Ông già và biển cả

Ông già và biển cả - Ernest Hemingway

Mời bạn đọc tham khảo tài liệu lớp 12: Ông già và biển cả, tài liệu thuộc chương trình Ngữ văn lớp 12 đã được VnDoc.com tổng hợp để phục vụ công việc học tập của các em học sinh được tốt hơn, đặc biệt qua bộ tài liệu sẽ giúp các bạn học sinh nắm chắc nội dung tác phẩm, các em học sinh phân tích, soạn bài lớp 12 một cách hay hơn. VnDoc.com mời các bạn học sinh và thầy cô tham khảo.

Ông già và biển cả

Lão đã già, một mình một thuyền câu cá trên dòng Nhiệt lưu và đã tám mươi tư ngày qua lão không bắt được lấy một mống cá nào. Bốn mươi ngày đầu thằng bé đi với lão. Nhưng sau bốn mươi ngày không câu được cá, cha mẹ thằng bé bảo nó rằng rốt cuộc bây giờ ông lão đã hoàn toàn salao, cách diễn đạt tệ nhất của vận rủi, rồi buộc nó đi theo thuyền khác và ngay trong tuần lễ đầu tiên chiếc thuyền ấy đã câu được ba con cá lớn. Điều đó khiến thằng bé buồn khi hằng ngày thấy ông lão trở về với chiếc thuyền không, nó luôn xuống giúp lão mang khi thì cuộn dây, cái lao móc săn cá, khi thì cái sào hay tấm buồm quấn quanh cột. Tấm buồm được vá bằng bao bột, cuộn lại trông như một lá cờ bại trận triền miên. Ông lão gầy gò, giơ cả xương, gáy hằn sâu nhiều nếp nhăn. Những vệt nám vô hại trên làn da má của lão do bị ung thư bởi ánh mặt trời phản hồi trên mặt biển nhiệt đới. Những vệt ấy kéo dài xuống cả hai bên má, tay lão hằn những vết sẹo sâu bởi kéo những con cá lớn. Nhưng chẳng có vết nào trong số sẹo ấy còn mới cả. Chúng cũ kĩ như mấy vệt xói mòn trên sa mạc không cá. Mọi thứ trên cơ thể lão đều toát lên vẻ già nua, trừ đôi mắt; chúng có cùng màu với nước biển, vui vẻ và không hề thất bại.

“Ông Santiago,” thằng bé nói khi hai người leo lên bờ nơi con thuyền được kéo lên. “Cháu có thể lại đi cùng ông. Chúng ta đã có ít tiền rồi.”

Ông lão dạy thằng bé câu cá và nó quý lão.

“Đừng”, lão nói. “Cháu đang đi với con thuyền may mắn. Hãy ở lại với họ.”

“Nhưng ông còn nhớ có hồi suốt tám mươi bảy ngày ta không bắt được cá nhưng sau đó trong ba tuần lễ ngày nào ta cũng vớ được cá lớn.”

“Ông nhớ”, ông lão nói.

“Ông biết cháu đã không rời bỏ vì thiếu lòng tin.”

“Tại cha cháu bắt làm như thế. Cháu còn nhỏ cháu phải nghe lời cha.”

“Ông hiểu”, ông lão nói.

“Đấy là chuyện thường”.

“Cha cháu chẳng tin đâu”.

“Phải”, ông lão nói. “Nhưng chúng ta tin đúng không?”

“Vâng”, thằng bé đáp. “Cháu có thể mời ông một lá bia ở khách sạn Terrace trước khi chúng ta mang mấy thứ này về nhà chứ?”

