Phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
- I. Dàn ý phân tích hình tượng người lái đò sông Đà
- II. Văn mẫu Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân mẫu 1
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 2
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 3
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 4
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 5
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 6
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 7
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 8
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 9
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 10
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 11
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 12
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 13
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 14
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 15
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 16
Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân môn Ngữ văn lớp 12 là biểu tượng đẹp của con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước. Mời các bạn cùng tham khảo những bài văn mẫu sau để có cái nhìn khái quát hơn về hình tượng người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
I. Dàn ý phân tích hình tượng người lái đò sông Đà
Dàn ý phân tích hình tượng người lái đò mẫu 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút Người lái đò sông Đà và hình tượng người lái đò.
2. Thân bài
a. Khái quát chung về hình ảnh ông đò
Lai lịch: một ông lão gần 70 tuổi, làm nghề lái đò nhiều năm.
Ngoại hình: “tay lêu nghêu... chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.
Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.
Tài năng và tâm hồn: Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ... những luồng nước”…
b. Cuộc thủy chiến giữa con sông Đà và người lái đò
Tiếng nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… rống lên như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.
Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, nó bày thạch trận trên sông: Đám tảng đám hòn, chia làm ba hàng chặng ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa,....
Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong, lẫm liệt, thách thức chiếc thuyền.
Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt.
Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá...
→ Sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, đầy sáng tạo để khắc họa sự hung bạo, dữ dằn trong trận thủy chiến gay go, quyết liệt.
Ông lái đò là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo...”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác...”
Ông còn là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.
3. Kết bài
Khái quát lại vẻ đẹp của người lái đò.
Dàn ý phân tích hình tượng người lái đò mẫu 2
I. Mở bài
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tuỳ bút "Người lái đò sông Đà". Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung.
Tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" dược in trong tập tuỳ bút "Sông Đà" (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, NT còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là "thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc."
Qua "Người lái đò sông Đà", Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới: chất vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.
2. Phân tích nhân vật người lái đò.
Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một:
"Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn..."
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. "Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất", người lái đò "phá luôn vòng vây thứ hai". Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động "tấn công": Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.
Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân.
III. Kết bài
Tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.
Audio Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Video Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
II. Văn mẫu Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân mẫu 1
Nền văn học Việt Nam đã ghi danh tên tuổi của bao nhà văn nhà thơ với những đóng góp to lớn, một trong số đó chúng ta không thể không nhắc đến tác giả Nguyễn Tuân. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm nổi tiếng nhờ tài năng uyên bác của mình, trong đó có tùy bút Người lái đò sông Đà. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.
Người lái đò qua ngòi bút của Nguyễn Tuân là một ông lão ngoày bảy mươi tuổi, cũng là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một: "Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn..." Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. "Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất", người lái đò "phá luôn vòng vây thứ hai". Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động "tấn công": Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.
Người lái đò sông Đà không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 2
Nguyễn Tuân là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của con người, của cuộc sống với tư tưởng, tình cảm gắn bó quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông. "Người lái đò Sông Đà", đó là một bài tùy bút, cũng là một bài thơ bằng văn xuôi thể hiện rõ nhất những nét tiêu biểu về phong cách đó.
"Người lái đò sông Đà" trước hết là một tác phẩm viết về một con người và con sông. Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông thì mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở thành những công trình mĩ thuật, con người đều trở thành những nghệ sĩ điêu luyện của mình.
Bằng sự quan sát tỉ mỉ và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô cùng phong phú và chuẩn xác của Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, những hình tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút rất độc đáo này.
Người lái đò trên sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến trong tác phẩm là một ông già 70 tuổi đã giành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần...” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.
Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm phục của mình đối với con người này: “Sông Đà, với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Thật là một cách so sánh “rất văn chương” đầy thú vị và cũng “rất là Nguyền Tuân”.
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất mun” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “vàng mười”. Ông đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực của những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: "... hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gẫy cán chèo, võ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông... Các miêu tả chân thực và táo bạo này cho thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ đối với con người, chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng chỉ dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ cùa người cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả đã so sánh người lái đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại “còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có lùi gì cả...” vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo bạo, tác giả đã tả sông Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”. Lại có những “hút nước" xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó lút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”...
Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trở, đầy gian nan cho con người. Thế nhưng, “ông lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái.. ”. Mặc dù mặt “méo bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.
Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhắm đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con người đã chiến thắng; trở về cuộc sống thanh bình: “thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh (...). Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam...”
Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về con người lao động.
Sau mười năm làm nghề lái đò, kể cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực người lái đò vẫn còn “bầm tụ” một “củ khoai nâu”, với Nguyễn Tuân, đó cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng”.
Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một công trình nghệ thuật đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức về thức về cuộc sống, về văn hóa và lịch sử địa lí, về ngôn ngữ... tác phẩm đích thực ấy còn là một khối kiến trúc thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc. Cái đẹp hùng vĩ của thiên nhiên của tạo hóa và đặc biệt là cái đẹp của con người cụ thể, con người lao động: Người lái đò sông Đà.
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động gian lao nguy hiểm, nhưng đầy vinh quang.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 3
Người lái đò sông Đà ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trường, khi đó cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong các tác phẩm văn học. Không nằm ngoài xu thế chung đó, Người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò là một trong những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động bình dị, vô danh nhưng hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến, dựng xây đất nước.
Hình tượng người lái đò sông Đà được đặt trong quan hệ với sông Đà, để qua đó tô đậm, làm nổi bật hình tượng người lái đò. Bởi vậy sông Đà hung dữ, bạo ngược bao nhiêu thì khi vượt qua nó, chiến thắng sức mạnh của nó người lái đò càng thể hiện rõ nét hơn sức mạnh của mình.
Người lái đò quê ở Lai Châu, đã từng xuôi ngược dòng sông Đà hơn một trăm lần trong đó có tới sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc về ông lái đò với những con số đầy áp lực và thử thách. Mỗi lần vượt sông Đà là một lần đối diện với cái chết, số lần ông vượt sông Đà thành công đã cho thấy sự tài giỏi, điêu luyện trong nghề nghiệp của ông lái đò.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung của nhân vật: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”. Ở diện mạo của ông lái đò chỉ có một điểm duy nhất chứng tỏ tuổi ông đã cao đó là mái tóc bạc, khi dùng tay che mái tóc này đi, người ta lầm tưởng “mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”. Diện mạo, ngoại hình của ông lái đò gây ấn tượng manh với người đọc, bởi nó trái ngược hoàn toàn với cái tuổi bảy mươi của ông, đó là diện mạo, ngoại hình của một chàng thanh niên lực lưỡng, dẻo dai, cường tráng. Sức khỏe, thể chất của ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp, do suốt đời vật lộn với sông nước nên cần phải có một thể lực phi thường để chiến đấu lại với những con thác dữ.
Phẩm chất nổi bật và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của ông lái trong nghề vượt thác này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ bản hồ nào nhưng lại có thể nhớ một cách chính xác luồng lạch trên sông. Để ngợi ca bản lĩnh của ông Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo, giàu chất thơ “Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Không chỉ dày dặn kinh nghiệm, ông lái đò còn nâng nghề nghiệp của mình – công cụ mưa sinh thành một niềm đam mê mãnh liệt trong đời. Bởi đối mặt với thác dữ, tức là đối mặt với cái chết song ông không hề sợ hãi mà cảm thấy đó là sự thú vị trong nghề nghiệp của mình. Với ông lái đò thì sông Đà chỉ thực sự đậm đà ở đoạn nhiều ghềnh thác, nếu phải chèo đò ở những đoạn bằng phẳng thì ông thấy chân mình như dại đi và buồn ngủ như người mèo đi bộ ở đồng bằng.
Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất là trong cuộc thủy chiến với sông Đà. Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt này để có thể giành được chiến thắng, ông lái đò đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà đã phô ra sức mạnh thể chất của nó với sự phối hợp giữa đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa tung đòn đánh tỉa, để dồn ông lái đò vào thế yếu. Dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm song cái nhìn và cách miêu tả của Nguyễn Tuân về cuộc thủy chiến không hề hời hợt dễ dàng, ông ghi lại thời điểm mà tưởng như ông lái đò ngã gục trước những đòn đánh chí mạng của sông Đà. Nhưng bằng sức chịu đựng phi thường, thể chất dẻo dai, cường tráng vẫn cố gắng kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên sự chỉ đạo ngắn gọn, dứt khoát. Và bằng lòng dũng ảm, sức khỏe phi thường, bình tĩnh ông lái đò đã vượt qua những trùng vi thạch trận thứ nhất. Ở trùng vi thạch trận thứ hai với sự thay đổi bất ngờ, biến hóa khôn lường trong việc bố trí các cửa sinh, cửa tử. Nhưng bằng kinh nghiệm dày dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã nhanh chóng đưa thuyền đi vào đúng cửa sinh. Với đoạn quân sóng nước, cách đánh của ông cũng biến hóa linh hoạt, để phù hợp với những trùng vi thạch trận khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng tác giả miêu tả không nhiều song vẫn làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đò của ông lão. Bằng sức khỏe và sự dẻo dai, sức chịu đựng, đặc biệt là lòng dũng cảm, chủ động, quyết đoạn, ông đã vượt qua tất cả nhưng cái bẫy mà sông Đà đã tung ra. Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, song chiến thắng đã thuộc về con người.
Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông Đà thì sau cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, chiến thắng của ông lão lại cho thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn, nhân cách. Chiến thắng được sông Đà với bảy mươi ba ghềnh thác là một điều không phải ai cũng có thể làm dược, thậm chí đây là một chiến công phi thường. Song với ông lão và tất cả những người lao động nơi đây là là một điều hết sức bình thường. Nhưng chính bởi biết giản dị hóa bình thường hóa những điều phi thường mà tâm hồn, nhân cách của những người lao động nơi đây càng trở nên trân trọng, đáng quý.
Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân. Bởi ông chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức nghệ thuật. Song ở hình tượng ông lão thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong tư tưởng Nguyễn Tuân khi những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh. Đây chính là cách Nguyễn Tuân ngợi ca, tôn vinh những người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 4
Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật những năm 58-60 khi miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhà văn nhà thơ đến nơi đây để tìm cho mình những nguồn cảm hứng mới. Như ta từng biết đến Tô Hoài với tập “truyện Tây Bắc” mà nổi bật là truyện ngắn “Vợ Chồng A Phủ” còn Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập “Tùy bút Sông Đà” với linh hồn là bài kí “Người lái đò Sông Đà”. Tùy bút cho người đọc thấy được sự hùng vĩ của thiên nhiên, khung cảnh tuyệt vời của tổ quốc vùng Tây Bắc. Và giữa thiên nhiên bao la rộng lớn của núi rừng ấy, nối bật lên là hình ảnh người lái đò sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà.
Nguyễn Tuân là nhà trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của nhà văn thường không được thể hiện một cách trực tiếp mà ẩn sau những bức tranh thiên nhiên, những giá trị văn hóa cổ truyền. Nguyễn Tuân còn là người có cá tính mạnh mẽ và phóng khoáng. Ông không thích những gì bằng phẳng, nhợt nhạt cũng như không ưa mọi khuôn phép gò bó. Trái lại, nhà văn luôn có hứng thú với những biểu hiện mạnh mẽ, phi thường của tạo vật và con người. Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân thâu tóm được trong một chữ "ngông". Sau Cách mạng, ông không đối lập giữa quá khứ hiện tại và tương lai. Văn Nguyễn Tuân vừa đỉnh đạc cổ kính vừa trẻ trung hiện đại. Người lái đò sông Đà được trích trong tùy bút Sông Đà, sáng tác trong một chuyến đi thực tế lên Tây Bắc cũng là cảm hứng chủ đạo của cả tập tùy bút là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười -chất vàng đã qua thử lửa ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên vùng núi sông hùng vĩ và thơ mộng ấy.
Người lái đò có ngoại hình khá đặc biệt "thân hình cao to, gọn quánh như chất sừng chất mun, tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái trong tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…”. Ông lái đò hiện lên là một người giàu trải nghiệm, ông hiểu sông Đà như hiểu chính mình, nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả những luồng nước của những con thác hiểm trở. Hai vẻ đẹp nổi bật của người lái đò chính là vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài hoa hăng say trong lao động, là bậc thầy trong nghệ thuật chèo đò ngày ngày viết nên những bản trường ca bất tận về công cuộc lao động không ngừng nghỉ. Song còn được coi là một chiến binh dũng cảm trên chiến trường sông nước, ngày ngày chiến đấu giành giật miếng cơm manh áo. Dù công việc vất vả và nguy hiểm như thế nhưng ông vẫn luôn hăng say, vẫn đam mê công việc lao động, đam mê mạo hiểm, thích được thử cảm giác mạnh. Bên cạnh đó, ông còn là người rất dũng cảm, có tâm hồn tươi trẻ, sôi động, bản tính hiếu chiến, đam mê khám phá, chinh phục gian nan thử thách, chẳng bao giờ lùi bước.
Bằng tài hoa uyên bác vốn có của mình, Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó lòng dũng cảm, mưu trí, gan dạ, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán được bộc lộ. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một. Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà bày ra "năm cửa trận" , có "bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh cửa tử lập lờ phía tả ngạn sông". Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đã trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp "mặt nước hò vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình...", "Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt". Nén chịu nỗi đau thể xác, người lái đò vẫn bình tĩnh, tỉnh táo chỉ huy cái thuyền sáu bơi chèo lần lượt vượt qua trùng vi thạch trận, chiến thắng thác dữ bằng những động tác điêu luyện, táo bạo và hết sức chuẩn xác "Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá". Để làm nổi bật hình tượng và vẻ đẹp của người lái đò, nhà văn đã sáng tạo một đoạn văn đầy không khí trận mạc, đã tưởng tượng ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa người lái đò với "bầy thủy quái sông Đà" nham hiểm và xảo quyệt.
Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vây thứ hai "Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền". Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử "vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc! Như vậy người lái đò đã vượt qua thác dữ đã có một chiến thắng thật ngoạn mục. Có được chiến thắng đó là nhờ sự dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống và thứ hai là chiến thắng của tài trí con người, của sự hiểu biết và kinh nghiệm của những người đã nhiều năm gắn bó với nghề sông nước.
Đến trùng vi thứ ba ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm vào pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải "phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được", tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với "tay lái ra hoa". Từ cuộc chiến đấu ác liệt với thác dữ sông Đà, từ sự bình dị của những người lái đò sau chiến thắng, có thể thấy Nguyễn Tuân đã khẳng định ngợi ca về vẽ đẹp của những người lao động bình thường, âm thầm giản dị nhưng đã và đang làm nên những kì tích lớn lao trong cuộc chiến với thiên nhiên hung dữ.
