Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn thơ Trao duyên
Phân tích tâm trạng Kiều trong Trao duyên
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn thơ Trao duyên do VnDoc biên soạn và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết bám sát chương trình học sẽ giúp các em học sinh lớp 10 trong quá trình ôn thi học kì 2 luyện thêm đề thi học kì 2 môn Ngữ Văn lớp 10 có đáp án. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài viết dưới đây nhé.
Dàn ý phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn thơ Trao duyên
1. Mở bài
“Truyện Kiều” là một kiệt tác văn học của Đại thi hào Nguyễn Du để lại cho nền văn học Việt Nam. Một trong những đoạn trích nổi bật lột tả rõ nét nội tâm nhân vật Thúy Kiều chính là đoạn trích “Trao duyên.”
2. Thân bài
a. 12 câu thơ đầu
“Cậy em, em có chịu lời,
….……………………….
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
“Cậy em” là câu mở đầu khi Kiều muốn nói chuyện với em dù Kiều là chị, thể hiện sự tôn trọng, tin tưởng đối với em.
Mối tình của Thúy Kiều và Kim Trọng hẳn Vân đã biết, Kiều yêu Trọng từ lần gặp đầu tiên, hai người đã có hẹn ước sẽ nên vợ thành chồng. Sóng gió ập tới gia đình Kiều, nàng không thể khoanh tay đứng nhìn cha và em trai bị vu oan mà chịu thiệt.
Trong lòng Kiều băn khoăn, trăn trở. Bên là chữ hiếu với cha mẹ, bên là mối tình sau nặng khắc cốt ghi tâm với chàng Kim, thật khó để nàng đôi đường vẹn đôi.
Sau bao suy tư, cuối cùng, Kiều quyết định trao lại mối duyên tình sâu nặng của mình cho Vân. Vân còn trẻ, lại xinh đẹp, rất xứng đôi vừa lứa với chàng Kim, nếu Vân thay Kiều nhận mối duyên này Kiều sẽ yên lòng mà báo hiếu cho cha mẹ. Ở nơi xa xôi hay phải chịu bất cứ khó khăn gì, Kiều cũng cam lòng.
→ 12 câu thơ không chỉ diễn tả những giằng xé trong lòng Kiều mà còn thể hiện rõ nét ràng nàng là một người con hiếu thảo, một thiếu nữ trọng tình cảm, yêu thương sâu nặng. Tuy phải trao lại mối lương duyên của mình cho người em là Thúy Vân nhưng Kiều không hề kêu ca hay oán trách ai bất cứ điều gì.
b. 16 câu tiếp
“Chiếc thoa với bức tờ mây
….…………………………..
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”
Sau khi thưa chuyện với Thúy Vân, Kiều trao lại kỉ vật của mình với Kim Trọng cho em, nhắn nhủ em dù có nên vợ thành chồng thì hãy thương xót cho người chị bạc mệnh.
Kiều tưởng tượng đến lúc Vân và chàng Kim nên vợ nên chồng, đến cõi hư không mà nàng chỉ là một mảnh hồn oan vật vờ theo ngọn gió hiu hiu trên ngọn cỏ lá cây nhưng vẫn mang nặng lời thề, nàng đinh ninh mình sẽ là một hồn oan trong cõi chết và dặn em rưới cho giọt nước làm phép tẩy oan.
c. 6 câu thơ cuối
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
….……………………………..
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Sau khi trao duyên cho Thúy Vân, Kiều âm thầm nhắn nhủ đến Kim Trọng: nàng đã phụ tình chàng từ đây. Đó không chỉ là câu nói đau xót khi phải chia tay người yêu khi tình cảm vẫn còn mặn nồng sâu sắc mà còn là suy tư về cuộc sống tăm tối phía trước đang chờ đón Kiều.
Tơ duyên của Kiều và Kim chỉ ngắn ngủi có từng ấy, xin gửi lại chàng mối duyên này cho người em là Thúy Vân.
Kiều đã phải thốt lên: “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” đây vừa là lời xin lỗi Kiều gửi đến Kim, vừa là lời oán trách vì phận mình sao bạc bẽo.
→ Kiều không chỉ suy nghĩ về việc cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình cho Vân mà còn suy nghĩ cho người mình hết lòng yêu thương. Một cô gái nhỏ bé vốn sống bình an nay phải suy tư rất nhiều, không chỉ thế,cuộc sống trôi nổi phía trước của nàng cũng khiến người ta vô cùng đau xót về kiếp hồng nhan bạc phận.
Diễn biến tâm lí của Kiều đi qua nhiều cảm xúc khác nhau, từ nghĩ cách cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình, đến việc nghĩ cho người mình yêu thương và đến cuộc sống bấp bênh của nàng sau này khiến người ta không khỏi đau xót.
d. Tổng kết
Về nội dung: đoạn trích làm nổi bật suy tư đa chiều cũng như tâm trạng của Thúy Kiều khi trao lại mối lương duyên cho người em.
Về nghệ thuật: thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, các câu cảm thán.
3. Kết bài
Đoạn trích giúp ta hiểu hơn về nhân vật Thúy Kiều cũng như hiểu hơn về giá trị nhân đạo trong tác phẩm nổi tiếng của Đại thi hào Nguyễn Du.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn thơ Trao duyên - Mẫu 1
Truyện Kiều là một kiệt tác văn học của Đại thi hào Nguyễn Du để lại cho nền văn học Việt Nam. Tác phẩm mang nhiều giá trị nhân đạo khiến độc giả phải suy ngẫm. Một trong những đoạn trích nổi bật lột tả rõ nét nội tâm nhân vật Thúy Kiều chính là đoạn trích “Trao duyên.”

Khi gia đình gặp nạn, để giải cứu cho cha và em trai, Thúy Kiều buộc phải trao lại mối duyên của mình cho Thúy Vân:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Thúy Kiều là chị, tuy nhiên khi nhờ vả, muốn nói chuyện với em mình, nàng dùng sự kính trọng, nhã nhặn đối với em.
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
“Cậy, lạy, thưa” là những từ mà người ở vai dưới nói chuyện với người vai trên. Những từ ngữ này thể hiện sự tôn trọng đặc biệt của Kiều dành cho người em gái mà mình nhờ vả. Dù mình ở vai trên nhưng Kiều không dùng sự ra lệnh đối với em. Tuy trong lòng cô nhiều suy nghĩ, trăn trở nhưng vẫn bình tĩnh xử lí, sắp xếp, thu vén chuyện của mình.
"Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?"
Kiều trình bày với em về hoàn cảnh của mình, về mối tình dang dở của mình với chàng Kim và mong em hãy thấu hiểu cho nỗi khổ của mình mà chấp nhận mối tơ thừa của chị. Hai người đã có những hẹn thề gắn bó dài lâu nhưng nay Kiều không giữ lời hứa đó. Bởi lẽ, nàng không thể hoàn thành cả “chữ hiếu” lẫn “chữ tình”; nên “chữ tình” này, xin gửi lại để Vân thay chị thực hiện. Từng lời nói của Kiều là nỗi đau khổ, day dứt mà nàng đang phải trải qua. Nào ai muốn nhìn thấy cha và em trai bị oan trong tù? Nào ai muốn rời bỏ người mình yêu thương khi tình cảm rất mặn nồng? Ta càng thêm thương xót cho nàng Kiều bạc mệnh.
"Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Vân còn trẻ, đang trong độ tuổi xuân thì, chàng Kim lại là tài tử hiếm có, nếu Vân thay Kiều đến với Kim Trọng thì nàng Kiều sẽ yên tâm mà ra đi vì dù sao đi chăng nữa Vân với Kiều cũng cùng chung giọt máu. Để cảm kích sự đồng ý của Vân, dù cho Kiều có ‘thịt nát xương mòn” nơi đất khách quê người nàng cũng yên tâm mà ra đi, không còn suy tư trăn trở.
Đoạn thơ gây ám ảnh người đọc bởi nó làm hiện ra trước mắt chúng ta một bức tranh như thực về nàng Kiều trọng tình, trọng nghĩa, ta phần nào hiểu thêm, đồng cảm, thương xót cho số phận một cô gái “hồng nhan bạc mệnh.”
Những câu thơ tiếp theo là lời dặn dò của Kiều với Vân sau khi trao em mối duyên của mình:
"Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!"
Sau khi Vân đồng ý nhận mối duyên của mình, Kiều mang trao lại em những kỉ vật của mình với chàng Kim. Kiểu sẽ thực sự ghi nhớ ơn nghĩa nếu Vân và Kim Trọng nên duyên vợ chồng. Thật đau đớn và xót xa khi người mình yêu nên duyên cùng chính em gái mình, ấy thế mà, với Kiều, đấy lại là một ơn nghĩa mà Vân làm cho cô khiến cô ghi nhớ mãi.
Tuy rằng, Kiều sẽ phải ra đi, nhưng dù còn sống hay khi không còn trên đời nữa, cô vẫn luôn hướng về nhà, về nơi có cha mẹ, có các em và có chàng Kim. Người con gái ấy đã nghĩ đến trường hợp xấu nhất khi cô chỉ còn là “linh hồn mang nặng lời thề” trở về nhà, cô dặn Vân hãy rảy xin cho cô chén nước để linh hồn cô được siêu thoát. Đến đây, nỗi xót xa của nàng Kiều dường như bị đẩy lên một cao trào mới. Những suy tư ngổn ngang đè nặng lên vai một cô gái vốn có cuộc sống thanh bình. Duyên gãy, phải đi xa gia đình, bán thân thành một người rẻ mạt làm Kiều không tránh nỗi chua xót.
“Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”
Câu nói thốt lên trong sự cay đắng, nghiệt ngã của số phận. Bao nhiêu kỉ niệm đẹp giữa hai người giờ đây chỉ còn là kí ức. Từng kỉ niệm ấy Kiều sẽ mãi lưu giữ bên mình. Đó cũng là sự hụt hẫng, tiếc nuối về một thời yêu nhau say đắm của hai người. Đến đây, người đọc không khỏi tiếc nuối: tiếc nuối cho số phận của Kiều, tiếc nuối cho mối duyên của hai người cũng như tiếc nuối về kỉ niệm mà họ đã từng có với nhau.
"Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"
Những việc Kiều làm khiến người khác phải thương xót. Tuy nhiên, với nàng, đó lại là những lỗi lầm nàng gây ra cho người nàng thương yêu. Nàng gửi đến chàng Kim trăm nghìn cái lạy để mong chàng tha thứ vì mình đã không giữ đúng lời hứa cùng chàng nên duyên vợ chồng. Tơ duyên của hai người có lẽ chỉ đến được đây thôi, từ nay Vân sẽ thay Kiều yêu thương, chăm sóc cho chàng. “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!” câu nói Kiều thốt ra như một lời xin lỗi, tiễn biệt mà nàng gửi đến Kim Trọng. Từ nay, Kiều phải đi về nơi khác, phải phụ tình cảm mà Kim dành cho mình từ đây. Có thể Kim Trọng sẽ thất vọng, sẽ đau khổ khi nàng ra đi nhưng nàng không thể làm khác được.
Từng câu thơ là sự đau khổ, bất hạnh của nàng Kiều, nhưng chính những điều này khiến ta nể phục, yêu thương cô Kiều vì cô không chỉ là người sống tình nghĩa mà còn là người có suy nghĩ sâu sắc, luôn quan tâm, lo lắng cho người khác trước khi lo cho bản thân mình.
Điểm nổi bật làm nên thành công vang dội của tác phẩm đó chính là thể thơ lục bát dân gian của dân tộc. Đoạn trích sử dụng những câu cảm thán đã khắc họa thành công tâm trạng, nỗi lòng của Thúy Kiều khi trao mối duyên của mình cho Thúy Vân.
Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã góp một phần không nhỏ vào việc làm đa dạng nền văn hóa dân tộc. Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn trích “Trao duyên” cùng tác phẩm Truyện Kiều vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn thơ Trao duyên - Mẫu 2
Trao Duyên là một trong những đoạn thơ có ý nghĩa vô cùng đặc biệt trong Truyện Kiều của nhà thơ Nguyễn Du. Đoạn thơ khắc họa được rõ nét nhất tấn bi kịch của cuộc đời Thúy Kiều. Khi vì chữ Hiếu mà nàng phải quên đi chữ Tình quên đi hạnh phúc của đời mình đành dang dở. Bằng bút pháp miêu tả nội tâm tài tình Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy được tâm trạng giằng xé đầy đau khổ của Thúy Kiều.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.
Trong không gian tĩnh mịch đêm khuya vắng. Thúy Kiều gọi Thúy Vân đến khẩn thiết cậy nhờ em. Nàng biết rằng điều mình nói ra đây thật sự rất khó khăn nên mới phải sử dụng từ “cậy em”. Sau đó rồi đưa Thúy Vân lên một tầm cao hơn đó là ngồi lên trên để chị “lạy rồi sẽ thưa”. Chỉ hai câu thơ đầu thôi mà chúng ta đã thấy được Thúy Kiều là người hiểu chuyện như thế nào khi lường trước được việc mình cậy nhờ em sẽ thật sự khó khăn nên muốn đưa em vào thế không thể chối từ. Trong niềm đau đớn của bản thân, Thúy Kiều cố gắng phân bày với em việc tại sao mới có lý do cậy nhờ ngày hôm nay:
"Giữa đường đứt mối tương tư.
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ.
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Ngày xuân em hãy còn dài.
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn.
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây.”
Nàng kể về mối tình nồng thắm của mình với Kim Trọng vừa mới chớm nở nay đã phải lụi tàn vì hoàn cảnh gia đình. Không còn nỗi đau khổ nào hơn khi vì chữ Hiếu mà phải dứt bỏ chữ Tình với chàng Kim. Vì thế Thúy Kiều cũng mong Thúy Vân thấu hiểu cho nỗi khổ của mình mà nhận lời chắp nối tơ duyên với Kim Trọng. Nếu Thúy Vân nhận lời làm việc đó thì dù có chết Thúy Kiều cũng vẫn biết ơn em. “Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây”. Nàng đã lấy cả cái chết ra để thuyết phục em gái nhận lời cậy nhờ của mình.
Sau khi Thúy Vân đã nhận lời giúp chị Thúy Kiều bắt đầu trao cho em những kỷ vật tình yêu. Lúc này tâm trạng đau khổ giằng xé của nàng được tác giả Nguyễn Du khắc họa rất rõ nét.
Chiếc trâm với bức tờ mây.
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng.
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin.
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Trong giờ phút trao duyên mọi kỷ niệm lại sống dậy mãnh liệt trong tâm trí Thúy Kiều. Ngỡ như tình yêu chỉ mới hôm qua đây khi nàng vừa gặp Kim Trọng vừa trao nhau những lời thề nguyền ước hẹn. Trao duyên những kỷ vật đấy được xem là của chung. Và sau này khi em có nên vợ nên chồng với chàng Kim cũng đừng quên chị. Càng nói Thúy Kiều càng xót xa cho thân phận hồng nhan bạc mệnh của mình. Khi mà có được tình yêu trong tay rồi mà vì biến cố gia đình lại bị tuột mất. Nàng chới với không biết bám víu vào đâu nên tưởng tượng đến lúc Thúy Vân và Kim Trọng bên nhau mà lúc đấy nàng chỉ như một oan hồn vật vờ trong gió vương vấn trên phím đàn và mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ.
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây.
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Nếu như ở đoạn thơ đầu Thúy Kiều nói chỉ cần Thúy Vân nhận lời trao duyên thì mình ở nơi chín suối cũng ngậm cười thơm lây. Thì đến đoạn thơ này khi nhắc đến những kỷ niệm tình yêu với chàng Kim nàng càng day dứt. Nàng day dứt vì tình yêu không trọn vẹn. Thúy Kiều cảm thấy nỗi xót xa vô hạn dù chỉ là tưởng tượng thôi cũng khiến người ta cảm thấy thương cảm. Đúng là “trâm gãy bình tan” tơ duyên ngắn ngủi vừa nở đã tàn. Thúy Kiều chỉ xin em dù có thế nào nếu có âm dương cách biệt hãy cho chị xin giọt nước cho người thác oan.
Hồn còn mang nặng lời thề.
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời.
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Với Thúy Kiều dù có chết nàng cũng không bao giờ quên được tình yêu với Kim Trọng. Nên dù “thác xuống” nàng vẫn đau đáu với tình yêu chưa trọn vẹn. Nàng đã phải thốt lên:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang.
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.
Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lặng ngát đôi tay giá đồng
Thúy Kiều đã phải thốt lên “ôi Kim Lang” nghĩa là nàng đã coi chàng Kim Trọng như phu quân của mình là tình lang trong mộng. Nhưng từ nay cũng chỉ vì chữ Hiếu mà phải phụ chàng từ đây.
Đoạn thơ kết thúc với tâm trạng đau khổ cùng cực của Thúy Kiều. Ta thấy Nguyễn Du thật sự rất tài tình khi đã lột tả chân thực được nỗi niềm của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao Duyên. Ở đó có cả sự mạnh mẽ của quân tử cũng có sự yếu đuối của nữ nhi thường tình khi phải rời xa tình yêu khắc cốt ghi tâm của mình. Một tâm trạng giằng xé đau khổ mà không phải ngòi bút nào cũng có thể lột tả được.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn thơ Trao duyên - Mẫu 3
Đoạn thơ Trao duyên là một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng con người tội nghiệp Thúy Kiều. Mười năm lưu lạc của Thúy Kiều là một tấn bi kịch triền miên chất chứa bao nỗi đau đớn, thảm sầu. Mối tình đầu đẹp đẽ, trong sáng giữa nàng với Kim Trọng đã sớm bị sóng gió cuộc đời làm cho tan vỡ. Sau khi bán mình chuộc cha để báo đền chữ hiếu, Kiều đã âm thầm khóc thương cho lời nguyền vàng đá với chàng Kim. Nàng đành cậy Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng. Trao duyên là nỗi đau đớn, nỗi đau đầu đời của người con gái tài sắc - Thúy Kiều.
Trong đêm gia biến: Một mình nàng ngọn đèn khuya, Áo dầm giọt lệ tóc se mái sầu. Nàng sống với tâm trạng đầy sóng gió và mặc cảm. Trước sự thực phũ phàng là ngày mai nàng sẽ thuộc về tay kẻ khác, Kiều cảm thấy như chính minh là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh cho Kim Trọng. Nàng thương mình một nhưng thương người yêu mười nên cắn răng cam chịu số phận đen bạc của mình: Phận dầu, dầu vậy cùng dầu để nghĩ đến nỗi đau của Kim Trọng:
Công trình kẻ biết mấy mươi
Vì ta khăng khít cho người dở dang!
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa
Thúy Kiều mang nặng mặc cảm là người có lỗi. Nàng tự trách mình khăng khít, khiến cho người dở dang. Đúng ra là cả hai chủ động tìm đến nhau, yêu nhau và tự nguyện gắn bó với nhau. Kiều có mặc cảm đó là vì nàng luôn nghĩ đến người khác, ngay cả trong lúc đau thương tột bậc.
Một mình một bóng, đối diện với tâm trạng rối bời, tan nát, Kiều chỉ biết âm thầm khóc than cho gia cảnh, cho duyên phận. Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ một cách có thể cứu vãn phần nào cho mối lương duyên của mình, đó là trao duyên cho em gái. Và Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân khi cô em vô tư ấy vừa chợt tỉnh giấc xuân. Thấy Kiều khóc lóc ủ ê, Thúy Vân gạn hỏi nguyên do và cũng lờ mờ đoán biết chị mình đang mắc mối tình chi đây. Kiều trao duyên cho em mà trong lòng băn khoăn, bối rối:
Rằng: lòng đương thổn thức đầy
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong
Hở môi ra cũng thẹn thùng
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.