“Tại sao lại không?” ông lão nói. “Dân chài với nhau mà.” Họ ngồi ở Terrace và rất nhiều người đánh cá trêu ông lão nhưng lão không giận. Một số khác, những ngư dân lớn tuổi hơn, nhìn lão và cảm thấy buồn. Nhưng họ không để lộ ra mà chỉ từ tốn nói về dòng chảy, độ sâu buông câu, về thời tiết tốt, ổn định và về những thứ họ đã nhìn thấy. Mấy tay đánh cá thành công của ngày ấy đã trở về, xả thịt con cá kiếm của họ, sắp đầy lên hai tấm ván, mỗi người khiêng một đầu đi xuyên đến nhà để cá, đợi chiếc xe tải ướp lạnh đưa đến chợ Havana. Những người bắt được cá mập thì đưa chúng đến xưởng cá mập phía bên kia vịnh; chúng được móc treo lên bằng ròng rọc, gan bị mổ lấy, vi bị cắt, da bị lột và thịt thì được xẻ thành súc đưa ướp muối. Khi gió Đông thổi, mùi tanh nồng từ xưởng cá mập bên kia cảng phả đến. Nhưng hôm nay, mùi cá chỉ thoang thoảng vì gió thổi chếch sang hướng Bắc rồi lặng hẳn; trên Terrace trời tỏa nắng dễ chịu.

“Ông Santiago”, thằng bé gọi.

“Ừ”, ông lão đáp. Lão đang giữ cái lá và hồi tưởng về nhiều năm trước.

“Cháu đi kiếm giúp ông mấy con cá mòi cho ngày mai nhé...”

“Đừng. Đi chơi bóng chày đi. Ông vẫn có thể chèo và Rogelio sẽ quăng lưới”.

“Cháu thích đi. Nếu cháu không được câu cá với ông thì cháu muốn giúp ông việc gì đó”.

“Cháu đã mua bia cho ông”, ông lão nói. “Cháu thực sự là đàn ông rồi”.

“Lần đầu tiên ông đưa cháu ra khơi, cháu lên mấy... ”

“Lên năm, và suýt nữa cháu bị chết khi ông lôi con cá quá lớn lên thuyền, nó gần như quật tan con thuyền ra nhiều mảnh. Cháu có còn nhớ không... ”

“Cháu vẫn nhớ cái đuôi quật mạnh; chỗ ngồi chèo thuyền bị gãy và tiếng nện của cái chày. Cháu nhớ ông ném cháu ra đằng mũi thuyền, nơi lùng nhùng những sợi dây ướt rồi cháu cảm thấy toàn bộ con thuyền chao đảo và tiếng ông quật con cá nghe như thể đang đốn cây, máu nóng hổi bắn cả lên người cháu.”

“Có phải cháu thực sự nhớ chuyện ấy hay là do ông kể... ”

“Cháu nhớ mọi thứ kể từ cái lần đầu tiên ông cháu ta đi cùng nhau.” Ông lão nhìn thằng bé bằng ánh mắt chan chứa tình thương, tin cậy, ấm áp của mình.

“Nếu cháu là con ta thì ta sẽ đưa cháu đi cầu may một phen”, lão nói. “Nhưng cháu là con của cha mẹ cháu và cháu đang đi trên con thuyền may mắn.”

“Cháu có thể đi kiếm cá mòi chứ... Cháu còn biết nơi cháu có thể kiếm được bốn con mồi.”

“Hôm nay ông vẫn còn mấy con. Ông đã muối chúng trong thùng.”

“Để cháu đi kiếm bốn con tươi.”

“Một thôi”, ông lão nói. Niềm hi vọng và lòng tin của ông lão chưa bao giờ nguội lạnh. Còn bây giờ thì chúng đang cuộn lên như khi gió đang nổi.

“Hai”, thằng bé nói.

“Hai”, ông lão đồng ý.

“Cháu không ăn cắp đấy chứ... ”

“Cháu không”, thằng bé đáp.

“Cháu mua.”

“Cảm ơn cháu”, ông lão nói. Lão quá giản dị để không tự hỏi tính nhún nhường của mình có tự bao giờ. Nhưng lão biết lão đã có nó và lão biết nó chẳng có gì xấu hổ và cũng chẳng mảy may phương hại đến niềm kiêu hãnh thực sự.