Hình ảnh người lao động anh hùng, hằng ngày chiến đấu vật lộn với thiên nhiên trong nguy hiểm trùng trùng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp và sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và kiêu ngạo. Đây là một cuộc chiến không cân sức, nhưng bằng sự thông minh, gan dạ, kiên cường bất khuất, con người lao động đã chế ngự, vượt lên trên cái sự khiêu khích, hằn học của thiên nhiên. Hình tượng ông lái đò được tác giả xây dựng trên hai vai trò, vừa là người chiến sĩ anh hùng, quả cảm, vừa là người nghệ sĩ tài ba đã viết nên một bản hùng ca tuyệt đẹp về cuộc sống lao động, về nghệ thuật chèo lái trên con sông Đà rộng lớn. Nguyễn Tuân có một quan điểm nghệ thuật đầy mới mẻ, ông cho rằng nghệ thuật không phải chỉ là những người nghệ sĩ với những hình tượng thơ mộng, mơ hồ cao xa như mây - trăng, gió - núi, mà người làm nghệ thuật còn là những người lao động, vốn đã nhuần nhuyễn, đạt đỉnh cao điêu luyện trong chính nghề nghiệp của mình thì cũng là người làm nghệ thuật chân chính, thứ nghệ thuật ấy chính là nghệ thuật trong lao động.
Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, một nhà văn tài hoa uyên bác luôn sát cánh, khám phá, diễn tả thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ, miêu tả con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 5
Với "Sông Đà" Nguyễn Tuân đã để thơ vào sông núi Tây Bắc. Và "Người lái đò Sông Đà", một trong 15 bài tùy bút của kiệt tác "Sông Đà" ngào ngạt hương sắc như một cành hoa lan giữa mùa xuân tươi đẹp. Hai hình tượng đầy chất thơ đồng hiện trong bài tùy bút là hình tượng con sông Đà và hình ảnh người lái đò, đúng là "mười phân vẹn mười".
Từ "Vang bóng một thời" đến "Sông Đà", một hành trình 20 năm có lẻ, cụ Nguyễn đã "xê dịch" để đi tìm thứ "vàng mười" còn tiềm ẩn trong lòng người đó đây. Và một trong hàng triệu độc giả, ta càng cảm thấy sâu sắc hơn bao giờ hết "một trong những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ". Ấn tượng ấy càng rõ nét khi ta tiếp cận tùy bút "Người lái đò Sông Đà".
Thế giới nhân vật trên trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô cùng. Một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa vườn lan "nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm cỏ quý" (Hương Cuội). Một cụ Ấm thức dậy lúc mờ sáng, mang phong thái "một triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian".
Trong ấm trà pha ngon, cụ đã "nhận thấy có mùi và một vị triết lí" (Chén trà sương). Một Huấn Cao tử tù chân vướng xiềng, cổ mang gông, vung bút viết lên tấm lụa bạch những chữ như rồng bay phượng múa, thể hiện "những cái hoài bão tung hoành của một đời con người" (Chữ người tử tù)... Và hình ảnh ông lái đò người Thái (Tây Bắc) có "tay lái ra hoa". Đó là những con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, ông lái đò sông Đà hiện lên trong tầm vóc một người lao động bình dị mà phi thường, tâm hồn và phong thái mang cốt cách tài hoa nghệ sĩ. Cũng như trăm nghìn người lái đò khác, ông lái đò sông Đà này có "tay lái ra hoa"đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với "lũ đá nơi ải nước".
Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần sông, thần đá. Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lẽn chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số thương tích trên "chiến trường Sông Đà" mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là "thứ Huân chương lao động siêu hạng".
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn thủy chiến. Chất tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy. Ớ trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: "Thạch trận dàn bày vừa xong thì thuyền vụt tới". Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra.
Những hòn đá "bệ vệ oai phong lẫm liệt" được nước thác "reo hò làm thanh viện" liều mạng xông vào "đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền". Ông đã bình tĩnh "hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng". Lúc bị sóng thác đánh miếng đòn hiểm độc "bóp chặt lấy hạ bộ" đau điếng, nhưng vị thuyền trưởng "hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái", tiếng chỉ huy của ông vẫn "gọn ngắn tỉnh táo" đưa con thuyền thoát hiểm. Thật là cao cường biết bao!
Trùng vây thứ hai vô cùng hiểm trở, có nhiều cửa tử: "Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá". Ông lái đò tấn công ngay "nắm chặt được bờm sóng" cho con thuyền "phóng nhanh vào cửa sinh". Bọn tướng đá, đứa thì "ông tránh mà rảo bơi chèo lên", đứa thì bị "ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến". Thằng đá tướng thất bại thảm hại "tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng".
Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là "luồng chết". Thần sông còn bố trí "bọn đá hậu vệ" của con thác hòng "bắt chết" cái thuyền. Ông lái đò mưu trí "phóng thẳng con thuyền", "chọc thủng" trùng vây rồi "vút qua cổng đá cánh mở cánh khép". Chiếc thuyền như một mũi tên tre "vút, vút" xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông nước lại thanh bình.
Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng.
Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Vói niềm hào hứng bốc cao, cụ Nguyễn đã tung vào cuộc đọ trí đua tài của ông lái đò với thần sông, thần đá nơi thác ghềnh Đà Giang cả cái kho ngôn từ giàu có của mình, và vận dụng con mắt và kĩ thuật của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, đặc biệt là hội hoạ, điện ảnh, âm nhạc, và cả khoa học quân sự, kiến thức võ thuật v.v... Câu văn co duỗi, dài ngắn, biến hóa... hấp dẫn lạ thường.
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò còn được thể hiện trong những lúc ngừng chèo nghỉ ngơi. Sau một ngày giao tranh dữ dội với thần sông, thần đá, ông lái đò cùng các bạn chèo nghỉ trong hang đá. Lúc ngừng chèo, họ chẳng bàn tán một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi "cửa ải nước tướng dữ quân tợn" vừa rồi. Rất ung dung và thanh thản, ông lái đò vừa nướng ống cơm lam, vừa kể chuyện về cá anh vũ, về cá dầm xanh, về những hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Những câu chuyện rất đời thường nhưng phản ánh một đời sống tâm hồn gắn liền với sông nước rất dung dị mà tài hoa, cần lao mà nghệ sĩ.
Tùy bút "Người lái đò Sông Đà" đích thực là trang hoa, tờ hoa. Nguyên Tuân đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú trong thiên nhiên và con người, đã nhìn sự vật ở phương diện văn hóa nghệ thuật, nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Mạch văn tự do theo dòng cảm xúc lai láng. Ông lái đò trong bài tùy bút là một sáng tạo nghệ thuật sáng bừng lên vẻ đẹp nhân vãn.
Trên cái mênh mang của "Dải sông Đà bọt nước lênh bênh", và giữa lớp lớp trùng vây thạch trận "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuộn luồng gió gùn ghè", ta thấy ông lái đò người Thái quắc thước và con thuyền 6 tay chèo đang dũng mãnh băng băng lướt qua. Ông lái đò là một bài ca về lao động và sự sống. Hình ảnh ông đẹp quá; một vẻ đẹp Tây Bắc như đang "đề thơ vào sông nước" Đà Giang.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 6
Nguyễn Tuân được biết đến như một trong những nhà văn thành công của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Tác phẩm của ông hầu hết đều có chiều sâu về sự khám phá và chiêm nghiệm sâu sắc. Người lái đò sông Đà rút ra từ tập tùy bút Sông Đà được hoàn thành năm 1960. Đây chính là trái ngọt của một chuyến thực tế rong ruổi khắp miền Tây Bắc để tìm kiếm thư vàng mười trong thiên nhiên và con người của tác giả. Có thể nói ngoài hình tượng sông Đà hung dữ, trữ tình thì tác giả còn làm nổi bật hình ảnh người lái đò dũng cảm tài hoa đạp lên từng lớp sóng cuộn.
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn ưa “xê dịch” chất ngông của ông thấm nhuần vào trong từng câu chữ từng hơi thở mang đến cho độc giả một cảm nhận vô cùng mới mẻ. Thứ “vàng mười” đó như được chắt lọc một cách tỉ mỉ qua ngòi bút qua lăng kính của nhà thơ. Sông Đà mang một vẻ đẹp trìu mến trữ tình nên thơ. Hình tượng người lái đò sông Đà hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân vốn không có tên gọi cụ thể, đó chỉ là một con người với cái tên gắn liền với nghề nghiệp “Ông lái đò Lai Châu”. Tác giả như cố tình không chỉ mặt đặt tên cho bất cứ ai mà ông muốn chỉ chung, muốn đại diện cho vẻ đẹp của những người lái đò cần mẫn trên sông nước.
Đó là một người lái đò tầm 70 tuổi một người đã dành gần như hết cuộc đời mình để lái đồ trên sông Đà. Bây giờ ông đã thôi nghề khoảng mười năm. Trên sông đã xuôi ngược cả trăm lần giữ tàu lái chính khoảng 60 lần... Chỉ với vài câu văn ngắn gọn hàm xúc độc giả phần nào đã tưởng tượng lên dáng vẻ của ông một người rắn rỏi và rất kinh nghiệm.
Nguyễn Tuân bắt đầu đi vào miêu tả ngoại hình của người lái đò bằng những câu văn ngắn gọn xúc tích: “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh ra như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào nhỡn giới cao vòi vọi”. Chỉ bằng ngần ấy câu chữ thôi người ta đã bắt đầu tưởng tượng về một người đàn ông với vóc dáng vạm vỡ, khỏe mạnh rắn rỏi được tôi luyện bởi chính môi trường lao động mà thành. Không chỉ có vóc dáng khỏe khoắn mà ngay cả trí tuệ ông cũng thể hiện là một người vô cùng minh mẫn tài trí. NGười đã chiến thắng được cả Sông Đà, lão luyện trong nghề nghiệp của mình. Qua đó NGuyễn Tuân bày tỏ lòng khâm phục của mình với người lái đồ bằng cách dùng biện pháp so sánh “Sông Đà đối với ông lái đò như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc cả dấu câu chấm than và cả đoạn xuống dòng”
Để thuyết phục hơn đối với người đọc Nguyễn Tuân đã miêu tả lòng dũng cảm của ông lái đò khi dũng cảm vượt qua cả ba thạch trận. Vòng một sông Đà như một kẻ thù nham hiểm xảo quyệt không chỉ có sóng gió mênh mông hút nước mà nó còn bày binh bố trận “bọt tung trắng xóa cả một chân trời đá”, đá mai phục ngàn năm bày binh bố trận như binh pháp tôn tử. Vòng vây này gồm có 5 cửa trận bốn cửa tử một cửa sinh chia thành ba tuyến tiền vệ, trung vệ và hậu vệ. Đá oai phong lẫm liệt tiến lùi thách thức còn sóng nước như quân liều mạng. Thế nhưng mặc cho sóng cho đá có mạnh thế nào nó cũng không thể đầy lùi mái chèo của người đàn ông kiên cường này. Ông cố nén vết thương kẹp chặt cuống lái kiên cường vượt qua cơn võ chiến.
Đến vòng hai sông Đà lại càng trở nên hiểm ác với nhiều cửa tử và chỉ có duy nhất một cửa sinh nằm ở phía tả ngạn. dòng thác hùm beo hồng hộc thế mạnh. Bọn thủy quân cửa ải xô ra níu thuyền vào cửa tử, ông lái đò cùng chiếc thuyền như cưỡi trên lưng hổ, ông nắm chắc bờm sóng ghì cương lái miết vào cửa sinh. Dòng sông trở nên như con thú hoang lồng lên đòi ăn hết con thuyền. Nhưng ông già dằn mặt từng đứa nắm chắc quy luật của thần đá không hề nao núng tỉnh táo và sáng tạo thay đổi chiến thuật để chiến thắng sông Đà một cách ngoạn mục.
Dường như những màn thua ở 2 trận trước càng khiến sông Đà trở nên điên cuồng và dữ tợn hơn bao giờ hết. Vòng thứ ba ít cửa ra vào bên phải bên trái đều là cửa tử luồng sống ở giữa ngay cạnh voi đá vọng về xong ông lái đò vẫn bình tình dũng cảm đưa con thuyền vượt qua một cách an toàn.
Không chỉ hiện lên là một con người với khí phách kiên cường rắn rỏi mà ông lái đò còn là một người có tố chất nghệ sĩ. Sau khi đã chinh chiến hết dòng sông Đà ông lại đốt lửa nướng ống cơm lam bàn chuyện cá anh vũ cá rồng xanh như không có gì xảy ra. Tất cả khó khăn nguy hiểm dường như không còn là vấn đề với người đàn ông này nó trở nên vô cùng quen thuộc và bình thường.
Cái giỏi của Nguyễn Tuân không chỉ khắc họa được vẻ đẹp hung bạo mà trữ tình của sông Đà mà ngược lại nó như một đòn bẩy để thể hiện sức mạnh sự tài trí thao lược của con người. Thiên nhiên dù có hiểm trở đến đâu cũng không thể nào thắng được con người. Sông càng nguy hiểm thì con người càng giỏi giang và tài ba. Có thể nói bằng câu văn sắc bén, nghệ thuật so sánh miêu tả kết hợp cùng xây dựng tình huống đã làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò trở thành một sức hút mãnh liệt cho tác phẩm.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 7
Nguyễn Tuân được mệnh danh là nhà văn của cái tuyệt mĩ. Cả cuộc đời ông là hành trình tìm kiếm vẻ đẹp toàn bích của cuộc đời và thiên nhiên. Đó chính là sợi dây chỉ đỏ xuyên suốt chi phối toàn bộ sáng tác của ông. Mặc dù vậy trước và sau cách mạng ta cũng có thể thấy sự chuyển biến lớn trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Tuân. Sau cách mạng nhân vật đánh dấu sự đổi mình ấy chính là người lái đò Lai Châu trong tùy bút Người lái đò sông Đà.
Người lái đò không được nêu rõ tên mà chỉ được Nguyễn Tuân gọi bằng cái tên chung ông lái đò Lai Châu, tuổi đã ngoài 70 cả cuộc đời gắn liền với con sông Đà vừa hung bạo, vừa trữ tình. Ngoại hình của người lái đò chỉ được Nguyễn Tuân phác họa bằng những nét hết sức ngắn gọn:
“Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”.. Chỉ với những lời giới thiệu hết sức ngắn gọn, nhưng ta cũng có thể thấy được chân dung của một con người cả đời gắn bó với thiên nhiên, con người nơi đây.
Sau những nét vẽ phác họa, Nguyễn Tuân đi sâu vào sự từng trải, tay nghề điêu luyện tài ba của ông trong một lần vượt thác sông Đà. Sông Đà là con sông đầy hiểm ác, với những cái bẫy chết người dụ những người lái đò sập bẫy. Nhưng dù sông Đà có thâm hiểm, xảo quyệt bao nhiêu thì bằng sự nhanh nhẹn, dũng cảm của mình, ông lái đò vẫn bình tĩnh đưa mình và những người khác vượt qua sông Đà thành công.
Cả cuộc đời gắn bó với sông Đà, nên số lần ông vượt qua con sông này đã nhiều vô số kể. Ông đi trên sông Đà, lái lướt chẳng khác nào người ta đi bộ trên đất. Với ngòi bút miêu tả sinh động, Nguyễn Tuân đã tái hiện hoàn chỉnh một lần ông lái đò vượt thác. Sông Đà bày binh bố trận với những cửa tử, cửa sinh khác nhau, mà cửa tử nhiều hơn cửa sinh. Qua mỗi trùng vi thạch trận, ông lái đò đều biến đổi linh hoạt phương thức tác chiến, khi đè sấn lên thác mà đi, khi lại chặt đôi sóng mà tiến,…
Dưới sự điều khiển của ông lái đò, con thuyền vun vút lao đi, lấn lên phía trước. Nhưng không phải lúc nào ông cũng dành thế chủ động, đôi khi những đòn đánh tỉa thâm hiểm cũng làm ông lái đò bệch mặt. Nhưng điều đó vẫn không làm ông nao núng tinh thần, bình tĩnh, chủ động linh hoạt , ông biến hóa đường đi, tay lái để tiếp chiêu của chúng, vượt qua cửa tử làm cho thạch trận tiu ngỉu ở phía sau.
