Phân tích khổ cuối bài thơ Đất nước (17 câu thơ cuối)
Phân tích 17 câu thơ cuối của bài Đất Nước
Phân tích 17 câu thơ cuối của bài thơ Đất Nước được VnDoc.com sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mời các bạn cùng theo dõi để có thêm tài liệu học Ngữ văn 12 nhé.
Đề bài: Phân tích đoạn thơ:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
...
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
Dàn ý phân tích 17 câu thơ cuối của bài thơ Đất Nước
Mở bài:
"Quê hương là chùm khế ngọt, ...". Tình cảm với quê hương, đất nước luôn là nguồn cảm hứng chưa bao giờ vơi cạn trong văn học Việt Nam. Đến với đoạn trích "Đất Nước" trích trường ca "Mặt đường khát vọng", người đọc sẽ thấy những cảm nhận mới mẻ của tác giả về Đất Nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hoá, ... Đất Nước là của nhân dân, do nhân dân tạo nên. Điều đó được thể sâu sắc qua những câu thơ sau:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
...
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
Thân bài:
1. Khái quát
- Hoàn cảnh sáng tác, vị trí đoạn trích, ... tham khảo các đề trước
- Nội dung: Trong phần hai đoạn trích “Đất Nước” trích trường ca “Mặt đường khát vọng”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã dành nhiều tâm huyết để trả lời cho câu hỏi: Đất Nước do ai làm ra? Ở những đoạn thơ trước, tác giải đã lí giải một cách thuyết phục rằng: nhân dân là người đã hóa thân tạo nên những không gian địa lí của “Đất Nước”, sau đó tác giả lại phát hiện ra, nhân dân bình dị, vô danh là người đã làm nên bốn nghìn năm lịch sử. Đến đoạn thơ cuối này, tư tưởng “Đất Nước” của nhân dân lại tiếp tụ phát hiện: nhân dân chính là người đã làm nên bề dày văn hóa của đất nước. Nhân dân chính là người gìn giữ và truyền lại cho thế hệ sau mợi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần của đất nước.
2. Phân tích, cảm nhận
a. 7 câu đầu đoạn: nhân dân truyền lửa và giữ hồn dân tộc
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trog mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
- Từ “họ” đứng ở vị trí đầu tiên trong câu thơ và điệp đi điệp lại nhiều lần trong đoạn thơ vừa có tác dụng đem đến cảm giác về sự đông đảo, tính chất không xác định, vô danh vừa nhấn mạnh vai trò to lớn của nhân dân trong các phương diện khác nhau của đời sống văn hóa, lịch sử.
- Bên cạnh đó, thủ pháp liệt kê cũng đã gợi ra nhiều công lao thầm lặng của nhân dân:
+ “Truyền” “hạt lúa” là truyền lại thành tựu của nền văn minh lúa nước. Từ thủa lập nước, những người con của mẹ Âu Cơ đã “một nắng hai sương” chăm chút, nâng niu để lưu giữ và truyền lại cho thế hệ sau. Đó là những hạt ngọc ngà chắt chịu tinh hoa của đất trời, kết quả của mồ hôi, công sức con người vì thế nó trở thành biểu tượng văn hóa đầy tư hào, trở thành biểu tượng cho truyề thống lao đông cần cù của những người nông dân Việt Nam.
+ “Chuyền lửa” là chuyền ánh sáng, hơi ấm, sự sống và sự tiến hóa của văn minh nhân loại. Thủa xa xưa khi tìm ra lửa, loài người thực sự đã tách ra khỏi thế giới nguyên thủy tăm tối dã man. Chính ngọn lửa đã duy trì sự sống, sự tồn tại cho nhân loại. Người nông dân Việt Nam từ ngàn đời xưa đã chuyền lửa qua mỗi nhà bằng hòn than ủ, con cúi bện bằng rơm tạo nên không gian ấm áp tình làng nghĩa xóm, tắt lửa tối đèn có nhau.
+ “Truyền” “giọng điệu” là truyền lại thứ của cải tinh thần vô cùng quý giá của dân tộc. Trải qua bao lần binh lửa chiến tranh: hàng nghìn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm Pháp thuộc, bất chấp mọi âm mưu đồng hóa của kẻ thù, tiếng nói của dân tộc vẫn trường tồn chính là nhờ nhân dân.
