vật người đàn bà hàng chài ít nhiều cũng làm ta nhớ đến nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Phải chăng vẫn là những số phận của con người đang sống giữa cuộc đời mà sự sống thật mong manh. Cảm thương thay cho số phận những con người.
Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về ngoại hình người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ “trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch. Không những thế tác giả còn tập trung miêu tả ánh mắt của người đàn bà: “Chị đưa mắt nhìn xuống chân,… nhìn ra ngoài bờ phá”. Cách miêu tả của nhà văn không chỉ cho thấy sự tủi cực, vất vả của người phụ nữ ấy mà còn hé mở những đau khổ tinh thần đang giày xéo tâm can
Người đàn bà hàng chài bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh đã vậy chị lại còn có khuôn mặt rỗ là hậu quả của trận dịch đậu mùa nên không ai thèm để ý, suốt từ khi còn nhỏ. Rồi chị có mang với một anh hàng chài đến mua bả về đan lưới và thành vợ chồng.
Cứ ngỡ tưởng có một cuộc sống gia đình thì sẽ có hạnh phúc và ấm êm. Nhưng cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,… Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.
Nhân vật người đàn bà hàng chài để lại ấn tượng không thể phai mờ trong lòng người đọc chính là bởi những vẻ đẹp tâm hồn. Là một người phụ nữ yếu đuối phải chịu bao đắng cay tủi phận của cuộc đời nhưng chị lại có một phẩm chất đáng quý. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình. Chị hiểu cơ cực của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển nếu không có người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề và còn để đối mặt với những ngày phong ba bão tố. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ thậm chí là trân trọng. Cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được đối với một con người sống đầy trách nhiệm.
Ở nhân vật người đàn bà hàng chài xấu xí và khổ đau ấy có một tình mẫu tử bao la. Mặc dù phải chịu khổ cực, nhưng người phụ nữ ấy quyết cam chịu tất cả, làm tất cả vì những đứa con thân yêu của mình. Thị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì có trên cuộc đời này của mụ. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí do bà đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi những đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu.
Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất liền được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh bà còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”. Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương.
Cũng giống như bà cụ Tứ quay mặt đi giấu những giọt nước mắt vào sâu trong lòng cho riêng mình để Tràng và thị được hưởng chút hạnh phúc nhỏ nhoi trong cuộc sống mưu sinh khi cái đói cái chết cận kề. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa. Nên ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì ta thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.
Thậm chí, bà rất thương yêu thằng Phác, thằng con ương bướng nhất trong số những đứa con của bà, tính nết và ngoại hình của nó giống bố như lột nên rất yêu con mà bà phải gửi có lên rừng cho ông nuôi. Thật đau đớn biết bao khi người mẹ ấy đã phải van xin chồng cho lên bờ đánh để các con không nhìn thấy cảnh đó. Nhưng chính thằng Phác lại tận mắt chứng kiến cảnh bố nó đánh đập mẹ nó thậm tệ. Một tình mẫu tử đã trỗi dậy, theo bản năng của một đứa trẻ con còn suy nghĩ nông cạn nó lao nhanh như mũi tên bắn vào chống trả quyết liệt. Thậm chí nó còn định lấy dao đâm bố. Bởi nó đã hứa với lòng mình chừng nào nó còn ở đây thì sẽ không để mẹ nó bị đánh. Ta vừa cảm thương và vừa tủi giận trước hành động rất con trẻ của thằng Phác.
Và thật bất ngờ khi người mẹ phản ứng trước cách thằng Phác thương mình. Khi gã chồng tát cho thằng con một cái ngã dúi dụi xuống cát và bỏ đi thì lúc này lòng thương con mới trỗi dậy. “Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. Để rồi miệng bà mếu máo gọi, “người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Ta lại tìm thấy một nghịch lí trong cách hành xử của người đàn bà. Tại sao khi bị gã đàn ông đánh chửi vũ phu, tàn bạo bà không xấu hổ, tủi nhục mà khi chứng kiến cảnh con đánh trả bố bà lại đau đớn đến vậy?. Có lẽ lúc này đã có vô số luồng điện chạy trong tâm trí của người đàn bà kia. Liệu thằng Phác nhìn thấy cảnh này tâm hồn của một đứa trẻ sẽ ra sao? Nó nghĩ gì về bố và mẹ nó? Sau này lớn lên liệu có giống tính bố nó không?
Bà đã cố giữ gìn một mái ấm gia đình trước mắt các con để chúng có niềm vui và đặc biệt để tâm hồn chúng không bị lắng những cặn bẩn của cuộc sống để vẩn đục tâm hồn. Nhưng giờ đây bà bất lực. Sự chịu đựng và hi sinh của bà đã vô ích chăng? Bởi khi nhìn thằng Phác chẳng hề hé răng thì bà như có cảm giác “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà làm rỏ xuống những dòng nước mắt”. Cảm nhận được nỗi đau đớn cực đỉnh của người đàn bà lúc này ta mới thấy hết bà yêu thương con đến nhường nào, cái nỗi đau tận cùng vì lòng yêu mà hi sinh nhưng vô ích. Thật cảm động trước tấm lòng người mẹ lao động nghèo khổ này. Hành động giản đơn mà cao đẹp nghĩa tình.
Người đàn bà cằn cõi ấy lại có lòng bao dung, độ lượng vô bờ bến. Sau tất cả những nỗi đau mà người chồng đã gây ra cho bà, bà vẫn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo.
Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học vì cuộc sống mưu sinh. Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ bởi bà nghĩ: lũ đàn bà trên thuyền đẻ nhiều quá, nhà nào cũng một đặng trên dưới chục đứa con. Chính vì vậy công cuộc mưu sinh như dồn hết lên đôi vai của người dàn ông. Chính vì thế bà nghĩ mình là căn nguyên nỗi khổ và sự tha hóa của người chồng vốn hiền lành nhưng hơi cục tính xưa kia. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng.
Người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu là một người trải đời, hiểu đời. Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với người phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Đó là phẩm chất phi thường không phải ai cũng có được. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt chân vào căn phòng của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự xuất hiện đường đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người từng trải. Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều.
Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch.
Trong khổ đau, người đàn bà nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường. Cuộc sống của người đàn bà ấy có đau khổ thì nhiều mà hạnh phúc thì quá hiếm hoi. Vì vậy bà rất nâng niu những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Niềm vui lớn nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”.
Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”- Nụ cười được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy khổ đau, nước mắt với đòn roi. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.
Nguyễn Minh Châu đã rất chú trọng trong việc miêu tả nhân vật. Tác giả đã dùng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người phụ nữa ấy để làm nổi bật lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca. Qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống.
Trong tác phẩm tác giả còn xây dựng một nhân vật nữ như bóng ảnh của người đàn bà đó chính là chị gái lớn của thằng Phác. Cô gái ấy không xuất hiện nhiều trong tác phẩm nhưng cũng để lại những suy tư và ám ảnh. Nếu thằng Phác là bóng ảnh của gã đàn ông thì cô gái ấy là bóng ảnh của người đàn bà. Trong khi thằng Phác nông nổi thương mẹ bằng cách chống trả bố mình một cách quyết liệt. Thì cô chị gái thể hiện sự trưởng thành và chín chắn của mình. Nó đã kịp ngăn cản thằng em, không cho em làm việc dại dột và kịp lấy con dao ra khỏi tay thằng Phác. Đó là suy nghĩ của một cô gái đã trưởng thành và nhận thức.
Đặc biệt, cô chị còn là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho người đàn bà, bởi cô ấy gần gũi và bên mẹ một cách âm thầm, lặng lẽ không ồn ào như thằng Phác. Đó là cách biểu hiện tình yêu thương của một cô con gái. Hôm người mẹ đi lên tòa án huyện cô con gái đã đi cùng. Cô lặng lẽ ngồi bên ngoài đợi mẹ với chiếc áo tím. Khi người mẹ đưa ánh mắt mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá cũng là lúc bà bấu víu vào hình ảnh cô con gái thân thương của mình với chiếc áo tím ngồi đợi bà trên chiếc thuyền thúng.
Chỉ với hai chi tiết nhỏ nhưng người đọc có thể tìm thấy những nét tương đồng ở cô thiếu nữ trẻ này với người đàn bà hàng chài mà cô gọi là mẹ kia. Liệu sau này lớn lên cô có trở thành người phụ nữ cam chịu, nhẫn nhịn, bao dung, từng trải và am hiểu như mẹ mình hay không? Câu trả lời có lẽ đã tìm được nhưng chúng ta vẫn hi vọng cuộc sống của những người đàn bà ven biển sẽ tốt lên, sẽ không còn những cô gái áo tím theo chân những người đàn bà hàng chài kia nữa.
Người đàn bà hàng chài có lẽ không chỉ là hình ảnh đeo bám, ám ảnh Phùng mỗi khi anh nhìn vào tấm ảnh đã chụp của mình mà còn là hình ảnh làm day dứt lòng người đọc sau khi gấp trang truyện lại. Ta băn khoăn tự hỏi lòng rồi thân phận người phụ nữ ấy sẽ ra sao giữa cuộc đời cơ cực, khó khăn. Đó là câu hỏi không chỉ Nguyễn Minh Châu đặt ra trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa cách đây ba thập niên mà còn là vấn đề thời sự ngày nay khi xã hội đề cao nữ quyền và chống bạo lực gia đình. Thế nên, chắc chắn tác phẩm của Nguyễn Minh Châu mãi mãi về sau vẫn sẽ còn nguyên giá trị.
Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật người đàn bà hàng chài - mẫu 3
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài - người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh.
Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù… Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới… toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.
Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà dường như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một cuộc đời ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề lo toan.
Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ. Người đàn bà trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như đang buồn ngủ. Và cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.
Qua câu chuyện ở tòa án huyện người đọc hiểu hơn sự bất hạnh trong cuộc đời chị. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ. Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,...
Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc" Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trôn mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con.
Người đàn bà đã nhẫn nhục, cam chịu. Chị không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ. Chị xin chồng lên bờ mà đánh khi con lớn. Chị xót xa đau đớn khi phải chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt…’
Người đàn bà ấy là người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Cái sự thâm trầm trong thấu hiểu lẽ đời dường như chị chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì: “Xin các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu”; "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó".
Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ: "Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn". Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con: "Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được". Chị "phải sống cho con chứ không thể sống cho mình".
Có thấu hiểu được như vậy chúng ta mời hiểu hết tình cảm, tấm lòng của người đàn bà bất hạnh. Bởi nếu hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị.
Người đàn bà ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh tha hóa. Có thể chúng ta không chấp nhận cho hành vi tội lỗi của ông nhưng chúng ta phần nào cảm thông cho ông.
Đặc biệt ở người đàn bà là chị cũng đã vẫn giữ trong tâm hồn mình ngọn lửa của hi vọng, của niềm tin để thắp lên hạnh phúc mỏng mạnh: Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: "…vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”; “trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.
Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
Gấp trang truyện lại người đọc còn mãi ám ảnh bởi những câu hỏi: Cuộc đời người đàn bà ấy rồi sẽ kết thúc ra sau? Những đứa con tội nghiệp của bà có được cuộc sống hạnh phúc? Đó là những vấn đề nhà văn vẫn chưa đưa ra lời giải đáp. Câu trả nằm trong cuộc sống, hành động của mỗi người chúng ta. Điều đó nói lên giá trị của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 4
Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Kim Lân với truyện ngắn “Vợ nhặt” và Nguyễn Minh Châu với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trường hợp như vậy. Nếu như với khả năng viết rất hay về nông thôn và cuộc sống của người dân quê, Kim Lân xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt qua tình huống truyện độc đáo thì với phong cách truyện đậm chất tự sự, triết lí, Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những nghịch lí trong cuộc sống của người đàn bà hang chài. Qua cả hai tác phẩm, các tác giả đều cho ta thấy được vẻ đẹp khuất lấp của người phụ nữ Việt Nam trong những hoàn cảnh khó khăn.
Có thể nói, trong truyện ngắn "Vợ nhặt", nhân vật người vợ nhặt tuy không phải là nhân vật chính nhưng vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Tuy là một con người vô danh nhưng nhà văn đã xây dựng cho nhân vật của mình một cá tính đậm nét. Được khắc họa sống động theo lối đối lập giữa bên trong và bên ngoài, ban đầu và về sau, người vợ nhặt hiện lên với đầy đủ những phẩm chất của con người bình dị trong nạn đói thê thảm Từ một cô con gái “ngồi vêu ra ở cửa nhà kho” chao chát, chỏn lỏn đến một nàng dâu hiền hậu, đảm đang, đúng mực là một hành trình đầy bất ngờ với bao biến động trong cuộc đời nhân vật. Nhà văn đã chọn được tình huống truyện thật độc đáo để nhân vật tự bộc lộ giá trị của mình.
Ở đầu tác phẩm, những vẻ đẹp của người vợ nhặt bị che khuất bởi những con số không tròn trĩnh: không quê quán, không nghề nghiệp, không cả một cái tên, không nhan sắc, không lòng tự trọng. Cuộc sống đói khổ càng tô đậm sự xấu xí của thị: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người “gầy sọp”, “trên cái khuôn mặt xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Khi nghe tiếng hò của Tràng, thị “lon ton chạy theo” đẩy xe thóc cùng, hôm sau lại “sầm sập chạy đến”, “cong cớn” đứng trước mặt anh ta để đòi “nợ” rồi “cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc”. Giữa sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc chết đói để giữ sĩ diện hoặc bỏ lòng tự trọng sang một bên để bám víu lấy sự sống, thị đã chọn cách thứ hai.