Người lái đò không chỉ thông thạo, tài năng lái đò xuất chúng mà còn hết sức hiên ngang, bình thản đối đầu với sông Đà. Ông coi đó như một niềm vui sống trong cuộc đời mình. Ông tâm sự, ông không thích chèo đò ở những nơi bằng phẳng, những nơi đó khiến chân tay ông dại đi, cơ thể ủ rũ và buồn ngủ. Đối với ông ghềnh thác vừa là bạn, vừa là thử thách ông luôn khao khát muốn vượt qua. Cũng chính bởi vậy nên khi phải đối mặt với con sông vô cùng hung bạo, một sống một chết những ông không hề lo lắng, sợ hãi, mà luôn bình tĩnh, chủ động, tinh thần sảng khoái tỉnh táo để chỉ huy con tàu vượt qua khỏi dòng thác dữ.
Vẻ đẹp nổi bật nhất ở ông lái đó chính là mang phong thái của người nghệ sĩ tài hoa. Đối với ông lái đò tài hoa không giống như Huấn Cao với những nét chữ đẹp mà bất cứ ai cũng muốn được để trong nhà mà tài hoa ở đây chính là trong nghệ thuật lái đò của ông – “tay lái ra hoa”. Sông Đà là con thủy quái vô cùng ghê gớm, ở bất cứ trùng vi thạch trận nào cũng phô trương sức mạnh nhằm đoạt lấy tính mạng của người lái đò. Trong trùng vi thứ nhất, chúng phô diễn sức mạnh đá, sóng, nước, nhằm dồn ông vào thế yếu.
Tiếp đến trùng vi thạch trận thứ hai chúng biến hóa khôn lường, cửa tử nhiều mà chỉ có duy nhất cửa sinh một lần nữa muốn đoạt mạng người lái đò. Trùng vi thạch trận cuối cùng chúng lại càng tỏ ra hung hãn hơn, sóng, đá, nước lăm le tiến công, nước cuồn cuộn, kêu ùng ục chỉ chờ ông lái đò lơ đễnh là dồn đến. Nhưng bằng kinh nghiệm dạn dày, bằng kĩ thuận lái điêu luyện như một người nghệ sĩ ông lái đò đã bình tĩnh , mọi giác quan được phối hợp linh hoạt, nhịp nhàng đã giúp ông vượt qua mọi chướng ngại, mọi cửa tử để về bến an toàn.
Cuối tác phẩm hình ảnh ông lái đò hiện lên ở vẻ đẹp của bề sâu nhân cách, thể hiện một tấm lòng thiết tha sâu nặng với quê hương. Nhưng năm tháng chiến tranh ác liệt, ông sống ở rừng nhưng cũng không một ngày xa cách con sông đà. Cho đến những ngày hòa bình lập lại, tình yêu ấy vẫn không hề thay đổi. Ông tự hào kể với mọi người về việc trở một đoàn chuyên gia Nga đi khảo sát tình hình. Ông tự hào vì đã góp một phần sức lực nhỏ bé cho quê hương, đất nước.
Từ Huấn Cao cho đến người lái đò sông Đà ta không chỉ thấy những đặc điểm phong cách đậm nét vẫn được bảo lưu mà hơn nữa còn thấy được sử chuyển biến tích cực trong quan niệm về con người của ông. Nguyễn Tuân không còn đi tìm vẻ đẹp của những con người của một thời vang bóng, mà phát hiện vẻ đẹp đó ngay tại đây, ngày trong cuộc sống bình dị này.
Đây chính là điểm chuyển biến lớn nhất trong quan niệm nghệ thuật về con người của ông. Họ - những con người lao động bình dị, thậm chí vô danh chính là những người đã góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 8
Nhà văn Nga Tolstoi từng viết: "Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu". Chính tình yêu cuộc sống, tình yêu thiên nhiên, lòng yêu thương con người là chất xúc tác thôi thúc người nghệ sĩ tìm thấy "chất vàng mười" cho văn chương của họ. Xuyên suốt chặng hành trình cùng với người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện tình yêu da diết của mình cho những người lao động, cho thiên nhiên đất nước Việt Nam. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc từ năm 1958 đến năm 1960, tất cả vẻ đẹp của sông Đà đã hiện lên rõ nét trong tùy bút này.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đặt tên cho đứa con tinh thần của mình là "Người lái đò sông Đà", bởi song song với hình tượng con sông Đà vừa dữ dội, hung bạo, vừa dịu dàng, đằm thắm là hình ảnh người lái đò sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà vừa hung hiểm vừa thơ mộng. Nhà văn miêu tả cái hùng vĩ của dòng sông là để tôn vinh vẻ đẹp con người - một khúc hùng ca của núi rừng Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã có nhận xét ban đầu như thế này "Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một". Thế nhưng qua cuộc chiến đấu ấy, ông đò được bộc lộ tài năng và kinh nghiệm mười năm gắn bó với thác đá Sông Đà, với cái nghề lái đò này. Theo Nguyễn Tuân, ông lái đò đã xuôi ngược trên dòng sông Đà không dưới trăm lần, trong đó có tới sáu mươi lần ông cầm lái. Con số mười năm, trăm lần, hơn sáu mươi chính là minh chứng cho kinh nghiệm dày dặn của ông đò Lai Châu.
Bước vào cái tuổi bảy mươi, hình ảnh người lái đò của Nguyễn Tuân hiện lên với một vẻ ngoài đầy phong sương, cơ thể in hằn mùi sông nước, gắn liền với nghề nghiệp của ông "tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,..." Thân hình ông lái đò như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch, nước da ánh lên chất sừng như mun, ánh lên nắng mưa sương gió của mây trời Tây bắc. Tuổi đã cao nhưng cặp mắt của ông vẫn tinh anh, thông thạo từng đường đi nước bước trên sông Đà. Đặc biệt trên ngực ông có nhiều "củ nâu" - đó là vết tích của những ngày tháng chiến đấu vật lộn với sông Đà, mà Nguyễn Tuân đã ví von như là "những huân chương lao động siêu hạng"................
Nguyễn Minh Châu đã từng nói: "Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người". Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cũng vì thế nhà văn luôn đi tìm những gì còn ẩn nấp trong tâm hồn con người lao động bình dị. Người lái đò sông Đà là minh chứng cho nét phong cách của Nguyễn Tuân luôn nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Trong tùy bút "Người lái đò sông Đà", hình tượng sông Đà và hình tượng người lái đò nổi bật lên và cũng là hai hình tượng chính, được nhà văn miêu tả bằng tất cả bút lực, với kiến thức sâu sát về nhiều lĩnh vực, từ tri thức về âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh, văn học. Có lẽ bao tình cảm, niềm đam mê, yêu quý của người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác đã gửi gắm vào nhân vật ông lái đò, nên nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sông Đà đến mức máu thịt, hiểu và yêu thương dòng sông đến mức thuộc lòng từng tên thác tên ghềnh. Ông thuộc dòng sông như thuộc một "bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn xuống dòng". "Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước". Một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt đến trình độ "bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở". Ông lái đò cũng nắm vững "binh pháp của thần sông, thần núi" như một vị tướng tài vận dụng xuất sắc binh pháp Tôn Tử 'biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng", lại cũng như một người nghệ sĩ chuyên nghiệp nắm rõ cái mặt trận nghệ thuật đầy cam go mà ông đã theo đuổi gần kết đời người. Ông không phải thần thánh mà chỉ là một người lao động bình thường bằng xương bằng thịt nhưng với trí dũng song toàn nên ông vẫn chiến thắng thiên nhiên bạo liệt để lao động trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Tính cách của ông lái đò được thể hiện qua những cuộc giao tranh dữ dội của nước, sóng, gió và đá qua ba thạch trận.
Trong cuộc chiến không cân sức, ông lái đò như một người hùng cưỡi chiến mã, tay vung gươm vượt qua kẻ địch, như chiến thần Triệu Vân của Tam Quốc, đơn phương độc mã phá vòng vây quân thù, chỉ khác mặt trận của ông là mênh mông sóng nước. Trên cái mặt trận hung hiểm, trèo thác vượt ghềnh ấy, đòi hỏi người chiến sĩ phải cực kỳ dũng cảm và bình tĩnh để ứng phó với mọi sự biến đổi khôn lường, giảo họa của con sóng, bởi chỉ sơ sẩy một chút thôi thì ngay cả mạng sống cũng bị đe dọa, nói gì đến chuyện làm một người nghệ sĩ tài hoa trên con sông Đà nghệ thuật. Nguyễn Tuân đã đặt cho những khó khăn, cửa ải mà ông lái đò phải vượt qua một cái tên rất "nhà binh" và cũng đầy tính nghệ thuật là "trùng vi thạch trận".
Ở trùng vi thứ nhất, một chữ Dũng hiện lên khác biệt bởi sự đọ sức giữa con người và thiên nhiên không "ngang sức ngang tài", nhưng sự quyết chiến của con người đã làm cho thiên nhiên phải ngỡ ngàng, bởi ông đò thật quá "lì đòn", thật đáng khâm phục!
Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra với khí thế nghênh chiến quyết tâm thắng trận của ông lái đò. Nhưng thiên nhiên sông Đà cũng mạnh bạo không kém, những hòn đá "bệ vệ oai phong lẫm liệt" được nước thác "reo hò làm thanh viện", chúng tỏ ra liều mạng, luồng sóng hung tợn cứ xông vào tới tấp, "đá trái" và "thúc gối" liên tiếp vào bụng và hông thuyền, rồi chúng còn "đội cả thuyền lên" như muốn nuốt chửng chiếc thuyền bé nhỏ. Bằng sự chủ động, sông Đà đã tung ra những cú đánh tới tấp, phủ đầu, bao gồm luôn cả những đòn hiểm, và những kẻ "non tay" sẽ gục ngã ngay từ tuyến đầu này. Nhưng con người trên thuyền ấy thì lại không hề bé nhỏ, ông lái đò vẫn bình tĩnh giữ mái chèo bằng hai tay, giúp mái chèo không bị hất lên khỏi sóng giữ. Đến lúc này, sông Đà lại tung đòn hiểm nhất: "bóp chặt lấy hạ bộ" khiến ông lái đò đau điếng, nhưng sự đau đớn của thua cuộc còn đáng sợ hơn nỗi đau thể xác quen thuộc của vị thuyền trưởng này, thế nên, ông vẫn giữ kẹp lấy cuống lái bằng hai chân rất vững, dù mặt méo bệch vì đau đớn. Ở trùng vây này, thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm sát bờ trái và huy động hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền như thử thách tài nghệ của ông đò, và thật anh hùng, vị thuyền trưởng lão làng ấy đã vượt qua đầy dũng cảm.
Vòng vây thứ hai có phần hung hiểm hơn trước khi "tăng thêm nhiều cửa tử để lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch sang bờ hữu ngạn." Thế nhưng cái bẫy đó cũng chẳng qua nổi con mắt tinh tường của ông lái đò, bởi ông đã nắm chắc "quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này". Ông ví lái đò qua khúc này như "cưỡi hổ phải cưỡi tới cùng", phải nắm đúng cái "bờm sóng", rồi cứ thế "phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy". Ngặt thay lại có một bọn đá định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử, thì ông đò "vẫn nhớ mặt bọn này", ông tự tin "tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên chặt đôi mà mở đường tiến". Vậy là đã qua cửa ải thứ hai, nhanh và chuẩn xác.
Còn một cửa ải cuối cùng, trận này "ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ." Mới nghe đã thấy khó khăn đủ về, nhưng ông lái đò rất mạnh dạn "phóng thẳng thuyền, chọc thủng giữa cửa đó", "thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước". Vậy là đã vượt qua cả ba trùng vi thạch trận, trận nào cũng hung hiểm vô cùng.
Qua cảnh vượt thác với ba trùng vi thạch trận đầy cam go, gay cấn của người lái đò sông Đà, ta cảm tưởng mình vừa trải qua một cuộc hành động gay cấn đến nghẹt thở, hồi hộp từng giây từng phút, mà ông đò chính là nhân vật chính. Hình ảnh người lao động anh hùng, hàng ngày chiến đấu giao tranh với thiên nhiên trong sự hiểm nguy trùng trùng đã làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và bạo liệt.
Với ông đò Lai Châu, việc bàn đến những con cá dầm xanh, cá anh vũ, việc ngồi lại với nhau đốt lửa trong hang đá nướng ống cơm lam mới là cái thú vui của đời người đáng để ta nhắc đến tiêu khiển sau những giờ lao động vất vả. Ở đây, tuyệt nhiên không có một hồi ức nào về những hiểm nguy đã qua, mà tất cả đều đờm đọng lại lãng mạn, ngọt ngào. Người lái đò sẵn lòng gác lại mọi giap tranh, hơn thua, chỉ còn lại là những câu chuyện kể đời thường, đó là khí chất, là một cốt cách đẹp. Có lẽ vì vậy, chất thơ trong tùy bút cứ bàng bạc trong từng câu mỗi chữ.
Khi gác lại chiếc chèo, khi ngừng chiến đấu với con sóng dữ, người lái đò không còn là vị tướng chỉ huy trong trận thủy chiến ấy nữa, mà ông trở thành một người anh hùng trong cuộc sống đời thường, xem mọi chuyện chiến đấu ấy nhẹ nhàng như mây trôi. Đó chính là người anh hùng trong thời đại mới, thờ kỳ lao động xây dựng đất nước phát triển. Một trong những thành công của người nghệ sĩ, của một nhà văn là có thể phác thảo những nét bút hài hòa nhất về một nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, để chính quảng văn của mình sẽ tôn lên cái tài hoa kiêu bạc của nhân vật ấy một cách hoàn hảo nhất. Và qua đó, những cốt cách, những phẩm chất của con người hiện lên thật trọn vẹn.
Là người đầu tiên kể ra chính xác năm mươi trên tổng số bảy mươi ba con thác dữ, từ ngã ba biên giới Việt - Trung về đến chợ Bờ, Nguyễn Tuân như được cùng Đà giang và người đò gắn mình với miền Tây Bắc điệp trùng kỳ vĩ. Mười lăm bài tùy bút bà một bài thơ phác thảo ra đời sau chuyến đi thực tế của nhà văn đã góp cho văn học nước nhà một tác phẩm giá trị khẳng định cuộc sống và con người Tây Bắc trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Qua đó, ông gửi gắm những ước mơ của mình về một Tây Bắc phát triển, cuộc sống của người lao động tốt hơn, người ta sẽ dựng xây Tây Bắc và sông Đà để từ một con thủy quái dữ dội trở thành một đội quân hào hùng phục vụ cho con người Tây Bắc. Và tùy bút "Người lái đò sông Đà", đặc biệt hình ảnh ông lái đò dũng cảm và tài ba đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong tâm trí người đọc. Cùng với hình tượng này, phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân càng thêm ấn tượng, bởi nó đã chảy tràn thành những áng văn đẹp, góp phần phát triển nền văn chương Việt Nam với thể loại tùy bút. Và thế, Nguyễn Tuân xứng đáng là một "Đà giang độc bắc lưu" trên bình diện nghệ thuật.