Nàng thẹn thùng khó nói vì còn vướng mối tơ duyên với chàng Kim - mối tình mà chỉ hai người biết với nhau. Ngỏ chuyện riêng tư với người khác, cho dù là em mình đi nữa cũng không phải là điều dễ dàng. Hơn nữa, đây không phải là tình yêu thoáng qua mà đã thề nguyền vàng đá, kết giải đồng tám; nó trở thành thiêng liêng, khó có thế đổi thay. Nay nhờ Vân thay thế mình, Kiều sợ chắc gì Vân đã nhận lời. Kiều lâm vào tình thế khó xử; không nói không được mà nói ra thì e ngại. Bởi thế nên nàng đắn trước đo sau, băn khoăn, ngập ngừng mãi rồi mới thốt ra được một câu khiến người ngoài cuộc nghe cũng phải mủi lòng.
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lèn cho chị lạy rồi sẽ thưa
Lời gì vậy? Đó là lời nhờ Vân thay chị nối tình với chàng Kim. Đề nghị ấy thật bất ngờ ngay cả đối với Thúy Kiều bởi trước đó nàng chưa hề nghĩ đến. Cả một đêm thức trắng, nàng đâu có nghĩ ra điều này. Nàng chỉ có đau khổ, giày vò. Nhưng từ lúc Thúy Vân thức giấc và tỏ ra thương chị, nàng như vụt thấy một làn chớp sáng: Đây rồi, cô em gái này có thế' giúp mình trả món nợ tình. Đề nghị ây cũng bất ngờ đối với Thúy Vân bởi nó quan trọng quá, nó ảnh hưởng đến cả cuộc đời. Nhận lời lấy một người đâu có dễ dàng, đơn giản như nhận một món quà?
Vậy dựa vào đâu mà Thúy Kiều dám đề ra ý kiến ấy và hầu như ép Thúy Vân phải nhận lời? Chỉ có cơ sở duy nhất đúng đắn là tình thương. Chị thương em. tin rằng em sẽ nghe lời. Chị cũng biết em thương chị, không nỡ trái ý chị. Còn em, tuy chẳng hiểu đầu đuôi ra sao nhưng lại thật tình thương chị riêng gánh chịu nỗi oan khổ của cả gia đình, lại đang đau xót vì môi tơ duyên đứt đoạn nên dù chưa kịp nghe hết lời giãi bày, chắc cũng đã thấu hiểu lòng chị.
Người ta hỏi: Tại sao Thúy Kiều không dùng từ nhờ mà lại dùng từ cậy? Không dùng từ nhận mà lại dùng từ chịu? Chính vì giữa các từ ấy có một sự sai biệt khá tinh vi. Đặt nhờ vào chỗ cậy, không những thanh điệu câu thơ sẽ nhẹ đi, âm thanh không dọng ở chữ thư nhất của câu thơ nữa mà còn giảm đi cái quằn quại khó nói của Kiều, cái ý nghĩa hi vọng thiết tha của một lời trối trăng, ý nghĩa nương tựa, gửi gắm của một tấm lòng tuyệt vọng, ý nghĩa tin tưởng vào tình cảm ruột thịt. Giữa chiu và nhận thì dường như còn có vấn đề tự nguyện hay không tự nguyện nữa. Nhận lời có lẽ có nội dung tự nguyện: còn chịu lời thì hình như chỉ có một sự nài ép phải nhận vì không nhận không được. Trong tình thế của Thúy Vân lúc bấy giờ, chỉ có chịu lời chứ làm sao nhận lời được? Câu thơ sáu chữ giản dị mà chứa đựng tất cả chiều sâu của một tình thế phức tạp. Điều đó càng làm cho nó có dáng dấp như một lời cầu nguyện.
Kiều yêu cầu Thúy Vân: Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa vì nàng coi sự chịu lời của Thúy Vân là một hành động hi sinh. Đối với cử chỉ hi sinh ấy thì chỉ có kính phục và biết ơn. Thúy Kiều lạy em là lạy sự hi sinh cao cả ấy. Trong những giây phút đau đớn, tội nghiệp này, Kiều vẫn quên mình để suy nghĩ đến người yêu. Nỗi buồn của nàng cần phải được san sẻ cho vơi bớt. Sau cái phút ban đầu khó nói, giờ đây nàng bộc bạch với em gái về mối tình đẹp đẽ mà dang dở của mình:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Tâm sự về nỗi khó nghĩ, khó lựa chọn giữa tình và hiếu:
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Là người con có hiếu, Kiều đã bán mình để lấy ba trăm lạng cứu cha và em khỏi vòng tội tù oan nghiệt. Chữ hiếu nàng đã đáp đền, còn chữ tình vẫn canh cánh bên lòng như một món nợ nặng nề khó trả:
Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan
Ý nghĩa này cho thấy Thúy Kiều đau khổ biết chừng nào và cũng cao cả biết chừng nào! Nàng van lơn em gái hãy xót tình máu mủ thay lời nước non mà bằng lòng kết duyên với chàng Kim. Nhắc tới chàng, Thúy Kiều càng sầu, càng tủi cho thân phận. Tưởng chừng như nỗi đau theo nước mắt tuôn rơi:
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Tưởng tượng ra cái chết thê thảm cũng là biểu hiện của sự thương thân, nhưng Kiều tự an ủi rằng vong hồn mình nơi chín suối hãy còn thơm lây với cái đạo đức thơm tho của em. Kiều nói với em những lời gan ruột như thế, hỏi Thúy Vân sao nỡ chối từ? Ngôn ngữ của Kiều ở đoạn này là ngôn ngữ của lí trí. Tuy Kiều là cô gái rất giàu tình cảm nhưng đối với chuyên trọng đại của cả một đời người này, nàng không thể dùng tình cảm của mình mà thuyết phục được em. Phải bình tĩnh mà dùng lí lẽ, phân tích thiệt hơn, phải trái để em hiểu mà bằng lòng giúp.
Trước lời nói có lí, có tình thiết tha của Thúy Kiều, Thúy Vân chỉ còn biết im lặng lắng nghe và như thế có nghĩa là nàng chấp nhận. Đến đây Thúy Kiều mới nhẹ lòng và nàng lấy kĩ vật tình yêu giữa mình với Kim Trọng ra trao cho em gái:
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Nếu như ở đoạn trên, Kiều kể mối tình cho em nghe bằng giọng điệu cố lấy vẻ bình tĩnh thì đến lúc này, trao lại kỉ vật cho em, nàng cảm thấy đã mất hết nên không thể kìm nén được tình cảm của mình nữa, trái tim đa cảm bắt đầu lên tiếng. Nàng nói: Chiếc vành với bức tờ mây vẫn bằng tiết tấu của mấy câu thơ trên, nhưng đến câu: Duyên này thì giữ vật này của chung nghe như đã có tiếng nấc nghẹn ngào ở trong đó. Duyên này là duyên giữa Thúy Vân với Kim Trọng, phần nàng đã hết. Duyên chị đã trao lại cho em, nhưng kỉ vật này xin em hãy coi có một phần của chị, nó là của chung. Rò ràng lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim nhưng tình cảm của nàng thì không thể.
Mối tình đầu thơm, tho, ngọt ngào nhường ấy, bỗng chốc bảo quên, quên làm sao được? Gửi lại trong chút kỉ vật này vậy. Giữa lúc tột đỉnh đau thương, Kiều vẫn cố tìm lấy một chút an ủi. Sau đó, Kiều để mặc cho tình cảm tuôn tràn. Nàng nói với em bằng tiếng nói khác của lòng mình. Ngôn ngữ nàng không còn cái. mạch lạc, khúc chiết của lí trí nữa mà thuần là của tình cảm, của cả ảo giác. Càng nói càng xót xa cho duyên phận bất hạnh của mình. Nàng nói rõ mình mệnh bạc, tình mình mất đi và bao nhiêu nỗi niềm ngày xưa nay chỉ còn có phím đàn với mảnh hương nguyền:
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Động đến tương lai chắc chắn mù mịt, nàng đâu còn giữ được sự yên ổn trong lòng phút giây trước đó. Như người lội nước hụt chân rớt xuống vực sâu, Kiều chới với không biết bám víu vào đâu. Kiều tưởng tượng đến lúc Vân và chàng Kim nên vợ nên chồng, đến cõi hư không mà nàng chỉ là một mảnh hồn oan vật vờ theo ngọn gió hiu hiu trên ngọn cỏ lá cây nhưng vẫn vướng chặt với tiếng tơ trên phím đàn và mùi hương của mảnh trầm ngày xưa và vẫn còn mang nặng lời thề, lời nguyền nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai cho người. Nàng đinh ninh mình sẽ là một hồn oan trong cõi chết và dặn em rưới cho giọt nước làm phép tẩy oan. Có mâu thuẫn không?
Trên kia Thúy Kiều đã chẳng nói là nếu được Vân giúp cho thì dù thịt nát xương mòn nàng vẫn ngậm cười chín suối là gì? Nghĩa là trả được món nợ tình, nàng sẽ hết giày vò vì đã lo cho người yêu chu tất. Thế mà chỉ trong giây lát tưởng tượng, .nàng đã trở lại với bao nỗi xót xa còn nặng nề hơn trước. Chút yên lòng đã bay đâu mất!