Song, qua tiến trình của câu chuyện, con người thực sự của nhân vật người vợ nhặt dần hiện ra dưới ngòi bút truyện tài hoa của Kim Lân. Thị “rón rén, e thẹn, đầu cúi xuống, chân bước díu vào nhau” khi đi qua xóm ngụ cư, trên đường về nhà Tràng. Ở đây, ta chỉ thấy một cô gái hiền hậu, biết ý tứ và ngượng ngùng một cách thật dễ thương chứ không còn cái “cong cớn” vô duyên lúc trước. Buổi sang sau khi về làm vợ Tràng, thị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp, nấu cơm và cư xử, nói năng đúng mực khiến ngay cả Tràng cũng ngạc nhiên vì sự thay đổi ấy. Thị đã trở thành người vợ đảm, người con dâu đảm đang biết lo toan việc nhà. Phải chăng đây mới chính là bản chất tốt đẹp của con người vợ nhặt? Ngay cả trong chi tiết theo không Tràng về làm vợ của thị, nếu xét kĩ, ta sẽ thấy hành động ấy thực chất xuất phát từ khao khát tình yêu, hạnh phúc và tổ ấm gia đình cháy bỏng của những người nông dân bình dị. Tóm lại, với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt với những vẻ đẹp tâm hồn đáng được trân trọng và ngợi ca.
Bên cạnh người “vợ nhặt”, nhân vật người đàn bà hàng chài trong “CTNX” cũng để lại ấn tượng sâu sắc. Là nhân vật chính, nhân vật này có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc thể hiện giá trị tư tưởng của tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật khá sắc nét bằng bút pháp hiện thực theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa than phận và phẩm chất. Xuất hiện trong tình huống đầy nghịch lí dưới khám khá của nhân vật Phùng, nhân vật người đàn bà hang chài hiện lên với những vẻ đẹp khuất lấp khiến ta xót xa, lo âu và không khỏi trăn trở.
Xuất hiện trước mắt độc giả, người đàn bà hang chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: than hình cao lơn, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh bất hạnh nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá đáng của nhân vật khi im lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.
Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục ấy là cả một tấm lòng vị tha, độ lượng, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, can đảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống ấy bởi lẽ chị yêu thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Và dù bị đánh đập, hành hạ bao nhiêu thì người đàn bà ấy vẫn cảm thông với những khó khăn của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng giây phút hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người đàn bà hang chài vẫn là người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao sóng gió, khó khăn, không chỉ khiến chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.
Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi miêu tả nhân vật bằng những chi tiết chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người ấy.
Tuy nhiên, giữa hai nhân vật cũng có nhiều điểm khác biệt. Vẻ đẹp của người vợ nhặt được khắc họa qua những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh trong nạn đói thê thảm. Thị như một luồng gió mới "lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối" của những người dân xóm ngụ cư cũng như gia đình Tràng. Trong khi đó, vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu lại là phẩm chất của người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính trong tình trạng bạo lực gia đình. Nhân vật này không khỏi khiến ta băn khoăn, trăn trở về cách nhìn nhận con người cũng như mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Sở dĩ có sự khác biệt ấy là do phong cách nghệ thuật và thời điểm sáng tác của hai nhà văn. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển biến đổi từ thấp đến cao, mang cảm hứng lãng mạn, tiêu biểu cho văn học thời kì kháng chiến. Trong khi đó nhân vật người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại. Nhân vật này thể hiện rõ cảm hứng thế sự - đời tư trong ngòi bút truyện của Nguyễn Minh Châu sau 1975.
Tóm lại, người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài là hai nhân vật được xây dựng rất thành công của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu. Tuy có nhiều điểm khác nhau trong phong cách nhưng với tinh thần nhân đạo cao cả, hai nhà văn đều khám phá và nâng niu trân trọng những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Qua hai tác phẩm, các tác giả còn cho chúng ta thêm tin tưởng vào sự bất diệt của những phẩm chất tốt đẹp trong con người dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Với tất cả giá trị về nội dung và nghệ thuật ấy, chắc chắn cả hai nhân vật cũng như tên tuổi của Kim Lân và Nguyễn Minh châu sẽ có sức sống lâu dài trong kho tàng văn học dân tộc.
Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 5
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một câu chuyện giàu sức gợi như thế. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.
Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiếp anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người làng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.
Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “người đàn bà chạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm. Người đàn bà ấy tiếp tục ám ảnh người đọc bằng chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, bửa thân dưới ướt sũng”, đã phần nào gợi lên sự chua xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.
Người đàn bà ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi người chồng hằn học và mắng nhiếc. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình.
Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và đau khổ. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, không ai oán một lời.
Và sự cam chịu ấy được lặp lại khi chị được gọi đến hầu tòa. Mặc dù “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người phụ nữ ấy vẫn “không hé răng một lời”. Hình dáng “mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại” càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, “người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt”. Có lẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.
Tình tiết người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao?
Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thưỡng xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì.
Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no” thì có lẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.
Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người đàn bà này có lẽ còn ảm ánh rất nhiều người nữa.
Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó.
Hình ảnh người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.
Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 6
Nguyễn Minh Châu là một trong những tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại, là người đã mở đường tiên phong cho văn học nước ta thời kì đổi mới bằng một loạt các sáng tác ấn tượng giai đoạn những năm 80-90. Bước ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại của dân tộc, Nguyễn Minh Châu không viết nhiều về cuộc chiến hay lấy sự khốc liệt của chiến trường làm chủ đề chính trong tác phẩm của mình, thay vào đó ông bắt đầu chú ý đến những con sau cuộc chiến, số phận của những con người thời hậu chiến. Nhà văn tập trung vào các đề tài đạo đức, đi tìm những cái đẹp đang lẩn khuất trong tâm hồn của những phận đời nhỏ bé nhất và cả những nỗi đau mà họ đang phải gánh chịu, từ đó đem đến cho người đọc những góc nhìn, những triết lí mới mẻ sâu sắc về cuộc đời. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm thành công và gây được tiếng vang lớn trong văn đàn Việt Nam của Nguyễn Minh Châu, trong đó nổi bật lên hình ảnh người đàn bà làng chài lam lũ khổ cực, xấu xí nhưng lại mang trong mình những vẻ đẹp tiềm ẩn đáng quý.
Nguyễn Minh Châu đã xây dựng lên hai tình huống truyện độc đáo, vừa đủ làm nổi bật và khai thác được hết các góc khuất số phận của nhân vật người đàn bà làng chài. Cảnh đầu tiên trên bãi biển, đường lúc nghệ sĩ Phùng sung sướng, hạnh phúc vì chụp được một cảnh đắt trời cho, thì vợ chồng người đàn bà làng chài bước xuống dường như đã xé toang đi cái cảnh như mộng ấy của Phùng. Người nghệ sĩ không thể tin nổi dưới cái cảnh đẹp ngần ấy lại xuất hiện một cảnh bạo lực khiến anh chết sững, sau là bất bình trước kẻ vũ phu nỡ đánh đập người vợ yếu đuối và cam chịu. Lòng nhân hậu và tâm hồn chuộng công lí lẽ phải đã khiến Phùng cùng Đẩu - chánh án huyện sắp xếp cho người phụ nữ khốn khổ một cuộc li hôn giải thoát. Thế nhưng người đàn bà ấy sống chết không chịu li hôn, đồng thời cái cách giãi bày tâm sự của người đàn bà làng chài dường như đã làm vỡ ra trong lòng của Phùng và Đẩu những chân trời mới, những cái nhìn mới toàn vẹn và sâu sắc hơn.
Người đàn bà làng chài không có tên mà trong truyện ngắn tác giả gọi chị bằng những đại từ nhân xưng rất phổ biến như "chị", "mụ", điều ấy đã gợi ra rằng cuộc đời của nhân vật này nhỏ bé, đồng thời cũng là số phận chung của nhiều những người phụ nữ khác trong xã hội lúc bấy giờ. Về ngoại hình, nhân vật này là một người phụ nữ không được trời thương xót mà cho chị một cái ngoại hình thô kệch, xấu xí, mặt rỗ chi chít, đã thế cái tuổi 40 và những lam lũ vất vả ngoài biển khơi lại càng đem đến cho chị cái vẻ thảm hại, tàn tạ, thô cứng. Và số phận của chị nó cũng khốn khổ y như cái ngoại hình của chị vậy, thuở nhỏ từng là con gái nhà giàu có, nhưng chẳng may bị đậu mùa rồi rỗ mặt thành ra ế chồng, sau khi được anh chồng hiện tại cứu vớt bằng một cuộc hôn nhân, thì chị cũng chẳng được sung sướng gì. Cái đói cái nghèo bắt đầu bủa vây tra tấn và hành hạ chị, đi qua những năm tháng chiến tranh tàn phá, gia đình chị vẫn đùm bọc, dựa dẫm vào nhau mà sống, thế nhưng cuộc sống thật ngày càng bấp bênh, đói kém đến độ không còn gì ăn phải cố nuốt cả xương rồng luộc chấm muối. Nhưng dẫu khổ cực mà giá như được người chồng hiền lành, thương vợ thì có lẽ đời chị bớt khổ, nhưng không, cái gánh nặng của ngôi nhà hơn chục miệng ăn, lênh đênh trên cái thuyền nhỏ, hứng nhiều bão tố, cái nghèo đói đã làm anh chồng đổi tính trở thành kẻ cục cằn vũ phu và tàn ác. Hắn liên tục trút hết những tức giận, những khó nhọc lên tấm lưng người đàn bà ăn ở với hắn gần hai chục năm trời, có với nhau cả chục mặt con bằng những trận đòn như mưa và những tiếng chửi rủa, đay nghiến tựa như thú dữ. Còn người đàn bà làng chài trước cảnh ấy chỉ biết nghiến răng chịu đựng, nhẫn nhục cho qua chuyện, đôi lúc khiến người ta cảm thấy chị thật cam chịu đầy vô lí.
Thế nhưng ai biết được rằng cái người đàn bà có vẻ "gàn dở" vì không chịu li hôn gã chồng vũ phu ấy lại có những nỗi khổ riêng trong lòng. Giữa biết bao cái đắng cay, tủi nhục đang bao trùm cuộc đời chị là một tâm hồn thật đẹp và thật đáng quý. Chị không muốn li hôn chồng là vì một nỗi sợ, nhưng không phải chị sợ chồng, mà chị sợ rằng nếu bỏ chồng thì đàn con gồm hơn chục đứa của chị sẽ chết đói mất. Một mình thân đàn bà như chị biết chèo chống thế nào để nuôi con trong những ngày mưa bão biển động, hơn ai hết chị cần một người đàn ông có sức vóc để chống đỡ những ngày mưa gió, cần "một người đàn ông chèo chống lúc phong ba", sức của hai người trong gia đình sẽ đủ để nuôi từng ấy cái miệng đang há ra đòi ăn. Thế nên đối với chị chị có bị chồng đánh đập hành hạ, chì chiết đay nghiến cũng được, hắn đánh chán cho thỏa giận rồi sẽ lại quay về thuyền tiếp tục lao động kiếm cơm, hắn cũng chẳng bỏ hẳn cái gia đình này được. Lòng người mẹ thương con bao đời nay vẫn luôn ấm áp và rộng rãi như thế, họ sẵn sàng hi sinh tất cả chỉ để những đứa con mình nuôi lớn được ăn ngon, ngủ yên. Không chỉ vậy tấm lòng người mẹ còn thể hiện ở việc chị không muốn bỏ chồng bởi vì chị muốn cho những đứa con của mình được một gia đình hoàn chỉnh, có cả cha lẫn mẹ, không muốn chúng bị mặc cảm, khuyết thiếu tâm lí. Điều đó còn bộc lộ ở việc chị bảo chồng có đánh mình thì xuống thuyền tìm một chỗ xa xa để đánh, chị không muốn những đứa con trông thấy cái cảnh đổ vỡ, sứt sẹo trong gia đình, không muốn chúng nó buồn khổ, u uất. Chính vì thế khi chị phát hiện ra thằng Phác con chị có ý định thù ghét cha và định làm ra những chuyện trái luân thường, chị đã phải gửi vội nó về nhà ngoại, chị không muốn cái gia đình này còn tồn tại một mối căm hận nào ngoài việc chồng chị hay giở thói vũ phu. Cuối cùng sau tất cả người ta thấy rằng vẻ đẹp hiện rõ nhất trong tâm hồn của người đàn bà làng chài ấy là tình mẫu tử thiêng liêng, sâu nặng, sự hi sinh, nhẫn nhục mọi giá vì con cái. Lòng chị luôn quan niệm rằng "ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ" cho nên họ "phải sống cho con chứ không thể sống cho mình", thế nên với người khác hạnh phúc là cuộc sống thảnh thơi, kim tiền, nhưng với chị hạnh phúc là những khi các con của chị được ăn no và gia đình cũng có những lúc được hòa thuận vui vẻ bên nhau.
Người đàn bà làng chài không chỉ hiện lên với vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng, mà còn hiện lên với một tâm hồn biết bao dung, thấu hiểu và cảm thông. Trong cuộc nói chuyện với Phùng và Đẩu, để giải thích cho cái căn nguyên vũ phu của chồng, chị đã tỏ ý rằng chồng mình cũng là một người đáng thương, cần được thông cảm. Chị nhớ về ký ức xa xăm khi còn trẻ chồng chị tuy "cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập tôi", rồi chỉ lại chỉ ra những nguyên cớ khiến chồng mình đổi tính nết, ấy là việc trốn đi lính, rồi cảnh gia đình nghèo khó, những đứa con liên tục ra đời khiến gánh nặng trên vai người chồng càng thêm nhiều, điều ấy khiến hắn cảm thấy thống khổ, mệt mỏi, bất lực và cần chỗ trút gánh nặng ấy là chị. Rồi người đàn bà làng chài lại đem hết tội lỗi đổ về mình "giá mà tôi đẻ ít đi", lòng chị thật bao dung và rộng rãi với kẻ khác quá, nhưng duy chỉ riêng mình thì lại không, chị chấp nhận tất cả những đắng cay tủi nhục trong cuộc đời để đổi lấy những phút thư thả của đứa con, của người chồng. Ấy rồi, chị không những không căm ghét người chồng mà bản thân chị lại vẫn luôn ghi nhớ cái ơn nghĩa tuổi trẻ chồng chị đã cứu chị ra khỏi cảnh quá lứa lỡ thì vì xấu xí. Có được cái sự hi sinh và nhân hậu ấy, chị thực đã gần là bậc thánh nhân của cuộc đời. Thế rồi từ cách chỉ kể, chị phân tích bằng những lí lẽ mộc mạc nhưng rất chân thực và thuyết phục, người ta bỗng nhận ra đây không phải là một người đàn bà chỉ biết nhẫn nhục, hi sinh mà còn là một con người thấu tình đạt lí, thâm trầm và có cái nhìn sâu sắc về cuộc đời. Có phải chị không biết đến chuyện li hôn để được tự do thoát khỏi những trận đòn vũ phu hay cái lối sống tân tiến, bình đẳng mà Phúng với Đẩu đề cập đâu, chỉ là trên vai chị còn ràng buộc và gánh nặng quá nhiều thứ, khiến chị không thể làm khác được. Một người đàn bà mà vứt bỏ hay để con mình đói thì còn xứng đáng làm mẹ gì nữa? Chính cái góc nhìn và sự thấu hiểu của chị đã mang đến cho Phùng và Đẩu những chân trời mới, phát hiện ra được một điều rằng đôi lúc cái có lí vẫn thường tồn tại trong những cái nghịch lí nhất, mà con người phải có một cái nhìn đa diện nhiều chiều để có thể nhìn ra được nó.