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của người lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ngợi ca dưới sự kết hợp của những biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa , ẩn dụ gợi lên cảm giác mãnh liệt, hồi hộp cho người đọc. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng, một bức tranh hoành tráng về dũng sĩ vượt thác. Tất cả được tạo nên bởi cái tài, cái tâm, cái trí tuệ uyên bác cùng vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân.
Nghệ thuật luôn đòi hỏi sự sáng tạo. sáng tạo so với chính mình và người khác. Đọc "Người lái đò sông Đà", ta thấy được những nét mới trong quan điểm sáng tác của Nguyễn Tuân. Từ nhân vật Huấn Cao cho đến người lái đò sông Đà ta không chỉ thấy những đặc điểm phong cách đậm nét vẫn được bảo lưu mà còn hơn nữa thấy được sự chuyển biến tích cực trong quan niệm về con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Trước và sau Cách mạng ông đều có những thống nhất riêng, tuy nhiên trước Cách mạng ông hướng tới vẻ đẹp "Vang bóng một thời", còn sau Cách mạng, ngòi bút của ông hướng tới con người lao động. Thế nhưng nhà văn không còn đi tìm đi tìm vẻ đẹp của những con người xa vời mà đi tìm vẻ đẹp trong chính những con người lao động đời thường, ngay trong chính cuộc sống bình dị này. Đây chính là điểm chuyển biến lớn nhất trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Tuân. Họ - những con người lao động bình dị đã góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
Trước Cách mạng, ông là một người tài tử, thích chơi ngông, thích chiêm ngưỡng cái đẹp cao sang, thì sau Cách mạng, ông lại nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ lao động. Ông nhìn cái đẹp của con người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nảy sinh sôi động. Ông quan niệm rằng vẻ đẹp tài hoa của người nghệ sĩ không chỉ thể hiện trong lĩnh vực nghệ thuật mà còn được thể hiện trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống. Khi con người đạt đến trình độ điêu luyện trong công việc của mình thì khi đó vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ sẽ tỏa sáng.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 9
Tố Hữu đã từng viết:
"Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng"
Sau cuộc chiến thắng Điện Biên lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu với hiệp đinh Giơnevơ được kí kết, miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo lời kêu gọi của Đảng, miền Bắc dấy lên phong trào tình nguyện, đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế, để hàn gắn vết thương chiến tranh. Họ trở lại nhiều hơn cả những nơi xưa vốn là chiến trường. Tây Bắc Điện Biên được xem là một miền đất hứa. Hàng loạt con người mới của xã hội chủ nghĩa nô nức đến miền Tây của Tổ quốc. Họ ra đi đầy ắp tiếng hát, đầy sông đầy cầu. Sự thật cuộc sống bước vào văn chương như một quy luật tất yếu bởi nhà văn là thư kí trung thành của thời đại. Nếu Nguyễn Khải có tập truyện "Mùa lạc", Nguyễn Huy Tưởng có tác phẩm "Bốn năm sau", Chế Lan Viên có "Tiếng hát con tàu" thì Nguyễn Tuân có tập tùy bút "Sông Đà" gồm mười lăm bài kí sáng tác năm 1958 - 1960 khi nhà văn đi thực tế trên mảnh đất Tây Bắc. Linh hồn của tập tùy bút là bài kí "Người lái đò sông Đà". Tác phẩm được đưa vào trong chương trình giảng dạy như là một trong những kiệt tác của Nguyễn Tuân ở thể kí. Thành công của Nguyễn Tuân trong tác phẩm này bên cạnh việc xây dựng được hình tượng con sông Đà chân thực, sống động, ta phải kể đến tác giả đã thể hiện được hình tượng Người lái đò sông Đà tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa. Có thể khẳng định không quá lời rằng với tác phẩm "Người lái đò sông Đà", ngòi bút của Nguyễn Tuân đã nở hoa trên dòng sông văn chương của mình.
Đến với "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân, điều đầu tiên người yêu văn bắt gặp đó là hình ảnh con sông Đà được nhà văn tài ba này xây dựng vô cùng chân thực và sống động. Dòng sông ấy hiện lên dữ dội khác thường nhưng cũng nên họa, nên thơ. Nhưng con sông Đà hiện lên dù chân thực, hung bạo hay trữ tình đến đâu cũng chỉ làm nền cảnh để Nguyễn Tuân tô lên chân dung của con người mới xã hội chủ nghĩa thông qua hình tượng ông lái đò Lai Châu. Chỉ khi ông đò xuất hiện thì bức tranh Đà Giang của Nguyễn Tuân mới trở nên hoàn chỉnh bởi ông đò Lai Châu chính là chủ thể của bức tranh thiên nhiên. Có được điều đó bởi Nguyễn Tuân đã được giác ngộ lí tưởng của Đảng. Trong văn chương, những người nghệ sĩ cách mạng, thiên nhiên hiện ra dù hùng vĩ, mĩ lệ đến đâu cũng chỉ là nền cảnh để tô lên sự hiện diện của con người. Con người làm chủ thiên nhiên, làm chủ núi rừng, làm chủ dòng sông, làm chủ cả cuộc đời mình. Ông đò Lai Châu là một nhân vật như vậy.
Sở dĩ Nguyễn Tuân viết thành công ông đò Lai Châu trong thiên tùy bút của mình bởi nhắc đến Nguyễn Tuân là phải nhắc đến một nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ, cả đời chỉ phụng sự cái đẹp. Vì vậy, những nhân vật của Nguyễn Tuân dù làm bất cứ nghề nghiệp gì cũng phải là người nghệ sĩ trên nghề nghiệp của mình. Ta đã từng bắt gặp một Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, là một nghệ sĩ viết chữ đẹp. Đó còn là một Bát Lê trong "Bữa rượu máu" tuy chỉ là một đao phủ nhưng qua ngòi bút của Nguyễn Tuân lại trở thành một nghệ sĩ chém người... Ở đây, ta thấy ông đò Lai Châu cũng là một người nghệ sĩ như vậy. Dù tuổi đã vào bảy mươi nhưng khi lái thuyền trên dòng sông Đà hung bạo với nhiều thác dữ, nhiều luồng chết, nhiều vực xoáy, tay lái của ông vẫn ra hoa. Ông làm chủ dòng sông Đà, làm chủ cả thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Ông là người nghệ sĩ trên sông nước mà Nguyễn Tuân đã tìm thấy ở trên Tây Bắc. Có thể khẳng định chính người nghệ sĩ trên dòng sông Đà này đã trở thành một nguồn cảm hứng bất tận đối với ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân
Như vậy, ta có thể thấy ông đò Lai Châu bước vào trang văn đã được thể hiện một cách vô cùng trân trọng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân. Điều này chỉ có thể có ở một Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám vì lúc này, Nguyễn Tuân đã được ánh sáng của Đảng soi rọi, phù sa của nhân dân bồi đắp. Ông đứng giữa lòng nhân dân mà nhân dân là cội nguồn của nghệ thuật. Sự gắn kết đó đã được Tố Hữu nâng lên thành hình tượng thơ đẹp:
"Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền
Thuyền xô sóng dậy
Sóng đẩy thuyền lên"
Nhớ lại trước cách mạng Nguyễn Tuân vẫn chìm đắm trong vòng cái "Tôi" của một nhà văn lãng mạn tiêu biểu. Ông chỉ viết về những con người kì vĩ, lớn lao của một thời vang bóng ví như nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm "Chữ người tử tù" lấy từ nguyên mẫu ngoài đời là Cao Bá Quát. Sau cách mạng, Nguyễn Tuân đi từ cái "Tôi" cô đơn đến cái "Ta" của cộng đồng. Tuy vậy, cái "Tôi" của Nguyễn Tuân không mất đi mà trái lại, nó được ánh sáng của Đảng nuôi dưỡng, được bồi đắp bởi phù sa nhân dân và trở nên đa cảm hơn, mẫn cảm hơn. Ông tìm thấy chủ nghĩa anh hùng ngay trong đời của những người dân bình thường thời hiện đại. Vì vậy, sau cách mạng Nguyễn Tuân viết nhiều về anh bộ đội, chị dân quân, anh du kích... Đó là những con người anh hùng ngay trong đời bình thường, những con người rất bình dị. Ông đò Lai Châu là một nhân vật như vậy. Để khẳng định rằng mình đã tìm thấy chủ nghĩa anh hùng ở những người dân bình thường, Nguyễn Tuân đã để ông đò Lai Châu là một người khuyết danh khiến cho ông cũng là một con người bình thường như muôn nghìn người dân Tây Bắc khác. Họ rất bình thường nhưng cũng lại rất anh hùng mà như Nguyễn Khoa Điềm đã viết:
"Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước"
Hơn nữa, như đã nói ở trên, "Người lái đò sông Đà" nói riêng cũng như tập tùy bút "Sông Đà" nói chung được sáng tác vào những năm 1958 - 1960. Trong gi¬ai đoạn này, miền Bắc đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nghe theo tiếng gọi của Đảng, các nhà văn đã lên Tây Bắc để khai phá hồn thơ, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa trong văn chương. Đó là anh Nhẫn trong "Cỏ non" của Hồ Phương, anh Khôi trong "Nước về", Quyên trong "Cái sân gạch" của Đào Vũ, anh thanh niên không tên trong "Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Tuân Long, là Huân, là Đào, là Duệ, là Dịu, là Lâm trong "Mùa lạc" của Nguyễn Khải... Hòa vào phong trào của Đảng, Nguyễn Tuân cũng tìm thấy chân dung của con người mới xã hội chủ nghĩa ấy chính là ông đò Lai Châu. Có thể khẳng định không quá lời rằng họ chính là những bông hoa đẹp trong vườn hoa xã hội chủ nghĩa.
Như đã nói ở trên, ông đò Lai Châu trong tác phẩm này là một nhân vật khuyết danh. Điều này cho thấy Nguyễn Tuân không có ý định xây dựng ông đò theo một kiểu nhân vật điển hình. Nói cách khác, ông đò Lai Châu không phải là một điển hình văn học vì nhân vật điển hình bao giờ cũng có tên tuổi, có địa chỉ xác định, có hoàn cảnh phải điển hình. Ông đò Lai Châu tuy chỉ là một nhân vật khuyết danh bình thường trong đời sống thường nhật nhưng ông lại có một vị trí đứng rất đặc biệt trong tâm hồn người yêu văn Nguyễn Tuân. Cả đời ông có mười năm gắn bó với nghiệp sông nước. Mười năm đối với đời của một con người không phải thời gian dài. Thế nhưng trong suốt mười năm ấy, ngày nào ông cũng phải cưỡi thác sông Đà như cưỡi hổ, phải đối mặt với những trùng vi thạch trận; ngày nào ở nơi ấy ranh giới giữa sự sống và cái chết cũng vô cùng mỏng manh. Điều ấy đã khiến cho mười năm ấy dài tựa trăm năm.
Chính cuộc đời gắn bó với sông nước đã làm nên cái dáng vẻ rất riêng của ông đò Lai Châu. Nguyễn Tuân đã chỉ ra được những đặc điểm rất riêng ấy: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp cái cuỗng lái trong tưởng tượng. Ông đò Lai Châu bỏ nghề đôi chục năm nay rồi nhưng ngày nào ông cũng ngỡ mình như đang lái thuyền trên sông nước. Tiếng ghềnh sôi thác réo vẫn còn âm vang trong giọng nói của ông. Đôi mắt của ông nửa thực nửa mơ như muốn mơ về một cõi mơ xa thẳm. Nhỡn giới của ông cao vòi vọi như lúc nào cũng hướng về một bến bờ nào đó ở trong sương mù. Đã vào độ tuổi bảy mươi nhưng ông vẫn còn lực lưỡng quá. Cái đầu quắc thước được đặt trên một thân hình to khỏe gọn quánh chất sừng chất mun. Người xưa có câu "giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay". Với người lái đò, có lẽ điều quan tâm của Nguyễn Tuân là ở đôi bàn tay của ông. Đôi tay ông còn trẻ trung quá khiến cho dường như thời gian đã có bước lùi trong tuổi tác của ông đò. Như một lẽ thường tình, người nào sống quá lâu trong lam lũ vất vả thì người ấy chóng già. Riêng với ông đò Lai Châu, từ khuôn mặt đến nụ cười của ông đều là của tuổi trẻ. Đây chính là tiền đề để Nguyễn Tuân xuất thần câu văn rất đẹp: "Khuôn mặt ông he hé nửa miệng cười".
Không chỉ dừng lại ở đó, ngòi bút tài tình của Nguyễn còn lách sâu vào để khắc họa những tính cách rất riêng của ông đò Lai Châu. Vẫn biết rằng Đà giang là một con sông rất đặc biệt trên đất nước trăm sông nghìn núi này. Điều ấy đã hơn một lần được Nguyễn Quang Bích khẳng định:
"Chúng thủy giai Đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu"
Sự độc đáo của Đà giang đã tạo nên sự hung bạo của nó. Để chinh phục được con sông Đà hung bạo, ông đò Lai Châu đã bộc lộ mình là một người có tính cách phi thường như "chim hải âu chỉ quen đối đầu với sóng dữ". Ông chỉ thích lướt sóng lướt thuyền trên đoạn "thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá". Ông cũng đã từng tâm sự "Lái thuyền trên dòng sông Đà ở quãng sông không có sóng rất dễ dại chân tay và rất dễ buồn ngủ." Như vậy, một người thích đương đầu với sóng gió, thích đương đầu với gian khổ hi sinh, ông đò Lai Châu thực sự là một con người có tính cách phi thường. Nhìn rộng ra, đây là sự hóa thân của ngòi bút Nguyễn Tuân. Ông không thích những gì là bình thường, là quen nhàm bởi "cái bình thường là cõi chết của nghệ thuật". Chính vì lẽ đó, Nguyễn Tuân đã khẳng định được vị trí của mình trên tao đàn bằng những đề tài khá gai góc để bộc lộ sở trường, phong cách của một người nghệ sĩ đã được giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đóng đanh trong một chữ "ngông".
Bên cạnh đó, ông đò Lai Châu còn là một người có trí nhớ rất tuyệt vời. Trí nhớ của ông chẳng khác nào cuốn thủy văn sông Đà. Ông nhờ đến tường tận như đóng đanh vào trong lòng từng con thác. Tuy bỏ nghề đã đôi chục năm nay nhưng khi Nguyễn Tuân đi khảo sát dòng sông, ông vẫn kể vanh vách năm mươi trên tổng số bảy mươi ba con thác dữ từ ngã ba biên giới Việt - Trung về đến Chợ Bờ. Ông hiểu rõ tính cách qui luật của từng con thác dữ, của từng tướng đá nơi đây từ cách bày binh bố trận của nó. Đây không chỉ là biểu hiện trí nhớ đơn thuần của một con người mà nó còn là biểu hiện của lòng yêu nghề, coi "nghề" như "nghiệp". Ông gắn bó với nghề nghiệp của mình như con ong làm mật yêu hoa, con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời. Nhìn rộng ra, đây cũng là biểu hiện phong cách của Nguyễn Tuân. Ông cả đời chăm chỉ cần mẫn như con ong hút nhụy từ những bông hoa của cuộc sống. Không có sự cần mẫn của con ong, nhụy hoa không thể trở thành mật ngọt. Có thể khẳng định, nếu coi ông lái đò thuộc những con thác ở Đà giang như người nghệ sĩ thuộc tác phẩm của mình, coi con sông Đà là một thiên anh hùng ca của thiên nhiên Tây Bắc dữ dội, khác thường, nên họa, nên thơ thì ông đò Lai Châu thuộc bản anh hùng ca ấy đến từng dấu chấm, dấu phẩy.