+ Nhân dân cũng chính là người có công khai khẩn đất hoang, mở mang bờ cõi, lập làng, lập ấp. Họ đi đến đâu cũng mang theo tên xã, tên làng, phong tục tập quán đến nơi mới để tạo nên sự phong phú, tạo nên sự đa dạng trong bản sắc văn hóa dân tộc Việt.
+ Nhân dân còn xây dựng nền tảng vững chắc cho người đời sau an cư, lạc nghiệp. Cụm động từ “đắp đập”, “be bờ” gợi sự vun vén, xây dựng quê hương, đất nước để người đời sau yên tâm “trồng cây hái trái”. Người đời trước chuẩn bị, người đời sau hưởng thụ. Câu thơ giúp người đọc thấy được sự hi sinh lớn lao, cao thượng của những người đi trước. Họ đã âm thầm tạo dựng để người đời sau trồng cây hái trái, hưởng hạnh phúc, ấm no.
- Bên cạnh đó, biện pháp điệp cấu trúc: “có ... thì ... có ... thì ...” kết hợp với các động từ “chống”, “vùng lên”, “đánh bại” nhấn mạnh tinh thần tự nguyện cao độ của nhân dân trong sự nghiệp giữ nước. Nhân dân chính là người có công lao trong đấu tranh chống ngoại xâm, dẹp nội thù để đem lại bình yên cho nhân dân.
b. Để từ đó, nhà thơ đi đến khái quát:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
- Những khái niệm “Đất Nước”, “Nhân Dân” được viết hoa trang trọng và được điệp lại nhiều lần trong hai câu thơ, cho thấy sự gắn bó không tách rời giữa nhân dân và đất nước và thể hiện niềm tự hào, trân trọng, ngợi ca của nhà thơ.
- Nhân dân không chỉ đem cuộc đời, mơ ước của mình để đặt tên cho sông núi mà còn đem trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, mồ hôi, xương máu của mình để viết nên lịch sử. Vì vậy, đất nước này là đất nước của nhân dân, do nhân dân làm nên.
- "Ca dao thần thoại" là hai thể loại tiêu biểu của văn học dân gian, ẩn dụ cho vẻ đẹp tâm hồn, trí tuệ của nhân dân lao động. "Đất Nước của ca dao thần thoại" là đất nước của những truyền thống: yêu nước, căm thù giặc; chăm chỉ, cần cù, sáng tạo trong lao động; tình nghĩa thuỷ chung, nhân ái, bao dung trong cuộc sống.
c. Đất nước của nhân dân trong chiều sâu của văn hoá phong tục tập quán
Dạy anh biết "yêu em từ thủa trong nôi"
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
- Nói về phong tục tập quán của đất nước, đây không phải là cảm nhận riêng của Nguyễn Khoa Điềm. Trước đó trong "Bình Ngô đại cáo", Nguyễn Trãi cũng đã nói đến "nền văn hiến đã lâu" cùng "phong tục Bắc Nam cũng khác".
- Điều đặc biệt là, nói về văn hoá, Nguyễn Khoa Điềm không nhắc đến những công trình nghệ thuật nổi tiếng như chùa Một Cột, tượng La Hán, không nhắc tới những tác phẩm nổi tiếng như Truyện Kiều hay "Chinh phụ ngâm", ... mà ông nhắc tới những câu ca dao lưu truyền trong dân gian, do nhân dân tạo nên. Và trong kho tàng ca dao, nhà thơ cũng chỉ chọn ba câu tiêu biểu để tạo thành bốn câu thơ hiện đại nhằm khái quát ngắn gọn phẩm chất, lỗi sống, phẩm chất của người Việt.
+ Đó là sự thuỷ chung, say đắm của tình yêu thương:
"Yêu em từ thủa trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru"
+ Đó là vẻ đẹp của lối sống đậm nghĩa, vẹn tình, quý trọng tình nghĩa hơn của cải vật chất:
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng
+ Đó là sự kiên cường, bất khuất trong đấu tranh xâm lược:
Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què
=> Dù nhà thơ không nói rõ chủ thể của hoạt động dạy anh là ai nhưng người đọc hiểu đó chính là ca dao, thần thoại, là nhân dân đúc kết những kinh nghiệm sống, đã tạo thành những phẩm chất truyền thống để gửi gắm trong kho tàng văn học dân gian.