Người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là một nhân vật được xây dựng rất hay và đặc sắc, cuộc đời của chị không phải là một cuộc đời riêng rẽ mà là cuộc đời chung của rất nhiều con người Việt Nam ta thời bấy giờ, là cuộc đời của rất rất nhiều người phụ nữ miền biển từ bao đời nay, đắng cay khổ cực, nhẫn nhục và hi sinh nhiều điều vì gia đình. Thế nhưng ẩn khuất sâu bên trong cái vẻ lam lũ, xấu xí và thô kệch ấy là một tâm hồn rất đáng trân trọng và đáng quý, họ có tấm lòng yêu thương gia đình, con cái sâu sắc, biết thấu hiểu, hi sinh và sẻ chia, suy cho cùng cuộc đời họ là chuỗi những hi sinh cho những con người bên cạnh mình, họ luôn rộng lượng vì người khác còn để bản thân mình bị thiệt thòi mà vẫn luôn cảm thấy hạnh phúc. Mở ra cho người đọc những góc nhìn mới, những tư duy mới mẻ về cuộc đời và số phận của con người trong xã hội.
Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 7
Nguyễn Minh Châu được đánh giá là một người mở đường tinh anh và đầy tài năng của nền văn học Việt Nam những năm sau đổi mới. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu ở thời kì này chủ yếu thuộc hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn, trong đó truyện ngắn của ông xứng đáng được xếp vào hàng những truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại bởi cả trình độ nghệ thuật cũng như chất lượng tư tưởng.
Truyện Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 đã thể hiện được những khám phá quan trọng của nhà văn về cuộc sống và nghệ thuật ở thời kì mới. Thành công nổi bật về nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm này có thể kể tới việc xây dựng một tình huống truyện vô cùng độc đáo.
Là một sự kiện đặc biệt của đời sống được mô tả trong tác phẩm mà tại sự kiện đó, nhà văn đã làm sống dậy một tình thế bất thường có tính chất éo le và gây bất ngờ trong quan hệ giữa các nhân vật, tại sự kiện đó, tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét, ý tưởng của nhà văn cũng hiện hình khá trọn vẹn.
Là tình huống nhận thức bởi nó hướng tới bộc lộ nhận thức của nhà văn về cuộc đời và nghệ thuật qua sự thể hiện nhận thức của các nhân vật trong tác phẩm về vấn đề này. Phùng là một phóng viên nhiếp ảnh. Theo yêu cầu của cấp trên, anh cần chụp một bức ảnh về cảnh bình minh trên biển. Vì vậy, Phùng đã trở về vùng biển nơi anh từng chiến đấu năm xưa. Sau nhiều ngày tìm kiếm, Phùng đã phát hiện ra một cảnh đẹp tuyệt vời để nhận ra bản thân cái đẹp cũng là một giá trị đạo đức vì để có được những giây phút trong ngần của tâm hồn. Phùng phát hiện ra một sự việc vô cùng tàn nhẫn trong đời sống hiện thực - đó là sự việc người đàn ông làng chài đánh đập, chửi rủa vợ mình một cách tàn tệ ngay trên bãi cát - nơi Phùng đang say sưa với cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Sự việc này khiến Phùng kinh ngạc, đau đớn để từ đó nhận ra những điều phi lí, những sự thật trần trụi vẫn luôn tồn tại trong cuộc sống bề bộn quanh mình. Khi đến toà án huyện, nghe câu chuyện của người phụ nữ, Phùng lại có thêm những phát hiện quan trọng về bản chất của con người, về sự phức tạp của đời sống để từ đó có thêm những trăn trở về nghệ thuật, về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời.
Sau rất nhiều ngày tìm kiếm, lựa chọn và thất vọng, cuối cùng, Phùng cũng bất ngờ được chứng kiến một cảnh đẹp tuyệt vời: bình minh nơi cửa biển với không gian phóng khoáng, thi vị, với màu hồng hồng của sương mai, với con thuyền lưới vó và tấm lưới còn đọng nước. Sự hài hoà của hình ảm thiên nhiên và hình ảnh trong cuộc sống ở một thời điểm đặc biệt đã tạo nên vẻ đẹp lí tưởng của bức tranh và đem lại cho Phùng một niềm hạnh phúc đến ngỡ ngàng khi thưởng thức. Đó cũng là cội nguồn cảm hứng sáng tạo của Phùng: khi phát hiện được khoảnh khắc “trời cho” ấy, Phùng đã bấm máy liên tục đến gần hết cuộn phim. Đó cũng là cơ sở cho những suy tưởng của anh: cái đẹp không chỉ thỏa mãn nhu cầu thưởng thức, kích thích sáng tạo mà còn có khả năng thanh lọc để đem lại giây phút trong ngần của con người. Sự việc xảy ra trên bãi cát: ngay chính nơi Phùng vừa ngắm cảm thiên nhiên và thực hiện niêm hứng thú sáng tạo đã diễn ra một sự việc bất ngờ - một lão đàn ông thô kệch, xấu xí đang đánh đập, chửi rủa một người phụ nữ mà người phụ nữ ấy lại chính là vợ ông ta. Sự việc này khiến Phùng cảm thấy bất ngờ không chỉ bởi anh vừa trải qua giây phút thăng hoa trong niềm say mê sáng tạo mà còn bởi đây là điều phi lí, bất công mà anh không thể ngờ rằng vẫn còn tồn tại trong cuộc sống hiện thời - đó là tình trạng bạo lực trong gia đình. Phùng đã từng trải qua chiến tranh, đã cầm súng để bảo vệ hoà bình và hạnh phúc cho con người nên anh không thể chấp nhận nổi cách hành xử tàn nhẫn, độc ác của lão đàn ông kia. Đó chính là lí do khiến Phùng không chỉ kinh ngạc, phẫn nộ mà con có những hành động bột phát: anh quăng chiếc máy ảnh, phương tiện tác nghiệp của người phóng viên - nghệ sĩ để xông vào đánh người đàn ông kia như một cách để bênh vực người đàn bà bất hạnh, yếu đuối. Phản ứng trong cả tình cảm và hành động của Phùng khi ấy cho thấy anh không chỉ là một người nghệ sĩ có niềm say mê với cái đẹp mà còn là con người có tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm. Cũng chính tấm lòng và trách nhiệm ấy đã khiến anh dù hoàn thành nhiệm vụ của một phóng viên vẫn quyết định ở lại vùng biển thêm mấy ngày để cùng Đẩu giải quyết sự việc.
Câu chuyện ở tòa án huyện cả Phùng và Đẩu đã phải đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác về người đàn bà - nạn nhân của tình trạng bạo lực gia đình kia. Mang tâm lí của một người tự coi mình là ân nhân, xuất hiện để giúp đỡ, che chở và bênh vực cho người đàn bà bất hạnh để giúp chị ta thoát khỏi những bi kịch trong cuộc sống của mình, Phùng và Đẩu đã vô cùng bất ngờ khi người đàn bà ấy không nghe theo lời khuyên, từ chối sự giúp đỡ và một mực van xin để không phải bỏ chồng. Sự việc này bất ngờ đến mức Phùng vừa kinh ngạc, vừa khó hiểu, vừa bị sốc tới mức căn phòng đang lộng gió biển mà anh có cảm giác như bị rút hết không khí để trở nên ngột ngạt. Phùng và Đẩu còn bất ngờ hơn khi nghe lời giải thích, thanh minh của người đàn bà: người phụ nữ nhẫn nhục, cam chịu vừa mới trước đó thôi còn nhún mình thái quá trong cách xưng hô “con - quý toà” thì bỗng dưng sắc sảo, đến bất ngờ trong sự thay đổi cách xưng hô mang đầy vẻ bề trên “chị - các chú”. Cách xưng hô này của chị ta khiến Phùng và Đẩu không tránh khỏi cảm giác khó chịu vì dù sao Đẩu cũng là một chánh án toà án huyện còn Phùng là chứng nhân, vừa là ân nhân khi che chở cho người phụ nữ kia. Nhưng cảm giác sâu sắc nhất, mãnh liệt nhất mà Phùng cảm nhận được từ câu chuyện này lại có được chính từ phát hiện mới của anh về con người của người phụ nữ ấy - đó là những phẩm chất đích thực ẩn giấu sau bề ngoài nhẫn nhục, cam chịu và có phần u mê. Hoá ra, người phụ nữ ấy hoàn toàn không giống với những gì Phùng và Đẩu thấy: đằng sau vẻ cam chịu nhẫn nhục là sự hiểu biết, lòng vị tha, tình yêu thương sâu sắc - những phẩm chất chỉ có được ở một người có nhiều trải nghiệm cuộc đời và hiểu được ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Chị nhẫn nhục là vì thương con, chị cam chịu vì lòng độ lượng, vị tha, vì thấu hiểu nguyên cớ dẫn đến những hành động độc ác vũ phu của người chồng và trên hết vì chị có một đức hi sinh vô bờ bến. Tất cả nhưng điều này khiến cả Phùng và Đẩu không thể tiếp tục nhìn chị ta bằng cái nhìn thương hại. Cả một tập thể nghệ sĩ say mê, tâm huyết, lăn lộn hàng tháng trời để khám phá, sáng tạo và đã tạo nên vô số những tác phẩm có giá trị nhưng khi vị trưởng phòng lựa chọn để làm một bộ lịch ảnh nghệ thuật về thuyền và biển thì vẫn thấy những tác phẩm đã có trong tay không đủ để tạo nên một bộ ảnh thật hoàn chỉnh. Vì thế mới có chuyến đi của Phùng về vùng biển để chụp một cảnh biển buổi sáng có sương mù. Như vậy có thể thấy, cho dù người nghệ sĩ có cố gắng nỗ lực bao nhiêu, có say mê tâm huyết bao nhiêu trong khám phá và sáng tạo thì tất cả những cố gắng, nỗ lực, say mê tâm huyết ấy vẫn chưa thể đủ để đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống. Trong bức ảnh mà Phùng mang về, nền ảnh chỉ là đen trắng với những đường nét như trong một bức cổ họa bằng mực tàu thì vì đã có những trải nghiệm trong thực tế nên Phùng luôn nhìn thấy trong những bức ảnh đen trắng màu hồng hồng của sương mai. Và tuy bức ảnh chỉ có ảnh, không có con người song khi nhìn kỹ, Phùng vẫn thấy bóng dáng cao lớn của người đàn bà bước ra từ con thuyền và đi lẫn vào đám đông. Từ nghịch lí này, có thể thấy, chỉ khi có trải nghiệm và sự gắn bó với cuộc đời, người nghệ sĩ mới có thể phát hiện những điều mà bằng con mắt thường người ta không thể nhận ra. Và cũng chỉ có sự gắn bó bằng tâm thế của người trong cuộc mới giúp cho người nghệ sĩ thấy cuộc đời trong nghệ thuật và kéo gần được khoảng cách giữa nghệ thuật với cuộc đời.
Khát vọng, nhu cầu của con người và thực tế cuộc sống mà con người phải đối mặt: người đàn bà trong câu chuyện chỉ mong có một cuộc sống (bình yên, êm ấm, mong những đứa con của chị được ăn no, muốn được thấy cảnh vợ chồng con cái quây quần bên nhau để có những giờ phút vui vẻ. Thế nhưng, chị lại phải đối mặt với một bi kịch gia đình: luôn bị người chồng đánh đập, hành hạ một cách tàn nhẫn. Và dù rất thương con, muốn bảo vệ các con, tránh cho chúng khỏi bị tổn thương thì chị vẫn khiến những đứa con đầu lòng, bị tổn thương vì phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ. Tình cảm đạo đức và hành vi trái đạo đức: thằng Phác vì thương mẹ, muôn bênh vực mẹ nhưng do còn non nớt trong nhận thức và bồng bột trong cách ứng xử nên đã có một hành động dại dột là xông vào đánh bố, thậm chí cầm dao định đâm bố. Nếu hành động này không được ngăn cản sẽ khiếm bi kịch chồng chất nên bi kịch vốn đã rất nặng nề căng thẳng trong cuộc sống của gia đình ấy. Với những hành động này, Phác vốn là đứa con thương mẹ, là chỗ dựa, niềm an ủi cho người mẹ lại trở thành một mũi dao đâm thẳng vào lòng mẹ nó để làm nhỏ xuống những giọt nước mắt. Đòn roi của người chồng khiến chị đau đớn về thân xác, những hành động của đứa con lại khiến chị đau đớn về tinh thần vì nó phá vỡ cái điều mà chị cố gắng gìn giữ trong gia đình: Đó là sự bình yên trong tâm hồn những đứa trẻ. Tình cảm nhân đạo, ý thức trách nhiệm đã khiến cả Phùng và Đẩu cố gắng can thiệp để giúp đỡ, bênh vực, che chở cho người đàn bà bất hạnh nhưng do giải pháp không phù hợp khiến họ bất lực trong mong muốn giúp đỡ: Vì muốn che chở cho người đàn bà bất hạnh, Phùng đã xông vào đánh lão đàn ông vũ phu còn Đẩu thì khuyên nhủ người đàn bà từ bỏ lão chồng độc ác. Phùng và Đẩu làm việc này bằng lương tâm, lòng nhiệt tình và sự cảm thông thật sự. Nhưng những việc họ làm lại không thực sự giúp ích được cho người phụ nữ kia. Bởi vì họ chỉ nhìn câu chuyện của người đàn bà bằng cái nhìn của người ngoài cuộc nên không thể hiểu thấu nội tình. Khi ở toà án huyện, người đàn bà đã nói rõ: “Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn nên các chú đâu có hiểu được việc làm ăn của những người lam lũ khó nhọc”; “các chú đâu phải là đàn bà, các chú làm sao hiểu được nỗi khổ của người đàn bà trên một con thuyền không có đàn ông”. Sự giúp đỡ của Phùng và Đẩu sở dĩ không có tác dụng bởi họ không giúp được đúng cái mà người phụ nữ ấy cần (được giải thoát khỏi phải tình trạng nghèo khổ, túng quẫn - nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bi kịch của gia đình chị). Giải pháp thực sự thiết thực đối với chị lúc này là giúp chị thoát nghèo – điều đó vượt ra ngoài phạm vi - khả năng và quyền hạn của Phùng và Đẩu.