Không chỉ có trí nhớ tuyệt vời, có tính cách phi thường, ông đò còn là một con người rất khỏe mạnh. Ngày nào lái thuyền trên dòng sông Đà, ông luôn phải tập trung cao độ, người luôn phải dựng đứng. Ông phải luôn mắt, luôn chân, luôn tay, luôn gân và cả luôn tim. Chỉ cần khinh suất một chút là cả người và thuyền sẽ bị lật úp dưới dòng sông Đà mà như có lần Nguyễn Tuân đã mô tả: "Có những con thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới." Thế nhưng ông đò Lai Châu vẫn chiến thắng những đoạn sông hung bạo vì ông là một người trí dũng. Gặp những cái hút nước, người khác phải run tay thì ông lại bơi dẻo tay chèo, nắm chặt lấy bờ sóng để phóng qua. Cũng đã có những lúc thuyền của ông đò bị sóng nước ùa vào bẻ gãy cán chèo, tóm lấy thắt lưng, dùng đòn tỉa, đòn âm làm ông đuối sức, mắt hoa lên, nhìn cửa sông ngỡ là cửa biển, cả một rừng đom đóm ùa xuống châm lửa xuống đầu sóng... Mặc dù vậy, ông đò vẫn không hề buông tay, tiếng chỉ huy tay chèo vẫn vô cùng ngắn gọn và đầy tỉnh táo vì ông là một người trí dũng hơn người.
Ngoài ra, ông đò Lai Châu còn là một con người rất khéo léo. Lái thuyền trên dòng sông Đà thực sự là một nghệ thuật. Ông đò Lai Châu vốn là một nghệ sĩ trên sông nước vậy nên tất cả những nhịp chèo của ông khi thì khoan thai, khi thì mạnh khỏe, dứt khoát. Ông nhớ rất rõ từng con thác, từng tướng đá và biết rất rõ lúc lui lúc tiến vô cùng nhịp nhàng. Có những tướng đá ông tránh ra để giảm tay chèo, nhưng có những con thác ông đè sấn lên, chặt đôi ra để mở đường tiến. Nhiều lúc thuyền của ông đò như một cái tên tre xuyên qua cổng đá cánh mở, cánh khép. Sau khi vượt qua ba trùng vi thạch trận, thuyền của người nghệ sĩ lái thuyền trên dòng sông Đà ấy lại trôi vào một quãng sông lặng tờ, yên ả, nhịp chèo trở nên khoan thai như thuyền tôi trôi trên sông Đà. Rồi cứ thế, qua cái quãng sông đầy nên thơ, người nghệ sĩ lúc này ngồi thản nhiên như để ung dung ngắm cảnh ở nơi đây. Tối đến, nhà đò lại neo đậu trong một cái hang lạnh thổi lửa nướng cơm lam và kể về việc nhà cửa, về cách làm ăn, kể về những loài cá quý hiếm chỉ có ở sông Đà. Tuyệt nhiên Nguyễn Tuân không thấy những con người nơi đây kể về chiến công của mình sau một trận vượt thác. Đó là bởi đức tính anh hùng là một phần cố hữu trong tâm hồn của người lái đò nơi đây, trở thành một phần bản chất của người dân Tây Bắc. Đứng trước đức tính khiêm nhường của người Tây Bắc, cái "Tôi" của Nguyễn Tuân co cụm lại, câu văn trở nên đầy tế nhị, không phô trương, kéo dài, ngồn ngộn ngôn ngữ như ở những đoạn văn trên nữa. Điều này chỉ có thể có ở một Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám mà thôi.
Như vậy rõ ràng, thông qua "Người lái đò sông Đà", với khoảng vài trang sách, vài trang tùy bút, Nguyễn Tuân đã dựng lên trước mắt chúng ta một bức chân dung của người nghệ sĩ lái đò. Ông thực sự là người nghệ sĩ trên sông nước. Lái thuyền trên dòng sông Đà hung bạo, tay lái của ông vẫn ra hoa nhưng điều quan trọng mà ta cần phải bàn đến đó là ông chính là bông hoa đẹp trong vườn hoa xã hội chủ nghĩa. Có lẽ đây là bức chân dung chân thực nhất về vẻ đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa, những con người sống rất âm thầm, giản dị, sẵn sàng trở thành một hậu phương lớn của một miền Bắc để sau này chi viện cho tiền tuyến lớn ở miền Nam thành đồng Tổ quốc.
Có thể khẳng định rằng bài kí "Người lái đò sông Đà" đã bộc lộ toàn bộ sở trường, phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Người ta yêu Nguyễn Tuân vì Nguyễn Tuân rất có tài. Người ta trọng Nguyễn Tuân vì ông là một người nghệ sĩ của cái đẹp, người nghệ sĩ của hai chữ "thiên lương" trong sáng. Nhưng nói một cách khách quan, văn của Nguyễn Tuân không phải ai cũng ưa chuộng, nhất là những bài tùy bút bởi Nguyễn Tuân hay viết những câu văn rất dài cùng những tư liệu khá khô khan, khó hiểu. Bài kí "Người lái đò sông Đà" cũng không tránh khỏi những tì vết kể trên. Tuy nhiên, với bức chân dung của ông đò Lai Châu cùng tất cả những gì Nguyễn Tuân đã cống hiến trên thi đàn văn chương, Nguyễn Tuân thực sự là một tài năng lớn, là một nhân cách lớn mà như Nguyễn Minh Châu đã nói: "Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ."
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 10
Nguyễn Tuân là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam đương đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về vẻ đẹp của con người, về cuộc sống, nơi gắn kết những suy tư, tình cảm với quê hương. Nguyễn Tuân được độc giả yêu mến chính bởi phong cách nghệ thuật riêng, độc đáo ấy. “Người lái đò sông Đà” là một bài văn xuôi thể hiện rõ nhất đặc điểm tiêu biểu của phong cách này.
“Người lái đò sông Đà” trước hết là một tác phẩm về con người và dòng sông. Nhưng dưới ngòi bút tâm huyết và tài hoa của ông, mọi cảnh sắc thiên nhiên đều được biến thành tác phẩm nghệ thuật và con người trở thành nghệ sĩ điêu luyện của nó. Khả năng quan sát tỉ mỉ, cẩn thận, cùng vốn từ rất phong phú, chính xác của Nguyễn Tuân đã tạo nên những hình ảnh hết sức sống động, những hình ảnh tuyệt vời có nhiều sức hấp dẫn trong tự nhiên của cây bút rất độc đáo này.
Người lái đò trên sông Đà mà Nguyễn Tuân nhắc đến trong tác phẩm là một ông lão đã ngoài 70 tuổi, người đã dành phần lớn cuộc đời mình cho việc chèo thuyền trên sông Đà. Ông là một người lái đò lão luyện: “Trên sông Đà ông đã xuôi ngược hơn trăm lần, rồi điều chỉnh bánh lái cho nó đứng yên chừng sáu mươi lần…” Trong bao nhiêu thập kỷ ông đã làm công việc nguy hiểm và khó khăn này.
Người đàn ông này là người từng trải, hiểu biết, rất giỏi chèo thuyền và đã đạt đến trình độ “xem và ghi nhớ kỹ như đinh đóng cột mọi dòng thác dữ dội”. Nguyễn Tuân càng thể hiện sự ngưỡng mộ của mình đối với con người ấy: “Sông Đà đối với người lái đò này như một bản anh hùng ca, một bản hùng ca mà ông biết từng dấu chấm than, dấu câu và cả những từ ngắt dòng”. Đó là một so sánh thú vị rất “văn chương” và cũng “rất Nguyễn Tuân”.
Hình ảnh người lái đò với thân hình cao và gọn như cây mun sừng và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “vàng mười”. Ông đã đương đầu với những thử thách của dòng sông Đà với sức mạnh của những tảng đá khổng lồ, với sức mạnh của những cạm bẫy khủng khiếp: dòng sông uốn khúc, thấy bọt sóng trắng xóa chân trời. Đá ẩn nấp đầy trong lòng sông đã hàng ngàn năm, dường như mỗi khi một chiếc thuyền xuất hiện trong không gian hiu quạnh và sấm sét này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền.
Một mình, ông chiến đấu như một dũng sĩ, hai tay ngăn mái chèo không bị sóng hất lên. Mặt nước ầm ầm hò la, ập vào làm gãy cán chèo, võ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền. Nước túm lấy eo thuyền như đô vật, đòi lật thuyền. Có lúc tưởng như người lái đò bị nhấn chìm giữa dòng sông. Những hình ảnh táo bạo, chân thực này cho người ta thấy sức mạnh to lớn của dòng thác hoang sơ đến mứ lóa mắt. Lơ là một giây phút là phải trả giá bằng mạng sống của mình. Nhưng bản lĩnh thôi chưa đủ, khả năng lèo lái con thuyền đến mức điêu luyện của người cầm lái mới quan trọng. Tác giả đã so sánh người lái đò sông Đà với một người lái xe lao xuống dốc, tuy rất nguy hiểm nhưng người lái cũng phanh chân, phanh tay, tiến tới lui “chứ như con thuyền lao xuống thác, không có phanh”. Chỉ có thể lao tới chứ không lao ngược, rẽ vào giữa dòng. Nguyễn Tuân sử dụng biện pháp so sánh, nhưng có những hình ảnh rất táo bạo để khắc học nên dòng sông Đà luôn biến động và thay đổi. Ở mỗi nơi đều có một cạm bẫy nguy hiểm đòi hỏi người lái đò phải có cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ”. Lại có những “hút nước” xoáy sâu như lòng giếng,…
Sông Đà nguy hiểm và khó khăn biết bao cho con người. Tuy nhiên, ông lái đò cố nén đau, nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái bánh lái. Dù gương mặt méo bệch đi vì những đòn hiểm, nhưng bánh lái vẫn nghe rõ mệnh lệnh ngắn gọn và tỉnh táo của người lái đò. Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông Đà, Nguyễn Tuân muốn hướng đến một mục đích lớn: ca ngợi lòng dũng cảm và tài trí của con người, ca ngợi chiến công vĩ đại của người lái đò, vượt qua bao ghềnh thác, sóng to gió lớn mang thuyền trở lại bến lặng không chỉ một lần mà hàng trăm lần trong 15 năm làm người lái đò qua sông Đà. Cuộc đấu tay đôi giữa người lái đò với sông Đà thì người lái đò đã thắng, sau đó lại trở về với cuộc sống yên bình. Cảm hứng lãng mạn đậm đà và trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn hiện thực và khiến đoạn văn không thể cưỡng lại được. Đây là một bài hát ca ngợi về công việc, về những con người lao động.
Mười năm làm nghề lái đò, dù đã mấy mươi năm làm nghề lái đò nhưng người lái đò vẫn còn một “củ khoai nâu” trong lồng ngực, đó cũng là một hình ảnh đáng quý đối với Nguyễn Tuân.
Xin cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng tôi cơ hội được thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật sáng tạo. Bên cạnh một tác phẩm chân thực cho chúng tôi biết về cuộc sống, văn hóa, lịch sử địa lý, ngôn ngữ… thì cũng là một tác phẩm nghệ thuật kiến trúc độc đáo cho phép chúng ta có sự cảm thụ sâu sắc về vẻ đẹp hùng vĩ của tạo hóa và đặc biệt là vẻ đẹp của người dân lao động thông người lái đò sông Đà.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 11
Nguyễn Tuân là nhà văn văn xuôi Việt Nam đương đại tiêu biểu. “Người lái đò sông Đà” trích trong tập Ký sự sông Đà (1960). Đó là kết quả của chuyến đi Tây Bắc năm 1958 để tìm kiếm “chất vàng” của thiên nhiên và chất vàng mười trong tâm hồn con người. Đọc tác phẩm, ta tìm thấy hình ảnh con sông Đà mang hai nét tính cách hung bạo và trữ tình. Và bên cạnh là hình ảnh người lái đò dũng cảm và tài ba trên sông.
Điểm đặc biệt đầu tiên của người lái đò là ông không có một cái tên riêng, mà tên của ông chỉ gắn liền với nghề nghiệp, địa danh của ông, “Người lái đò Lai Châu”. Điều đó cho thấy ông đại diện cho vẻ đẹp của người lái đò sông nước, cần cù lao động. Người lái đò là một người đàn ông 70 tuổi. Ông đã dành phần lớn cuộc đời của mình để chèo thuyền trên dòng sông Đà. Trên dòng sông ấy, ông đã xuôi ngược hơn 100 lần, cầm lái khoảng 60 lần”. Giới thiệu về người lái đò chỉ bằng vài câu ngắn gọn, người đọc đã hình dung khá rõ về ngoại hình và tính cách của ông.
Người lái đò có vẻ ngoài là một người khỏe mạnh, từng trải, có ngoại hình và tính cách do đặc thù môi trường lao động của vùng sông nước tạo nên. Tay ông lêu nghêu trông như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh ra như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như sông nước. Nguyễn Tuân gọi con người này là “thứ vàng mười” bởi ông đã đứng trước thử thách và chiến thắng sông Đà.
Thứ nhất, người lái đò Lai Châu là một người đàn ông tài năng và dũng cảm với một thái độ nghệ sĩ thầm lặng. Ông tài hoa, có từng trải và lão luyện đến mức nhớ tận mắt như đinh đóng cột cả suối thác nguy hiểm này. Nguyễn Tuân thể hiện sự ngưỡng mộ đối với người lái đò bằng cách so sánh, liên tưởng độc đáo “Đối với người lái đò, sông Đà như một bản anh hùng ca mà ông thuộc lòng cả dấu chấm than lẫn câu thoại”. Ông biết rõ quy luật mai phục của đá, biết rõ cửa sinh tử.
Bản lĩnh của ông được thể hiện qua ba trận chiến. Vòng đầu tiên ở sông Đà dường như là một kẻ thù xảo quyệt và đáng ngại, không chỉ có sóng lớn, thác nước hút mà còn có quân “bọt tung bọt trắng xóa chân trời đá”. Đá đã ẩn chứa hàng ngàn năm để xây dựng trận địa và binh pháp nguy hiểm. Vòng tròn này có năm cửa trận, bốn cửa tử, một cửa sinh, chia làm ba hàng tiền vệ, trung vệ và hậu vệ.