Đúng là có mâu thuẫn nhưng không phải trước sau hoàn toàn chỉ có một vấn đề. Trước, nàng đau khổ vì người; nay lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc, thấy mình sẽ mất tất cả. Nàng không chỉ chới với trong tương lai mịt mù, oan nghiệt. Nàng không còn ở trạng thái tỉnh táo bình thường mà như nửa tỉnh nửa mê, nửa phần là người sống, nửa phần là hồn ma. Và tuy vẫn đối thoại với Vân nhưng lời nàng phảng phất như lời từ cõi bên kia vọng về.
Đoạn thơ cùng chợt đổi giọng. Hình ảnh âm điệu như chập chờn bay hết nét thật, có cái gì đó thật hư ảo: thời điểm không xác định (mai sau, bao giờ), không khí linh thiêng (đốt lò hương, so tơ phím của người xưa để lại) hình ảnh phất phơ, ma mị (ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió...) Tất cả đều nói lên rằng Kiều tiếp tục khổ đau và càng khổ đau gấp bội.
Theo đà nửa tỉnh nửa mê, đang nói chuyện với Vân, Kiều bỗng nói một mình, nói với mình về sự dở dang duyên phận. Đúng là cảnh trâm gãy bình tan, tơ duyên ngắn ngủi. Đúng là phận bạc như vôi và đành phải chấp nhận cảnh nước chảy hoa trôi lỡ làng mà trái tim như tan ra từng mảnh. Nàng đành chịu tội với chàng Kim, đành gửi chàng muôn nghìn cái lạy. Đau đớn quằn quại đến mức Kiều phải nấc lên:
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây
Tiếng nấc nghẹn ngào ấy khẳng định một lần nữa mặc cảm có tội của Kiều. Nghĩa là nàng phủ nhận tất cả những gì đã nói với Vân, những gì đã làm cho chàng Kim, phủ nhận nỗi yên tâm của mình trong khoảnh khắc trên kia. Nghĩa là nàng tuy có đau thêm cho mình nhưng vẫn một mực đau cho người, vì người. Nỗi đau không đơn giản mà tăng lên gấp bội. Nàng gọi tên chàng Kim như trong cơn mê sảng. Nỗi đau đã lên đến tột đỉnh, quá sức chịu đựng của thể xác:
Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.
Đoạn thơ là một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng con người tội nghiệp Thúy Kiều. Nàng đau khổ, quằn quại đâu phải vì bản thân mình? Tất cả trái tim yêu thương nàng dành cho người yêu. Tâm hồn vị tha ấy cao đẹp biết chừng nào! Thương người đằm thắm sâu xa, muốn cho người được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hi sinh, tấm lòng ấy đã gây xúc động mạnh trong lòng người đọc. Đó cũng là nét sáng ngời trong phẩm giá của Thúy Kiều.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên - Mẫu 4
Con người khi đứng trước sự lựa chọn của bên nghĩa bên tình thì rất khó lựa chọn. Tuy nhiên thì công đức sinh thành bao giờ cũng cao cả vậy cho nên nếu là một người con hiếu thảo yêu thương cha mẹ của mình thì dẫu cho tình yêu kia có đẹp đến mấy thì vẫn quyết định chọn chữ nghĩa để trả ơn bố mẹ. kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã chọn chữ “nghĩa” lớn lao ấy. Thế nhưng nàng vẫn muốn vù đắp cho tình cảm kia của mình. Vì thế nàng quyết định trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Đoạn trích trao duyên thể hiện được tất cả những tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên của mình cho nàng Thúy Vân.
Duyên là một thứ để cho con người ta gặp gỡ, để mà yêu nhau và nếu có phận thì sẽ có thể bên nhau đến trọn đời. Và đặc biệt cái duyên cái nợ là do ông tơ bà nguyệt se tơ kết tóc nối duyên. Thế nhưng ở đây Thúy Kiều đã như đoạt lấy cái quyền hành ấy mà để nối duyên của mình cho em. Nàng có duyên với chàng Kim Trọng nhưng lại không có phận vì thế cho nên nàng muốn nối duyên cho em. Vì trong thâm tâm nàng đó như một cái để nàng đền đáp những ân tình của chàng Kim mà chàng đã trao cho nàng. Trao duyên đi lòng nàng không khỏi đau xót vì tình yêu duy nhất và đầu tiên của nàng đã không thành. Phải chăng tình đầu là dang dở.
Với hai câu thơ đầu ta thấy được những hành động của Thúy kiều thật khác bình thường. Nàng như đang hạ thấp bản thân mình để cầu xin em, trao duyên nhưng cũng là cầu xin em giúp chị và chấp nhận:
“Cậy em em có chịu lời.
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Là một người chị đáng ra chẳng bao giờ phải cậy nhờ hay vái lạy em mình cả thế nhưng ở đây Kiều trao duyên hay chính là đang nhờ Thúy Vân thay mình đền đáp tấm chân tình với Kim Trọng. Những từ “cậy”, “ngồi lên”, “lạy”, “thưa” là những từ để chỉ thái độ kính trọng của người dưới đối với người trên thế mà ở đây bị xáo trộn. Thúy Kiều là chị nhưng lại phải lạy em cậy nhờ. Cái “cậy” kia mang ý nghĩa ép buộc Thúy Vân phải làm nhiều hơn là nhờ. Nói là nhờ thì lại rất bình thường nhưng nói là cậy thì cái nhờ vả kia lại nặng hơn gấp bội. Dùng ngôn ngữ như thế tác giả có ý muốn nói đến sự cậy nhờ em của Thúy Kiều. Nàng thành khẩn giống như cầu xin em mình để đền đáp tình cảm cho chàng Kim. Nàng cậy nhờ rồi nàng nói lên những lời tâm tư tình cảm của bản thân mình. Đó là những tâm sự tận sâu trong đáy lòng của nàng:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. ”
Nàng như thể hiên được cái nỗi đau xót của bản thân mình khi tình duyên lỡ dở. Chính vì chữ hiếu mà nàng hi sinh chữ tình phụ chàng Kim. Và có lẽ thế nàng vừa đau xót cho thân mình vừa đau đớn cho cuộc tình dang dở. Chàng Kim ấy vẫn đang chịu tang nơi quê nhà không hề hay biết những chuyện nơi đây. Nàng chỉ mong Vân có thể nối duyên bù đắp những gì của mình vẫn còn dang dở. Chính vì thế mà Kiều mong Vân chấp nhận sự cậy nhờ của mình mà chắp mối tơ loan với chàng Kim Trọng. Sự ngậm ngùi ấy được phát ra từ những câu thơ trên. Dù cho là chị em nữa nhưng phải gượng ép trao đi thứ mình không muốn trao và thứ mà người ta không muốn nhận thì chẳng khác nào mất đi một thứ quý báu. Vân ngây thơ phúc hậu cũng chỉ biết là Thúy Kiều cậy nhờ mình chứ nào đâu hiểu hết được “ Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Vốn dĩ chữ tình và chữ hiếu không thể đặt lên bàn mà cân cho được. Thúy Kiều vịn vào tình cảnh của gia đình hiện tại và thêm nữa là tình máu mủ ruột già. Điều đó càng làm cho Thúy Vân có muốn từ chối cũng không thể nào từ chối được:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây!”
Rõ ràng cả hai chị em cùng đến tuổi xuân xanh đang tràn đầy sức sống của tuổi thanh xuân, tuổi biết yêu thương lấy một người nào đó. Vậy mà Kiều lại nói là tuổi xuân của Thúy Vân còn dài trong khi mình thì nào có khác đâu. Nói như thế để cho thấy Kiều như đã xác định được con đường mà nàng sắp phải đặt chân đến, không yên bình như những ngày tháng trước đây nữa mà sóng gió có thể mang cô đi bất cứ lúc nào. Kiều mong vân xót tình chị em máu mủ ruột già mà hãy chấp nhận lời thay chi làm trọn lời hẹn thề với chàng Kim. Nếu được như thế thì ngay cả khi những sóng gió kia bủa vây lấy nàng cướp nàng đi khỏi thế gian này. Mặc cho sang thế giới bên kia không còn nguyên vẹn thì Kiều cũng cảm thấy thơm lây cái sự hi sinh của em gái cho mình. Khi đã trao duyên xong nàng như cảm thấy được những tâm trạng đang bủa vây đến nàng. Nàng đã hoàn thành xong cái đền đáp ơn nghĩa với Kim Trọng nhưng lòng lại thấy buồn vì vừa trao đi, mất đi một tình yêu đầu êm đềm dịu ngọt. Hơn nữa tình yêu ấy mới bắt đầu:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Chiếc vành với tờ mây kia chính là những kỉ vật tình yêu của hai người. họ đã cùng nhau thề nguyền sống chết, họ đã có với nhau những ngày tháng hạnh phúc những niềm vui tràn ngập vậy mà giờ đây cái xã hội kia đã buộc Kiều chọn chữ hiếu mà hi sinh chữ tình. Nàng chỉ mong mai này khi chàng Kim và em của nàng có thành duyên vợ chồng rồi thì mong họ hãy nhớ đến nàng. Những kỉ vật tình yêu của nàng với chàng Kim chỉ mong tham lam giữ thành của chung của ba người. Dẫu đã trao cho Thúy Vân những kỉ vật ấy nhưng nàng vẫn luyến tiếc và mong rằng nó sẽ là của chung. Nguyễn Du không đặt những kỉ vật ấy vào trong cùng một câu thơ mà lại chia ra thành mấy câu thơ.