Chính những điều bất ngờ và nghịch lí mà Phùng chứng kiến đã khiến anh không thể tiếp tục nhìn cuộc sống bằng một cái nhìn giản đơn. Nó buộc anh phải suy nghĩ để nhận thức lại tất cả. Ở sự việc bất ngờ đầu tiên mà Phùng bắt gặp trong chuyến đi về vùng biển, anh đã nhận ra rằng cuộc sống không chỉ chứa đựng những vẻ đẹp mà còn chứa đựng những sự thật tàn nhẫn, nhưng quan hệ phức tạp. Việc chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ trên bãi cát khiến Phùng bừng tỉnh để nhận ra đằng sau vẻ đẹp của một bức tranh mực tàu, đằng sau màu hồng hồng của sương mai ở một không gian ngỡ như bình yên, tĩnh lặng là một cuộc sống dữ dội với tất cả vẻ phi lí, tàn nhẫn của nó. Tưởng như lúc ấy Phùng đã chạm đến đáy sự thật cuộc đời thì trong cuộc trò chuyện với người đàn bà ở tòa án huyện, Phùng lại nhận ra rằng: Hoá ra cuộc sống không hoàn toàn như những gì ta nhìn thấy bên ngoài. Nếu chỉ nhìn bằng cái nhìn của người ngoài cuộc, ta chỉ thấy những biểu hiện bên ngoài của sự việc mà cái bên ngoài không phải bao giờ cũng thống nhất với cái bên trong. Người đàn bà với tư cách một người trong cuộc đã cho Phùng thêm một góc nhìn khác, cách nhìn khác để hiểu hơn về cuộc sống. Qua lời nói của người đàn bà, Phùng hiểu được cái nguyên cớ dẫn đến sự tàn nhẫn độc ác của lão đàn ông, nguyên nhân của tấn bi kịch gia đình và điều quan trọng nhất mà Phùng nhận ra chính là bản chất đích thực của người phụ nữ kia. Hoá ra, sự cam chịu nhẫn nhục của chị không phải vì u mê tăm tối mà nó xuất phát từ lòng vị tha. Người đàn bà chấp nhận để chồng đánh vì chị hiểu rằng người đàn ông ấy rất cần được giải toả sau những nhọc nhằn cơ cực trong cuộc sống hàng ngày. Chị không bỏ chồng vì hiểu rằng trên con thuyền đi biển rất cần có người đàn ông chèo chống vì biển không phải lúc nào cũng gió lặng sóng êm mà còn có cả phong ba, bão tố. Chị xin chồng đưa mình lên bờ để đánh là vì muốn tránh cho các con khỏi nỗi đau lòng... Cứ thế, cuộc trò chuyện với người đàn bà ấy không chỉ cho Phùng nhận ra một con người khác ở người phụ nữ này mà còn khiến anh có được một bài học về cách nhìn con người, cách nhìn sự việc: chỉ có thể nhìn nhận một cách thấu đáo về con người cũng như về cuộc sống khi tự biến mình thành người trong cuộc, khi nhìn nhận không chỉ nên dùng lí trí để xét đoán mà còn phải dùng tấm lòng vị tha để mà cảm thông. Điều này ngỡ không mới song lại rất quan trọng, nhất là khi cuộc sống hiện tại luôn chứa đựng cả những mâu thuẫn phức tạp, những điều khó hiểu, khó giải thích bằng những cách nhìn nhận đánh giá thông thường.
Qua tình huống truyện, Nguyễn Minh Châu giúp ta nhận ra cái phức tạp ở đời sống con người với những hiện tượng không dễ để đánh giá, những mối quan hệ không dễ để cắt nghĩa, lí giải. Đối mặt với cuộc sống như thế, người nghệ sĩ phải có một cái nhìn vừa tỉnh táo, vừa thấu suốt nhân tình bởi chỉ có cái nhìn như thế mới có thể phát hiện ra những khiếm khuyết, những điều tệ hại cần loại bỏ trong con người và cả những vẻ đẹp ẩn chứa trong vẻ ngoài thô kệch. Những phát hiện về vẻ đẹp của con người trong tác phẩm đã đem lại cho người đọc một cảm giác ấm áp, một niềm tin vào con người sau những đắng chát và gai góc của cuộc sống.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu đã lựa chọn người kể chuyện trong truyện ngắn này là một người nghệ sĩ bởi chính sự mẫn cảm, cái nhìn sâu sắc mang tính phát hiện và ý thức trách nhiệm với cuộc đời của nghệ sĩ Phùng đã giúp Nguyễn Minh Châu gửi gắm một quan niệm, một yêu cầu đối với nghệ thuật: Nghệ thuật cần hướng tới cái đẹp song nghệ thuật không thể chỉ là chiếc thuyền ngoài xa. Nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi bắt nguồn từ cuộc sống, là tiếng nói của đời sống để trở thành một phần của cuộc sống này.
Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 8
Nếu các nhân vật trong những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thời kì trước năm 1975 được nhìn nhận từ khía cạnh tiêu chuẩn đạo đức cách mạng, sự cống hiến đối với đất nước thì sau năm 1975, ông nhìn nhận nhân vật của mình ở phương diện đời tư, thế sự. Nổi bật trong số đó là nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng tác năm 1987.
Người đàn bà ấy là nhân vật chính trong khung cảnh bình minh ở nơi đầm phá miền Trung – chiến trường cũ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng thời kháng chiến chống Mĩ. Nếu không vì Phùng muốn “thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh” thì có lẽ anh sẽ không bắt gặp được người phụ nữ này và cũng sẽ không có cơ hội để vỡ lẽ ra nhiều điều từ thực tế cuộc sống và nghệ thuật.
Người đàn bà không được Nguyễn Minh Châu gọi bằng một tên riêng nào cả, ông chỉ gọi người phụ nữ lam lũ ấy bằng những đại từ phiếm chỉ như “người đàn bà”, “mụ”. Phải chăng đây là dụng ý của tác giả vì chị chỉ là một trong vô số những người đàn bà làng chài ở các vùng biển khác cũng vô danh, nhỏ bé và có một cuộc đời bình thường giống như họ? Phải chăng cũng vì không có một tên gọi cụ thể mà hình tượng nhân vật lại có sức khái quát lớn?
Chị là người phụ nữ “trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch”. Chị bị rỗ mặt, “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Tấm lưng áo của chị đã “bạc phếch và rách rưới”. Với những chi tiết miêu tả ngoại hình như vậy, Nguyễn Minh Châu đã khiến bạn đọc hình dung ra một người đàn bà lam lũ, vất vả, chật vật để đối mặt với cuộc sống mưu sinh trên biển đầy hiểm nguy.
Dường như số phận đã đẩy hết bất hạnh lên con người chị nhưng chị lại cam tâm chịu đựng mà không hề có một lời trách móc. Ngoại hình chị xấu xí, vì thế mà đàn ông trong phố không ai lấy chị rồi chị “có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”. Người đàn ông chị lấy khi ấy là một người “cục tính nhưng hiền lành” và không bao giờ đánh đập vợ.
Người đàn bà hàng chài là người thấu hiểu chồng mình hơn ai hết. Chị hiểu tại sao người đàn ông hiền lành trước đây lại trở nên nóng tính, bạo lực đến như vậy. Nguyên nhân cũng là do sự đói khổ, bấp bênh của cuộc sống thường ngày. Cuộc sống ấy khổ cực nhường nào khi “vào các vụ bắc, ông trời làm biển động suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Là một trụ cột vững chắc cho gia đình, là một người chồng, người cha nên có người đàn ông nào lại dửng dưng vô cảm trước sự đói khổ của vợ con mình.
Anh ta đánh vợ không phải vì thù ghét vợ mà là vì anh ta bế tắc, cùng quẫn trước cuộc đời khi không thể lo cho gia đình một cuộc sống sung túc. Vì không có cách nào khác để giải tỏa những tâm trạng tiêu cực đó nên “bất kể khi nào thấy khổ quá” là anh xách vợ ra đánh. Khi chánh án Đẩu và Phùng khuyên người đàn bà nên bỏ chồng thì chị đã “chắp tay lại vái lia lịa”: “Con lạy quý tòa… Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.
Rồi chị đã bào chữa cho chồng bằng các lí lẽ xác đáng và tự nhận hết lỗi lầm về mình: “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”; “nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Phải chịu những trận đòn roi và sự đánh đập của chồng có người phụ nữ nào không đau đớn nhưng người đàn bà hàng chài ý thức được nguyên nhân dẫn đến hành động bạo lực của người chồng nên chị không hề oán trách, căm giận mà còn hết lòng bao dung, vị tha: “Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”.
Người đàn bà ấy nhất quyết không bỏ chồng vì “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Chị sống vì con nhiều hơn là sống cho mình. Vì con mà chị có thể nhẫn nhục, cam chịu, vì con mà chị tiếp tục sống với người đàn ông vũ phu ấy chứ không tìm cách giải thoát cho mình. Các con chính là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chị bởi đối với chị: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Đối với một người mẹ, dù bản thân có phải chịu đựng bao nhiêu sự khốn khổ thì họ vẫn luôn muốn các con có một cuộc sống no đủ.
Những lời giãi bày của chị đã khiến vị chánh án và người nhiếp ảnh hiểu ra nhiều điều. Cuộc sống vốn không hề đơn giản như cách mà chúng ta vẫn nghĩ và có những lí thuyết sách vở không thể nào giải quyết một cách thấu đáo ở trong thực tế. Phùng và Đẩu khuyên người đàn bà li hôn nhưng họ lại không hiểu được những nỗi khổ tâm của chị, không hiểu được tình nghĩa vợ chồng chung sống với nhau bao lâu nay của chị.
Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài với sự đối lập về ngoại hình và tính cách, giữa sự bất hạnh chị phải gánh chịu với tấm lòng vị tha, bao dung và đức hi sinh của chị. Người đàn bà ấy đã mang đến cho tất cả bạn đọc chúng ta một cách nhìn nhận thực tế và bao quát hơn về con người và cuộc đời. Vẻ đẹp của của chị được ẩn sâu bên trong vẻ bề ngoài rách rưới, cam chịu. Và tác giả đã “đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người” để phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách trong những nhân vật của mình.
Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thành công nhân vật người đàn bà hàng chài. Nhân vật này đã giúp bạn đọc cảm nhận được sự thấu hiểu, sự đồng cảm và tình thương mà tác giả dành cho nhân vật của mình. Qua đó, Nguyễn Minh Châu cũng phần nào khẳng định mình xứng đáng với vị trí là một trong những “người mở đường đầy tài hoa và tinh anh” (Nguyên Ngọc) trong công cuộc đổi mới nền văn học Việt Nam.
Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 9
Nếu như trong vở kịch "Vũ Như Tô", Nguyễn Huy Tưởng đã khẳng định: "Nghệ thuật mà không gắn liền với đời sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác mà thôi", hay trong truyện ngắn "Giăng sáng", Nam Cao đã tha thiết: "Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối" thì với "Chiếc thuyền ngoài xa" Nguyễn Minh Châu cũng góp thêm một cái nhìn về vấn đề mối quan hệ giữa nghệ thuật đích thực và hiện thực cuộc sống, ông chỉ ra rõ tâm điểm của bức tranh cuộc sống, văn học đó chính là "con người". Bởi lẽ như nhà văn từng quan niệm: "Văn học và đời sống là những đường tròn đồng tâm và tâm điểm chính là con người". Với tác phẩm của mình, và cụ thể qua việc miêu tả, khắc họa vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa", nhà văn đã giúp cho người đọc hiểu được hành trình khám phá hiện thực ở bề sâu và cũng là khám phá hạt ngọc ẩn dấu, khuất lấp trong mỗi con người, khám phá được tâm điểm của bức tranh văn học - cuộc sống.
