Viết bài làm văn số 6 lớp 12 đề 2: Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình qua bài Người lái đò Sông Đà và Ai đặt tên cho dòng sông?

Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình qua bài Người lái đò Sông Đà và Ai đặt tên cho dòng sông? Với nội dung tài liệu đã được VnDoc cập nhật một cách chi tiết sẽ là nguồn thông tin hữu ích dành cho các bạn học sinh tham khảo để học tốt Ngữ văn 12. Mời các bạn học sinh và thầy cô tham khảo.

Dàn ý Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình qua bài Người lái đò Sông Đà và Ai đặt tên cho dòng sông?

A. Người lái đò Sông Đà

I. Mở bài:

  • Giới thiệu về đề tài sông Hương
  • Giới thiệu Hoàng Phủ Ngọc Tường và bái bút kí
  • Giới thiệu sông Hương – biểu tượng của cố đô
  • Tham khảo mở bài của bài làm đề này trong mục Cảm thụ.

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh ra đời và nội dung tác phẩm

- Tác phẩm được sáng tác tại Huế năm 1981

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” rút ra từ tập bút kí cùng tên, là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường, lấy cảm hứng từ dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế để từ đó nhà văn bày tỏ tình yêu đất nước con người.

- Đánh giá nhận xét của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

+ Có thể nhắc đến sông Xen, dòng sông đẹp nhất của thủ đô Pa ri để dẫn tới lời nhận xét của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở câu mở đầu đoạn trích: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước….một thành phố duy nhất”.

+ Đánh giá: Nhận xét mang đậm tính chủ quan của nhà văn. Thể hiện nét độc đáo sông Hương, uyên bác, tự hào.

2. Vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương

  • Sông Hương ở thượng nguồn.
  • Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế.
  • Sông Hương khi chảy vào lòng thành phố.
  • Sông Hương rời thành phố Huế.

3. Sông Hương nhìn ở góc độ văn hóa thi ca

  • Sông Hương sinh thành toàn bộ nề âm nhạc cổ điển Huế: “Hình như trong khoảnh khắc chùng lại…mái chèo khuya”.
  • Nguyễn du đã lấy cảm hứng từ điệu “Tứ đại cảnh” và thi hào từng bao lần lênh đênh trên quãng sông này: “Nguyễn Du…trăng sầu”
  • Sông Hương là dòng sông thi ca, là cảm, hứng bất tận cho các nhà văn nghệ sĩ.
  • “Dòng sông trắng-lá cây xanh” trong cái nhìn của Tản Đà
  • ”Kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát

4. Sông Hương trong cái nhìn của lịch sử dân tộc

- Sông Hương trở thành dòng linh giang của tổ quốc, chứng nhận lịch sử cho bao sự kiện thăng trầm của dân tộc, sông Hương là dòng sống của thời gian ngân vang của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc.

+ Trong sách Dư địa lí của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông Viễn Châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt.

+ Sông Hương sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.

5. Ai đã đặt tên cho dòng sông?

- Kết thúc bài kí bằng một câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

- Chính bài bút kí này đã trả lời cho câu hỏi ấy.

-> Nhà văn bộc lộ cảm xúc và sự ngạc nhiên thú vị vủa mình trước cái duyên thật đẹp giữa Huế và sông Hương. Cũng để tạo ấn tượng trong người đọc.

III. Kết bài

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là tác phẩm văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Với xúc cảm sâu lắng được tổng kết từ một vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, đại lí, văn chương và một văn phong tao nhã, nhà văn đã tái hiện thành công vẻ đẹp con sông Hương - công trình nghệ thuật thiên tạo mà hóa công đã ưu ái ban tặng cho con người và xứ Huế mộng mơ.

B. Người lái đò sông Đà

1. Giới thiệu khái quát

  • Người lái đò sông Đà in trong tập tùy bút sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân là kết quả của chuyến đi thực tế của ông ở vùng Tây Bắc, thể hiện tấm lòng gắn bó với đất nước quê hương và kính trọng người lao động của tác giả.
  • Hai hình ảnh nổi bật trong bài tùy bút là ông lái đò và dòng sông Đà. Sông Đà được mô tả như một sinh thể có linh hồn, như một nhân vật có tính cách với hai đăc điểm nổi bật: hung bạo (ở thượng nguồn) và trữ tình (ở hạ lưu).
  • Tùy bút Người lái đò sông Đà thể hiện một nét phong cách của Nguyễn Tuân: tính uyên bác với nhiều phát hiện tinh tế độc đáo về núi sông, cây cỏ trên đất nước ta.