“Với con nước này, mai sẽ là một ngày tốt lành”, lão nói.

“Ông sẽ đến đâu”, thằng bé hỏi.

“Đi thật xa, khi gió trở thì mới quay về. Ông muốn đến đấy trước khi trời sáng.”

“Cháu sẽ tìm cách để ông ấy ra câu xa”, thằng bé nói. “Rồi khi ông câu được một con gì đấy thật sự lớn, cháu sẽ có thể đến giúp.”

“Ông ấy không thích ra khơi xa đâu.”

“Vâng”, thằng bé nói.

“Nhưng cháu sẽ thấy cái gì đó, một con chim săn mồi chẳng hạn, mà ông ấy không thể thấy rồi giục ông ta bám theo bầy cá dorado.”

“Mắt ông ấy kém đến thế ư...”

“Ông ấy gần như mù.”

“Lạ thật”, ông lão nói.

“Ông ấy chưa bao giờ đi săn rùa. Đấy là lý do làm mắt kém thị lực.”

“Nhưng ông đã nhiều năm đi săn rùa tận Moạquito Coaạt mà mắt ông vẫn còn tốt.”

“Ta là một lão già kỳ lạ.”

“Nhưng giờ đây ông có còn đủ sức để dành cho con cá thật lớn không... ”

“Ông chắc thế. Vả lại còn có nhiều mẹo nữa.”

“Chúng ta hãy mang dụng cụ về nhà”, thằng bé nói.

“Rồi cháu có thể mang lưới - quăng đi bắt cá mòi.” Họ tháo vật dụng khỏi thuyền. Ông lão vác cột buồm, thằng bé mang thùng gỗ đựng dây, những sợi dây câu màu nâu được bện thật chắc, cái móc, ngọn lao với cán của nó. Thùng đựng mồi để ở đuôi thuyền, bên cạnh cái chày được dùng để quật những con cá lớn khi bị kéo lên khoang.

Chẳng ai ăn trộm đồ đạc của ông lão, nhưng tốt hơn thì cứ đưa cánh buồm, cuộn dây nặng vào nhà bởi sương có thể làm chúng hỏng và dẫu cho lão có hoàn toàn tin chắc là chẳng có người địa phương nào ăn cắp của lão thì lão vẫn nghĩ cái móc và ngọn lao hẳn có sức cám dỗ khi để trên thuyền. Họ cùng đi bộ trên con đường đến lều ông lão rồi bước vào qua cánh cửa để ngỏ. Ông lão dựng cột buồm với lá buồm quấn quanh vào vách, thằng bé đặt cái thùng gỗ và mấy thứ khác bên cạnh. Cột buồm cao gần bằng chiều cao của căn lều một buồng. Vách lều được ghép bằng thân loài cọ xù xì có tên gọi là guano; trong lều có một cái giường, một cái bàn, một cái ghế và một cái bếp trên nền đất để nấu bằng than củi. Trên bức tường màu nâu của những thân cọ guano đập giập với mấy chiếc lá cứng queo của chúng chồng lên nhau, là hai bức ảnh màu của Đức Chúa Jesus và Đức Mẹ Đồng Trinh xứ Cobre. Đấy là di vật của vợ lão. Có dạo bức ảnh tô màu của vợ lão cũng được treo trên tường nhưng rồi lão đã tháo xuống bởi nó khiến lão càng cô đơn hơn khi nhìn thấy, lão để nó trên giá trong góc dưới chiếc sơ mi sạch của lão.

“Ông có gì ăn không?”, thằng bé hỏi.

“Một niêu cơm gạo vàng với cá. Cháu có muốn ăn không?”

“Thưa không. Cháu sẽ ăn ở nhà. Ông có cần cháu nhóm lửa không?”