Ngay từ trong chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đã mong mỏi làm sao để người viết có thể ôm cho hết vòng tay của mình hiện thực bề bộn của cuộc sống, để mỗi tác phẩm viết ra người đọc có thể thấy dáng dấp và nhịp sống thực của họ trên trang sách. Khi đất nước đã vắng tiếng đạn bom, ông vẫn là người ý thức rất rõ về điều này. Mỗi tác phẩm của ông là một sự tiếp xúc hiện thực ở cự ly gần không gian, trong lòng người. Và với nhân sinh quan sâu sắc, Nguyễn Minh Châu đào xới ngòi bút của mình gắn chặt với những băn khoăn trăn trở về số phận con người, đó là những con người bình thường ở trong đời sống bình thường. Giữa văn học và hiện thực đời sống luôn có sự gắn bó mật thiết mà Nguyễn Minh Châu gọi là "hai vòng tròn đồng tâm". Và điều đáng chú ý ở đây là tâm điểm của hai vòng tròn ấy, tâm điểm của khám phá nghệ thuật đó chính là con người. Với phép so sánh sinh động, thú vị, ta nhận ra con người vừa là điểm xuất phát, là đối tượng khám phá chủ yếu, vừa là cái đích cuối cùng của văn học. Đồng thời con người cũng là hệ quy chiếu, là thước đo giá trị của mọi vấn đề trong xã hội, mọi sự kiện và biến cố lịch sử. Bên cạnh sự khẳng định rất đúng đắn bản chất, thiên chức của văn chương chân chính, nhà văn còn nhấn mạnh về tư chất của người cầm bút - những người phải "mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người". Chính vì lấy con người làm tâm điểm khám phá nên yêu cầu nhà văn phải là nhà nhân đạo chủ nghĩa. Những "niềm hân hoan say mê, nỗi đau đớn khắc khoải, mối quan hoài thường trực về số phận và hạnh phúc của những người xung quanh mình" là cung bậc cảm xúc khác nhau của nghệ sĩ nhưng chúng đều xuất phát từ tấm lòng nhân hậu cao cả, tình yêu thương sâu sắc của người cầm bút. Như vậy qua ý kiến này, Nguyễn Minh Châu muốn khẳng định mục đích cuối của văn chương luôn là con người và những người viết nên trang văn, trang thơ phải là những nhà nhân đạo thực sự. Quan điểm này hoàn toàn đúng đắn!
Ta biết đến một Nguyễn Minh Châu qua ngòi bút văn chương sắc sảo luôn khơi dậy trong lòng độc giả nhiều lớp sóng suy tư, băn khoăn, day dứt về cuộc đời, về những người xung quanh, về chính bản thân mình. Một nhà văn đầy bản lĩnh và kinh nghiệm như thế tất nhiên sẽ có một nhận thức sâu sắc đầy đủ về mối quan hệ giữa đời sống với văn chương. Và người đàn bà hàng chài trong "Chiếc thuyền ngoài xa" có thể nói chính là hệ quy chiếu sáng rõ cho nhận định, cho quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn ra đời năm 1983, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ và tay sai đã kết thúc thắng lợi, chúng ta trở về muôn mặt của đời thường, từng bước đi lên xây dựng cuộc sống mới. Tại đây, nhà văn đi khám phá về những tầng bậc sâu xa của cuộc sống, số phận cũng như vẻ đẹp tâm hồn của con người, cụ thể nhìn đối tượng soi chiếu xoay quanh và kết tinh qua nhân vật người đàn bà hàng chài. Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn mang đến một cách nhìn nhận cuộc sống con người với những trăn trở thấm đẫm tinh thần nhân đạo của Nguyễn Minh Châu.
Sau những năm tháng chiến tranh vất vả, gian lao mà oai hùng vẻ vang, thế hệ những nhà văn như Nguyễn Minh Châu đi tìm cảm hứng mới cho những sáng tác của mình. Với cảm hứng thế sự rất gần gũi, những sáng tác của Nguyễn Minh Châu thời hậu chiến mang hơi thở của thời đại, xoáy sâu vào số phận vẻ đẹp con người trong cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn. Đó cũng là một trong những đặc điểm nổi bật của tinh thần nhân đạo trong ngòi bút nghệ sĩ này. Trong truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa", tinh thần nhân đạo của tác giả được thể hiện rõ qua số phận éo le, đau thương đầy nghịch cảnh của người đàn bà hàng chài.
Truyện mở đầu trong khung cảnh miền biển đầy thơ mộng với phát hiện quý giá của nhiếp ảnh gia tên Phùng. Nhưng trớ trêu thay, sau phát hiện về cảnh biển đẹp như bức tranh mực tàu ấy, Phùng đã phải chứng kiến một cảnh tượng xấu xí, tàn nhẫn. Câu chuyện bắt đầu và xoay quanh nhân vật chính - người đàn bà hàng chài. Đây là người đàn bà không tên, điển hình cho những người phụ nữ có số phận bất hạnh nhưng giàu tình thương yêu. Người đàn bà đó có ngoại hình trạc ngoài 40, cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ và tấm lưng áo bạc phếch. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Có lẽ chăng đây chính là chân dung con người có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, sinh ra để gánh vác công việc, để chèo chống với phong ba! Con người chỉ vì xấu xí nên cơ hội hạnh phúc ít hơn những người khác. Bệnh đậu mùa khiến chị rỗ mặt. Mặc dù gia đình khá giả, có nhà ở trên phố nhưng vì ngoại hình xấu xí nên không nên duyên với ai. Người đàn bà lại có mang với một anh con trai nhà hàng chài hay đến nhà mua đồ về đan lưới nên họ đã trở thành vợ chồng. Hoàn cảnh gia đình ấy cũng nghèo khổ và thiếu thốn. Một gia đình đông đúc trên một con thuyền chật hẹp nghèo túng quanh năm. Những ngày không đi biển được, cả nhà phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Cả nguồn sống của ngần ấy miệng ăn phụ thuộc hoàn toàn vào biển cả khi dịu êm, khi phong ba bão táp.
Không chỉ vậy, người đàn bà hàng chài còn phải chịu đựng những nỗi đau cả về thể xác và tinh thần của cảnh bạo lực gia đình. Người chồng của chị vốn hiền lành nhưng cục tính, bị cái nghèo, cái khổ và nỗi vất vả đè nặng nên biến đổi tâm tính trở thành kẻ vũ phu, thường xuyên đánh vợ để giải tỏa những khó chịu, ấm ức "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, cứ khi nào lão thấy khổ quá lại lôi vợ ra đánh, trút giận với những lời lẽ cay độc". Người đàn bà chỉ nhẫn nhịn chịu đựng "không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn". Những khổ sở, dằn vặt về tinh thần: khi phải chứng kiến đứa con căm ghét bố đến tột cùng mà mình không có cách nào để xóa đi sự thù hằn đó, người đàn bà đã ý thức được sự nguy hiểm của cái ác và thói côn đồ hình thành trong lòng đứa con. Chị đã cho con về sống với ông ngoại ở trên rừng nhưng mỗi lần đi cùng ông chở gỗ về miền biển, thằng bé lại không thể làm ngơ khi mẹ bị đánh. Với sự bồng bột của tuổi trẻ, đứa con đã ném hận thù về phía người cha và sẵn sàng giấu con dao trong người để giết cha, khiến người mẹ vô cùng đau đớn. Nỗi đau này lớn hơn nỗi đau thể xác. Có nỗi đau nào đau khổ hơn khi là mẹ mà phải chứng kiến con hận cha, gia đình tan nát, không có yêu thương chỉ có hận thù?
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tái hiện tất cả đó qua câu chuyện của người đàn bà nơi tòa án huyện. Người đọc không thể nào quên những hình ảnh một người phụ nữ miền biển mang trong mình nỗi đau khổ, sự nhẫn nhục của một cuộc đời lam lũ, vất vả đến cùng cực. Nhà văn đã khơi gợi trong người đọc sự cảm thông sâu sắc với những số phận như người đàn bà này. Nếu không có một tấm lòng nhân đạo sâu sắc, Nguyễn Minh Châu làm sao có thể viết nên những trang văn là những trang đời thấm đượm tình người như thế!
Ngòi bút khám phá con người của Nguyễn Minh Châu còn được thể hiện qua sự phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn của con người dù sống trong tăm tối khó khăn. Đó là vẻ đẹp của tâm hồn, phẩm chất của người đàn bà hàng chài. Ẩn sau một số phận nghiệt ngã, những biểu hiện có phần nhu nhược, yếu đuối lại là một tấm lòng sáng ngời. Người đàn bà hàng chài là một người vợ thương chồng, một người mẹ thương con. Chị chấp nhận, cam chịu bị đánh không kêu ca, không trốn chạy bởi chị hiểu trong cuộc sống mưu sinh đầy gian khổ trên con thuyền rất cần người đàn ông dù người đàn ông ấy có man rợ, tàn bạo. Vì cuộc sống của những đứa con, chị thà bị đánh chứ không chịu bỏ chồng. Chị đã từ chối lời đề nghị giải thoát khỏi lão chồng vũ phu với lý lẽ: "Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không phải sống cho mình như trên đất được". Đây là cách ứng xử thể hiện tình yêu thương con vô bờ. Tấm lòng người mẹ còn ôm ấp nghẹn ngào, gọi con, ôm chầm lấy con, đau đớn khi con đã chứng kiến cảnh bạo lực gia đình. Người phụ nữ sống vì gia đình ấy là hiện thân cho một tấm lòng nhân hậu, vị tha. Chị có một cái nhìn rất thương cảm với chồng. Nếu nghệ sĩ Phùng nhìn người đàn ông dưới góc độ lý lịch, thành phần, chánh án Đẩu nhìn người đàn ông dưới góc độ pháp luật, thằng Phác nhìn người đàn ông dưới con mắt trẻ thơ thì chỉ duy nhất người phụ nữ - nạn nhân của bạo hành gia đình lại nhìn anh ta dưới con mắt thương cảm bởi chị hiểu lí do vì sao người chồng lại trở nên độc ác như vậy. Đó là vì cái đói cái nghèo, vì gánh nặng mưu sinh đã ghì con người ta xuống sát đất, biến đổi cả tâm tính con người. Trong khi mọi người nhìn người đàn ông như một ác nhân thì người phụ nữ nhìn anh ta như một nạn nhân. Chị luôn chắt chiu, trân trọng những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đời thường: vui nhất khi nhìn đàn con được ăn no, khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hòa thuận. Người đàn bà hàng chài dường như không biết nghĩ đến mình, đối xử với mọi người bằng tình thương và sự đồng cảm.
Chị tuy thất học nhưng có cái nhìn sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời, thấu tình đạt lý. Chị xuất hiện ở tòa án huyện trong tâm thế bị động, không tự nguyện và cũng không muốn viết đơn bỏ chồng. Khi mới bước chân đến tòa án, chị tỏ ra rất lúng túng và sợ sệt, xưng hô lễ phép "con" - "quý tòa" và nhìn xung quanh với ánh mắt lo sợ. Nhưng khi nghe lời khuyên và hiểu thiện chí của Đẩu, của Phùng, chị thay đổi thái độ: từ chối lời đề nghị giúp đỡ, đau đớn đánh đổi mọi giá để không phải bỏ chồng, đưa ra những lý do bằng việc kể lại câu chuyện về cuộc đời mình. Qua câu chuyện ta thấy được trong sự cam chịu, nhẫn nhục đầy vô lý ấy lại chứa đựng cái lý của sự hi sinh. Có thể thấy sự sắc sảo, hiểu biết, thấu hiểu lẽ đời ở người phụ nữ này không bộ lộ, hiển hiện ở bên ngoài mà được cất giữ, giấu kín ở bên trong. Đây là người phụ nữ khiêm nhường, dù biết tất cả nhưng không chọn cách sống cho riêng mình.
Đã có những sự thay đổi trong cách nhìn nhận cuộc sống để nhà văn phát hiện và ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ này - cách nhìn đa chiều, không dễ dãi, giản đơn và thấm đượm tình người. Tất cả đó xuất phát từ tinh thần nhân đạo trong trái tim người nghệ sĩ Nguyễn Minh Châu.
Cùng với việc thể hiện thế giới quan của mình về cuộc sống, con người, toát lên từ trang văn ấy, ta còn nhận được một điều gì cao cả hơn như vậy, phải chăng chính là tư tưởng của Nguyễn Minh Châu qua sự khám phá đó. Đó là một tấm lòng cảm thông sâu sắc với nỗi đau khổ, bất hạnh của người phụ nữ; đau đớn trước tình trạng bạo hành gia đình, trước những bi kịch của con người trong cuộc sống thời bình.
Bên cạnh đó tác phẩm còn thẫm đượm hồn văn của một trái tim luôn khắc khoải, băn khoăn, trăn trở, suy tư sâu lắng về những vấn đề của đời sống nhân sinh, của nghệ thuật. Đời sống vốn phức tạp, đầy bí ẩn, chứa đựng vô vàn những nghịch lý nên liệu có thể nhìn cuộc đời bằng cái nhìn giản đơn, dễ dãi, xuôi chiều? Chiến tranh đã qua đi nhưng cuộc đời của những con người lao động nghèo khổ sẽ như thế nào, liệu có tươi sáng hơn? Tương lai của những đứa trẻ như thằng Phác sẽ ra sao? Phải chăng cuộc chiến chống đói nghèo, tăm tối còn gian nan, quyết liệt hơn cả cuộc đấu tranh chống ngoại xâm? Phải chăng đã đến lúc chúng ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, sao cho con người ngày một tốt hơn; đã đến lúc văn học phải viết về con người, trước sau con người cũng leo lên trên sự kiện để đòi quyền sống? Người nghệ sĩ cần ứng xử như thế nào về mối quan hệ giữa hiện thực đời sống và văn chương nghệ thuật? Nghệ thuật tiếp cận hiện thực ra sao để không bỏ quên số phận con người? Phải chăng tác phẩm là một lời nhắc nhở hay là một niềm tin sâu xa của Nguyễn Minh Châu về sứ mệnh cao quý của người cầm bút? Lý giải cho tất cả những băn khoăn, trăn trở ấy, Nguyễn Minh Châu chính là "người mở đường tinh anh và tài năng nhất", chọn cho mình tư tưởng sáng tác hướng về con người. Tâm điểm của văn học và cuộc sống chính là con người và người vẽ nên chiếc "tâm" của những "đường tròn đồng tâm" kia sao cho trọn vẹn nhất lại phụ thuộc vào chính cái "Tài" và cái "Tâm" của một người nghệ sĩ chân chính.