2. Phát hiện tinh tế độc đáo thứ nhất: Sông Đà hung bạo

a. Con Sông Đà hung bạo với 73 cái thác hiểm nghèo ở thượng nguồn. Tác gia đã nghiên cứu công phu xem con sông Đà bắt nguồn từ đâu, xa xưa trong lịch sử có những tên gọi gì, có bao nhiêu thác ghềnh. Đoạn sông Đà ở thượng nguồn, lòng hẹp, bờ là những vách đá dựng đứng được mô tả bằng hình ảnh vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu,.. Có khi là những hình ảnh so sánh mới lạ đến bất ngờ: Ngôi trong khoang đò qua quãng ấy... cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nên vừa tắt phụt đèn điện.

b. Sông Đà như đang náo động, gào thét luôn muôn vạn âm thanh: quãng mặt ghềnh Hát Loáng, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm,.. Nhà văn đã sử dụng chọn lọc những hình ảnh nhân hóa để làm sống dậy một cách dữ dội hình thù nhừng hòn đá vô tri: một hòn trông nghiêng thì y như là hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến Một hòn khác... thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Những hòn đá ngỗ ngược trên dòng sông gần như phục sẵn, nhất tề nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền, đòi ăn chết cái thuyền...

c. Sông Đà như một trùng vi thạch trận với đủ cả cửa sinh cửa tử, với những binh đoàn của đá, của sóng, của xoáy hút, với những boong-ke, pháo đài, với những đòn âm, đòn tỉa đánh vào chỗ hiểm. Thác sông Đà có lúc rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giũa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.

3. Phá hiên tinh tế độc đáp: Sông Đà trữ tình

a. Khi bộc lộ tính cách trữ tình, con sông Đà lại là một dòng sông đầy thơ mộng hiền hòa.

  • Dòng sông thơ mộng được mô tả từ trên cao: Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc...
  • Nước sông thay dổi tùy mùa tiết: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích... Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ...

b. Con sông hiền hòa, có những quãng ven sông lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng Lặng tờ đến thế mà thôi...

Với mỗi người, mỗi trạng thái, sông Đà khơi gợi sự cảm nhận khác nhau: Có khi như một cố nhân, có khi bờ sông Đà hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đúng là “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.”

c. Nét hiền hòa của con sông làm cho cảnh vật trở nên gợi cảm, làm cho khách trên con đò chợt mơ màng như nghe tiếng con hươu đang thủ thỉ: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương (...)” của một chuyến xe lửa đầu tiên, trong tưởng tượng của tác giả.

Hình ảnh thơ mộng, trữ tình qua bài Người lái đò Sông Đà và Ai đặt tên cho dòng sông mẫu 1

1. Người lái đò sông Đà

Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, kết quả của chuyến thâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958 - 1960 của nhà văn, in trong tập bút ký Sông Đà. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.

Câu chuyện vượt sông Đà đã được nhà văn kể lại bằng tất cả niềm hứng khởi về sức mạnh con người chiến thắng thiên nhiên, với tất cả kịch tính, cao trào để tôn vinh nghệ thuật chinh phục thác đá sông Đà. Con sông Đà dữ với thần sông tướng đá bủa giăng thế trận vây lấy chiếc thuyền đơn độc được nhà văn miêu tả bằng ngôn ngữ phong phú của tiểu thuyết chương hồi như gợi cuộc phá vây của mãnh tướng Triệu Tử Long xông vào trận quân Tào Tháo, bên cạnh đó nhà văn có những dòng mô tả chân dung bằng giọng văn rất hóm hỉnh của riêng mình : “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này...”.

Cuộc đối đầu giữa con người trên chiếc thuyền đơn độc với “boongke chìm và pháo đài nổi” trong “cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn” có sức hấp dẫn đặc biệt. Có lẽ nhà văn đã hình dung ra không khí của những hội vật truyền thống khi miêu tả các cuộc đấu sức, đấu trí và đấu sự nhanh nhẹn giữa người và đá nước. Cuộc đấu có miếng, có mưu, cuối cùng phần chiến thắng thuộc về con người, bởi lẽ “Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”.