Đá oai phong lẫm liệt tiến lùi thách thức còn sóng nước như quân liều mạng. Nhưng người lái đò vẫn vững tay chèo để không bị sóng đánh. Nắm lấy tay lái, ông cố nén vết thương và chiến đấu. Vào vòng thứ hai, sông Đà nay mở thêm cửa tử, bên tả ngạn chỉ còn một cửa sinh. Dòng thác hổ báo mạnh mẽ. Thủy binh xông ra giữ thuyền đến cửa tử. Người lái đò xuôi dòng như cưỡi trên lưng cọp. Ông bám chặt vào đỉnh sóng, giữ chặt dây cương tiến đến cửa sinh. Bốn năm đoàn thủy quân chạy ra cầm thuyền lại. Dòng sông như một con thú dữ đòi ăn thịt thuyền. Nhưng ông già dằn mặt từng đứa nắm chắc quy luật của thần sông thần đá không hề nao núng, tỉnh táo, sáng tạo thay đổi chiến thuật chiến thắng sông Đà.
Hai lượt trước thua người lái đò, lần thứ ba thác càng lúc càng chảy xiết. Ít cửa, phải trái đều là cửa tử, luồng sống ở giữa ngay cạnh voi đá vọng, ông lái đò vẫn bình tĩnh dũng cảm phóng thẳng thuyền tiến tới. Con thuyền vút qua cánh cổng đá để rồi chiến thắng đi qua.
Không chỉ dũng cảm, tài ba mà người lái đò sông nước còn có phong thái của một nghệ sĩ. Sau cuộc vượt thác, dường như mọi nguy hiểm như tan biến. Người lái đò đốt lửa nướng ống cơm lam bàn chuyện cá anh vũ, cá rồng xanh xem như không hề có chuyện gì xảy ra. Ngay cả khi người lái đò phải vật lộn từng ngày để đối mặt với hiểm nguy rình rập, đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của người nghệ sĩ.
Khi xây dựng nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân đã chú ý khắc họa nét tài hoa của người nghệ sĩ “nhân vật phải là người nghệ sĩ trong nghề của mình”. Tác giả chăm chút tạo ra những tình huống thử thách để nhân vật bộc lộ bản chất thật. Sông Đà càng hung dữ, người lái đò càng tài hoa, táo bạo. Tác giả biết nhiều thao lược miêu tả, so sánh, liên tưởng độc đáo, sử dụng ngôn ngữ phong phú để làm nổi bật sông Đà và người lái đò Sông Đà. Tóm lại, sự thành công trong việc xây dựng nhân vật Người lái đò Lai Châu đã tạo cho tác phẩm một sức hấp dẫn riêng trong nền văn học nước nhà.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 12
Đoạn trích “Người lái đò sông Đà” là đoạn văn xuất sắc, là dấu ấn chứng minh tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân cũng như là sự hiểu biết về thiên nhiên và con người Tây Bắc của ông. Đây chính là áng văn ca ngợi con người lao động vượt mọi khó khăn để chinh phục thiên nhiên cũng như miêu tả được sự hùng vĩ của dòng sông Đà.
Bên cạnh hình ảnh con Sông Đà hung ác với địa hình nhấp nhô nguy hiểm kèm theo dòng nước chảy siết chính là con người lao động nhỏ bé nhưng luôn cần mẫn và luôn làm chủ được công việc của mình. Đó là một ông lão hơn bảy mươi tuổi, tác giả không miêu tả về khuôn mặt ông nhưng lại kể khá rõ về dáng người đậm chất dân lao động. Đó là người có cánh tay rắn chắc như trai trẻ “tay ông lêu lêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng” cùng với cặp mắt tinh anh nhìn được rất xa. Ông lái đò đã dành phần lớn thời gian trong cuộc đời mình để làm công việc lái đò vượt sông Đà. Trên dòng sông nguy hiểm đó, ông đã đi đi lại lại hơn một trăm lần với hơn sáu mươi lần giữ tay lái chính. Hơn chục năm trong nghề giúp ông có những trải nghiệm quý giá, ông là người hiểu biết, từng trải và đã thông thạo từng nước đi đến mức có thể nhớ được “tất cả những luông nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Như nhà văn Nguyễn Tuân, người lái đò chuyên nghiệp này có thể coi “sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc cả đến dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Con sông Đà hung dữ đó có ba chặng chính cần phải vượt qua.
Đầu tiên là trùng vi thạch trận thứ nhất mở ra từ khi xuất phát. Ngay khi vào trận, những vũ khí ác liệt của dòng sông đã xuất trận với sóng nước dữ dội, đá sông được bài trí để đánh vào mạn thuyền. Đá sông cứng rắn lao vào bẻ gãy cán chèo thuyền, đâm thẳng vào bụng và hông thuyền. Còn dòng nước như một vận động viên đô vật, luôn tìm cách túm lấy ông lái đò để vật ngã người chỉ huy xuống. Dù ông lái đò đã bị thương nhưng ông vẫn kiên cường nghiến răng nén đau đớn, hai chân vẫn trụ vững kẹp chặt không buông cuống lái thuyền. Ông vẫn luôn giữ được sự tỉnh táo để chỉ huy con thuyền đi đúng hướng, vượt qua được chiến trường.
Đến trùng vi thạch trận thứ hai, mọi thứ dường như khác nhiều so với thạch trận một. Thấy con thuyền qua được hiệp một an toàn, sông Đà đã lập tức thanh đổi thế trận, tăng thêm nhiều thử thách hơn, nhiều cửa tử hơn. Cửa sinh duy nhất được bố trí lệch hẳn sang tả ngạn, có nhiều che chắn hơn, bí ẩn hơn với mục đích đánh lừa ông lái đò. Nhưng với hơn trăm lần đi, ông lái đò đã nắm rõ được từng nước đi bố trí của chúng trong lòng bàn tay. Ông cưỡi thác sông Đà như cưỡi trên lưng hổ, nhanh chóng nắm lấy bờm sóng rồi lấy sức bật con thuyền lách vào cửa sinh. Chính vì ông quá hiểu quy luật phục kích của đá, quá thuộc binh pháp của dòng sông nên có thể nhanh chóng hành động khiến cho bọn đá không kịp trở tay để túm lấy ông.
Trùng vi thạch trận cuối cùng xuất hiện với ít cửa hơn nhưng cửa bên phải hay cửa bên trái đều là cửa tử cả. Sông Đà đã mưu trí đặt luôn cửa sống duy nhất ở giữa trung tâm con thác. Biết là nguy hiểm nhưng với tất cả kinh nghiệm của mình, ông lái đò đã kiên quyết chỉ huy con thuyền lao thẳng vào giữa cửa thác ” Vút vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”.
Đây chính là đỉnh điểm của nguy hiểm cũng như cao trào của trận chiến. Con thuyền lướt trên đỉnh sóng sông Đà và hình ảnh rõ nhất trên mũi thuyền chính là người lái đò tài ba kiên cường bất khuất. Dù thiên nhiên hùng vĩ nguy hiểm thì con người vẫn làm chủ được, vẫn huy hoàng chiến thắng mọi trận chiến với thiên nhiên. Bao nhiêu binh mã được bố trí dưới lòng sông đều phải ở lại vươn theo sắc mặt xanh lè và ánh nhìn tức giận về phía con thuyền. Hình ảnh con người mà được tác giả ví với “khối vàng mười” thực tế lại chính là những người lái đò với vết hằn của thời gian, vết tích của những công việc nguy hiểm. Người lái đò này không được Nguyễn Tuân đặt tên như là đại diện cho biết bao người lái đò khác cũng đang chăm chỉ lao động, ngày ngày anh dũng chiến đấu.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã tái hiện cho người đọc một bức hùng ca đầy vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên. Đó là những kiến thức về địa lý, về lịch sử,...những kiến thức thực tế mà tác giả đã tích lũy được trong thời gian đi thực tế tại vùng Tây Bắc.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 13
Nguyễn Tuân là người đam mê du lịch. Sở thích ấy đã bồi đắp cho ông vốn hiểu biết phong phú về cuộc đời cũng như con người. Đó là lý do tại sao các tác phẩm của ông thường tập trung vào những điều đẹp đẽ nhất trong cuộc sống. Đặc biệt, qua tác phẩm Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm nhận về một khung cảnh độc đáo giữa thiên nhiên và con người, đó là hình ảnh người lái đò trong cảnh vượt thác.
Bài văn “Người lái đò sông Đà” được sáng tác năm 1960, là kết quả của chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc để khám phá cảnh sắc thiên nhiên cũng như tìm kiếm cái “vàng mười” trong cảnh vật và con người nơi đây. Qua đoạn văn, hình ảnh người lái đò hiện lên thật ấn tượng giữa sự hung bạo của dòng sông Đà. Trong đó, hẳn bạn đọc vẫn chưa quên cảnh vượt thác điêu luyện và tài hoa của người lái đò, một cảnh mà Nguyễn Tuân gọi là cảnh độc đáo, “xưa nay chưa từng có”.
Người lái đò xuất hiện là một ông lão trạc 70, có ngoại hình rất đặc biệt: hai tay khập khiễng như cây sào, hai chân lúc nào cũng khuỵu xuống như đang ôm một thân cây tưởng tượng, giọng nói lanh lảnh. Như tiếng nước trước ghềnh, anh nhìn quanh như vọng về một bến xa trong sương. Nguyễn Tuân chỉ với vài nét chấm phá cũng đủ khắc sâu vào tiềm thức người đọc một hình ảnh người lái đò gắn bó, một con người sinh ra và làm việc trên sông nước, một con người suốt đời chiến đấu với thác. đá, sóng, nước sông Đà để tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hiểm trở và hung bạo ấy của sông Đà, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật vẻ đẹp của tài năng và lòng dũng cảm của người lái đò qua thác ghềnh hiểm trở, qua cuộc chiến đấu ác liệt giữa những người dân với thiên nhiên. Người lái đò nhỏ bé và con thuyền mỏng manh của mình phải đối mặt với thiên nhiên hung bạo của dòng sông, một cuộc chiến không cân sức nhưng những con người dũng cảm, tỉnh táo, khôn ngoan và khéo léo đã đưa được con thuyền trở về an toàn. Vượt qua những tảng đá siêu nhỏ trên sông một cách ngoạn mục.
Trong trận vây đánh thứ nhất, sông Đà đã bày binh bố trận với 4 cửa tử, 1 cửa sinh. Ở đây nước kết hợp với đá vang lên như một thanh; những phiến đá sừng sững, uy nghiêm; Một trong số họ trông giống như đang yêu cầu thuyền tuyên bố tên của mình trước khi chiến đấu và thách thức thuyền đến gần. Khi “đá sắp xếp xong thuyền sẽ tới”. Người lái đò không sợ hãi, tiếp cận những viên đá siêu nhỏ đầu tiên với tâm thế sẵn sàng nhất. Con sông Đà khôn ngoan, nó không đấu tranh trực tiếp với người lái đò mà đấu tranh bằng nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đây nó dùng tiếng thác nước để khiêu khích "nhại", bây giờ nó dựa vào "thác nước như xương thay đá". Sông Đà hiểm trở, nó lao tới “xông hàng”, “liều mình đá vào nách trái”, “quỳ xuống bụng thuyền”, có khi “đập nát cả thuyền”. Sông Đà khôn ngoan và hung dữ nhưng người lái đò không sợ, "người lái đò giữ mái chèo cho khỏi sóng". Lúc này, sông Đà đổi thế bám thuyền và dùng đòn "tóm lấy eo". Người chèo thuyền yêu cầu lật ngược thuyền lại. Không cho người lái đò có cơ hội quay đầu lại, dòng sông Đà đã đổi thế tung đòn hiểm nhất “cả dòng nước thúc vào háng người lái đò”. Khi sóng đánh vào người lái đò, điều nguy hiểm nhất khiến anh ta “méo mặt” là chính mình. Khuôn mặt người lái đò không chỉ là một khuôn mặt biến dạng, trắng bệch vì đau đớn mà còn xanh xao vì bị ngâm lâu trong nước lạnh. Được miêu tả gián tiếp bằng thị giác và xúc giác, “mặt sông lập tức sáng bừng lên như một đàn nước, đom đóm rừng lao xuống đốt sóng.” Đó là một cuộc chiến không cân sức, dòng sông Đà hùng vĩ, dữ dội, người lái đò trông nhỏ bé, người chèo đò thì vô cùng khỏe khoắn, qua miêu tả ngắn gọn, tỉnh táo qua giọng chỉ huy của người lái đò, Nguyễn Tuân không giấu được sự khâm phục cho sự dũng cảm, dũng cảm và điềm tĩnh của người lái đò.
Trong vòng vây thứ hai, người lái đò không chỉ dũng cảm, kiên cường mà còn thể hiện trí thông minh của một người lái đò lão luyện, tinh thông binh pháp của thần sông, thần đá “ở trong lòng” dòng sông, thác nước. Ở khúc sông này, sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử, các cửa sinh được bố trí trôi về hữu ngạn. Trong trận này, ông đánh trước với sách lược đánh nhanh thắng nhanh. Nắm vững bờm sóng sẽ tiến, nếu vững tay lái sẽ “chạy nhanh”, “lái nhanh”, tốc độ cực nhanh, nhưng sông Đà thì không phải dạng vừa đâu họ lao ra và cầm cự. Con đò và đoàn người tử nạn, người lái đò cảnh cáo “tránh chèo mau”, “kẻ xô người mở lối” quả là Nguyễn Tuân, bậc thầy ngôn ngữ, huy động hàng loạt động từ, cổ vũ. Mỗi nhịp của ông lão chèo thuyền là ông điều khiển con thuyền: nắm, phóng, bẻ lái, chạy, … Ông lái con thuyền như một vị tướng tài điều khiển, chế ngự con ngựa bất kham của sóng và của nó. Sự thông minh. và tài năng mà ông lão đã vượt qua mọi cửa ải tử thần, khiến những kẻ thua cuộc phải lộ rõ vẻ mặt “tiếc hùi hụi”. người lái đò - người tài ba, trí tuệ, một vị tướng chân chính đã đánh bại cả thần sông.
Có lẽ tất cả ác ý của sông Đà đều tập trung ở mầm cuối cùng. Không chỉ ít cửa ải hơn, trái phải đều chết, đường sinh mệnh nằm ngay giữa quân phòng thủ. Bốn năm bọn quân phía sau, lính thủy đánh bộ ở cửa khẩu bên tả ngạn Liên Xô lao ra tóm lấy thuyền lôi cả nhóm vào chỗ chết. Con sông ngày càng xảo quyệt và hiểm độc, muốn dồn con người vào chỗ chết. Sự dữ dội của dòng thác được nhà văn miêu tả bằng một ẩn dụ tài tình về cánh cổng đá đóng mở - đó là một mặt tiền bằng đá mà ở đó bức tường thành kiên cố của đồn kết thúc phù hợp với sự tấn công dồn dập, không ngừng nghỉ của những con sóng hung dữ. Nhiệm vụ của người lái đò là phóng thẳng con đò, đâm thẳng vào một khúc sông ngay giữa chòi canh, đúng lúc “cổng đá” mở ra giữa sóng dữ dội. Có lẽ lúc này, người chèo lái con thuyền của anh mới thực sự là một tay lái hoa. Không dùng quá nhiều từ, nhiều câu, hình ảnh con thuyền luồn qua khe hẹp được miêu tả bằng những câu văn ngắn gọn nhưng có dấu câu, sự kết hợp giữa động từ và danh từ theo sau: nhảy lên, nhảy ra , cửa trong, thể hiện trí tuệ và sức mạnh của người lái đò. Tốc độ phi thường của con thuyền dưới bàn tay chèo, xuyên, lướt của người lái đò không chỉ như một mũi tên tre mà còn được miêu tả tinh tế qua làn hơi nước lướt qua, con thuyền không còn lướt nữa trên mặt nước thực sự bốc hơi trong hơi nước phía trên mặt sóng. Tài năng của người lái đò thời bấy giờ bao gồm trí tuệ, kinh nghiệm, thể lực, kỹ thuật điêu luyện và sức bật - tất cả đều đạt đến mức phi thường, kỳ diệu. Vì vậy, cuối cùng bằng tất cả tài năng, trí thông minh và lòng dũng cảm của mình, người lái đò đã vượt qua con sông Đà nguy hiểm.