Có lẽ làm như thế để cho chúng ta thấy được cảm xúc đau buồn của nàng Kiều khi phải trao lại những kỉ vật ấy một cách đầy luyến tiếc cho em gái mình. Nàng như cố níu giữ lấy những kỉ vật tình yêu thế nhưng nàng cũng buộc mình phải đưa cho Vân những kỉ vật ấy nếu không thì sẽ không thể nào mà đền đáp tấm ân tình của chàng Kim trọng được. Có thể nói qua những câu thơ trên tâm trang của thúy Kiều được hiện thật sự rất rõ nét. Đó chính là tâm trạng mong muốn trở lại những ngày tháng trước đây. Đồng thời luyến tiếc với những kỉ vật tình yêu ấy. Kiều đau đớn như nghĩ đến cái chết, có lẽ là nàng tưởng tượng ra cảnh mai này Kim và vân sống hạnh phúc mà nàng phải chứng kiến cảnh yêu thương của họ thì nàng sống không bằng chết. Hay từ khi xác định bán thân nàng đã quyết định chọn cái chết để kết thúc cuộc đời này. Tuy vậy nàng vẫn mong rằng:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan”
Sự bất công của xã hội và sự mất đi tình yêu của Kiều sẽ khiến cho nàng cảm thấy thật sự đau oan khuất mà cứ vấn vương trên cõi trần không thể siêu thoát. Mai sau nếu thấy hiu hiu gió thì có thể cảm nhận là nàng đang về. Cơn gió kia thể hiện sự vương vấn cõi trần này của nàng. Lời thề với chàng Kim thì dẫu cho Kiều có nát thân liễu yếu thì cũng không thể nào đền đáp được cho chàng Kim. Khi ấy chỉ mong kim và Vân hãy rót một chén rượu cho người thác oan là Thúy Kiều. Có thể nói cuộc sống của con người ai mà chẳng sợ chết người ta nghĩ đến cái chết chỉ khi trong họ thật sự cảm thấy rất đau khổ không thể nào có thể chịu đựng được nữa thì họ mới dám nghĩ đến. kiều ý thức được nỗi đau trong mình, nàng như biết trước con dường mà nàng sắp đi khổ cực và gian truân đến mức nào. Cũng có thể chết bất cứ lúc nào.
Như vậy qua đây ta thấy được những tâm tư của nàng Thúy kiều. Tình đầu là thứ tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ nhất, duyên phận vốn trớ trêu với con người. Chính vì thế chữ tình kia không trọn cho phận má đào. Cô không muốn chàng Kim đợi chờ mình mà mong rằng Thúy Vân em cô sẽ giúp cho anh có một cuộc sống hạnh phúc. Dẫu biết vậy nhưng nàng không khỏi đau khổ khi trao duyên.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên - Mẫu 5
Đại thi hào Nguyễn Du là một trong những tên tuổi sáng chói góp phần vào dòng văn học việt nam có bước chuyển mình vàng son. Trong thời kỳ văn học hiện đại, Nguyễn Du cùng với các tên tuổi lớn như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm tạo nên những tượng đài thi ca của văn học Việt Nam. Tác phẩm làm nên tên tuổi của Nguyễn Du là bộ tiểu thuyết viết bằng chữ Nôm "Đoạn trường tân thanh" hay được gọi đơn giản với cái tên "Truyện Kiều". "Truyện Kiều" là thiên truyện nói về nỗi đau khổ của con người trong một chế độ đầy những bất công. "Truyện Kiều" là bức tranh diễn tả tâm trạng của con người nói đúng hơn và rõ hơn số phận của nhân vật trong chế độ ấy. "Trao duyên" là khúc tình thảm khốc và bi thương nhất của thiên truyện bằng thơ này, lưu lạc Kiều năm có bao nhiêu là nỗi khổ: phải bán mình chuộc cha, phải vật vã trong chốn phòng the, bị Hoạn thư làm nhục, giết Từ Hải, bị ép cưới Thổ Quan. Trao duyên "là sự đau khổ và nỗi lòng của Kiều. Mối duyên tình mê đắm là mối tình đầu đẹp và nên thơ, cuộc "hẹn ngọc thề vàng" với Kim Trọng diễn ra không bao lâu thì nay với việc "bán mình chuộc cha" Thúy Kiều đã phải "sám hối" vì tình duyên của mình. Nàng vật vã đau đớn trong đêm khuya, tự khóc than cho phận bạc của mình và đã đấu tranh giao cái tình duyên cho em gái là Thúy Vân. "Trao Duyên" là một trong những bài thơ có vai trò rất quan trọng trong Truyện Kiều của nhà thơ Nguyễn Du. Đoạn thơ khắc họa một cách rõ nét nhất tấn bi kịch của cuộc đời Thúy Kiều. Khi vì chữ Hiếu mà nàng phải quên mất chữ Tình quên cả hạnh phúc của cuộc đời mình đã dở dang. Những thủ pháp miêu tả nội tâm tài tình Nguyễn Du đã cho chúng ta biết được tâm trạng giằng xé đầy đau đớn của Thúy Kiều.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.
Trong không gian tĩnh mịch đêm khuya vắng. Thúy Kiều gọi Thúy Vân đến khẩn thiết cậy nhờ em. Nàng biết rằng điều mình nói ra đây thật sự rất khó khăn nên mới phải sử dụng từ “cậy em”. Sau đó rồi đưa Thúy Vân lên một tầm cao hơn đó là ngồi lên bên trên để chị “lạy rồi sẽ thưa”. Chỉ hai câu thơ đầu thôi mà chúng ta đã thấy được Thúy Kiều là một người hiểu chuyện như thế nào khi lường trước được việc mình cậy nhờ em sẽ thật sự khó khăn nên muốn đưa em vào thế không thể chối từ. Trong niềm đau đớn của bản thân, Thúy Kiều cố gắng phân bày với em việc tại sao mới có lý do cậy nhờ ngày hôm nay:
"Giữa đường đứt mối tương tư.
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ.
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Ngày xuân em hãy còn dài.
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn.
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây.”
Giải bày sự tình để cho em hiểu lòng mình mà nhận được lời đồng ý từ Thúy Vân. Giải bày sự tình cũng là để gửi gắm tình yêu, tình thương của mình với Kim Trọng. Nói rồi trao ngay kỷ vật, trao ngay cái tình và cái “trách nhiệm” cho em. Nàng kể lại mối tình đẹp của mình với Kim Trọng vừa chớm nở giờ đã bị lụi tàn vì hoàn cảnh khó khăn. Không còn sự đau đớn nào hơn khi vì chữ Hiếu mà đành dứt chữ Tình với chàng Kim. Vì thế Thúy Kiều cũng mong Thúy Vân hiểu được nỗi đau của nàng để đồng ý nối tình duyên với Kim Trọng. Nếu Thúy Vân đồng ý làm việc ấy thì dù cho có chết Thúy Kiều cũng luôn biết ơn em. "Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây". Nàng đã lấy cả cái chết ra để thuyết phục em nhận được lời cậy nhờ của Thúy Kiều. Nét khi Thúy Vân đã đồng ý thì chị Thúy Kiều bắt đầu đưa cho em các kỷ vật tình cảm. Lúc này tâm trạng đau đớn giằng xé của nàng được tác giả Nguyễn Du thể hiện khá rõ nét. Trao thân và "Trao duyên" đã dứt khoát rồi mà sao ta vẫn thấy còn tiếc nuối, còn thèm một chút "thơm lây", vẫn còn "dù có chết" hồn cứ quanh quẩn nơi đây trong mỗi lá cây, cọng cỏ. Nguyễn Du thật tài tình khi diễn tả tâm trạng của Nàng Kiều qua đoạn "Trao duyên" này. Miêu tả tâm trạng Thúy Kiều như vậy, chứng tỏ nhà thơ, thấu hiểu tâm lý nhân vật của nguyễn du nhiều và cũng là cảm thông, yêu thương nhân vật của mình nữa.
Chiếc trâm với bức tờ mây.
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng.
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin.
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Trong giờ phút trao duyên mọi kỷ niệm lại sống dậy mãnh liệt trong tâm trí Thúy Kiều. Ngỡ như tình yêu chỉ mới hôm qua đây khi nàng vừa gặp Kim Trọng vừa trao nhau những lời thề nguyền ước hẹn. Trao duyên nhưng kỷ vật ấy được xem là của chung. Và sau này khi em có nên vợ nên chồng với chàng Kim cũng đừng quên chị. Càng nói Thúy Kiều càng xót xa cho thân phận hồng nhan bạc mệnh của mình. Khi mà có được tình yêu trong tay rồi mà vì biến cố gia đình lại bị tuột mất. Nàng chới với không biết bám víu vào đâu nên tưởng tượng đến lúc Thúy Vân và Kim Trọng bên nhau mà lúc đấy nàng chỉ như một oan hồn vật vờ trong gió vương vấn trên phím đàn và mảnh hương nguyền ngày xưa:
Mai sau dù có bao giờ.
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây.
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Trọn vẹn ở đoạn thơ đầu Thúy Kiều nói chỉ cần Thúy Vân đồng ý trao duyên thì mình ở trên thiên đàng cũng được an ủi. Thì ở đoạn thơ cuối khi nói về những kỷ niệm tình yêu với chàng Kim nàng lại day dứt. Nàng day dứt vì hạnh phúc không trọn vẹn. Thúy Kiều cảm thấy nỗi buồn vô hạn dù cho có chỉ là tưởng tượng nhưng cũng làm người khác phải thương xót. Hoặc là "trâm gãy bình tan" tơ duyên mong manh chưa nở đã tàn. Thúy Kiều chỉ xin em dù có thế nào nếu có duyên thì hãy cho chị mượn giọt nước mắt để khỏi ngã xuống.
Hồn còn mang nặng lời thề.
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời.
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Với Thúy Kiều dù có chết nàng cũng không bao giờ quên được tình yêu với Kim Trọng. Nên dù “thác xuống” nàng vẫn đau đáu với tình yêu chưa trọn vẹn. Thổ lộ được tâm trạng của mình với em rồi, đã gửi tình cảm của mình cho em rồi, phận bạc của mình như thế, lẽ ra Thúy Kiều có thể giảm bớt âu lo, có thể thanh thản mà rời xa mãi vào nơi vô định được. Trái lại, quên đi có em ở trước mặt, nàng đã khóc thét lên, như muốn được "sám hối" vì tội lỗi của mình. Lời thú tội ấy quả là đau đớn vô cùng, thật là thảm thiết:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang.