Hình ảnh bình thường của người lao động, vật lộn với sóng nước đã được Nguyễn Tuân nâng lên ngang hàng danh tướng "biết mình biết ta trăm trận trăm thắng". Nhưng điều tác giả tô đậm nét hơn ở ông lái đò chính là chất nghệ sĩ toát lên từ công việc đối mặt với hiểm nguy đã trở thành bình thường. Ngay sau khoảnh khắc chiến thắng sức mạnh của thác đá, sóng dữ, thì "sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình". Đây mới chính là ông lái đò mang đậm nét Nguyễn Tuân.

Con người chiến đấu với sông Đà dữ cũng chỉ là để mưu sinh, "ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác", nên những con người này cũng yêu mến dòng sông đã cho họ những "cá anh vũ, cá dầm xanh", những hầm cá hang cá "túa ra đầy tràn ruộng". Sông Đà dữ thì có "diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một", nhưng khi sông nước thanh bình, vẻ đẹp nên thơ gợi cảm của dòng sông lại hiện về nguyên vẹn.

Nhà văn đã dành những trang viết thấm đẫm chất trữ tình để miêu tả vẻ đẹp dịu dàng của dòng sông mang trong lòng những huyền sử thuở khai thiên lập địa của cha ông. "Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân.", "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích...", "mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa"...

Đó là thời điểm cho câu chữ Nguyễn Tuân lai láng chất thơ ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông, bằng cái nhìn và tình cảm của một người tự nhận sông Đà như một "cố nhân". Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của "bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà". Vẻ đẹp ấy như trang nghiêm trong mạch Đường thi cổ điển, vừa lắng đọng hoài vọng về một thuở Lý Trần Lê, vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống nảy lộc đâm chồi: "Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tíchtuổi xưa".

Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với thiên nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn hoà vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông. Ngòi bút nhà văn đến lúc này mới thật sự tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn với cuộc sống và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà.

Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.

Với Người lái đò sông Đà này, Nguyễn Tuân đã ghi dấu ấn không trộn lẫn của mình ở thể loại tùy bút, bám sát hiện thực, say mê khám phá những nét ấn tượng, những vẻ đẹp tiềm ẩn từ hiện thực. Hơn thế nữa, tác phẩm còn đánh dấu sự vững vàng trong tư tưởng tình cảm của nhà văn, sự nhạy cảm tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ yêu đất nước, yêu con người lao động, yêu và tin vào cách mạng, vào con đường dân tộc đang hướng tới. Tấm lòng ấy, tài năng ấy của Nguyễn Tuân thật đáng trân trọ

2. Ai đã đặt tên cho dòng sông

Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bút kí đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế.

Vẻ đẹp dòng sông Hương ở thượng nguồn hóng khoáng và man dại

Vẻ đẹp dòng sông được phát hiện rất đa dạng. Có lúc trữ tình êm ả, hiền hòa như “một thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng”; có lúc phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một “bản trường ca của rừng già”. Có khi dịu dàng và trí tuệ như “người mẹ phù sa”; có khi biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; hoặc khi thì vui tươi, khi thì như một mặt hồ yên tĩnh v.v...Tất cả được miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với Huế

Sức sống mãnh liệt, hoang dại, dịu dàng, đắm say, như 'một bản trường ca của rừng già , rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn'. Khi chảy qua miền địa hình hiểm trở, sông Hương mang vẻ đẹp dữ dội: 'mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoắn như cơn lốc xoáy vào đáy vực bí ẩn', nhưng cũng có lúc lại 'dịu dàng, đắm say giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng'. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một 'cô gái Digan, phóng khoáng và man dại', bởi rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng.Nghệ thuật: so sánh, tu từ, ẩn dụ và nhân hóa.

Sông Hương khi về đến ngoại vi thành phố

'Sắc đẹp dịu dàng, trí tuệ, người mẹ phù sa của một vùng văn hóa ,xứ sở', dòng sông duy nhất chỉ đi qua thành phố Huế.Với vốn hiểu biết sâu sắc về địa lí, văn hóa, lịc sử, tác giả miêu tả dòng sông thật sinh động vói cảm nhận mang nhiều khác biệt.

