Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Ai đã đặt tên cho dòng sông? là tài liệu hay dành cho các bạn học sinh lớp 12 tham khảo để học tốt Ngữ văn lớp 12, tài liệu đã được VnDoc.com tổng hợp đầy đủ những nội dung liên quan sẽ giúp các bạn học sinh soạn bài lớp 12, phân tích một cách hay hơn. Mời các bạn học sinh và thầy cô tham khảo.

Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.

Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Digan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lý giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.

Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.

Phải nhiều thế kỷ qua, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó.

Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam - bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây - bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông - bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột khởi như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi.

Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây - nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch, và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “bốn bề núi phủ mây phong - mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng vạn niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lý, như cổ thụ, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà...

Từ đấy, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam - đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trăng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non.

Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một nhánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Paris, sông Đa - nuýp của Bu - đa - pet, sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông.

Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố phường với những cây đa, cây dừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.

Tôi đã đến Leningrad, có lúc đứng nhìn sông Nêva cuốn trôi những đám băng lô xô nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Peterburg cũ để ra bể Bantich.

Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Leningrad đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi tôi muốn hóa làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vẫy tay, nhưng sông Nêva đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo.

Hai nghìn năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hêracơlit, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi qua nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi; chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố... Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.

Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya.

Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu và từ đó những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỷ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều, “Trong như tiếng hạc bay qua - đục như tiếng suối mới sa nửa vời”... Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”.

Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vỹ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông - tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình.

Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ sông này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non - còn nước - còn dài. Còn về - còn nhớ....”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở.

“Dòng sông và những đầm phá của nó, những dòng kênh uốn lượn qua thành phố cùng với tư thái của những ngôi nhà nằm giữa những khu vườn xanh tươi, tất cả mang lại cho Huế một vẻ trong sáng đầy thư thái, dành riêng cho cảm hứng nghệ thuật và tri thức. Huế đã là và vẫn còn là một trung tâm của nền văn hóa Việt Nam... Vẻ đẹp của Huế và lịch sử mà nó làm chứng đã ban cho thành phố Huế mang một sức hấp dẫn về văn hóa và du lịch có tầm quốc gia và quốc tế”.

Không phải là một đoạn văn, đây là một văn kiện chính xác của Liên Hiệp Quốc, do Ban thư ký của UNESCO soạn, đăng trên tạp chí Di Sản Văn Hóa số mới đây. Tuy nhiên, tôi đã đọc nó với sự rung động thẩm mỹ của tâm hồn: qua đây, tôi thấy hiện bóng khuôn mặt tươi trẻ và quyến rũ của dòng sông thành phố giữa lòng thế giới hiện đại. Người ta đã nhìn khắp Trái đất và đã không quên được nó, dòng sông Việt Nam nhỏ nhắn chỉ dài gần một trăm kilômet từ nguồn đến biển...

Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỷ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở nó còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỷ trung đại. Thế kỷ 18, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ 19 với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng Tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.

Sông Hương là vậy, dòng sông của thời gian ngân vang, của sử viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự biến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Thỉnh thoảng, tôi vẫn còn gặp trong những ngày nàng đem áo ra phơi, một sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: màu áo lục điều với loại vải vân thưa màu xanh tràm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người, thuở ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng. Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông...

Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó: từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, “dòng sông trắng - lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thiết mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên “như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bãng lãng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều rất Kiều, trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy.

Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng: Ai đã đặt tên cho dòng sông?...

Hoàng Phủ Ngọc Tường (trích đoạn)

I. Đôi nét về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường

1. Tiểu sử

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế, quê gốc ở làng Bích Khê, xa Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
  • Ông học tại Huế hết bậc Trung học, tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Sài Gòn năm 1960 và trường Đại học Huế năm 1964.
  • Ông từng là Tổng thư kí Hội văn học nghệ thuật Trị Thừa – Thiên, Chủ tịch Hội Văn học Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt.
  • Năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
  • Các tác phẩm chính: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, Rất nhiều ánh lửa, Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoa trái quanh tôi, Ngọn núi ảo ảnh…

2. Phong cách sáng tác:

Ông là nhà văn chuyên viết về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,... tất cả được diễn đạt trong lối hành văn súc tích, mê đắm và tài hoa.

II. Đôi nét về tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông

1. Hoàn cảnh ra đời

  • Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế, ngày 4-1-1946, in trong tập sách cùng tên.
  • Bài bút kí có 3 phần, văn bản thuộc phần thứ nhất.

2. Bố cục (2 phần)

  • Phần 1 (từ đầu đến “quê hương xứ sở”): Thủy trình của sông Hương.
  • Phần 2 (còn lại): Vẻ đẹp lịch sử, văn hóa và thi ca của sông Hương.

3. Giá trị nội dung

Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương, đất nước. Qua bài kí, sông Hương thực sự trở thành “gấm vóc” của giang sơn tổ quốc.

4. Giá trị nghệ thuật

  • Thể loại bút kí.
  • Văn phong hướng nội, súc tích, tinh tế và tài hoa.
  • Sức liên tưởng phong phú, vốn hiểu biết phong phú trên nhiều lĩnh vực.
  • Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng các biện pháp tu từ (so sánh, nhân hóa…).
  • Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan.