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.
Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng
Thúy Kiều đã phải thốt lên “ôi Kim Lang” nghĩa là nàng đã coi chàng Kim Trọng như phu quân của mình là tình lang trong mộng. Nhưng từ nay cũng chỉ vì chữ Hiếu mà phải phụ chàng từ đây. Đoạn thơ kết thúc với tâm trạng đau khổ cùng cực của Thúy Kiều. Ta thấy Nguyễn Du thật sự rất tài tình khi đã lột tả chân thực được nỗi niềm của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao Duyên. Ở đó có cả sự mạnh mẽ của quân tử cũng có sự yếu đuối của nữ nhi thường tình khi phải rời xa tình yêu khắc cốt ghi tâm của mình. Một tâm trạng giằng xé đau khổ mà không phải ngòi bút nào cũng có thể lột tả được. Hẳn là, khi nghe Kiều than khóc như vậy. Thúy Vân càng thương chị hơn, càng thấy cái “được” của mình là vì chị nữa. Vân càng hiểu rằng chị Kiều đã chịu “riêng oan một mình”, đã hy sinh tình yêu của mình. Tiếng kêu thét cho tình yêu ấy, dù là tuyệt vọng cũng như vang đến tận tay Kim Trọng đang ở quê xa và có thể còn hơn thế, nỗi đau “trao duyên” của Thúy Kiều như là một nốt sầu thảm trong cung đàn “bạc mệnh” mang đến. Như vậy qua bài thơ ta thấy được tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên cho em gái mình. Cái xã hội phong kiến kia đã khiến cho bên tình bên hiếu bị đặt lên bàn cân và buộc người con gái hiếu thảo kia phải lựa chọn. Mà vốn dĩ chữ hiếu và tình không thể nào đem ra cân được. Chữ hiếu làm tròn thì tình kia lại đành thất hẹn, làm trái lời thề. Chính bởi lẽ ấy mà Kiều cảm thấy rất đau đớn thậm chí cô đã nghĩ đến cái chết.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên - Mẫu 6
Tình yêu đầu luôn tỏa sáng và tươi đẹp. Nhưng với Thuý Kiều, tình yêu ấy lại chứa đựng bao đau khổ, xót thương không nguôi. Mối tình đầu tuyệt vời của nàng với Kim Trọng đã bị chia cắt bởi những biến cố gia đình đau lòng. Để bảo toàn truyền thống hiếu thảo, nàng quyết định nhường mối duyên cho em gái, Thuý Vân, để Vân có thể trả ơn cho Kim Trọng. Đoạn trích Trao duyên là bức tranh tuyệt vời về sự đau đớn và giằng xé trong tâm hồn của Kiều khi phải buông mình khỏi mối tình sâu đậm.
Đoạn trích Trao duyên, từ câu 723 đến câu 756 trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, kể về những biến cố trong gia đình Kiều sau đêm thề nguyền với Kim Trọng. Gia sản bị tịch thu, cha và em trai bị bắt. Trước khi rời đi, Kiều nhờ em gái, Thuý Vân, trả nghĩa cho Kim Trọng. Trích đoạn là tác phẩm nghệ thuật thể hiện rõ sự đau đớn và giằng xé tinh tế trong tâm lý của Thúy Kiều.
Đêm trước khi rời đi, Kiều lẻ loi trong bóng tối. Nàng đau lòng vì bản thân, đau lòng vì mối tình dang dở với Kim Trọng. Kiều luôn tự trách mình, cảm thấy là nguyên nhân của nỗi đau cho chàng:
“Công trình biểu tượng biết bao
Vì ta trung thành với người hồ đồ!
Thề nguyền chưa kịp hoàn thành
Lỗi lầm chỉ mới đã quá đủ!”
Kiều mang trên vai gánh nặng tội lỗi dù tình cảm của họ là sự tự nguyện. Dưới ánh đèn mờ, nàng khóc thương cho số phận và tình cảm của mình. Tâm trạng Kiều rối bời và dằn vặt. Nàng nhận ra chỉ còn một cách để cứu vãn, dù chỉ là một phần của mối duyên của mình, đó là nhờ Thuý Vân trao lại cho Kim Trọng. Vân sẽ giúp nàng kết nối với Kim Trọng, hai người như chị em, và Vân sẽ trở thành người thay thế cho nàng.
Khi Thuý Vân nhìn thấy vẻ buồn bã của Kiều, Vân hỏi Kiều về câu chuyện, và Kiều trả lời:
“Lòng đau thắt lại, mối duyên vẫn còn vướng mãi
Đánh rơi lời thề, lòng vẫn phải chung một nhà
Mở lời cũng e ngại, thẹn thùng làm sao đây
Tâm hồn gian nan, trao duyên với ai?”
Kiều bắt đầu nói trong sự thẹn thùng và e ngại, vì đây là câu chuyện riêng tư của nàng, không phải ai cũng hiểu và nghe được. Kiều cực kỳ cẩn trọng, chọn lựa từ ngữ tỉ mỉ khi nói với em gái:
“Chỉ hy vọng em hiểu lòng
Chị đây xin chân thành lạy em đôi lời”
Câu nói này làm nổi bật sự e dè và thận trọng, cũng như tầm quan trọng của câu chuyện mà Kiều muốn chia sẻ với em. Nàng chọn cẩn thận từng từ, ngần ngừng khiến câu chuyện trở nên quan trọng hơn. Một lời “chỉ hy vọng” phản ánh sự nghi ngờ, lo lắng, còn “chân thành lạy em đôi lời” là sự tôn trọng đặc biệt, thậm chí nằm ngoài dự kiến khi Kiều sử dụng những hành động tôn kính dành cho người có địa vị cao với em gái, Thuý Vân.
Kiều rất khôn ngoan và tinh tế khi đặt vấn đề với Vân trong câu chuyện của mình. Những lời nói của nàng không chỉ làm cho Vân cảm nhận được sự quan trọng của việc nàng muốn nhờ vả mà còn thể hiện nỗi đau và tuyệt vọng của Kiều trong từng từ ngữ.
Sau những lời khó khăn ban đầu, Kiều chia sẻ nỗi lòng với em về mối tình đẹp đẽ với chàng Kim:
“Giữa đường đời gập ghềnh
…
Mỉm cười, tình vẫn thơm lây nồng nàn”
Mỗi từ, mỗi câu là một kí ức về mối tình đầu tinh khôi và trọn vẹn của nàng. Những hẹn ước, thề nguyền dưới ánh trăng vẫn còn nguyên vẹn, nhưng nàng phải “đứt gánh”. Câu thơ ngân nga như lời tâm sự của Kiều về nỗi đau khó lựa chọn giữa trách nhiệm hiếu thảo và tình cảm:
“Những sóng gió trái ngang
Tình hiếu lẽ lớn nhất bề vẹn hai”
Ở tình thế nan đối, Kiều đã quyết định chọn hiếu thảo, bán mình để cứu cha em. Tuy nhiên, trong lòng nàng vẫn còn mối tình với Kim – một nghĩa khó có thể trả hết. Mỗi câu, mỗi chữ là biểu hiện của đau khổ không ngừng trong trái tim Kiều. Nàng van em gái, hãy thay mình để kết duyên, trả nghĩa cho Kim thay vì nàng. Nếu như vậy, dù nàng phải đối mặt với cái chết thê thảm nhất, nàng cũng sẽ hạnh phúc.
Những lý lẽ trao duyên của Kiều chặt chẽ, thông minh nhưng ẩn sau đó là sự dằn vặt và xót xa cho mối tình đầu của nàng.
Khi đã nói hết lý lẽ trao duyên, Kiều lặng lẽ giao cho em hết những ký ức tình yêu của mình:
“Bức vằn và tấm mây
Duyên này giữ của chung
Dù em là vợ hay chồng
Xoá những mệnh trời đau lòng không quên
Mất người chỉ là chút tin
Nhạc đàn và hương nguyên ngày xưa'
Trong lời thơ nguyên văn, Kiều như một người tỏ ra bình tĩnh, phân tích cho Vân nghe về mọi sự dằn vặt, đau xót nàng cất giữ trong lòng. Tuy nhiên, ở đây, Kiều không thể kiềm chế được cảm xúc nữa. Những câu thơ như tiếng nấc nghẹn của nàng khi truyền đạt những kỉ vật cho em gái. Kiều trao hết, trao mối duyên này đi, tạo ra cho mối duyên giữa Vân và Kim Trọng. Nhưng những kỉ vật này, hãy xem chúng là “của chung”, của cả ba người. Càng nói, Kiều càng đau xót cho số phận mình, tự nhận mình là một kẻ “bạc mệnh”. Nàng thậm chí cảm nhận được tương lai của mình đầy mịt mù, chỉ thấy cái chết là rõ ràng nhất.
'Mai sau dù có bao giờ
Đốt lo hương ấy so tơ phím này
Nhìn ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan'
Trong khi Vân và Kim hạnh phúc với mối duyên mới, Kiều tưởng tượng mình như một linh hồn lạc lõng nơi thế gian. Mặc dù “nát thân bồ liễu” nhưng linh hồn Kiều vẫn gắn bó với lời thề sắt son cùng Kim Trọng, không bao giờ quên. Đây là một mâu thuẫn, khi nàng từng nói nếu Vân giúp mình, nàng sẽ “ngậm cười chín suối” ngay cả khi thân thể đã “thịt nát xương mòn”. Nhưng giờ đây, khi nàng trả nợ tình duyên, nàng không hề thanh thản mà còn đau đớn và nặng nề hơn trước. Nàng nhận ra sự bạc bẽo của số phận và tương lai mờ mịt, oan trái khiến tâm hồn nàng trở nên mơ hồ. Những từ ngữ của nàng như lời của một linh hồn vọng lại từ thế giới bên kia.