Sông Hương như 'người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại (hình ảnh thơ mộng gợi liên tưởng cổ tích đến nàng công chúa ngủ trong rừng). Dòng sông hiện lên với 'khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm'. Lưu vực êm ả, thanh bình, vui tươi giữa những bãi bờ xanh biếc, nhiều màu sắc trầm mặc, triết lí.

Những lăng tẩm với 'giấc ngủ nghìn năm của vua chúa đựoc phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm lan tỏa khắp cả một vùng thượng lưu'.

Với những quan sát tinh tế, ngôn ngữ giàu hình tượng, so sánh, ẩn dụ, sông Hương trong dư vang Trường Sơn, dòng sông mềm như tấm lụa'. 'Những dãy đồi sừng sững như thành quách, với những đỉnh cao đột khởi: Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo', những ngọn đồi đã tạo ra nững mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời 'sớm xanh, trưa vàng, chiều tím' rất lạ và đặc trưng như người Huề từng nhận xét.

Sự thay đổi tính cách của người con gái sông Hương đưa ta đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, một cô gái Digan, man dại và phóng khoáng đã trở nên dịu dàng, e lệ, như 'người con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức', 'người mẹ phù sa của cả một vùng văn hóa xứ sở'.

Thoảng đâu đó, mơ hồ mà vang vọng trong tâm thức Huế là tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiến gà từ xóm làng trung du bát ngát,...

Hình ảnh thơ mộng, trữ tình qua bài Người lái đò Sông Đà và Ai đặt tên cho dòng sông mẫu 2

Quê hương Việt Nam nổi bật lên những dòng sông xanh mát, chảy xuống tâm hồn con người những hình ảnh sinh động hấp dẫn nhẹ nhàng, nó mang một vẻ đẹp thanh tao thơ mộng, qua hai bài thơ Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông chúng ta có thể thấy vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam đẹp lung linh, mơ mộng đến tâm hồn của mỗi con người.

Hình ảnh dòng sông Việt Nam được hai tác giả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả thật chi tiết và sinh động trong hai tác phẩm, ở đây điểm chung mà hai tác giả này thể hiện đó là đều miêu tả vẻ đẹp của dòng sông thơ mộng, ở đó con người được sống và làm mát tâm hồn bởi vẻ đẹp say đắm lòng người. Vẻ đẹp của dòng sông quê hương được nhìn từ nhiều góc độ, đó là cách quan sát mà hai nhà văn đã sử dụng để nói về vẻ đẹp của dòng sông quê hương.

Đối với tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì dòng sông hiện lên với những vẻ đẹp nhẹ nhàng, tình tứ của người con gái Việt Nam, sông Hương mang vẻ đẹp mãnh liệt như bản trường ca, Rừng già, khi bí ẩn, khi lại dịu dàng đằm thắm. Nó nhẹ nhàng, bí ẩn, đôi khi đem lại cho người nhìn cảm giác bang quơ, khó hiểu, ở đây tác giả đã nhìn sông Hương qua cách thức thể hiện từng câu chữ, hình ảnh trong tác phẩm.

Vẻ đẹp của dòng sông Hương không chỉ để lại cho người đọc cảm thấy đây là một dòng sông mang vẻ đẹp hoang dại, mang đậm nét tự nhiên, sông Hương còn giống như cô gái Di gan, phóng khoáng và man dại, sự so sánh gợi ra nhiều liên tưởng về dòng sông, vẻ đẹp đó không đâu có thể sánh bằng.

Sông Hương như một bà mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở, ở đây hình ảnh dòng sông Hương như suốt mát, như bà mẹ làm mát lên tâm hồn của những người con trong vùng xứ sở, ở đó dòng sông nhẹ nhàng, chảy xiết trong tâm hồn của những người thi sĩ. Chỉ với những cách miêu tả, so sánh đầy ấn tượng, chúng ta cũng có thể phần nào liên tưởng đến vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam, nó thật phong phú, mang nhiều màu sắc tươi tắn. Trong những vẻ đẹp đó có lẽ dòng sông Hương còn được so sánh với vẻ đẹp của những cô gái hoang dại, nằm mơ màng. Dòng sông hương không chỉ thể hiện vẻ đẹp nhẹ nhàng, mà đây còn là vẻ đẹp của sự cố kính lâu đời, nó là những vẻ đẹp kì dị huyền bí.