“Không. Để lát nữa ông nhóm. Hoặc có lẽ ông sẽ ăn cơm nguội.”

“Cháu có thể mang cái lưới-quăng đi chứ?”

“Dĩ nhiên.” Không có cái lưới-quăng nào cả, thằng bé nhớ rõ cái lúc họ bán nó. Nhưng ngày nào hai ông cháu cũng vờ tưởng tượng như thế. Và thằng bé cũng biết chẳng có niêu cơm gạo vàng và cá nào cả.

“Tám mươi lăm là con số may mắn”, ông lão nói.

“Cháu có thích ông mang về con cá nặng gần nửa tấn không?”

“Cháu sẽ lấy cái lưới-quăng đi bắt cá mòi. Ông ngồi sưởi nắng trên ngưỡng cửa chứ?”

“Ừ. Ông có tờ báo hôm qua và sẽ đọc về trận bóng chày.” Thằng bé không chắc liệu cái tờ báo hôm qua ấy có phải là sản phẩm của trí tưởng tượng nữa không. Nhưng ông lão đã lôi tờ báo từ dưới giường ra.

“Perico cho ông ở bodega”, lão giải thích.

“Cháu sẽ quay lại khi kiếm được vài con cá mòi. Cháu sẽ ướp đá mấy con của ông cùng của cháu rồi sáng mai chúng ta chia nhau. Khi cháu quay lại, ông nhớ kể cho cháu nghe chuyện đội bóng đấy.”

“Đội Yankee không thể thua.”

“Nhưng cháu sợ đội Da Đỏ Cleveland.”

“Hãy tin vào đội Yankee, cháu à. Hãy tin tưởng ở Di Maggio vĩ đại.”

“Cháu sợ cả đội Hổ Detroit lẫn đội Da Đỏ Cleveland.”

“Hãy coi chừng không khéo cháu lại sợ cả đội Đỏ Cincinnati và đội White Sox của Chicago.”

“Ông đọc đi rồi kể cho cháu lúc cháu quay lại.”

“Cháu có nghĩ chúng ta nên mua tờ vé số có số cuối là tám mươi lăm không? Mai là ngày thứ tám mươi lăm.”

“Chúng ta có thể mua”, thằng bé nói.

“Nhưng thế còn con số cực kì kỉ lục của ông là tám mươi bảy.”

“Không thể xảy ra lần thứ hai đâu. Cháu có chắc là cháu có thể tìm được tờ vé số tám mươi lăm ấy chứ?”

“Cháu có thể mua một chiếc.”

“Một chiếc. Hai đô la rưỡi đấy. Ai có thể cho chúng ta vay món tiền ấy?”

“Dễ thôi mà. Cháu luôn có khả năng vay hai đô rưỡi.”

“Ông nghĩ có lẽ ông cũng có khả năng đó. Nhưng ông cố không vay mượn. Thoạt tiên thì vay mượn. Rồi sau đó là ăn mày.”

“Hãy giữ ấm ông ạ”, thằng bé nói.

“Chúng ta đã qua tháng chín.”

“Tháng này là mùa cá lớn”, ông lão nói.

“Vào tháng năm thì ai cũng có thể trở thành người đánh cá.”

“Bây giờ cháu đi kiếm cá mòi đây”, thằng bé nói. Khi thằng bé trở lại ông lão đã ngủ trên ghế, mặt trời đã lặn. Thằng bé mang cái mền lính cũ trong giường ra trải lên phía sau ghế, đắp qua vai ông lão. Đôi vai thật kỳ lạ, vẫn chắc nịch dẫu đã rất già, cả cái cổ vẫn còn khỏe, những nếp nhăn mờ đi khi ông lão ngủ gục đầu về phía trước. Chiếc sơ mi của ông được vá nhiều lần đến nỗi trông nó cũng hệt như tấm buồm; mặt trời làm mấy miếng vá ấy phai nhạt theo nhiều màu khác nhau. Dẫu sao thì cái đầu ông lão cũng đã rất già và khi đôi mắt nhắm lại thì khuôn mặt lão không còn sinh khí. Tờ báo nằm vắt qua đầu gối lão, độ nặng của cánh tay giữ nó ở lại đó trong làn gió nhẹ buổi tối. Lão đi chân trần. Thằng bé để lão ở đó và khi nó quay lại ông lão vẫn còn ngủ.