Trong từng lời nói của Kiều hiện lên sự giằng xé, tiếc nuối không dứt khi phải trao mất mối duyên tình sâu sắc. Đồng thời, nàng chứa chất nỗi đau xót, cảm giác tiêu cực về số phận bạc bẽo và tương lai mờ mịt không có lối thoát.
Trong bức tranh đau đớn của nỗi nhớ, Kiều tỏ ra bất lực và thốt lên những lời đau đớn về mối duyên dang dở, về số phận của mình:
“Giờ đây trâm gãy, gương tan,
Kể làm sao xiết được muôn vàn tình ân!
Trăm nghìn lời cầu chúc phúc cho tình yêu, nhưng mối duyên ngắn ngủi chỉ là như vậy thôi!
Phận sao khắc nghiệt như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi, lỡ làng.
Ôi Kim Trọng! Hỡi Kim Trọng!
Thôi thôi, thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Bây giờ, trong thực tại của nỗi nhớ về Kim Trọng, Kiều chỉ nhìn thấy sự tan vỡ, những đau thương như “trâm gãy, gương tan”. Mặc dù biết mọi nỗ lực đều vô ích, nhưng trái tim Kiều vẫn đau xé khi nhìn nhận về sự “phận” bạc bẽo của mình, để mối tình và trái tim kia “lỡ lãng”. Kiều thừa nhận lỗi lầm, tiếc nuối với tình lang của mình trông chua xót và đau đớn. Cuối cùng, nàng không thể kiềm chế được nữa, lời thốt lên nghẹn ngào và đau đớn quằn quại:
“Ôi Kim Trọng! Hỡi Kim Trọng!
Thôi thôi, thiếp đã phụ chàng từ đây”
Tiếng nấc nghẹn của Kiều là sự bộc lộ tâm trạng đau đớn đầy cảm xúc của nàng, tới mức gần như mê sảng. Nỗi đau chia cắt nhân lên gấp bội, lên tới đỉnh điểm.
Đoạn kết kịp lại trong nỗi đau thương quằn quại của con người Kiều, không vì bản thân mình mà vì người nàng yêu, vì tình lang của mình. Tâm hồn nàng chứa đựng sự vị tha, nhân ái vô bờ, nàng mong muốn hạnh phúc cho người mình yêu, sẵn sàng hi sinh cho người đó.
Đoạn trích Trao duyên tận dụng ngôn ngữ sắc sảo để thể hiện một cách chân thực tâm trạng của Thuý Kiều khi phải trao đi mối duyên đậm đà với Kim Trọng. Nguyễn Du tài năng khiến cho mỗi động từ, mỗi ngôi từ trở nên sống động, tạo nên một tác phẩm đong đầy cảm xúc. Điều này giúp chúng ta cảm nhận hết sự đau đớn, giằng xé và nghẹn ngào trong tâm hồn Kiều.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên - Mẫu 7
Khi tai họa ập đến, Thúy Kiều đã đi theo con đường quen thuộc của người có hiếu: “Để lời thề Hải Minh Sơn/ Làm con trước phải đền ơn sinh thành”, Thúy Kiều lại rơi vào một bi kịch khác, đau đớn và đáng thương hơn. Đoạn trích “Trao duyên” khắc họa sâu sắc tấn bi kịch đó của Thúy Kiều đồng thời cũng khiến ta trân trọng hơn vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng.
Đêm cuối cùng trước ngày lên đường theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều một mình đối diện với ngọn đèn trong bóng chiều hấp hối đau khổ và chiếc khăn ướt đẫm nước mắt. Tâm trạng “trọn vẹn” như thế , chỉ đến khi Thúy Vân “đến thăm” Kiều mới bộc lộ tình cảm sâu sắc của mình. Người con gái tài sắc ấy không những hiếu thảo với cha mẹ mà trong tình yêu còn là một người tha thiết, sâu sắc và vị tha, đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của Thúy Kiều Chuyện gì sẽ xảy ra với nàng nhưng lúc này Kiều đã một lòng một dạ hướng về người mình yêu, điều đó được thể hiện rõ nét qua lời cầu xin tha thiết của nàng với Thúy Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Chiều sâu cuộc đời của Tố Như thể hiện ở cách lựa chọn từ ngữ để diễn tả tâm trạng nhân vật. Trong các từ biểu thị yêu cầu: xin, mượn, phiền,… Nguyễn Du chọn từ cậy, bởi riêng từ này đã hàm chứa hai nội dung: nhờ và tin. “Chịu” chứ không phải là nhận vì nhận là tự nguyện của Vân. Nhưng việc Kiều quay lại nương nhờ em gái là một sự cầu xin, một sự ép buộc, không lấy được, là đặt cả mình và Vân vào một tình huống khó xử. Đó là Vân thay Kiều trả “nghĩa” với Kim Trọng. Trong quan niệm của người trung đại, tình thường gắn liền với nghĩa. Nhưng dẫu sao thì Vân cũng có trách nhiệm và nghĩa vụ: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. Thúy Kiều vẫn đưa ra những lý lẽ để thuyết phục em gái mình. Tình yêu sâu nặng của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng khẳng định vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của nàng, những lời dặn dò, thuyết phục khiến Kiều sống lại kỉ niệm tình yêu với Kim Trọng: “Ngày đã cạn, đêm đánh chén thề”; trao cho Vân những kỷ vật tình yêu: chiếc vành, mảnh mây, cây đàn, nén nhang nguyền,… để chị có mặt trong tình yêu, trong tình cảm của chị với Tràng.
Nhưng càng yêu Kim, Kiều càng rơi vào bi kịch đau khổ. Đó trước hết là bi kịch của tình yêu lứa đôi đang đẹp đẽ, hạnh phúc bỗng chốc tan vỡ, chia lìa. Đoạn thơ dang dở, đứt đoạn này được thể hiện bằng câu thơ mang sắc thái thành ngữ: “Giữa đường đứt gánh tình”. Hình ảnh ẩn dụ này chúng ta đã từng thấy trong ca dao, hóa ra những nỗi khổ của Kiều không xa lạ gì với những số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên, bi kịch tình yêu tan vỡ của cô vẫn đau đớn và thấm thía hơn bất kỳ lịch sử tình yêu nào trước đây. Một phần vì Thúy Kiều chỉ có thể dành tình cảm cho Vân mà không thể dành tình cảm cho em gái. Cô đã trao cho Vân những kỷ vật tình yêu đẹp đẽ và thiêng liêng. Trong mối tình Kim, Nguyễn Du luôn dành cho người chị chữ “tình” và cho người em chữ “phận”.
Kiều mong rằng qua kỷ vật có thể hiện diện trong tình yêu, trong tâm tư của Kim Trọng: “Mất người còn chút của tin”. Trong thiên cổ tình xưa, nước mắt Mị Nương rơi vào chén trà giải oan cho Trương Chi, còn trong Truyện Kiều, nước mắt của chàng Kim không thể hóa giải nỗi oan của Kiều. Bởi sự trở về với một linh hồn bất tử là sự trở về không gặp gỡ, luôn bị chia cắt bởi hai cõi âm dương: “Sân ga đêm xa mặt em”. Về sau, trong tập “Kim Trọng trở về”, cuộc gặp gỡ Kim – Kiều không còn là cuộc gặp gỡ của tình yêu.
Qua việc khám phá vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách cũng như bi kịch của Thúy Kiều trong đoạn trích: “Trao duyên”, người đọc nhận ra “sự đồng cảm lạ lùng” của nhà đại thi hào dân tộc đối khao khát tình yêu của con người.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên - Mẫu 8
Nguyễn Du là Đại thi hào của dân tộc với rất nhiều tác phẩm văn chương để đời. Trong đó phải kể đến Truyện Kiều được coi là kiệt tác văn học. Trong đó, đoạn trích Trao Duyên – Truyện Kiều là đoạn trích hay, đắt giá. Đoạn trích là tiếng lòng đau xót và tê tái, tâm trạng đau khổ giày xé của Thúy Kiều khi chìa lìa hạnh phúc. Bằng bút pháp miêu tả nội tâm sâu sắc mà Nguyễn Du đã tái hiện được đầy đủ tâm trạng giằng xé của Thúy Kiều khi vì chữ Tình mà dỡ lở cuộc đời.
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.
Trong không gian đêm khuya tĩnh mịch, Thúy Kiều gọi Thúy Vân vào để nhờ cậy em. Nàng biết rằng, việc nhờ em chuyện này là vô cùng khó khăn nên tác giả phải sử dụng từ “Cậy” để cho thấy sự chân thành của Nàng. Đặc biệt “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”, Thúy Kiều đã đưa Thúy Vân lên một tầm cao mới và mong muốn, lạy lục em chuyện mình nhờ vả. Điều này cho thấy, Thúy Kiều là người hiểu chuyện thế nào. Trong tình huống này, có lẽ nàng cũng hiểu chỉ có một mình Thúy Vân mới có thể giúp được nàng vì vậy nàng đem hết tâm gan, ruột gan ra để nhờ Thúy Vân.
Giữa đường đứt mối tương tư.
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ.
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Ngày xuân em hãy còn dài.
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn.
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây.”
Trong lần tâm sự này, Thúy Kiều kể về mối tình của nàng với Kim Trọng. Mối tình vừa chớm nở đã lụi tàn. Tình cảm đang mặn nồng đành phải chia xa. Mà nguyên nhân sâu xa chính là do biến cố gia đình. Giữa chữ Tình và Hiếu, làm sao trọn vẹn cả hai? Không có nỗi đau nào đau hơn khi Thúy Kiều đành phải buông bỏ chữ Tình vì chữ Hiếu. Kiều mong sao Thúy Vân cũng có thể hiểu cho nỗi lòng của nàng, đồng ý để nàng se xuyên với Kim Trọng “tình chị duyên em”. Để rồi, nếu nàng có chết cũng mỉm cười nơi chín suối. Điều này cho thấy, nàng còn đem cả cái chết ra để thuyết phục em. Có lẽ chỉ khi bị đẩy vào bước đường cùng, con người ta mới phải tìm cái chết để “ép” nhau. Càng phân tích càng thấy sự tổn thương, giày xé và bế tắc của Thúy Kiều.