Là chứng nhân lịch sử, hàng ngàn năm, nó là minh chứng cho những năm tháng đấu tranh của dân tộc Việt Nam, những điều đó đã tạo nên một vẻ đẹp lịch sử cho dòng sông Hương. Nếu như sông Hương được miêu tả với những vẻ đẹp kì bí, cổ kính và nhẹ nhàng thì dòng sông Đà lại được Nguyễn Tuân miêu tả với hai xu hướng tiêu biểu đó là hai nét tính cách của dòng sông, lúc trữ tình, lúc hoang dại, hung bạo, ở đây hình ảnh của dòng sông Đà cũng được miêu tả dịu dàng, tuôn dài như mái tóc của người con gái Di Gan.

Hình ảnh đó đều gợi lại cho thi sĩ những cảm xúc riêng, đó là vẻ đẹp trữ tình, mơ mộng, hình ảnh đó gắn bó, nhẹ nhàng và da diết, nó làm cho tâm hồn của những người thi sĩ thêm chút nhẹ nhàng.

Có thể thấy vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam đã được khái quát hết trong hai con sông tiêu biểu trên và đã được tác giả khắc họa, so sánh với những vẻ đẹp của sự trù phú, của những vẻ đẹp linh thiêng, dòng sông xanh mát chảy trong tâm hồn của người con đất Việt, những hình ảnh đó đều sinh động, nhẹ nhàng và nó gợi lại cho người đọc một cảm giác gần gũi, hơn với thiên nhiên.

Hình ảnh của dòng sông Đà không chỉ nhẹ nhàng mà nó còn được miêu tả qua nhiều hình ảnh sinh động, nhiều chi tiết hấp dẫn như cảnh đẹp nơi đây đi hết vùng thượng nguồn đến hạ nguồn ta đều bắt gặp cảnh đẹp, hình dáng của con sông Đà còn được so sánh như người con gái có mái tóc: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc… xuân”. Tất cả những hình ảnh đó đều ẩn hiện lên những vẻ đẹp, những hình ảnh mang đậm giá trị, rõ nét về cảnh vật cũng như giá trị mà mỗi bài thể hiện, hình ảnh đó không chỉ đưa lại cho người đọc một cái nhìn mới mẻ và sâu sắc hơn về dòng sông của Việt Nam.

Mỗi dòng sông mang một vẻ đẹp riêng, nhưng có lẽ điểm chung mà những con sông này gộp lại đó là những vẻ đẹp trữ tình, khi huyền bí khó hiểu nhưng nó cũng đều mang vẻ đẹp nhẹ nhàng, trữ tình, duyên dáng, hình ảnh đó đều góp phần làm nên một cái riêng, một nét tính cách đặc trưng cho những vùng miền khác nhau, hình ảnh về dòng sông Hương qua nhiều cách nhìn, cũng như dòng sông Đà trữ tình đều mang vẻ đẹp trong sáng, nhẹ nhàng của dòng sông quê hương, đất nước.

Những bài văn nói về vẻ đẹp của dòng sông quê hương đất nước, đều mang lại những vẻ đẹp riêng, đó là vẻ đẹp huyền bí, nhẹ nhàng và mang lại giá trị sâu sắc cho người đọc.

Hình ảnh thơ mộng, trữ tình qua bài Người lái đò Sông Đà và Ai đặt tên cho dòng sông mẫu 3

Nói đến thể ký trong nền văn học Việt Nam hiện đại, ta không thể không nhắc đến những cây bút tài hoa độc đáo như Nguyễn Tuân và Hoàng phủ Ngọc Tường.

Với bài kì nổi tiếng “Người lái đò sông Đà” (rút từ tập “Tùy bút sông Đà” xuất bản năm 1960), Nguyễn Tuân muốn cung tụng ông lái đò tài hoa trì dựng trên sông thiên nhiên bạo liệt, ngôn ngữ Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như một ông tài bậc thầy con thuyền chữ trên dòng sông Văn không kém thác ghềnh. Chính từ áng kỳ này, người nghệ sĩ vốn nổi tiếng tài hoa uyên bác từ trước cách mạng tháng 8 nay lại có dịp trổ ra một phong cách nghệ thuật đầy góc cạnh thú vị trước 1 cuộc sống đã đổi thay. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kỳ vĩ trên dòng sông.