Có thể nói, văn học - cuộc sống mãi mãi không thể tách rời nhau và cả hai đều xuất phát, đều hướng về tâm điểm duy nhất: Con người. Luôn hướng con người tới chân thiện mỹ, gột rửa những xấu xa của cuộc đời phức tạp, góp phần thanh lọc tâm hồn con người để cuộc sống tốt đẹp hơn, đó chính là sứ mệnh cao cả của văn chương, của nền nghệ thuật vị nhân sinh. Với "Chiếc thuyền ngoài xa", Nguyễn Minh Châu đã cho thấy rõ đối tượng mà ngòi bút của mình quan tâm hướng đến, đó là cuộc sống mà trung tâm bức tranh đó chính là con người - người đàn bà hàng chài với toàn bộ những khía cạnh số phận cuộc đời và cả những nét đẹp ẩn giấu trong con người lam lũ ấy. Cách xây dựng tình huống truyện và nghệ thuật kể chuyện độc đáo, chân thực, nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, đào sâu tâm lý để nhân vật tự đối diện và trải lòng mình, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện thành công những suy tư của mình về con người và cuộc đời. Như Tô Hoài nhận xét "Những cái tưởng như bình thường, lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày, dưới con mắt và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý". Qua việc phản ánh thế giới quan của mình, nhà văn thể hiện rõ cái "Tài" và "Tâm" của một nhà văn chân chính, dùng ngòi bút để phản ánh và làm cuộc sống trọn vẹn hơn.
Gấp trang truyện lại người đọc còn mãi ám ảnh bởi những câu hỏi: Cuộc đời người đàn bà ấy rồi sẽ kết thúc ra sau? Những đứa con tội nghiệp của bà có được cuộc sống hạnh phúc? Đó là những vấn đề nhà văn vẫn chưa đưa ra lời giải đáp. Câu trả nằm trong cuộc sống, hành động của mỗi người chúng ta . Điều đó nói lên giá trị của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 10
“Không thuộc số nhà văn lóe sáng từ tác phẩm đầu tiên, không sớm thành danh như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu giống như người tri ân, tri kỷ với độc giả nhưng phải cùng nhau vượt qua một cái dốc núi khá cheo leo. Cũng có thể ví von ông là một tác giả đã tặng ta một thứ rượu ngon, được chưng cất kỹ lưỡng khi uống phải chậm rãi, nhấm nháp và khi ngấm là say”. Ý kiến đánh giá này của Phan Sư Đệ đã khẳng định được vị trí và tầm vóc của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Trong số các tác phẩm làm nên tên tuổi của ông phải kể đến truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm đã gây được ấn tượng sâu sắc với người đọc qua hình tượng nhân vật “người đàn bà”.
Nhân vật “người đàn bà” không phải là nhân vật chính của câu chuyện nhưng khi đọc Chiếc thuyền ngoài xa, người đọc sẽ không thể nào quên được nhân vật này, một con người có số phận bất hạnh, khổ cực song vẫn tỏa sáng lấp lánh những phẩm chất cao đẹp.
Nhân vật “người đàn bà” là số phận đại diện cho trăm ngàn người đàn bà hàng chài sống lênh đênh trên sông nước. Nhân vật này không xuất hiện ngay từ đầu truyện và xuất hiện trong một tình huống éo le, oái ăm. Người đàn bà bước xuống từ Chiếc thuyền ngoài xa tuyệt đẹp – là tâm điểm của bức ảnh nghệ thuật mà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng sau hơn một tuần lễ “phụ kích” đã tìm thấy được. Nhưng Phùng không thể nào ngờ tới đằng sau vẻ đẹp tuyệt đích của bức ảnh nghệ thuật lại là một câu chuyện đời thường, một số phận bi thương, ai oán.
“Người đàn bà” là một phụ nữ xấu số, khuôn mặt bị rỗ chằng chịt, là kết quả của một trận đậu mùa từ tấm bé. Lớn lên, làm vợ một người đàn ông làng chài. Số phận bi thảm của người đàn bà có thể gọi bằng nạn bạo hành gia đình. Bà bị chồng đánh đập hành hạ “ba ngày một trận nhẹ”, “năm ngày một trận nặng”, nhưng vẫn không kêu lên một tiếng, vẫn không oán trách, không tìm cách trốn chạy. Ngay cả khi được tòa án động viên, khuyên nhủ, người đàn bà ấy vẫn kiên quyết không chịu rời bỏ người chồng vũ phu, độc ác.
Có thể ta ngạc nhiên và thấy kỳ lạ trước hành động và thái độ không bình thường của người đàn bà này nhưng khi những lời tâm sự thật tình của bà, thì chánh án Đẩu, nghệ sĩ Phùng và tất cả chúng ta mới vỡ lẽ ra căn nguyên của sự việc. Qua những lời kể của người đàn bà, ta phần nào hình dung được về người đàn ông – chồng bà là một người đàn ông cộc tính nhưng hiền lành ‘chẳng bao giờ đánh đập tôi cả”, nhưng giờ đây, vẫn người đàn ông ấy đã trở thành một kẻ vũ phu, độc ác, vô nhân tính. Cái gì cũng có nguyên nhân, sự thay đổi đó, cái đói khiến cho con người ta quên đi tất cả, khiến người ta cáu gắt, lạnh lùng, bực bội. Tội ác sinh ra từ đó, ‘bất kể lúc nào cảm thấy bực bội là lão lại vác tôi ra đánh”. Những lời người đàn bà kể xoáy sâu hơn vào nỗi đau của con người trước tình cảnh đói nghèo – “cả nhà vợ chồng con cái đều phải ăn xương rồng luộc chấm muối”, đẻ nhiều, đông con, làm ăn khó khăn “trời làm cho biển động cả tháng trời”. Người đàn bà nhìn suốt vào cả cuộc đời mình: “chỉ tại tôi đẻ nhiều quá, cả nhà không thể sắm một chiếc thuyền rộng hơn”. Đó là một sự thật phũ phàng, là hiện tượng phổ biến không thể tránh khỏi của những con người làm nghề chài lưới. Vì thế, gánh nặng cơm áo luôn đè nặng lên vai người đàn ông khiến ông ta không khỏi rơi vào bế tắc, ông ta phải trút mọi uất ức, đau khổ lên một nơi nào đó để giải thoát minh, và nơi trút không đâu khác hơn là người vợ. Và thế là ta hiểu vì sao khi vừa bước xuống bờ, “đôi mắt dữ dằn của lão cứ dán chặt vào tấm lưng bạc phếch và rách rưới của người đàn bà”. Lão tìm thất ở vợ căn nguyên đau khổ của cả cuộc đời mình.
Đến khi hai người khuất vào sau chiếc xe rà phá mìn, lão đàn ông “lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay…” hắn trút mọi giận dữ bằng cách rút chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, hắn vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, mỗi nhát quật xuống hắn lại rên rỉ trong đau đớn, uất ức: “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ!”. Nghe trong mỗi tiếng rên xiết của lão đàn ông độc ác, ta vẫn thấy được nỗi đau xót, bế tắc, bất lực trước hiện thực cuộc sống nghèo đói, túng quẫn của lão. Vì thế, ta hiểu rằng đánh vợ là cách mà lão đàn ông giải tỏa gánh nặng, đánh vợ nhưng chính ông cũng không cảm thấy sung sướng, nhẹ nhõm gì!
Còn người đàn bà, khi bị chồng đánh đập, hành hạ cũng không hề kêu lên một tiếng, không hề chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy, phải chăng người đàn bà ấy bị đánh đòn nhiều quá nên thành quen, hay bà ta tăm tối, dốt nát đến mức không còn nhận thức được về quyền sống của mình. Có lẽ không phải thế? Khi Kiều bị đánh đập, Nguyễn Du đã phải thốt lên rằng:
Thịt da ai cũng là người
Lòng nào chẳng rụng, thắm vào chẳng rơi.
Đúng thế, người đàn bà cũng là con người như tất cả chúng ta, có cảm giác, có đau đớn, có khả năng tự vệ. Nhưng vì cuộc sống của bà quá lênh đênh, quá chìm nổi bất trắc trên một chiếc thuyền, với một sắp con nhỏ trên dưới chục đứa, liệu rằng người đàn bà ấy có cách nào khác để thay đổi cuộc sống.
Nhân dân ta có câu “cá chuối đắm đuối vì con”, có lẽ người đàn bà ấy ý thức được hơn bất kỳ ai thiên chức làm mẹ của mình, vì thế “trên thuyền phải có một người đàn ông chèo chống phong ba bão táp để cùng làm ăn và nuôi nấng đặng sắp con nhỏ’. Bà ý thức sâu sắc số phận và trách nhiệm của mình đối với con “đàn bà hàng chài sống trên truyền chỉ có thể sống vì con chứ không thể sống vì mình như đàn bà trên đất được”. Người đàn bà ấy sẵn sàng chịu khổ, chịu hành hạ cũng vì những đứa con. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà là bóng dáng của hàng ngàn hàng triệu người phụ nữ Việt Nam đôn hậu, giàu tình thương, cam chịu và giàu đức hy sinh.
Nhẫn nhục đối với chồng nhưng người đàn bà rất tự trọng đối với con, lo lắng cho tương lai của chúng. Bà nơm nớp lo sợ những hành động bạo lực của người cha sẽ gây tổn thương tinh thần cho những đứa con. Vì lẽ đó, khi những đứa con dần lớn lên, người đàn bà xin với chồng ‘đưa lên bờ mà đánh”. Bà không muốn con chứng kiến nỗi đau khổ của cả một cuộc đời bà, đối với bà: chẳng gì đau đớn hơn sự tổn thương đầu đời gây ra cho những đứa con. Bà không cho phép con làm gì có lỗi với bố, dù sao đi chăng nữa, người đàn ông ấy vẫn là bố của chúng, vẫn là cái trụ cột vững vàng của cả cái gia đình đông đúc này. Bà âm thầm chịu đựng những đau khổ, giày vò về thể xác lẫn tinh thần, chỉ với một mong mỏi duy nhất là nuôi lớn đàn con. Bà dành tình yêu thương cho đàn con, nhất là đối với thằng Phác. Trong đau khổ, tủi nhục song cũng có lúc người đàn bà ấy cảm thấy hạnh phúc. Đó là những lúc nhìn thấy những đứa con được ăn no, ấy là một hạnh phúc đời thường nhỏ bé và giản dị biết bao nhưng đối với người đàn bà bất hạnh, điều đó trở thành nghị lực sống, vực bà dậy từ những cơ cực, tủi nhục.
Người đàn bà làng chài ý thức được thiên chức làm mẹ cao cả của mình và nắm giữ lấy những khoảnh khắc hạnh phúc bé nhỏ trong cuộc sống. Đó chính là lý do khiến những hành động và suy nghĩ của bà đều hướng về một niềm tin gắn bó với thuyền, với người chồng độc ác, vũ phu. Khi được toà án mời đến và vị thẩm phán vô cùng cảm thông chia sẻ với nỗi đau và cuộc sống của người đàn bà, và vẫn kiên quyết từ chối việc ly hôn chồng. Vị thẩm phán đã nhận được câu trả lời tưởng chừng vô lý mà lại vô cùng thấm thía: “các chú có lòng tốt nhưng các chú đâu phải là người làm ăn, đâu thể hiểu được việc của những người làm ăn lam lũ khó nhọc”. Trước một người đàn bà làng chài thất học, lam lũ mà trải đời, vị thẩm phán thông minh thật bé nhỏ, tầm thường, có thể anh là một người thông hiểu pháp luật nhưng anh chưa thực sự thấu suốt lẽ đời. Anh thấy “có cái gì đó mới vỡ ra trong đầu”. Anh thấm thía hơn bao giờ hết nghịch lý của cuộc sống, những nghịch lý khó có thể chấp nhận tựa như “các chú không phải đàn bà, không thể nào hiểu được những khó nhọc của người đàn bà trên thuyền không có đàn ông”. Và anh bắt đầu nhận ra rằng cuộc chiến chống đói nghèo thực ra là một cuộc chiến rất cam go, vất vả, phải có một giải pháp thực tế hữu hiệu chứ không thể giải quyết bằng những thiện chí và những lý thuyết đẹp đẽ xa rời thực tế. Cuộc chiến ấy còn khó khăn hơn cuộc chiến chống ngoại xâm, bởi lẽ khi chưa thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn bế tắc của đói nghèo, con người ta vẫn phải sống chung với cái xấu, cái cũ.
Cuộc sống và số phận của người đàn bà làng chài cũng đem đến cho Phùng, người nghệ sĩ nhiếp ảnh cái nhìn mới mẻ về nghệ thuật, con thuyền nghệ thuật có thể ở rất xa, con người khó có thể với tới được nhưng hiện thực cuộc sống ở rất gần ta, xung quanh ta và gắn bó với ta. Đó cũng chính là mối quan hệ mật thiết giữa nghệ thuật và cuộc sống, “nghệ thuật sẽ chẳng là gì nếu không vì cuộc sống mà có” (Phạm Văn Đồng).
Qua số phận đầy cay đắng của người đàn bà làng chài, Nguyễn Minh Châu đã ca ngợi phẩm chất cao đẹp của những con người lao động bình thường và đồng cảm sẻ chia với những người phụ nữ làng chài. Thấp thoáng ở đó, ta vẫn thấy ở người phụ nữ nghèo khổ lam lũ ấy những phẩm chất cao đẹp, rất tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, giàu tình yêu thương và đức hi sinh cao đẹp. Qua hình tượng người đàn bà nhà văn đã chia sẻ, cảm thông với những số phận đau khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội, đồng thời cũng phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Mặt khác, Nguyễn Minh Châu còn đặt ra trách nhiệm cho đông đảo tầng lớp văn nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, đa diện về cuộc sống: “Con người thì đa đoan, cuộc đời thì phải đa sự”.
Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 11
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Như lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Khải “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Ông đã để cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên “Chiếc thuyền ngoài xa” với nguồn cảm hứng vô tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người đàn bà hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về những câu chuyện đời.
Sau những bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ, lộng lẫy mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh Phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những góc khuất mà con người bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Đó là một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi mà đặt một ngôi “mụ”, “người đàn bà hàng chài” như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.