- Cuối cùng, nhắc đến chiều sâu văn hoá, Nguyễn Khoa Điềm còn sử dụng những câu hát, những làn điệu dân ca, nhất là dân ca sông nước.
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt nên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
- Thán từ "ôi" thể hiện sự ngỡ ngàng, xúc động trước vẻ đẹp của những dòng sông đất nước, những câu hò, điệu lí, những làn điệu dân ca sông nước. Nhà thơ có một phát hiện mới mẻ, thú vị về những dòng sông đất nước. Những dòng sông khởi nguồn từ đâu không rõ nhưng khi chạm vào đất Việt thì đều bắt lên câu hát. Câu hát của những con người lao động khi chèo đò, kéo thuyền, vượt thác nhằm thể hiện một tâm hồn lạc quan, yêu đời.
- Số từ "trăm màu", "trăm dáng" điệp lại khiến người đọc liên tưởng đến dòng chảy văn hoá, vì mỗi dòng sông đi qua một miền đất đều góp phần tạo nên văn hoá của vùng miền đó. Dòng chảy văn hoá Việt có thể bắt nguồn từ dòng chảy văn hoá khác nhưng quan trọng là người Việt Nam đã biết Việt hoá để tạo nên sự phong phú, da dạng cho văn hoá Việt như "trăm màu" trên "trăm dáng sông xuôi".
=> Đóng góp quan trọng nhất của Nguyễn Khoa Điềm trong chương thơ này là ông đã phát triển đầy đủ hoàn thiện tư tưởng "Đất Nước của Nhân Dân".
3. Nhận xét chung
Nguyễn Khoa Điềm đã góp một cái nhìn đầy mới mẻ về văn hoá, truyền thống, phong tục tập quán của Đất Nước.
Kết bài
Khái quát lại nội dung, nghệ thuật và nêu bài học cho thế hệ sau.
Dàn ý chi tiết phân tích 17 câu thơ cuối của bài thơ Đất Nước
A. Mở bài
- Nguyễn Khoa Điềm là cây bút tiêu biểu thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, giọng thơ chính luận, trữ tình.
- Năm 1971, tại chiến khu Trị Thiên, Nguyễn Khoa Điềm đã hoàn thành trường ca Mặt dường khát vọng. Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu chương V của bản trường ca.
- Đoạn trích đã nêu bật tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, Tự tưởng ấy được thế hiện rõ nét qua đoạn trích dưới đây: Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi Qua đoạn thơ, ta nhận thức được trách nhiệm của tuổi trẻ hiện nay với đất nước.
B. Thân bài
I. Tổng:
- Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân - Đất Nước của Nhân dân là đất nước do nhân dân tạo dựng, do nhân dân hóa thân góp thành; các thế hệ nhân dân cùng góp phần xây dựng, bảo vệ và phát triển dất nước.
- Đất nước gắn liền với cuộc sống của các thế hệ nhân dân trên những phương diện: địa lí, lịch sử, văn hóa.
II. Phân: Chứng minh vẻ đẹp của tư tưởng Đất Nước của Nhân dân qua đoạn thơ.
-Khi nói về lịch sử của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không nói về các triều đại tên tuổi như Đinh, Lí, Trần, Lê, cũng không nhắc đến các anh hùng đã từng ghi trong sử sách. Nhà thơ tập trung nói về những con người vô danh, bình thường. Đó là "họ", là "lớp lớp", "con gái", "con trai" đã lao động, chiến dấu trong bốn nghìn năm để dựng nước và giữ nước. Họ là nhân dân. Tên tuổi họ chưa một lần được khắc ghi trong sử vàng dân tộc “không ai nhớ mặt đặt tên", nhưng cuộc đời thầm lặng của mỗi người đã "hóa núi sông ta". Suốt hàng ngàn năm lịch sử, chính nhân dân là người đã tạo nên Đất Nước này.
1. Nhìn ở phương diện văn hóa, nhà thơ cũng khẳng định vai trò của nhân dân trong việc làm nên Đất Nước. Nhân dân không chỉ lao động, chiến đấu mà còn là những người sáng tạo ra văn hóa dân tộc:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng diệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyển di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hải trái”
- Đất Nước của Nhân dân không chỉ hiện diện ở bề rộng của không gian địa lý, ở chiều dài của thời gian lịch sử mà còn ở tầm sâu của tâm hồn, tầm cao của ý chí giống văn hóa dân tộc. Với bề dày của văn hóa phong tục. Nhân dân vừa lao động chiến đấu vừa sáng tạo ra.