Còn Sông Hương của Nguyễn Tuân được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và nữ tính, luôn mang dáng vẻ của 1 người con gái xinh đẹp, mong manh có tình yêu say đắm. Khi ở thượng nguồn, nó là cô gái Digan phóng khoáng, man dại; khi ở cánh đồng Châu Hóa, nó là cô thiếu nữ ngủ mơ màng; khi lại như người tài nữ đánh đàn giữa đêm khuya, hay là nàng Kiều tài hoa, đa tình mà lại chung tình, là người con gái dịu dàng của đất nước.

Sông Hương với quá trình xuôi về thành phố. Một lần nữa, phép nhân hóa được sử dụng khi dòng sông Hương qua “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” thì trở thành “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng”. Phép nhân hóa gợi vẻ đẹp dòng sông thêm lãng mạn, tình tứ. Qua khỏi dãy núi thì sông Hương “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Sau đó từ hướng nam bắc, nó chuyển hướng tây bắc và “đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về hướng đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Rồi nó vượt qua “lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm”. Dòng sông chuyển động linh hoạt, rạo rực sức trẻ và đầy khát khao. Và cứ như thế dòng sông Hương tiếp tục “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo”, bỗng dòng sông trở nên “mềm như tấm lụa”. Với sự mềm mại đó dòng sông lại đi qua những dãy đồi tây nam thành phố thì nó ánh nên “những mảng phản quang nhiều màu sắc” tuyệt đẹp “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Để rồi khi đi qua “những lăng tẩm đồ sộ” thì nó trở nên đẹp một cách “trầm mặc nhất”, đẹp một vẻ đẹp “như triết lí, như cổ thi”. Biện pháp so sánh lại được sử dụng một cách độc đáo đầy sức gợi tả. Tác giả tiếp tục miêu tả mặt nước phẳng lặng trên dòng sông và rừng thông u tịch bằng sự liên tưởng tới triết học, tới cổ thi để làm nổi bật sự thâm nghiêm của không gian núi rừng. Bằng bút pháp tả, kể, bằng sự liệt kê và bằng cảm thụ tài hoa, tinh tế của mình, tác giả đã phát hiện ra dòng sông Hương vừa mạnh mẽ, vừa dịu dàng. Đặc biệt hơn, những địa danh mà nó đi qua đều chứa đựng bao chiều sâu văn hóa và cho dù sông Hương được khám phá ở góc độ nào thì nó cũng được gắn với chiều sâu văn hóa đó.

Theo dòng chảy, sông Hương tiếp tục đi vào thành phố. Sông Hương như mang tâm trạng. Khi đi qua những “biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long” thì “vui tươi hẳn lên” – đó là tâm trạng của người đi xa tìm đúng đường về, một tâm trạng náo nức, hồ hởi giữa bãi bờ thân thuộc của quê hương. Dòng sông Hương còn tạo nên một dáng vẻ kỳ lạ khi nó “giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên” đến Cồn Hến tạo thành “một cánh cung rất nhẹ” làm cho “dòng sông mềm mại hẳn đi” như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh từ cái cụ thể với cái trừu tượng đã tạo nên được phép so sánh mới mẻ, độc đáo. Dùng tiếng “vâng” để gợi đến sự kín đáo, ngập ngừng, ý vị, thiêng liêng, e ấp trên làn môi của người con gái đang yêu để tả cái dáng hình mềm mại như cánh cung của dòng sông Hương. Qua đó đã thể hiện được cái nhìn đa cảm, tình tứ, đem lại khoái cảm thẩm mĩ cho người đọc.

Tiếp tục với sự tài hoa, tác giả liên tiếp sử dụng phép liên tưởng để miêu tả về vị trí và lưu tốc của dòng sông Hương. Câu văn: “giống như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình” đã khẳng định rằng sông Hương chính là dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất của mình – đó là thành phố Huế. Tác giả đã so sánh sông Hương với sông Nê-va để thấy nếu sông Nê-va trôi nhanh quá thì dòng sông Hương ngược lại với “điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố”. Và dòng sông được liên tưởng như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Điệu chảy “lặng lờ” ấy mang theo “trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy” làm cho vẻ đẹp sông Hương càng trở nên lộng lẫy hơn.