“Ông ơi, dậy đi”, thằng bé gọi và đặt tay lên đầu gối lão. Ông lão mở mắt, ngơ ngác một lúc rồi mới tỉnh hẳn. Rồi lão mỉm cười.

“Cháu có cái gì đấy”, lão hỏi.

“Đồ ăn tối”, thằng bé nói. “Chúng ta sẽ ăn tối.”

“Ông không đói lắm đâu.”

“Thì cứ ăn vậy. Ông không thể không ăn mà bắt cá được.”

“Vẫn cứ câu được”, ông lão nói lúc đứng dậy cầm tờ báo gấp lại. Rồi lão chuẩn bị xếp mền.

“Ông cứ quấn mền quanh người”, thằng bé nói. “Trong lúc cháu còn sống thì ông không phải nhịn đói mà đi câu cá.”

“Vậy thì hãy sống cho thật lâu và quan tâm đến bản thân mình”, ông lão nói. “Ta ăn gì vậy?”

“Đậu đen, cơm, chuối chiên và ít thịt hầm.” Thằng bé đựng mấy món ấy trong chiếc cặp lồng hai ngăn, mang về từ Terrace. Hai bộ dao nĩa, thìa được quấn bằng giấy ăn đút trong túi nó.

“Ai cho cháu mấy món này?”

“Bác Martin. Chủ quán.”

“Ông phải cảm ơn bác ấy.”

“Cháu đã cảm ơn rồi”, thằng bé nói.

“Ông không phải cảm ơn bác ấy nữa.”

“Ông sẽ biếu bác ấy miếng thịt bụng của con cá lớn”, ông lão nói.

“Bác ấy đã nhiều lần cho chúng ta như thế này phải không?”

“Cháu nghĩ thế.”

“Vậy thì ông phải biếu bác ấy cái gì quý hơn miếng thịt bụng. Bác ấy rất tử tế với chúng ta.”

“Bác ấy gửi biếu hai chai bia.”

“Ông thích bia lon nhất.”

“Cháu biết. Nhưng đây là bia Hatuey đóng chai, cháu sẽ mang trả chai.”

“Cháu chu đáo quá”, ông lão nói. “Ta ăn chứ?”

“Thì cháu đã mời ông mãi,” thằng bé dịu dàng nói. “Cháu chưa muốn mở cặp lồng trước khi ông đã sẵn sàng.”

“Ông sẽ sẵn sàng ngay”, ông lão nói.

“Ông chỉ rửa sơ qua một tí.” Ông rửa ở đâu nhỉ, thằng bé nghĩ. Nguồn nước của làng cách đây hai con đường. Mình phải lấy nước về cho ông, thằng bé nghĩ, xà phòng và cả khăn tắm tươm tất nữa. Sao mình lại vô tâm đến thế... Mình phải kiếm cho ông chiếc sơ mi khác, một chiếc jacket mặc mùa đông, đôi giày và một cái mền nữa.

“Món thịt hầm của cháu tuyệt lắm”, ông lão nói.

“Kể cho cháu nghe về trận bóng đi”, thằng bé giục lão.

“Như ông đã nói, trong Liên đoàn Mỹ, đấy là đội Yankee”, ông lão hạnh phúc nói.

“Hôm nay họ thua rồi”, thằng bé nói với lão.

“Điều đó chẳng hề gì. Di Maggio vĩ đại vẫn cứ là Di Maggio.”