III. Dàn ý phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông.

A. Mở bài

  • Giới thiệu khái quát về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường.
  • Giới thiệu về tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông?

B. Thân bài

1. Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương

a) Vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn

- Sông Hương có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn:

  • Sông Hương như một bản trường ca của rừng già;
  • Khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt qua những ghềnh thác;
  • Khi cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực sâu,
  • Lúc dịu dàng và say đắm giữa dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.”

- Sông Hương được nhân hóa:

  • Như một cô gái Di – gan phóng khoáng, man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng;
  • Như người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ của con người.

→ Sông Hương vùng thượng nguồn hùng vĩ, hoang dại, dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình làm say đắm lòng người toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính.

b) Sông Hương ở ngoại vi thành phố

Giữa cách đồng Châu Hóa đầy hoa dại, dòng chảy sông Hương như người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng.

Sau khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như nàng tiên được đánh thức, bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân, uốn mình liên tục:

  • Sông Hương chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh co đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới gặp thành phố tương lai của nó.
  • Từ ngã ba Tuần → Hòn Chén → Ngọc Trản → Nguyệt Biều → Thiên Mụ → Ngọc Trản Tam Thai, Lưu Bảo,...

Màu sắc dòng sông trở nên xanh thẳm và từ đó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thánh quách… Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím.

Dòng sông mềm như lụa với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi.

Vẽ đẹp trầm mặc của thiên nhiên, di tích với những đồi thông u tịch và niềm kêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ lan tỏa khắp một vùng thượng lưu.

→ Sông Hương chảy về đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế thật hùng vĩ, rộng lớn, bao la, quanh co, uốn khúc nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình. Bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa làm nổi bật một sông Hương đẹp bới phối canh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hòa.

c) Vẻ đẹp của sông Hương ở trung tâm thành phố

Khi về gặp thành phố Huế sông Hương vui tươi hẳn lên, tiếp tục uốn mình mềm mại: Sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long; Uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến, Cồn Giã Viên; Đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng vâng không nói ta của tình yêu.

Hoàng Phủ Ngọc Tường so sánh sông Hương với sông Xen của Pa-ri, sông Đa nuýp của Bu-đa-pét,… Sông Hương nằm ngay trong lòng thành phố thân yêu của mình.

Sông Hương cảm nhận ở góc độ thiên nhiên, văn hóa, âm nhạc, hội họa, trữ tình:

  • Một đô thị cổ, trải dọc hai bên bờ.
  • Những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp đô thị, với những cây đa, cây dừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít,...
  • Vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một tâm hồn mô tê...
  • Điệu “slow tình cảm” dành cho Huế, trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy.
  • Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
  • Giống như nàng Kiều trong đêm tự tình....

→ Sông Hương khi chảy qua thành phố đẹp trữ tình, thơ mộng, cổ kính, gần gũi, giản dị, sinh động, có tâm hồn và gắn bó với bản sắc văn hóa Huế.

2. Vẻ đẹp lịch sử và thơ ca của sông Hương

a) Dòng sông lịch sử

Tên của dòng sông được ghi trong cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi.

Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của xứ Huế, của đất nước:

  • Là điểm tựa, bảo vệ biên cương thời Đại Việt.
  • Thế kỉ XVIII, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân với tên tuổi người anh hùng Nguyễn Huệ.
  • Nó đọng lại đến bầm da, tím máu, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thể kỉ XIX”.
  • Nó đi vào thời đại của cuộc cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.
  • Nó chứng kiến cuộc tổng tiến công và nổi dậy màu xuân năm 1968.

b) Vẻ đẹp của sông Hương dưới góc độ văn hóa

  • Tác giả cho rằng đó là một dòng thi ca về sông Hương, đó là một dòng sông không bao giờ lặp lại mình.
  • Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế.

3. Hình tượng cái tôi tác giả

  • Quan sát dòng sông trên nhiều góc độ khác nhau, miêu tả dòng sông trên nhiều phương diện.
  • Là nhà văn có những liên tưởng, so sánh, độc đáo, lối viết tài hoa, uyên bác.
  • Là cái tôi nghệ sĩ có tình yêu tha thiết, say đắm với thiên nhiên Huế và đất nước

4. Tổng kết

  • Nội dung: với những trang viết mê đắm, tài hoa, bài kí cho chúng ta cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp của dòng sông Hương thơ mộng, trữ tình, cái nôi của nền văn hóa Huế.
  • Nghệ thuật: văn phong hướng nội, súc tích, hình ảnh giàu sức liên tưởng, ngôn ngữ phong phú, giàu chất thơ,…

C. Kết bài

Qua tác phẩm ta cảm nhận được niềm tự hào và tình yêu tha thiết của tác giả với vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế nói riêng và đất nước nói chung.

Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:

Trên đây VnDoc đã giới thiệu tới các em Ai đã đặt tên cho dòng sông. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Lý thuyết môn Địa lí lớp 12, Trắc nghiệm Tiếng Anh 12 mới, Chuyên đề Hóa học 12, Giải bài tập Sinh học 12 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

Chúc các em đạt kết quả cao trong kỳ thi của mình.

Đánh giá bài viết
1 2.176
Sắp xếp theo

    Ngữ văn lớp 12

    Xem thêm