- Những “hạt lúa", "hòn than", "giọng điệu" giản dị chính là sự sống của từng cá nhân và sự sống của cả dân tộc. Đó chính là nền văn hóa, là hồn thiêng sông núi mà nhân dân đã sáng tạo, giữ gìn và truyền lại muôn doi, tạo thành bản sắc văn hóa Việt Nam.
- Với hệ thống từ ngữ giản dị, mang đậm màu sắc dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã bình di hóa Đất Nước, làm cho Đất Nước thật sự hóa thân trong tâm hồn và cuộc sống của mỗi người dân trên đất nước này.
2. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân tiếp tục được nhà thơ diễn tả với mạch cảm xúc càng lúc càng mãnh liệt:
" Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
- Khi nói dến nhân dân là nói đến nét đẹp bình dị, tinh tế. Những nét đẹp này lấp lánh trong ca dao thần thoại. Đất Nước của Nhân dân là đất nưrớc được hình thành từ những bản sắc văn há dân tộc thẩm dăm vẻ đẹp tâm hön nhân dan: yêu nước, cần cù lao động, hiếu học, chu thủy trong tình yêu, biết quý trọng lối sống tình nghĩa, bèn bi kiên cường trong chi đấu, lạc quan yêu đời trong gian khó.
- Hai câu thơ mà bốn lần nhắc lại từ “Đất Nước", hai lần láy lại từ “Nhán dân" biế, lộ biết bao tình thương men, tự hào.
3. Đất Nước của Nhân dân là Đất Nước được hình thành từ vẻ đẹp tâm hãn nhân dân:
“Dạy anh biết " yêu em từ thuở trong nôi"
Biểt quý công cảm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gây
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
- Nhà thơ đã vận dụng và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao thành lời thơ đằm thắm ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc dân tộc. Đó là tình yêu say đắm, nhân văn: “Dạy biết yêu em từ thuở trong nôi"; là thái độ biết quý trọng lối sống tình nghĩa: “Biết công cầm vàng những ngày lặn lội"; sự bền bỉ, kiến cường trong chiến đấu bảo vệ đất "Biết trồng tre đợi ngày thành gậy".
III. Hợp: Đánh giá
- Được bao bọc trong không khí của văn học dân gian, hình tượng đất nước trên trang thơ của Nguyễn Khoa Điềm thơ mông, trữ tình, bình dị mà thân thương, gån bó thiết tha với mỗi người dân. Lời thơ vừa lắp lánh sắc màu của huyền thoại dân gian, vừa lung linh vẻ đẹp trí tuệ, vừa thiết tha cảm xúc, trữ tình mà chính luận, tạo nhiều âm vang trong lòng người đọc.
- Tư tưởng Đất nước của Nhân dân không phải đến Nguyễn Khoa Điềm mới có. Tư tưởng này đã có một quá trình dài dược khẳng định trong lịch sử văn học dân tộc. Từ những tác phẩm văn học trung đại như Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu đến thơ văn hiện đại như Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Tre Việt Nam của Nguyễn Duy, vai trò của nhân dân đối với đất nước luôn được dề cao. Tuy nhiên dể tu tưởng đó trở thành cảm hứng chủ đạo, để hình tượng đất nước được cảm nhận trên nhiều phương diện thì phải kế đến đóng góp đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm ở chương thơ này.
- Đoạn thơ đã khép lại nhưng thông điệp mà nhà thơ gửi tới người đọc vàn còn nguyên giá trị. Thế hệ hôm nay đừng bao giờ lãng quên công lao của các bậc tiền nhân, phải biết kế thừa, gìn giữ những giá trị truyền thống mà ông cha ta dể lại: yêu nước, xây lựng đất nước.
C. Kết bài
- Văn học Việt Nam đã có những cảm nhận sâu sắc về đất nước, về nhân dân. Nhưng lẽ tư tưởng Đất Nước là của Nhân dân trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là những nốt nhạc độc đáo nhất, ngân vang nhất. Tư tưởng ấy cho đến nay vẫn còn xanh tươi giá trị.