“Họ có những cầu thủ khác trong đội.”

“Rõ rồi. Nhưng anh ta thì khác hẳn. Trong liên đoàn khác, nếu giữa Brooklán và Philadelphia thì chắc ông chọn Brooklán. Ông còn nhớ đến cả Dick Sisler và những cú vụt bóng lừng danh trên sân đấu trước đây nữa.”

“Không có ai sánh bằng đâu. Trong đời cháu mới chỉ thấy anh ấy là người vụt bóng đi xa nhất.”

“Cháu có còn nhớ thuở anh ấy thường đến Terrace không... ông muốn mời anh ấy đi câu cùng nhưng lại quá nhút nhát để đưa ra lời đề nghị. Khi ông bảo cháu mời anh ấy thì cháu lại cũng nhát gan.”

“Cháu biết. Đấy là một lỗi lầm tai hại. Chắc anh ấy sẽ đi cùng chúng ta. Rồi chúng ta sẽ giữ kỉ niệm ấy trong suốt cả cuộc đời.”

“Ông cũng muốn đưa Di Maggio vĩ đại đi câu”, ông lão nói.

“Người ta bảo cha anh ấy là ngư dân. Có lẽ anh ấy cũng nghèo như ta và sẽ thông cảm.”

“Cha của Siạler lừng danh thì chẳng nghèo tí nào, ông ta, lúc vào độ tuổi của cháu, đã chơi cho Liên đoàn Big.”

“Khi bằng tuổi cháu, ông đã đứng trước cánh buồm, trên con tàu được trang bị chu đáo đến châu Phi và ông đã nhìn thấy sư tử trên bờ biển vào lúc chiều tối.”

“Cháu biết. Ông đã kể cho cháu nghe rồi.”

“Ta nên nói chuyện về châu Phi hay về bóng chày?”

“Cháu nghĩ là bóng chày”, thằng bé đáp.

“Kể cho cháu nghe về danh thủ John J. McGraw.” Nó nói Jota thay vì chỉ phát âm chữ J.

Ernest Hemingway (đoạn trích)

I. Đôi nét về tác giả Hê-Minh-Uê

- Hê-minh-uê tên khai sinh là Ơ-nít Hê-minh-uê, sinh năm 1899, mất năm 1961, tại bang I-li-noi trong một gia đình trí thức

- Sau khi tốt nghiệp trung học, ông đi làm phóng viên.

- 19 tuổi, ông tham gia đội xe cứu thương của Hội chữ thập đỏ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất ở chiến trường I-ta-li-a, sau đó ông bị thương và trở về Hoa Kì.

- Ông thất vọng về xã hội đương thời, tự nhận mình thuộc thế hệ mất mát, không hòa nhập với xã hội đương thời và đi tìm bình yên trong men rượu và tình yêu.

- Sau đó, ông sang Pháp, vừa làm báo vừa bắt đầu sáng tác.

- Năm 1926, ông sáng tác tiểu thuyết Mặt trời vẫn mọc và nổi tiếng từ đó.

- Ông để lại một số lượng tác phẩm đồ sộ với nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ và nhiều hồi kí, ghi chép.

- Những tác phẩm nổi tiếng của Hê-minh-uê: Mặt trời vẫn mọc (1926), Giã từ vũ khí (1929), Chuông nguyện hồn ai (1940), Ông già và biển cả (1952).

- Hê-minh-uê là nhà văn lỗi lạc nhất nước Mĩ vào thế kỉ XX, ông khai sinh lối viết kiệm lời, kiệm cảm xúc.

- Ông là người đề ra nguyên lí sáng tác “tảng băng trôi”:

+ Dựa vào hiện tượng tự nhiên: tảng băng trên mặt nước chỉ có ba phần nổi, bảy phần chìm.