Cảnh vượt thác sông Đà có lẽ là một trong những kiệt tác nghệ thuật trong cuộc đời Nguyễn Tuân. Người lái đò dũng cảm và tài hoa đã chiến thắng ngoạn mục trên dòng sông Đà hung dữ và hiểm trở. Cảnh vượt thác sông Đà có lẽ đã quá quen thuộc trong suốt mấy chục năm hành nghề lái đò của ông, nhưng dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân nó đã thực sự trở thành một biểu tượng đẹp đẽ nhất của vùng núi Tây Bắc. Từng câu, từng chữ đều được Nguyễn Tuân chăm chút, từng chút một, để người đọc được đứng trên cùng một con thuyền, tận mắt chứng kiến từng hành động, từng bước chuyển mình tài hoa của người lái đò.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 14
Tùy bút Sông Đà là tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Tuân sau 1945. Sau những cuộc chuyển mình dữ dội, Nguyễn tuân vẫn trung thành với thể loại tùy bút và liên tục gặt hái những thành tựu rực rỡ.
Với những chi tiết hình ảnh trong sáng, gợi cảm đầy chất thơ, Nguyễn Tuân không chỉ đưa lại cho người đọc những hiểu biết phong phú, nhiều mặt về sông Đà, về thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc mà còn gợi lên trong chúng ta một niềm cảm xúc và tin yêu. Chính trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ vừa hung bạo, vừa trữ tình ấy, Nguyễn Tuân đã khắc họa rõ nét chân dung con người Tây Bắc, mà cụ thể ở đây là hình tượng ông lái đò sông Đà qua cái nhìn và miêu tả của Nguyễn Tuân. Ông lái đò không chỉ là một người lao động trí dũng tuyệt vời mà còn là một nghệ sĩ thực thụ trong công việc lao động sông nước của mình.
Trước hết, nhân vật ông lái đò được tô đậm qua hình dáng và nghề nghiệp đặc thù cùng với độ am hiểu vô cùng sâu sắc dòng sông.
Về hình dáng bề ngoài ông lái đò: Mọi chi tiết miêu tả của Nguyễn Tuân đều gắn liền với nghề nghiệp và công việc sông nước của ông (tay ông lêu nghêu như cái sào, chân thì lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh,…). Ông lái đò là một người tài trí, hiểu rõ con sông Đà như là một bàn tay của mình vậy. Ông thuộc lòng từng con thác, từng hút nước, xoáy nước. Thậm chí là từng tảng đá trên sông. Nói như Nguyễn Tuân là ông lái đò hiểu rõ: “binh pháp của thần sông, thần đá,…” Ông lái đò là một con người dũng cảm, hàng ngày xuôi ngược trên sông Đà, phải đối mặt với hiểm nguy, đối mặt với cái chết nhưng phong thái của ông vẫn hết sức bình tĩnh, chủ động, tự tin, không mảy may lo sợ. Một phẩm chất của ông lái đò là sự tài hoa nghệ sĩ: ông tỏ ra khéo léo, điêu luyện, điều khiển con thuyền vượt qua các ghềnh thác, với tay lái “ra hoa, mà chỉ một phút sơ ý, lóa mắt hay trở tay đều phải trả giá bằng tính mạng của mình”.
Những phẩm chất của ông lái đò được thể hiện tập trung và đầy đủ nhất qua cuộc quyết đấu sinh tử giữa ông lái đò và con sông Đà. Con sông càng dữ dằn, nham hiểm, độc địa bao nhiêu thì chân dung của ông lại càng cao lớn hùng vĩ bấy nhiêu. Ông lái đò là một người khiêm tốn, bình dị. Sau khi đưa con thuyền vượt qua các ghềnh thác cập bến bình an, đêm hôm đó, ông lái đò và các bạn chèo của mình ngồi trông đã nồi lửa nướng cá ở trong hang. Họ bàn tán sôi nổi về cá dầm xanh, cá anh vũ, nhưng tuyệt nhiên không nói gì đến những hiểm nguy vừa trải qua. Đối với ông lái đò, đó chỉ là những công việc bình thường hàng ngày, chẳng có gì phải bận tâm.
Có lẽ người lái đò sông Đà đã gắn bó với dòng nước dữ dội này từ thuở nhỏ, cuộc đời ông được tính bằng sóng gió, bằng những mùi nước trên sông. Nhìn dáng vẻ bề ngoài của ông lái đò, thực sự là con người được sinh ra vì nghề nghiệp của mình. Mọi chi tiết miêu tả của nhà văn Nguyễn Tuân đều gợi đến dòng sông và nghề nghiệp “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông nào cũng khuỳnh khuỳnh” gò lại như kẹp lái một cuốn lái. Tưởng tượng giọng ông lúc nào cung ào ào như nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới với ông vời vợi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”.
Hầu hết các nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Tuân đều là những con người tài hoa, nghệ sĩ ( khái niệm nghệ sĩ ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng; không phải chỉ nói về những con người làm về nghệ thuật mà là tất cả những ai tỏ ra thành thạo, điêu luyện trong công việc, nghề nghiệp của mình). Ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” là con người như vậy. Để làm nổi bật sự tài trí, dũng cảm tuyệt vời và nghệ thuật can cường của người lái đò, Nguyễn Tuân đã tái hiện lại một cuộc vượt thác leo ghềnh của ông ở một đoạn sông dữ dội, hiểm trở nhất. Hai đối thủ truyền kiếp: con sông Đà và người lái đò bộc lộ đầy đủ tính cách của mình khi được đặt vào một cuộc giao tranh dữ dội. Đây cũng là cơ hội tốt để Nguyễn Tuân thể hiện hết sự tài hoa uyên bác cũng như cái vốn chữ nghĩa phong phú của ông.
Từ lần đầu tiên cầm lái trên con thuyền độc mộc rồi trở thành người chỉ huy trên con thuyền nhỏ bé này. Những luồng nước, những hút nút xoáy, những tảng đá trên sông qua những năm tháng đã in vào óc ông quen thuộc như lòng bàn tay. Nhưng cái dữ dội, mạnh mẽ của nghề nghiệp mà ông lái đò gắn bó khác hẳn đời thường càng biết rõ con sông Đà, người vượt thác càng phải cẩn thận bởi sự lơi lỏng trong gang tấc đều phải trả giá bằng tính mạng. Kẻ thù gần gũi ấy, người bạn trái nết ấy không chấp nhận một lỗi lầm nào hết, từng phút từng giây còn cảm thấy bọt sóng tung dưới chân mình. Người lái đò còn phải căng mình như một sợi dây đàn để đón nhận tất cả những biến chuyển dù là nhỏ nhất của dòng sông. Hình ảnh người lái đò sông Đà được tạo nên trong tùy bút của Nguyễn Tuân như được nhào nặn từ nhiều chất liệu. Trong hình ảnh ấy, có vẻ hoang sơ dữ dội của một thời đội đá vá trời, có vẻ của tài hoa thoát tục của một vị an cư trên sông nước mênh mông, có chất trí tuệ nhạy bén sắc sảo của một vị tướng đã quen vượt trùng mây quân thù, cả sự ung dung pha chất lãng tử của những anh hùng thủy chiến đất Lương Sơn Bạc.
Những khía cạnh, tính cách mạnh mẽ ấy được Nguyễn Tuân dồn nén vào hình ảnh người lái đò và để cho người này tự khẳng định con người mình một lần nữa trong thạch trận của sông Đà. Sông Đà – dòng sông nước ngược với bao ngạo nghễ đã đe dọa con người bằng tất cả vẻ tinh quái của mình. Dữ dội và xảo quyệt, con sông trở thành kẻ thù bao đời nay của người Tây Bắc và đặc biệt những con người sống trên sóng nước sông Đà. Chỉ vừa cảm nhận mái chèo chạm vào nước, dòng sông ấy thoắt rùng mình, ào ào bày trận để chuẩn bị trận đánh đè nát chiếc thuyền. Sông Đà ngạo nghễ với bốn cửa trùng vây. Mỗi một quãng sông qua con mắt nhìn nhận và miêu tả của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên giống như con ngựa bất kham, lúc hiện ra như một loài thủy quái khổng lồ, hung ác, nham hiểm, độc địa: con sông bày ra đủ các kiểu thạch trận hiểm hóc khác nhau để thử thách con người, còn người lái đò thì hiện ra như một chỉ huy dày dặn, tài giỏi điều khiển con thuyền vượt qua các ghềnh thác hiểm trở, phá tan cái trận đồ bát quát của dòng sông hung bạo. Không những thế, ông lái đò còn được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả như một người nghệ sĩ, tài hoa, chủ động đưa con thuyền vượt qua các ghềnh thác, nắm chắc những binh pháp của thần sông thần đá, thuộc lòng các luồng “cửa sinh cửa tử”. Đây thực sự là cuộc chiến đấu một mất một còn, đòi hỏi người lái đò phải dũng cảm khôn khéo, thông minh bởi chỉ cần một giây phút sơ ý, lóa mắt hay lỡ tay đều phải trả giá bằng tính mạng của mình.
* Hình tượng ông lái đò trên dòng sông Đà được nhìn nhận như một con người tài tử, dũng cảm không sợ hiểm nguy, một con người tài hoa nhưng rất bình dị, thể hiện sâu sắc ngòi bút tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân đã một đời say sưa đi tìm chất tài hoa nghệ sĩ trong con người. Nhưng trước đây, nhà văn chỉ tìm được những mảnh vụn rời rạc, bơ vơ của một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Nhưng giờ đây, cuộc hành trình đi tìm cái đẹp của Nguyễn Tuân đã tìm thấy “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của Cách mạng và kháng chiến của người như người lái đò trên sông Đà hôm nay những con người ấy sống trong niềm vui và hạnh phúc bởi họ luôn tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời, họ sống vượt qua khó khăn và nguy hiểm như một phần tất yếu của cuộc sống để thấm thía hơn bao giờ hết niềm mong mỏi “một cái bến xe nào đó trong sương mù. Người lái đò sông Đà có lúc lúc là một vị tướng lĩnh chinh phục con nước dữ nhưng cũng có lúc sống thật êm ả, bình dị: “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và còn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh và đôi khi “nhỡn giới vòi vọi” bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm ngày xưa. Người lái đò sông Đà có một cuộc sống lãng mạn của người nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình, lúc dữ dội, căng thẳng, khi yên ả bình lặng, lúc mơ màng thoát tục, họ hài lòng với cuộc sống của mình: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng dành lấy sự sống từ tay những cái thác nên nó cũng không có gì hồi hộp đáng nhớ, họ nghĩ thế lúc ngừng chèo”.
Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác, tài hoa, ông đọc nhiều, đi nhiều, biết rộng, am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau. Chính vì thế, tác phẩm “Người lái đò sông Đà” người đọc đã thu nhận một khối tri thức hết sức phong phú, đa dạng về cả lịch sử, địa lý, địa chất, thậm chí cả quân sự, võ thuật.
Trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” người đọc cũng hết sức ấn tượng với hình ảnh con sông Đà – một dòng sông dữ dằn nhưng cũng hết sức thơ mộng, trữ tình.
Nguyễn Tuân có ý thức sử dụng mặt mạnh của ngành nghệ thuật khác để tăng thêm vẻ đẹp của văn chương. Ông sử dụng nhiều kiến thức về âm nhạc, sân khấu,… đưa lại cho người đọc những trang viết hấp dẫn và thú vị
Bút pháp miêu tả của Nguyễn Tuân hết sức phong phú, đa dạng. Ông không chỉ miêu tả bằng thị giác mà cả bằng xúc giác,… Đặc biệt ông sử dụng nhiều hình ảnh so sánh độc đáo bất ngờ, đưa lại cho người đọc cảm xúc, …. Câu văn của ông biến đổi rất linh hoạt, có những câu văn ngắn nhịp điệu tiết tấu nhanh, miêu tả cuộc quyết đấu giữa ông lái đò và sông Đà tạo nên kịch tính hấp dẫn. Đôi khi tác giả sử dụng những câu văn dài như tải ra mang đậm chất tâm tư, mơ mộng.
Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân hết sức giàu có, ông sử dụng những từ ngữ rất chính xác. Ông thực sự là một phù thủy ngôn từ, có sức mạnh điều binh khiển tướng đoàn quân ngôn ngữ thực hiện những trận công phá vào tường thành tri thức, tạo ra những thành quả lớn lao, có sức mạnh đưa con người vào những cuộc phiêu lưu kỳ thú.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 15
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường về thể loại tùy bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm đã khắc họa vẻ đẹp đa dạng, vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.
Tùy bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc”.
Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc họa những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới: chất vàng mười của đất nước trong xây dựng Chủ nghĩa xã hội qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.
Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một:
“Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn…"
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thủy quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.
Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện của con người. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dế thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân.
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt Nam.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà mẫu 16
Cách mạng tháng Tám thành công không chỉ ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình đất nước mà còn ảnh hưởng đến cả văn học. Con người bước vào thời đại mới bằng một tâm thế mới. Con người trong thời đại mới bên cạnh kháng chiến chống ngoại xâm còn mang trong mình thêm một trọng trách khác – xây dựng đất nước giàu mạnh. Từ điều đó, hình tượng con người lao động xuất hiện ngày càng nhiều trong văn học. Trong đó, không thể không nhắc đến hình tượng người lái đò trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân. Cùng phân tích hình tượng người lái đò sông Đà để thấy vẻ đẹp của người lao động trong thời đại mới.
Nguyễn Tuân là một nhà văn có cá tính riêng, độc đáo trong văn đàn Việt Nam. Nguyễn Tuân đem là vừa một tri thức giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc sâu sắc vừa là một con người rất mực tài hoa uyên bác, quý nghề nghiệp của mình. Trong mỗi sáng tác của Nguyễn Tuân, người đọc bắt gặp một giọng văn tài hoa pha chút “ngông” rất riêng của Nguyễn Tuân.
Nếu trước đó, Nguyễn Tuân bất mãn trước cuộc sống hiện tại tìm quên về cái của quá khứ – cái đẹp của “vang bóng một thời” nhưng khi cách mạng thành công đã xóa đi sự bi quan đem đến một sự lạc quan tươi sáng cho ông. Nguyễn Tuân hăng hái, tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước. Hơi thở của thời đại mới cũng đã đi vào tác phẩm của Nguyễn Tuân.
Trong quá trình phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, ta thấy tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác sau cách mạng của Nguyễn Tuân là tập tùy bút sông Đà. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958 đến 1960. Hình tượng người lái đò sông Đà được tác giả kỳ công khắc họa bằng một giọng văn say mê, ngợi ca.