Sau vài nét gợi tả, hình ảnh của người đàn bà với “một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hẳn lên trên khuôn mặt ấy. Một người lao động lam lũ, chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ. Sự nghèo khổ ấy còn hiện lên trên “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”. Từ cách hành xử, đi đứng đến “tìm đến một góc tường để ngồi” càng làm cho mụ trở nên đáng thương đến tội nghiệp. Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở nên tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người.
Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật sâu sắc, chân thật cả những tính cách con người mụ. Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển hình trong xã hội Việt Nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Đôi mắt của chị hắt lên một con đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, mụ đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
Những đau đớn về thể xác của chị chẳng thể nào sánh với những nỗi đau đớn, giày vò về tinh thần khi chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đau đớn ấy. Thằng con trai của chị thương mẹ, lăm lăm con dao trong tay nhưng người mẹ ấy đã “chắp tay vái mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí”. Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị vẫn biết đạo lí trong đời, chị không muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn mà cuộc đời bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đau đớn, buồn tủi vô cùng khi cái nghèo đẩy cả gia đình chị vào cái vòng quẩn quanh nghèo đói. Những ngày tháng ăn xương rồng luộc chấm muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, thường trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia đình chị.
Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn bà ấy càng trở nên sâu sắc. Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy nhưng chị đã xin quan tòa rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đến tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cộc cằn.
Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí Phèo của Nam Cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng: thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghị, họ không có quyền đòi hỏi một người đàn ông giàu sang, có học vấn.
Trong khi đường lối của Đảng trước và sau cách mạng luôn hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, giúp cho nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho một người phụ nữ.
Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, niềm vui của chị thật giản đơn khi “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no”. Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại. Ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hy sinh cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà làng chài là những đức tính của biết bao người phụ nữ Việt Nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.
Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 12
Trong sự nghiệp văn chương của mình, Nguyễn Minh Châu đã từng có tâm niệm "Văn học và đời sống là những đường tròn đồng tâm và tâm điểm chính là con người". Điều đó quả thực là hoàn toàn đúng. Ban đầu bước vào thế giới văn học với tư tưởng lãng mạn, nhưng sau đó Nguyễn Minh Châu đã nhận ra vai trò, sứ mệnh quan trọng của người cầm bút trong việc viết và tìm hiểu khám phá về cuộc đời. "Chiếc thuyền ngoài xa" là một trong những truyện ngắn thể hiện một cách rõ nét tư duy "nghệ thuật vị nhân sinh" - văn chương sinh ra vì con người, vì cuộc sống của ông. Khi đọc "Chiếc thuyền ngoài xa", mỗi nhân vật trong câu chuyện xuất hiện và tỏa sáng với những nét đẹp riêng của mình. Tuy nhiên, hình ảnh người đàn bà làng chài - biểu tượng đại diện cho những người phụ nữ có số phận bất hạnh nhưng luôn tràn đầy tình yêu thương - chính là điểm để lại ấn tượng sâu sắc và gợi mở nhiều suy nghĩ trong lòng người đọc.
Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" vào khoảng tháng 8 năm 1983, tác phẩm là đứa con tinh thần tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự gắn với vấn đề đạo đức và triết lý nhân sinh của ông. Ban đầu, tác phẩm được in trong tập truyện "Bến quê", nhưng sau đó được đưa vào tập truyện ngắn cùng tên năm 1987. Năm 1983 là một thời điểm đặc biệt khi chiến tranh chống Mỹ và tay sai kết thúc thắng lợi, chúng ta trở lại cuộc sống đời thường. Dân tộc ta cũng đang bước vào giai đoạn đổi mới, cuộc sống do đó tạo ra nhiều điều thú vị, bất ngờ và hấp dẫn các nhà văn và nghệ sĩ, bao gồm cả Nguyễn Minh Châu. "Chiếc thuyền ngoài xa" kể về chuyến đi công tác của nhiếp ảnh gia Phùng đến vùng biển miền Trung. Từ chuyến đi này, anh đã nhận ra nhiều khía cạnh của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người thường bỏ qua. Hình ảnh người đàn bà trong truyện gây cho anh sự khó hiểu, đau lòng và suy ngẫm. Có thể nói rằng người đàn bà hàng chài là biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của phụ nữ.
Trong câu chuyện của nhiếp ảnh gia Phùng, hình ảnh người đàn bà hiện lên như một tác phẩm đẽo gọt sơ sài của tạo hóa nhưng lại đầy sức gợi. Một người phụ nữ trên bốn mươi tuổi, cao lớn với các đường nét thô kệch, "khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Dáng vẻ của bà đã lột tả toàn bộ cuộc đời cơ cực và bất hạnh. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, người đàn bà đáng thương này còn được nhìn nhận từ góc độ của một người chồng, với ánh mắt cay độc, đổ lỗi vào "tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng." Đó là hình ảnh của một con người quen thuộc với nỗi khốn khó, chịu đựng và nỗ lực vất vả khắc sâu vào cơ thể cùng với cuộc sống khắc nghiệt.
Mang trong lòng mình một nỗi bất hạnh, lại thêm ngoại hình xấu xí, bị bệnh đậu mùa khiến cho rỗ mặt nên người đàn bà hàng chài ít có cơ hội hạnh phúc hơn những người khác. Mặc dù gia đình khá giả, có căn nhà trên phố nhưng do tự ti với ngoại hình xấu xí, bà không nên duyên được với ai. Mặc dù vậy, bà vẫn khao khát hạnh phúc cho thân phận hẩm hiu của mình: có mang mới một người con trai làm ngư dân và sống những chuỗi ngày lênh đênh, khó khăn cơ cực trên biển cùng một gia đình đông đúc trên chiếc thuyền chật hẹp, nghèo khó quanh năm và đôi khi phải ăn xương rồng luộc chấm muối vì không thể ra khơi. Không chỉ dừng lại ở đó, người phụ nữ ấy còn trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình: "bị đánh đập" ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng và thậm chí còn phải chịu đựng việc "bất kể lúc nào thấy khổ quá là hắn xách tôi ra đánh". Lời than thở của người phụ nữ bất hạnh ấy chứa đựng một sự đau lòng sâu sắc. Đôi mắt của bà như xuyên thấu vào tâm trí người đọc, để lại ấn tượng đậm sâu cho đến khi trang sách được gập lại. Ánh mắt của bà đầy lòng trắc ẩn, đầy oán trách và cũng tràn đầy tình yêu thương dành cho những đứa con của mình. Ít người biết rằng, sau bề ngoài xấu xí và khốn khổ kia của người đàn bà hàng chài ẩn chứa những vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp của sự hiểu biết về cuộc sống và tình yêu thương sâu sắc.
Đó là một trái tim tràn đầy lòng vị tha cao cả đối với chồng, dù bị chồng đánh đập, hành hạ một cách tàn nhẫn nhưng người phụ nữ này không trách móc mà lại rất thông cảm, thấu hiểu, sẵn lòng chấp nhận những nghịch cảnh éo le đó. Không muốn để con nhìn thấy cảnh chồng đánh đập mình, bà xin chồng đưa lên bờ mà đánh: "Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được lão... đưa tôi lên bờ mà đánh...". Lời nói ngắt quãng, ngập tràn nỗi đau trong lòng. Người phụ nữ đáng thương đó không ngừng nỗ lực bảo vệ gia đình nhỏ của mình. Bà coi việc bị chồng đánh là một phần quen thuộc trong cuộc sống của mình, bà chấp nhận, không kêu van, không trốn tránh, khi được đề nghị giúp đỡ, bà chỉ biết van xin: "Xin các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu", "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó". Người phụ nữ ấy tự nhận phần lỗi, tự chịu thiệt về mình: "Cũng tại đàn bà ở thuyền chúng tôi nhiều quá", và không ngừng bênh vực chồng trước mặt Phùng và Đẩu: "trước kia là một anh con trai hiền lành nhưng cục tính, do cuộc sống vất vả quá nên lão chồng chỉ còn cách đánh vợ để giải tỏa những bức bí của cuộc đời". Chắc hẳn phải là một người có lòng yêu thương và vị tha cao cả, người đàn bà hàng chài mới có thể có được những phẩm chất hy sinh cao quý như vậy.
Hơn thế nữa, người phụ nữ ấy còn là một người mẹ yêu thương con hết mực. Bên cạnh việc hy sinh vì con, xin chồng không đánh mình trước mặt con, người đàn bà hàng chài còn chịu đựng đau thương và nhục nhã vì con. Khi phát hiện thằng Phác con trai mình chứng kiến cảnh ba nó đánh đập mẹ, người đàn bà hàng chài đau đớn và cảm thấy nhục nhã vô cùng. Nhìn thấy con trai đánh ba để bảo vệ mẹ, người phụ nữ ấy mếu máo gọi: "Phác, con ơi!", sau đó ngồi xuống trước mặt thằng bé, ôm lấy nó sau đó lại buông ra, chắp tay và vái lấy vái để, rồi lại ôm chặt lấy nó. Hành động đó thể hiện nỗi bất an, lo lắng, bấn loạn trong đau đớn đến tột cùng. Cái vái lạy ấy giống như lời van xin, nhận lỗi về phía mình. Chắc chắn phải là một con người có lòng yêu thương con sâu sắc mới có thể chịu đựng và hy sinh vì con đến như vậy.
Ẩn đằng sau lớp vỏ bọc tưởng như vô cảm, thất học kia lại là một người đàn bà vô cùng thấu hiểu lẽ đời. Người đàn bà hàng chài xuất hiện ở tòa án với những nét diễn biến thật ấn tượng. Từ hình ảnh một người dân nghèo, lam lũ, sợ sệt, "lúng túng tìm một góc tường để ngồi" bỗng chốc thay đổi hẳn. Nếu như lúc đầu người đàn bà xưng con, gọi là ông, quý tòa thì đến khi đối thoại với Đẩu, người đàn bà ấy lại xưng là chị, gọi là mấy chú, các chú. Để bảo vệ chồng, bảo vệ gia đình mình, người phụ nữ ấy trở nên khéo léo, thấu suốt, từ chối bỏ chồng bằng những lý lẽ thuyết phục. Chị biết rõ nỗi vất vả, cơ cực trên một chiếc thuyền không có đàn ông, chỉ biết dựa vào quá khứ tốt đẹp của chồng để thuyết phục. Hơn thế, người đàn bà ấy còn biết chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi, đời thường. "Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên như một nụ cười", vả lại, ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ. Và người phụ nữ ấy thật cao cả: "Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng tôi được ăn nó".
Một người đàn bà ít học nhưng lại thấu suốt lẽ đời, giàu đức hi sinh, thật đáng ca ngợi và khâm phục! Người đàn bà hàng chài với cuộc đời đầy sự bất ngờ không thể lý giải được, cứ tưởng chị yếu hèn, nhu nhược nhưng hóa ra lại vô cùng cao cả, lớn lao; cứ tưởng chị dốt nát, kém hiểu biết nhưng hóa ra lại vô cùng trải nghiệm, sâu sắc và thấu tỏ lẽ đời dù cho chị tự nhận những suy nghĩ của mình là cái sự lạc hậu. Chị hiểu việc mình làm và chấp nhận cuộc sống ấy chứ hoàn toàn không phải do dốt nát, lạc hậu như chị tự nhận, vì trong một lẽ nào đó, con người có khi phải sống trong bi kịch, buộc phải chấp nhận bi kịch. Với người đàn bà này, cội rễ của sự cam chịu chính là tình mẫu tử, vì chị sống cho những đứa con, vì chị là một người mẹ - một người mẹ không chỉ biết đủ miếng ăn cho con mà còn muốn con lớn lên đúng nghĩa một con người, một người mẹ âm thầm không muốn làm tổn thương những tâm hồn trẻ thơ non nớt nên chỉ biết cầu xin chồng lên bờ đánh. Chị biết cách dạy còn hơn nhiều người mẹ khác khi cho con lên bờ ở với ông ngoại, chị không giống những người mẹ muốn lôi kéo con làm đồng minh nên sẵn sàng kể tội, nói xấu bố chúng. Người phụ nữ ấy thật vị tha và vô cùng cao thượng. Trước mắt Phùng, chị không còn là nạn nhân để cho công lý và lòng tốt dang tay cứu vớt, lòng thương hại ở Phụng đã nhường chỗ cho sự kính trọng và niềm khâm phục.
Với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, mang ý nghĩa phát hiện về đời sống, nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật chân thực và sâu sắc cùng cách kể chuyện sinh động, ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn sâu trong nhân vật, Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, cuộc sống khó khăn, nghèo đói, tủi cực, bị ngược đãi về cả thể xác lẫn tinh thần nhưng trái tim lúc nào cũng ấm nóng tình yêu thương và giàu lòng vị tha, nhân hậu để rồi qua đó thể hiện nỗi quan hoài thường trực của Nguyễn Minh Châu đối với con người trong cuộc sống, niềm khao khát tìm kiếm, tôn vinh vẻ đẹp con người cùng những khắc khoải, lo âu trước cái xấu, cái ác.
Hình ảnh người đàn bà hàng chài đã trở thành "nỗi ám ảnh" với chính nhân vật người nghệ sĩ Phùng, cũng là hình ảnh đem đến những ấn tượng đặc biệt trong lòng đọc giả. Một chút ồn ào, một chút đau đớn, một chút tủi hờn, một chút xót thương, một chút đồng cảm,.. tôi vẫn nghĩ rằng những cảm xúc bản thân còn lưu lại sau khi đọc xong câu chuyện này còn nhiều hơn như thế. Và hình ảnh người đàn bà hàng chài vẫn đẹp đẽ, thánh thiện, bao dung. Người đàn bà ấy là biểu trưng cho biết bao nhiêu những người phụ nữ hàng chài khác mang trong mình một vẻ đẹp khuất lấp, chỉ cần gạt nhẹ một chút đã thấy sáng lấp lánh, long lanh.
Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài - Bài mẫu 13
Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút có tầm ảnh hưởng của văn học Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và những năm đầu đổi mới. Bằng chính những trải nghiệm trong quá trình chiến đấu, cũng như được sống trong những năm đất nước vừa đi qua chiến tranh, nên nhà văn có những cái nhìn thực tế, mới mẻ, để đưa vào từng tác phẩm của mình những câu chuyện chân thực, nhiều sức hút, bởi tính triết lý, những quan niệm thẩm mỹ, nghệ thuật tiến bộ, có chiều sâu. Đặc biệt là khi viết về vấn đề số phận con người, những mảnh đời nhỏ bé trong xã hội, suy nghĩ về đạo đức thế sự, dường như ngòi bút của Nguyễn Minh Châu lại càng tỏa sáng mạnh mẽ, với nhiều tác phẩm ấn tượng như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Khách ở quê ra, Bến quê,… Mỗi một câu chuyện là một nhân vật với những hoàn cảnh, số phận khác nhau, và điểm chung là đều mang đến cho người đọc những trăn trở suy tư về ý nghĩa của cuộc sống, về những nghịch lý vẫn thường xảy ra trong cuộc đời. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong số những tác phẩm xuất sắc và sáng giá nhất của Nguyễn Minh Châu, với nhân vật trung tâm là người đàn bà làng chài có số phận bất hạnh, vẻ ngoài xấu xí, tuy nhiên lại có “hạt ngọc tâm hồn” đẹp đẽ, khai mở cho độc giả những trường suy tư mới về mỗi số phận con người.
Người đàn bà làng chài xuất hiện trong một hoàn cảnh vô cùng éo le, ấy là trong một cuộc bạo lực gia đình, mà chị là nạn nhân, một nạn nhân im lặng chịu đựng, nhẫn nhục hứng cơn mưa đòn roi từ gã chồng vũ phu. Nguyễn Minh Châu đã phác họa nên một hình tượng nhân vật tiêu biểu cho nhiều số phận phụ nữ sống tại miền biển nhiều nắng và gió, chị không có một cái tên cụ thể, tuổi trạc tầm 40 mươi, đã đi quá phân nửa cuộc đời, thân hình cao lớn, thô kệch, tấm áo bạc phếch và rách rưới, “khuôn mặt mệt mỏi vì thức trắng sau một đêm thức kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”.
Đi sâu vào cuộc đời người phụ nữ này ta mới thấy chị đã có một chặng đường đầy khó khăn và vất vả, những bước chân nặng nề, mệt nhọc lội qua bãi phá, đi thật xa khỏi con thuyền để cho người chồng xả giận, tất cả đều có những nguyên nhân thật xa xôi. Ngày còn trẻ chị cũng là con gái nhà khá giả, có cuộc sống êm đềm, nhưng thật bất hạnh thay một cơn đậu mùa đã để trên khuôn mặt chị những nốt rỗ xấu xí, cùng với vóc dáng cao lớn thô kệch, mà đối với người phụ nữ sinh ra với ngoại hình không mấy xinh đẹp là một trong những thiệt thòi, cũng là khởi nguồn của nhiều đau khổ. Chính vì lẽ đó khi lớn lên chị đã phải chịu cảnh quá lứa lỡ thì vì không lấy được chồng, mãi về sau mới nên duyên với anh thợ kéo lưới, chính là người chồng hiện tại. Thế nhưng vì chiến tranh, cuộc sống của hai vợ chồng lại càng trở nên khó khăn, đến khi hòa bình lập lại, thì gia đình người đàn bà làng chài vẫn chưa thoát khỏi cái cảnh nghèo đói chỉ vì nhà đông con quá, mà thuyền lại chật, có những tháng ròng biển động cả gia đình phải ăn cả xương rồng chấm muối.
Sự bất hạnh của người đàn bà hàng chài ngoài sự thiếu thốn về vật chất, lam lũ suốt mấy chục năm dài còn nằm ở những nỗi thống khổ trong tâm hồn. Chị phải liên tục gánh chịu sự dày vò, bạo hành của người chồng vũ phu cùng với những lời nói cay nghiệt, độc ác thốt ra từ người đàn ông đã đi cùng chị hơn nửa cuộc đời, đã có với nhau hàng chục mặt con. Có thể nói rằng cuộc đời người đàn bà làng chài là chất chứa đến hàng vạn nỗi đau, sự bất hạnh chồng chất, thế nhưng bên trong cái vỏ xấu xí, khắc nghiệt và nhiều khổ đau ấy, ta mới lại thấy được những vẻ đẹp phẩm chất đáng quý, đáng ngưỡng mộ, mà không ngỡ được rằng một con người bị dày vò cả về thể xác lẫn tâm hồn kia vẫn còn gìn giữ được vẹn nguyên và trong sáng đến thế.
Vẻ đẹp đầu tiên và sáng rõ nhất của người đàn bà làng chài ấy là tình mẫu tử thiêng liêng, sâu đậm với những đứa con của mình. Cả Phùng và Đẩu dường như tức điên vì sự vô lý rành rành khi người đàn bà làng chài van xin để không phải ly hôn với người chồng vũ phu. Thế nhưng chỉ đến khi chị rũ bỏ vẻ rụt rè, ngại ngùng để tâm sự về cuộc đời mình, người ta mới hiểu được, có những thứ không phải cứ muốn là được và trên cuộc đời này không phải lúc nào công lý và pháp luật cũng có thể giải quyết hết bất hạnh cho con người. Người đàn bà làng chài không sống vì mình, chị sống vì những đứa con mà chị đã mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày, chúng nó đều đang tuổi ăn, tuổi lớn, đang trông chờ bàn tay lao động của cha mẹ, mang về cho chúng miếng cơm manh áo để trưởng thành. Chị mở lòng bằng câu nói khiến cả hai người đàn ông đang hùng hổ muốn đòi công bằng cho chị phải nín lặng “các chú đâu phải người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”.
Gia đình chị dựa vào việc đánh bắt để kiếm sống thế nhưng một mình chị là phận đàn bà làm sao chèo chống nổi, chính vậy chị cần một người đàn ông làm trụ cột để gồng gánh những ngày biển động bão bùng. Dù rằng cái kẻ vũ phu ấy có làm tổn thương chị, thế nhưng hắn vẫn ra sức lao động, cùng chị nuôi các con, nếu không có chồng rồi chị biết làm sao để nuôi hơn chục đứa con lớn, nhỏ của mình. Không chỉ thế, chị chấp nhận cay đắng để sống với người chồng vũ phu là vì muốn các con của mình có một gia đình đầy đủ cả cha lẫn mẹ, dù rằng sâu trong bản chất nó đã trở nên méo mó sứt sẹo từ lâu. Chị không muốn những đứa con của chị lớn trong ám ảnh việc cha mẹ ly hôn vì bạo lực gia đình, và trong thâm tâm của chị “cũng có những lúc gia đình vợ chồng con cái chúng tôi chung sống hòa thuận vui vẻ”. Chính lẽ đó, chị chấp nhận hy sinh, chịu đựng những trận đòn tàn nhẫn để bảo vệ cho cái tổ ấm bé nhỏ, cùng những đứa con của mình.
Tình mẫu tử của người đàn bà làng chài còn thể hiện ở nỗi lo lắng cho đứa con trai là thằng Phác, chị đã khóc khi nghe Phùng và Đẩu nhắc đến thằng bé, chị sợ nó sẽ làm ra điều dại dột với bố nó, nên đành cho nó lên ở với ông ngoại. Chị thương con, vì chính nó đã đứng ra chống lại bố để bảo vệ mẹ, một đứa trẻ bé nhỏ nhưng vì tình yêu thương mẹ sâu sắc đã sẵn sàng tổn thương người cha vũ phu để cứu mẹ khỏi những trận đòn roi tàn nhẫn. Điều đó đã để lại trong tim người đàn bà làng chài những nỗi đau, nỗi bất lực, khi mà chị đã cố gắng giấu giếm các con việc mình bị đánh bằng cách cầu xin gã chồng đem mình lên bờ mà đánh, mà trút giận, nhưng cuối cùng vẫn để cảnh tượng hãi hùng, xấu xí ấy lọt vào tầm mắt của những đứa con mà chị yêu thương hết mực. Tấm lòng yêu thương con tha thiết ấy của người phụ nữ, cũng như lời tâm sự rất mực thấu hiểu và đầy lý lẽ của chị đã khiến Phùng và Đẩu phải có cái nhìn khác, đối với độc giả sự hi sinh của người đàn bà làng chài trở thành một ấn tượng sâu sắc, khiến người ta không khỏi trăn trở suy nghĩ về trách nhiệm làm cha, làm mẹ của mỗi con người trên cuộc đời.
Không dừng lại ở đó, vẻ đẹp của người đàn bà làng chài còn hiện lên với tấm lòng bao dung, nhân hậu, thấu hiểu lý lẽ. Đối với việc bị bạo lực gia đình “năm ngày một trận nặng, ba ngày một trận nhẹ” từ người chồng đầu ấp tay gối, chị chỉ thuật lại bằng chất giọng bình thản, đượm buồn, chất chứa trong đó là sự cam chịu, nhẫn nhục. Chị không hề tỏ ra căm hận, giận dữ trước sự tàn nhẫn của gã chồng vũ phu, như những gì hắn đã làm với chị. Thậm chí chị đã bao dung đến độ, bào chữa cho gã chồng rằng chỉ bởi lẽ vì nghèo khổ quá, phải gánh gồng áp lực mưu sinh quá lớn, khiến cho chồng chị trở nên cục cằn, vũ phu, thành ra hắn lấy chị ra làm chỗ trút giận, bộc lộ những nỗi căm phẫn, bất lực vì quẩn quanh mãi trong cái vòng tròn nghèo đói. Rồi dù đã từng bị đánh, bị hành hạ biết bao nhiêu năm tháng, thế nhưng trong tấm lòng bao dung, nhân hậu của chị vẫn luôn nhớ mãi dáng vẻ khi trẻ của người chồng dù “cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập tôi”, lấy nó làm nền tảng để thông cảm, giải thích cho những sự biết đổi của chồng mình, tất cả chỉ vì cái nghèo đói gây ra. Không dừng lại ở đó, người ta còn thấy tấm lòng người đàn bà làng chài thật bao la, khi sẵn sàng tự nhận hết lỗi về mình, nghĩ rằng giá mà có được chiếc thuyền rộng hơn, “giá mà tôi đẻ ít đi” thì có lẽ cuộc sống đã dễ thở hơn, và chồng chị cũng không trở nên đổ đốn, vũ phu như thế. Mặc dù những cái chị nói chẳng phải và cũng chẳng bao giờ là lỗi lầm của chị cả, thế nhưng để biện minh cho gã chồng vũ phu, chị vẫn hi sinh, tự nguyện ôm hết trách nhiệm về mình. Không chỉ vậy, một phần chị bênh vực cho chồng mình, cũng có lẽ là xuất phát từ tấm lòng ghi nhớ cái ơn nghĩa cứu vớt cuộc đời chị khi xưa của người chồng. Người đã cho chị một cuộc sống gia đình, một chỗ dựa và những đứa con mà chị yêu thương, là niềm tin là động lực để chị tiếp tục sống, tiếp tục mạnh mẽ đối diện với cuộc đời nhiều bất hạnh này.
Vẻ đẹp đáng quý của người đàn bà làng chài còn bởi sự thấu hiểu lý lẽ, tâm hồn sâu sắc dù ít học, cuộc sống quanh năm vất vả, cực nhọc. Chị hiểu tấm lòng của Phùng và Đẩu, hiểu được rằng họ muốn giành lại công bằng cho chị, tất cả chỉ vì muốn chị thoát khỏi cảnh bị bạo hành, để chị có một cuộc sống tốt hơn, nuôi con khôn lớn. Thế nhưng cả hai người đều không hiểu những nỗi vất vả của một người làm ăn trên biển, cái khó của người đàn bà trên thuyền khi không có đàn ông, chính vì vậy chị mở lòng giải thích, tâm sự bằng những lý lẽ giản đơn, mộc mạc, để tháo gỡ hết những khúc mắc trong lòng Phùng và Đẩu, để họ hiểu được vì sao chị lại nhất quyết không muốn ly hôn chồng, để tự giải thoát cho bản thân. Bên cạnh đó, chị còn là một người phụ nữ có lòng tự trọng sâu sắc, dù bị đánh những đòn roi đau đớn, nhưng chị không kêu lấy một tiếng, thấy xấu hổ, nhục nhã khi bị con trai chứng kiến cảnh mình bị đánh. Có thể thấy rằng dù sống một cuộc đời khó nhọc thế nhưng người đàn bà làng chài vẫn luôn giữ cho mình được những cốt cách, phẩm chất đáng quý, đặc biệt là sự từng trải, nhìn rõ những lý lẽ ở đời. Cũng từ đó mở ra cho người đọc những suy nghĩ về cách nhìn nhận cuộc sống, thay vì chỉ nhìn một chiều hạn hẹp, thì cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều hơn, để có thể thấu hiểu và thông cảm cho nhiều số phận con người, thấu tỏ được những cái có lý trong hoàn cảnh nghịch lý .
Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm xuất sắc, khi phản ánh cuộc sống con người những năm tháng đất nước đang đổi mới, ở đó Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhân vật người đàn bà làng chài, với những miêu tả trần trụi, đầy tính hiện thực về một cuộc sống khó khăn, nghèo đói và cuộc hôn nhân bất hạnh, đau khổ, đầy tăm tối, sứt sẹo của người phụ nữ tội nghiệp. Nhưng càng đi sâu, người ta mới phát hiện ra được hạt ngọc tâm hồn đang ẩn chứa trong cái vỏ bọc lam lũ, xấu xí, cam chịu của người đàn bà làng chài, đó là “những nét đẹp đẽ kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để nhận thức khám phá tất cả…”. Truyện ngắn còn mang đến cho người đọc những triết lý nhân sinh sâu sắc, những quan niệm mới mẻ về cách làm nghệ thuật của người nghệ sĩ, cũng như những trăn trở suy tư về việc giải phóng con người khỏi cuộc sống nghèo đói, đầy bất hạnh bằng những cách thức khác, mà chỉ dựa vào pháp luật và công lý là chưa đủ.