+ Nhà văn phải hiểu biết cặn kẽ về điều muốn viết, sau đó lược bỏ những chi tiết không cần thiết, giữ lại những phần cốt lõi, sắp xếp lại để người đọc vẫn có thể hiểu được những gì tác giả đã lược bỏ.

+ Người đọc phải đồng sáng tạo mới có thể hiểu được “bảy phần chìm”, những hình tượng, những hình ảnh, … giàu tính tượng trưng đa nghĩa.

- Dù viết về đề tài gì, Châu Phi hay Châu Mĩ, Huê-minh-uê đều nhằm mục đích “viết một áng văn xuôi đơn giản và trung thực về con người”.

- Ông đã nhận được Giải thưởng Pu-lit-dơ năm 1953 - Giải thưởng văn chương cao qúy nhất của Hoa Kì và Giải thưởng Nô-ben về văn học.

II. Đôi nét về tác phẩm Ông già và biển cả

1. Hoàn cảnh ra đời

- Năm 1952, sau 10 năm sống ở Cu-ba, Hê-minh-uê đã cho ra đời tác phẩm Ông già và biển cả

- Trước khi in thành sách, tác phẩm được in trên tạp chí Đời sống

- Tác phẩm tiêu biểu cho lối viết “tảng băng trôi” của Hê-minh-uê

2. Tóm tắt

Lão chài Xan-chi-a-gô sống cô độc trong một túp lều trên bờ biển ngoại ô thành phố La-ha-ba-na. 84 ngày đêm ra khơi gặp vận xúi, đi đi về vế chẳng câu được một con cá nào. Lần này ông lại ra khơi chỉ có một mình đưa thuyền đến tận vùng Giếng Lớn nơi rất nhiều cá. Buông câu từ sáng sớm, mãi đến non trưa phao câu mới động đậy. Cá mắc câu kéo thuyền chạy. Lão gò lưng, gập mình kéo lại. Từ trưa tới chiểu, rồi một ngày một đêm nữa trôi qua. Bàn tay bị dây câu cứa rách nát ứa máu. Không một mẩu bánh mì vào bụng. Chân tê dại, tay trái bị chuột rút, mệt lả nhưng lão không chịu buông tha: "Mình sẽ cho nó biết sức con người có thể làm được gì và chịu đựng được đến đâu!". Sang ngày thứ 3, cá đuối dần, lão chài dùng lao đâm chết cá, buộc cá vào đuôi thuyền, hân hoan trở về bến. Con cá nặng độ 6 - 7 tấn, dài hơn con thuyền câu của lão độ 7 tấc. Trong màn đêm, đàn cá mập đuổi theo chiếc thuyền câu, lăn xả vào đớp và rỉa con cá kiếm. Lão chài dùng mái chèo quật tới tấp vào đàn cá dữ trong đêm tối. Khi lão Xan-chi-a-gô về tới bến, con cá kiếm chỉ còn trơ lại bộ xương. Lão nằm vật ra lều ngủ thiếp đi, "mơ thấy đàn sư tử". Sáng hôm sau, bé Ma-nô-lín chạy sang lều rồi đi gọi bạn chài đến săn sóc ông lão.

3. Bố cục (2 phần)

- Phần 1 (từ đầu đến “nước bắn tung, trùm lên cả ông lão lẫn con thuyền”): Cuộc chiến đấu của Xan-ti-a-gô

- Phần 2 (còn lại): Xan-ti-a-gô đưa con cá về bến

4. Giá trị nội dung

Hình ảnh ông lão đánh cá đơn độc, dũng cảm săn đuổi con cá lớn nhất đời là một biểu tượng về vẻ đẹp của ước mơ và hành trình gian khổ của con người để biến ước mơ thành hiện thực. Sự chuyển hóa bức tranh với những nét trần trụi, chân thực, giản dị sang một lớp nghĩa hàm ẩn, rộng lớn – đó chính là phong cách nghệ thuật của Hê-minh-uê và cũng chính là sự thể hiện nguyên lí sáng tác của ông: tác phẩm nghệ thuật như một “tảng băng trôi”.