Đó là hình tượng con người gắn với cuộc sống lao động, nhưng con người ấy đã được ông nhìn nhận dưới góc độ của một người nghệ sĩ. Ở nhân vật người lái đó, ta bắt gặp sự hòa quyện giữa hai con người – một người nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật lái đò vượt thác cùng một một con người bình dị trong cuộc sống hằng ngày. Khi phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, người đọc sẽ cảm nhận rất rõ điều này.
Khi phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, ta thấy nhà ông ở ngã tư sông sát tỉnh. Ông làm công việc chở chè, chở cánh kiến đỏ, cánh kiến trắng, chở những sản vật từ miền núi về miền xuôi. Ông làm nghề này đã được hơn mười năm dày dặn kinh nghiệm. Ngoại hình của nhân vật người lái đò được tác giả khắc họa với những tố chất đặc biệt phù hợp với người chèo đò. Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, ta thấy rất rõ điều này.
Người lái đò được miêu tả với tay lêu nghêu như cây sào, giọng nói ào ào như tiếng nước, “nhỡn giới vời vợi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”. Nhìn người lái đò không ai nghĩ ông đã ngoài ngũ tuần. Ông lái còn là một người ưa thích mạo hiểm, phiêu lưu. Ông không thích chèo thuyền trên những khúc sông êm vì “dễ dại tay dại chân buồn ngủ” mà thích chèo lái trên những khúc sông có những thác nước đầy mạo hiểm, thử thách tài trí của bất kỳ người lái đò nào.
Đi nhiều lần thành thói quen khiến ông ghi nhớ một cách tỉ mỉ chính xác vị trí của từng hòn đá, đặc điểm của từng khúc sông. Những luồng thác sông Đà như một bản hùng ca vĩ đại của thiên nhiên còn ông lái đò đã thuộc đến từng dấu chấm câu, chấm than trong khúc ca ấy. Có thể thấy, phân tích hình tượng người lái đò sông Đà giúp ta cảm nhận rõ nét về con người lao động đầy nghệ thuật này.
Phân tích hình tượng người lái đò sông đà trong cái nhìn của Nguyễn Tuân trước hết là một người nghệ sĩ tài hoa, dũng cảm trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh. Tài nghệ ấy được đặc tả rõ nét trong cuộc thủy chiến căng thẳng giữa người lái đò và binh lính thủy quái. Trước khi viết về cuộc chiến đấu căng thẳng giữa con người và dòng sông, Nguyễn Tuân đã vẽ ra cho người đọc một bức tranh cụ thể sinh động về khung cảnh thiên nhiên về sự dữ dội của dòng sông Đà.
Sự dữ dội ấy đến từ cảnh vật, tiếng nước réo và đến từ cả sự thay đổi vị trí của những tảng đá trên dòng sông Đà. Đó là những quãng thác ghềnh dữ dội như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Ầm ầm tiếng nước réo liên thanh, tưởng chừng đó là âm thanh của “một ngàn con trâu mộng”.
Sông Đà đến với cuộc chiến bày một sự chuẩn bị kỹ lưỡng chu đáo với sự áp đảo về lực lượng cũng như về thanh thế. Còn người lái đò vẫn tỏ ra điềm tĩnh. Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà ta thấy ông đến với cuộc chiến bằng tấm lòng dũng cảm, bằng tài năng và cả trí nhớ tuyệt vời của mình “đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”.
Khi phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, ta thấy Nguyễn Tuân đã tạo ra nhiều thử thách để nhân vật bộc lộ phẩm chất tài hoa của mình trong hành trình chèo đò vượt thác. Sự tưởng tượng của Nguyễn Tuân đã vẽ ra cuộc vượt thác như một trận thủy chiến giữa người lái đò – vị thuyền trưởng lão luyện với đội quân hùng hậu hung hăng – đá, thác, nước sông Đà. Trận thủy chiến trải dài qua ba vòng vây thạch trận đầy căng thẳng, cam go.
Ở vòng vây đầu tiên, vòng vây này được tác giả miêu tả dài nhất. Ở vòng này, sông Đà chủ động tấn công, hò reo để uy hiếp ông lái đò. Thác nước cùng đá dùng hết tất cả những món đòn hiểm độc nhất để hạ gục ông lái ngay từ vòng đầu tiên. Chiến thuật của con sông ở vòng này là bày ra ba tuyến trung, tiền, hậu phối hợp với thác nước.
Người lái đò phải đối mặt cùng “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá” với những hòn đá hung hãn, ngỗ ngược đang mai phục từ ngàn năm nay chực chờ “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Đá bày thạch trận “ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền” với hàng tiền vệ “giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa” cho tuyến hai “đánh khuýp quật vu hồi lại”, nếu thuyền thoát qua thì đã có tuyến ba gồm bao nhiêu “boongke chìm và pháo đài nổi” quyết tâm “phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ở chân thác”.
Có những hòn đá được nhà văn miêu tả hệt như những tên tướng giặc kiêu căng hợm hĩnh phối hợp cùng “nước thác reo hò” như một đội quân liều mạng đầy sát khí sẵn sàng ùa vào mà “bẻ gãy cán chèo” của người lái đò, mà “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, “đội cả thuyền lên”, nhằm vào chỗ hiểm tấn công liên tiếp với lối “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm”.
Cảnh tượng lúc bấy giờ cũng thật tráng lệ khi trong khoảnh khắc mặt sông “lòa sáng lên như một của bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”. Nguyễn Tuân đã vận dụng kiến thức liên ngành về điêu khắc, quân sự. Quá trình phân tích hình tượng người lái đò sông Đà khiến ta nhận thấy tác giả đã dựng dậy tất cả những tảng đá tướng ngủ yên hàng ngàn năm của sông Đà. Những hòn đá vô tri bỗng hóa thành những tên tướng hung hãn. Thế trận lúc này nghiêng về phía thần sông.
Đối diện với hiểm nguy, người lái đò vẫn hết sức bình tĩnh, hiên ngang như một tướng soái trước kẻ thù. Trước những đòn thù tàn độc của đối phương ông đã “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”, “giữ mái chèo khỏi bị hất lên” và trên chiếc thuyền sáu bơi chèo, người ta vẫn nghe thấy “tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái” đang sẵn sàng đối mặt, chiến đấu và chiến thắng lũ giặc đá đông đảo, đầy chủ động, hiểm ác ranh ma.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, ta thấy ông lái đò chiến thắng bằng bản lĩnh, sự điềm đạm, nắm chặt chiến thuật, vượt qua nỗi đau về thể xác để chiến đấu hết mình. Ông lái đò cũng chính là hình ảnh con người trong quá trình chinh phục tự nhiên dù gặp nhiều khó khăn thách thức nhưng vẫn không ngừng nỗ lực trong bước đường khám phá, chinh phục thiên nhiên.
Ở vòng vây thứ nhất, chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh của con sông bị phá vỡ. Đến vòng vây thứ hai nó lập tức thay đổi chiến thuật, bố trí lại các cửa. Tại vòng vây thứ hai, con sông đã mở ra bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh lại nằm “lặp lờ phía tả ngạn sông” thì ở vòng vây thứ hai này, sông đà đã mở thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền và cửa sinh lại “bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn” dữ dội hơn, đang chờ đóng ông chính là “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá” với “bốn năm bọn thủy quân cửa ải lướt bên bờ trái liên xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử.” Sông Đà không còn phô trương thanh thế như ở vòng đầu và bắt đầu cẩn trọng hơn với đối thủ của mình – một đối thủ cân tài cân sức. Nó không còn xem thường ông lái đò nữa. Quãng sông khúc này cũng ngắn hơn.
Vòng vây này, tác giả mô tả thế trận của thần sông ngắn gọn hơn mà tập trung vào khắc họa hình ảnh ông lái đò. Khi phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, người đọc nhận ra khi vượt qua vòng một, ông không ngơi tay phút nào mà trực tiếp chiến đấu tiếp vòng hai. Trước sự thay đổi cách đánh của sông Đà, ông lái đò cũng thay đổi chiến thuật.
Lúc này, ông lại là người nắm thế chủ động, chuyển từ phòng thủ sang tấn công. Chỉ với đôi bàn tay linh hoạt, tài hoa của mình ông đã khéo léo điều khiển con thuyền “bám chắc lấy nguồn nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Ông lái đò lúc “cưỡi lên thác”, lúc “nắm chặt được cái bờm sóng”, lúc thì “ghì cương lái”, lúc thì ông tránh mà “rào bơi chèo lên”, lúc thì “đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng, ông đã chiến thắng cái lũ đá lúc này đang “tiu nghiu cái mặt xanh lè” vì thất vọng.
Vòng vây thứ ba càng nguy hiểm hơn cả bởi vì “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, cái luồng sống ở vòng vây này lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Đây dường như là thế trận cuối cùng của con sông, con sông dồn hết tất cả mọi sức lực bình sinh để chiến đấu. Nước, đá sông Đà dường như cũng bắt đầu cảm thấy mệt mỏi trước khí thế của ông lái đò dày dặn kinh nghiệm này.
Nhưng không vì thế nó chịu thua ngừng chiến đấu. Thác đá bày trận ít hơn nhưng nguy hiểm hơn bởi sự xuất hiện của “bọn đá hậu vệ”. Bố trí lại các cửa sinh tử, các tảng đá, con sông cũng tiếp tục lao mình vào cuộc chiến đấu với người lái đò. Con sông như một vị tướng thực thụ chiến đấu hết mình trong cuộc chiến này. Có thể nói, phân tích hình tượng người lái đò sông Đà khiến ta cảm nhận rất rõ những hiểm nguy và khó khăn mà ông lái đò phải đối mặt.
Ông lái đò dường như lúc này đã thấm mệt nhưng ông vẫn còn minh mẫn để chiến đấu với con sông. Trước thế đòn hiểm độc cuối cùng của con sông, ông lái đò vẫn anh dũng phóng thẳng thuyền, chọc thủng vào cửa giữa đó. Người lái đò rất linh hoạt điều khiển “thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép”, qua bao nhiêu cửa “thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”.
Ở vòng vây cuối cùng này, ông lái đò cũng đã mạnh mẽ, vững vàng và nhanh chóng vượt qua. Nhịp điệu ở vòng này nhanh hơn, khẩn trương hơn dường như cả người lái đò và con sông đều dốc toàn lực quyết một trận chiến phân thắng bại cuối cùng. Nguyễn Tuân đã dùng nhiều từ tả tốc độ nhanh, uy lực mạnh của con thuyền. Từ đó, gián tiếp ngợi ca sự tài hoa của người lái đò.
Khi phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, người đọc cũng thấy ngoài vẻ đẹp anh hùng trong nghệ thuật chèo đò, ông lái đò ấy còn mang những nét đẹp bình dị trong cuộc sống đời thường. Trước thác nước hung bạo, ông lái đò dũng cảm, táo bạo, liều lĩnh, thế nhưng khi vượt qua thì tất cả đều trở thành bình thường “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”.
Tác giả miêu tả phong thái ung dung của người lái đò khi họ “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh… cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua”. Cuộc sống của họ thường nhật phải đối diện với thiên nhiên khốc liệt, “ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác” cho nên với họ tất cả đều “không có gì là hồi hộp đáng nhớ”.
Công cuộc vượt thác khó khăn gian nan đầy thách thức và hồi hộp ấy khiến khiến người đọc cũng phải thót tim và không khỏi ngưỡng mộ tài nghệ của người lái đò. Nhưng ta thấy, trong những phút nghỉ ngơi khi trận đấu vừa kết thúc trong chiến thắng huy hoàng đầy tự hào, ông lái đò không nhắc gì đến chiến công vẻ vang ấy. Họ chỉ ngồi nói chuyện với nhau về cuộc sống. Một cuộc nói chuyện bình dị mà nếu chỉ nghe cuộc nói chuyện ấy, người đọc không thể nào biết người lái đò này vừa trải qua một cuộc chiến cam go đến dường nào.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà giúp ta hiểu được đó là con người bình dị trong cuộc sống lao động thường ngày. Trước cách mạng tháng Tám, trong “vang bóng một thời” Nguyễn Tuân hướng cái đẹp sự ngợi ca của những tài hoa đặc biệt phi thường như Huấn Cao trong Chữ người tử tù, ông Bát Lê trong Chém treo ngành, cụ Ấm trong Chén trà trong sương sớm. Đây đều là những con người tài hoa nhưng người đọc chỉ có thể đứng từ xa mà cung kính ngưỡng mộ cái tài hoa, cái khí phách hiên ngang ấy.
Mỗi trang văn đều thấp thoáng một sự bất lực trước hiện tại. Sự thành công của cách mạng tháng Tám đã đem đến một cảm hứng mới nhiệt thành hơn nồng hậu hơn trong trang văn của Nguyễn Tuân. Tuy vẫn hướng ngòi bút của mình đến cái đẹp sự tài hoa nhưng ông đã đi tìm kiếm vẻ đẹp trong cuộc sống lao động đời thường.
Người lái đò bên cạnh là một người nghệ sĩ tài hoa ông còn là một con người của đời thường. Ông lái đò ấy có thể là bất kỳ người lái đò nào trên sông Đà, không tồn tại độc nhất như Huấn Cao, Bát Lê, cụ Ấm. Người lái đò của Nguyễn Tuân mang đến cho người đọc một cảm giác gần gũi chân thật. Đó là vẻ đẹp của con người hòa cùng vẻ đẹp của cuộc sống lao động.
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà qua trận thủy chiến, ta thấy Nguyễn Tuân như một người thợ kim hoàn vừa khéo léo vừa tỉ mỉ lựa chọn từng ngôn từ. Nguyễn Tuân đã nhìn nhận con người lao động đời thường trong cái nhìn đầy tính nghệ thuật. Hình ảnh người lái đò được ông khắc họa chủ yếu qua hành động, ông không tập trung vào miêu tả tâm trạng cũng như lời nói.
Điều đó phù hợp với sự căng thẳng cam go của trận thủy chiến. Ngôn từ mạnh được sử dụng liên tiếp tạo ra nhịp điệu nhanh, mạnh cho câu văn nhưng khi miêu tả sự bình dị của ông lái đò trong cuộc sống đời thường, ngôn ngữ như dãn ra, mềm mại và uyển chuyển.
Đoạn văn mang đậm dấu ấn phong cách của Nguyễn Tuân – mọi việc mọi vật và con người đều nhìn nhận trong cảm hứng của người nghệ sĩ. Với ông nghệ sĩ mang một ý nghĩa rộng lớn khái quát hơn. Không chỉ là những người hoạt động trong nghệ thuật mà còn là người đạt đến tầm cao của một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống. Mà ông lái đò là ví dụ điển hình. Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà, ta thấy trước con sông hung bạo, ông vẫn điềm tĩnh, thông minh, tài trí như một vị tướng giữa trận đồ bát quái của con sông Đà hung bạo.
Bằng sự trải nghiệm tuyệt vời, chân thật cùng cảm xúc tinh tế, tác giả đã biến sông Đà thành một tuyệt tác của thiên nhiên, còn ông lái đò là một người lao động tài hoa nhưng không kém phần lãng mạn. Tác phẩm đã thể hiện rõ sự chuyển biến về cảm hứng của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng tám. Tác phẩm này đã góp phần khẳng định vị thế tài năng của Nguyễn Tuân trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Mời bạn đọc cùng tải về bản DOC hoặc PDF để xem đầy đủ nội dung nhé