Sông Hương không chỉ đẹp ở vẻ bề ngoài. Với cảm nhận của nhà văn thì sông Hương còn gắn bó với một chiều sâu văn hóa nữa đó. Mặt nước sông Hương là nơi sản sinh ra nền âm nhạc cổ điển Huế và nền âm nhạc của Huế từ lâu luôn gắn bó với sông Hương để làm nên chiều sâu văn hóa trên dòng sông. Nó gợi đến những dòng sông lớn trên thế giới như sông Nin, sông Hằng, sông Hoàng Hà – những dòng sông đó chính là cái nôi văn hóa từ lâu đời trên thế giới. Dòng sông Hương đã được cảm nhận ở góc độ văn hóa. Nhắc đến sông Hương là gợi nhớ đến đại thi hào Nguyễn Du, người đã “bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu” để từ đó bản đàn Kiều ra đời. Sông Hương không chỉ gắn bó với nhà thơ, gắn bó với một thời đại thành mấy thế kỉ mà còn mang giá trị văn học và thấm đẫm chiều sâu văn hóa. Dường như nó là cầu nối giữa nền văn hóa cổ điển với nền văn hóa hiện đại và tồn tại cho đến ngày nay.

Sự lãng mạn của Đà giang được toát lên đầu tiên là ở sự lặng tờ hai bên bờ sông với những câu văn rất đẹp: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không có một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp.” Rõ ràng ta có thể thấy đây chẳng khác nào một đoạn thơ rất đẹp viết bằng văn xuôi. Nó đã làm tiền đề để từ trong sâu thẳm tâm hồn của mình, người nghệ sĩ tài ba Tuấn Thừa Sắc xuất thần hai câu văn đẹp như một điệp khúc của thơ ca: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích”. Đó chính là những vần thơ rất đẹp mà Nguyễn Tuân đã đề lên sóng nước sông Đà.

Ta còn thấy hai nghệ thuật nhân hóa và so sánh được Nguyễn Tuân sử dụng một cách rất nhuần nhụy. Ông cảm nhận con sông Đà và so sánh nó, ví von nó như một áng tóc của người thiếu nữ vô cùng lãng mạn, trữ tình, mỹ lệ: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.” Đây được xem như đoạn thơ đẹp nhất trong tùy bút “Sông Đà”. Đọc xong “Người lái đò sông Đà”, gấp lại trang sách đã lâu nhưng những câu văn đẹp như những vần thơ ấy vẫn giăng mắc, ở trọ mãi trong tâm hồn của mỗi người yêu văn. Hơn nữa, nếu để ý hẳn độc giả bạn đọc sẽ nhận thấy trong thơ ca cổ trung đại, các bậc tao nhân thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực.

Khi viết con sông Đà với nét đẹp lãng mạn, thơ mộng, trữ tình Nguyễn Tuân một lần nữa lại thể hiện tình yêu nước nồng nàn qua từng câu chữ. Nó được bộc lộ ở thái độ của nhà văn khi viết về cái tên “đen” thực dân Pháp đặt cho dòng sông Đà. Ông đã kỳ công để chứng minh Đà giang không phải là sông đen như cái tên Tây láo lếu ấy. Ông nhận thấy Đà giang thay đổi sắc màu qua từng mùa: Mùa xuân nước sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích” chứ không “xanh màu canh hến của sông Gâm sông Lô”. Mỗi độ xuân về, nước sông lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Ở đây ta lại bắt gặp lối so sánh của Nguyễn Tuân luôn lấy con người làm chuẩn mực. Có thể khẳng định rằng đến với những hình ảnh so sánh ví von này, người yêu văn mới thấy được sức mạnh của ngôn ngữ tiếng Việt.

Tình yêu nước ấy còn được bộc lộ khi Nguyễn Tuân nhớ lại một lần nhà văn bám gót anh liên lạc. Nhìn thấy con sông Đà từ rất xa, Nguyễn Tuân gọi con sông ấy là một cố nhân, một người tình chưa hề biết mặt theo ý thơ của Tản Đà. Thế là bao nhiêu những vần thơ của các bậc tao nhân mặc khách chợt ùa về trong tâm hồn của nhà văn Nguyễn Tuân. Ông nguyện theo người xưa để thơ lên sóng nước sông Đà. Như vậy, mười lăm bài kí mà Nguyễn Tuân gửi trong kho tàng văn chương Việt Nam là gì nếu không phải là những vần thơ đẹp được ông thả trên dòng sông nghệ thuật?