5. Giá trị nghệ thuật

- Cách viết dung dị, lời văn có nhiều “khoảng trống”

- Hình tượng được lựa chọn kĩ lưỡng, mang tính biểu tượng và đa nghĩa

- Nghệ thuật độc thoại và độc thoại nội tâm

III. Dàn ý phân tích Ông già và biển cả

I. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Hê-minh-uê (tiểu sử, các sáng tác chính, đặc điểm sáng tác,…)

- Giới thiệu về tác phẩm Ông già và biển cả (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật…)

II. Thân bài

1. Hình tượng con cá kiếm

- Đó là một con cá lớn:

+ Một cái bóng đen vượt dài

+ Cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưới hái lớn

+ Thân hình đồ sộ

+ Cánh vi, bộ vây to sụ bên sườn xòe rộng

+ Mỗi con dài cả thước

- Đầy sức mạnh:

+ Những vòng lượn lớn

+ Ông lão thấy hoa cả mắt suốt cả tiếng đồng hồ (…) và điều ấy khiến lão sợ

- Kiêu hùng trong cái chết: khi ấy, con cá mang cái chết trong mình, sực tỉnh, phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực,…

⇒ Tác giả tập trung miêu tả hình ảnh con cá kiếm để từ đó làm cho chiến thắng của ông lão đối với con cá trở nên vẻ vang và vĩ đại hơn.

⇒ Hình ảnh con cá kiếm vừa là một hình ảnh thực, vừa là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng:

+ Góc độ thiên nhiên: con cá là hình ảnh biểu tượng cho vẻ đẹp hùng vĩ, mĩ lệ của thiên nhiên

+ Góc độ cuộc sống: con cá là hình ảnh biểu tượng cho những khó khăn, thử thách

+ Góc độ nghệ thuật: con cá là khát vọng nghệ thuật chân chính, lớn lao, cao đẹp

2. Hình tượng ông lão Xan-ti-a-gô

- Hình tượng ông lão được khắc họa qua những lời độc thoại và độc thoại nội tâm

- Sự chiến thắng của ông lão đối với con cá

+ Niềm tin, sự tin tưởng vào bản thân, vào khả năng của bản thân có thể chiến thắng được con cá

+ Ý chí, nghị lực phi thường: dù có những lúc ông lão cảm thấy mệt nhưng ông vẫn cố gắng chiến đấu với con cá kiếm khổng lồ

+ Lòng khát khao chiến thắng

+ Khi chiến đấu với con cá khổng lồ, ông đã thắng nó, ông là một lão đánh cá lành nghề: Chỉ cần nhìn độ nghiêng, độ chếch của sợi dây ông có thể biết con cá đang bơi vòng tròn hay liên tục ngoi lên trong lúc bơi, Dựa trên sự căng chùng của sợi dây có thể đoán được con cá đang làm gì,…

⇒ Qua hình tượng ông lão Xan-ti-a-gô, tác giả Hê-minh-uê muốn: ca ngợi vẻ đẹp của con người. Đồng thời, qua đó, ông thể hiện niềm tin của mình vào chiến thắng của con người trong cuộc đấu tranh với những khó khăn, thử thách, khắc nghiệt của thiên nhiên

III. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích và nguyên lí “tảng băng trôi” của tác giả được thể hiện qua đoạn trích

- Bài học cho bản thân: bài học về niềm tin, ý chí, nghị lực và những khát khao trong cuộc sống

Tài liệu liên quan đến bài Ông già và biển cả

Tóm tắt nội dung một số tác phẩm (đoạn trích) Văn lớp 12 - tập hai

Phân tích đoạn trích Ông già và biển cả của nhà văn Hê-minh-uê

Đánh giá bài viết
1 839
Sắp xếp theo

    Ngữ văn lớp 12

    Xem thêm