Bên cạnh đó, tình yêu nước của Nguyễn Tuân còn được thể hiện khi ông say sưa kể về những loài cá quý hiếm chỉ có ở Đà giang. Đó là cá anh vũ, cá dầm xanh “vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi.” Như vậy rõ ràng, đây chính là “chất vàng mười” của rẻo cao Tây Bắc. Không phải ngẫu nhiên mà trong bài kí này, Nguyễn Tuân ước ao được nghe một tiếng còi tàu súp-lê từ Yên Bái, Việt Trì vọng lên trên Tây Bắc. Điều ấy khiến ta liên tưởng tới Chế Lan Viên với mong muốn được hóa thành đoàn tàu để chở mọi người lên khai phá mảnh đất nơi đây.

Những nét đẹp thơ mộng của hai dòng sông Hương và sông Đà đã nói lên được sự tươi đẹp, duyên dáng, trữ tình bên cạnh sự hung bạo, dữ dội do thiên nhiên mang lại, vẻ đẹp ấy hầu như có ở hầu hết các con sông. Trên đất nước ta, hầu như mỗi tuổi thơ của chúng ta đều có tuổi thơ gắn liền với một dòng sông, dòng sông ấy là dòng sông của thời gian, của chiều dài lịch sử, chiều sâu văn hóa, dòng sông là nơi cho ta những kỉ niệm đầu đời, là nơi mẹ ta thường ra giặt giũ, phơi phóng. Chính vì thế dòng sông như người bạn, người tâm tình, nuôi dạy chúng ta nên người.

Cả hai bài văn cùng miêu tả cái vẻ đẹp phong phú và biến ảo của sông nước. Nơi mà in dấu biết bao kỉ niệm, những chiến thắng lẫy lừng của lịch sử nước nhà. Cùng với dòng sông đó, dòng sông của Hoàng Cầm với sông Đuống mộng mơ, có bờ cát trắng phẳng lì, mà chính chiến tranh đã tàn phá sự thơ mộng đến yên bình của dòng sông, khiến tác giả phải thấy xót xa.

Nếu như sông Đà ngoài vẻ đẹp trữ tình thì lại mang sự hung bạo và kỳ vĩ do thiên nhiên sông nước tạo nên, còn sông Hương nó vốn yên bình, dịu dàng, thơ mộng như chính con người nơi đây nhưng tất cả đều cùng bộc lộ tình yêu thiên nhiên mãnh liệt với một mĩ cảm tinh tế, dồi dào.

Để có được vẻ đẹp trữ tình đấy các tác giả đã cùng bao quát ( miêu tả, hay cách nhìn nhận ) sông nước trên nền cảnh khoáng đạt của không gian và thời gian. Họ đã quan sát thật kỹ càng, am hiểu và yêu biết bao cái dòng sông quê hương như thế thì mới miêu tả được một cách chân thực và hùng hồn như vậy.

Lấy thiên nhiên, dòng sông quê hương để làm chủ đề sáng tác, hai nhà văn, những cây tùy bút xuất sắc của văn học Việt Nam đã thể hiện cái tôi trữ tình tài hoa, say đắm nồng nhiệt với cảnh sắc thiên nhiên tinh tế độc đáo vừa thỏa mãn thú phiêu lãng, vừa tìm kiếm vẻ đẹp thiên nhiên và chất vàng mười “thứ vàng mười được thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động và chiến đấu.

Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Viết bài làm văn số 6 lớp 12 đề 2: Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình qua bài Người lái đò Sông Đà và Ai đặt tên cho dòng sông? Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Thi thpt Quốc gia môn Văn, đề thi học kì 1 lớp 12, Thi thpt Quốc gia môn Lịch sử, Thi thpt Quốc gia môn Địa lý mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

Các bài liên quan đến tác phẩm:

Đánh giá bài viết
3 1.206
Sắp xếp theo

    Ngữ văn lớp 12

    Xem thêm