Sau khi Thúy Vân đã nhận lời, Thúy Kiều bắt đầu trao em những kỉ vật tình yêu:
Chiếc trâm với bức tờ mây.
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng.
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin.
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Phân tích tâm trạng thúy kiều trong đoạn trích trao duyên Trao kỷ vật cho em mà lòng nào nặng trĩu. Từng câu chữ, từng lời nói như đá nặng trong tim. Những kỉ vật mới hôm nào của riêng đôi ta giờ đây đã thành của chung. Mối tình mới ngày nào còn đang đẹp vậy mà giờ đã dang dở. Nhưng nàng vẫn một lòng se duyên cho em để trọn nghĩa tình. Và dù sau này em có nên vợ chồng cũng xin đừng quên người chị bạc mệnh này. Có lẽ, Thúy Kiều càng nói càng xót xa cho thân phận Hồng nhan bạc mệnh của mình. Tình yêu đã ở trong tay vậy mà giờ lại bẽ bàng thế này. Chỉ nghĩ đến lúc khi Thúy Vân và Kim Trọng bên nhau nàng chỉ là oan hồn phất phơ mới đau xót làm sao.
Mai sau dù có bao giờ.
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây.
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Dường như Thúy Kiều đã nhìn thấy tương lai của mình. Có lẽ cuộc đời nàng sau này đen tối và không còn lối thoát. Có lẽ chẳng sớm thì muộn nàng cũng cô quạnh và nếu chết đi cũng chỉ là oan hồn cô đơn mà thôi. Nếu ở những câu thơ trong trao kỉ vật thì ở câu thơ này tâm trạng xót xa, đau đớn, bẽ bàng càng được thể hiện ra. Đoạn thơ nhắc đến những kỉ niệm tình yêu mà day dứt. Day dứt vì không trọn vẹn khiến trong tưởng tượng thôi cũng xót xa vô cùng. Thúy Kiều chỉ muốn nhắc Thúy Vân xin đừng quên nàng, nếu lỡ âm dương cách biệt thì cũng hãy nhớ đến chị : “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”.
Hồn còn mang nặng lời thề.
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời.
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Chỉ tưởng tượng thôi cũng đã thấy xót xa. Nếu đoạn trên là mong ước cho Thúy Vân nhận lời se duyên với Kim Trọng thì đoạn sau lại là nỗi lòng xót xa của Thúy Kiều. Dường như, sau khi lo cho em và cha mẹ xong, Thúy Kiều mới bắt đầu nghĩ đến cuộc đời mình. Thế là hết! Hồng nhan bạc mệnh, trâm vỡ bình tân. Hi sinh chữ Tình để vì chữ Hiếu bán thân chuộc cha, lo cho em gái có một tấm chồng như ý suốt đời. Khi mọi việc đã lo xong thì giờ đây nàng mới nghĩ đến mình, mới nghĩ đến mối tình chớm nở đã tàn, mối tình khắc cốt ghi tâm với bao lời thề ước. Vậy mà giờ cũng không thể đến với nhau. Có lẽ, ngay cả khi Thúy Kiều chết đi nàng vẫn nhớ đến những lời thề năm xưa. Chỉ mong, nếu nàng có chết cũng xin được giọt nước cho người thác oan.
Những lời tâm sự của Kiều dường như rơi vào nửa tỉnh nửa mê. Lúc đầu nàng nhờ cậy, lạy lục em, khi em đồng ý nàng mới như bừng tỉnh nghĩ cho cuộc đời mình. Nàng mới càng nhớ da diết đến Kim Trọng, càng tiếc thương cho mối tình trong sáng, ngọt ngào vừa mới đây thôi:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang.
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.
Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng
Nàng thốt lên Ôi Kim Lang, hỡi Kim lang nghĩa là nàng đã coi Kim Trọng là phu quân là tình lang của mình. Nhưng từ nay, vì chữ Hiếu nên xin phụ Tình. Sau khi thốt ra nỗi lòng nhớ nhung của mình cũng là lúc trái tim nàng đã nguội lạnh, tâm hồn đã chết, cả người băng giá. Mất đi Kim Trọng cũng như mất đi một nửa cuộc đời. Nàng đã xác định cuộc đời phía trước là bể dâu, nước đẩy thuyền trôi không thể cưỡng cầu.
Chỉ một đoạn trích Trao Duyên ngắn nhưng Nguyễn Du đã lột tả chi tiết và sâu sắc tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều. Một bên Hiếu – một bên Tình nàng phải lựa chọn sao cho thỏa đáng, nàng phải hi sinh hạnh phúc cá nhân vì gia đình. Một người con gái mới lớn, chưa trải sự đời, chưa biết sóng gió bên ngoài ra sao mà phải chấp nhận bán thân vào lầu xanh cho thấy sự hi sinh của nàng lớn thế nào. Và cũng cho thấy nàng bế tắc thế nào. Những hình ảnh sử dụng trong đoạn trích vừa ma mị, vừa hư ảo, hiện tại quá khứ đan xen khiến cho tâm trạng của Kiều càng rối bời, nửa mê nửa tỉnh, nửa nhớ thương nửa đau đớn.
Đoạn Trao Duyên trong Truyện Kiều chính là một khúc Đoạn Trường bậc nhất trong cuộc đời Thúy Kiều. Đây chính là đoạn trường đầu tiên nàng bước vào để rồi kéo dài triền miên những ngày tháng tê dại, đau khổ và bế tắc. Nguyễn Du đã tái hiện thành công những ngổn ngang đau đớn của Kiều khi hi sinh tình yêu của mình để mang lại hạnh phúc cho gia đình. Tưởng rằng, đây là hành động vô lý của Thúy Kiều nhưng nó lại có giá trị nhân văn sâu sắc và thể hiện tình yêu một lòng một dạ, chân thành với Kim Trọng.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên - Mẫu 9
Kiều là một cô gái xinh đẹp mặn mà sắc sảo thế nhưng chính cái xã hội đen tối phong kiến kia đã làm cho Kiều có cuộc đời gian truân sóng gió. Có thể nói nhà thơ Nguyễn Du thông cảm sâu sắc với số phận ấy lắm thì mới có thể kể chi tiết về cuộc đời của người con gái xinh đẹp tài năng ấy được.
Trước khi Kiều trở thành món hàng của phường buôn thịt bán người. Kiều đã nhớ đến người yêu của mình là Kim Trọng và nhờ Thúy Vân đền đáp nghĩa tình với chàng Kim thay mình. Đoạn trích Trao duyên đã thể hiện tâm trạng của Kiều khi quyết định trao duyên cho em.
Duyên là một thứ trời xe, trời định, những người yêu nhau ắt hẳn được xe duyên. Thế mà ở đây Kiều tự thay trời trao duyên của bản thân mình cho em thì có thể được không? Mà duyên thì là yêu nhau mới có huống chi Thúy Vân cùng chàng Kim có yêu nhau đâu. Mặt khác trong sâu thẳm trái tim của Kiều thì việc trao duyên kia không hề dễ, phải trao đi người mà mình yêu thương thì làm sao có thể vui được. Tuy nhiên thì ở đây Kiều vẫn phải tước quyền của ông Tơ bà Nguyệt, bỏ qua những cảm xúc của bản thân mình để quyết định trao duyên cho em.
Trước hết là mười bốn câu thơ đầu nói lên việc Thúy Kiều quyết định trao duyên cho em mình là Thúy Vân.
Thứ nhất là Kiều nói với em về nỗi bất hạnh của mình. Nỗi bất hạnh ấy chỉ có Thúy Vân mới thay thế được Kiều cũng chỉ có Thúy Vân mới giúp Kiều an tâm về chuyện chàng Kim được:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Tác giả dùng từ thật hay khi nói đến việc trao duyên của nàng Kiều cho Thúy Vân. Là một người chị đáng ra chẳng bao giờ phải cậy nhờ hay vái lạy em mình cả thế nhưng ở đây Kiều trao duyên hay chính là đang nhờ Thúy Vân thay mình đền đáp tấm chân tình với Kim Trọng. Những từ “cậy”, “ngồi lên”, “lạy”, “thưa” đó chính là thái độ của người dưới dành cho người trên nhưng ở đây thì lại là chị dành cho em. Dùng ngôn ngữ như thế tác giả có ý muốn nói đến sự cậy nhờ em của Thúy Kiều. Nàng thành khẩn giống như cầu xin em mình để đền đáp tình cảm cho chàng Kim.
Trước sự cậy nhờ ấy để thêm phần thuyết phục Vân đồng ý thì Kiều đã tâm sự với em về những nỗi tơ vương sầu muộn đang bủa giăng trong lòng nàng. Và chỉ có Thúy Vân mới có thể giúp đỡ Kiều chứ không có ai khác cả:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”
Nàng ngậm ngùi mà rằng nàng đã trót thề nguyền cùng người con trai tên Kim Trọng ấy mà giờ đây tình yêu vừa mới chớm đến lại đứt gánh tương tư giữa đường. Còn tại sao đứt gánh thì có lẽ Vân cũng hiểu. Chính vì thế mà Kiều mong Vân chấp nhận sự cậy nhờ của mình mà chắp mối tơ loan với chàng Kim Trọng. Sự ngậm ngùi ấy được phát ra từ những câu thơ trên. Có thể nói để cất lên những tiếng cậy nhờ kia thì quả thật Kiều cũng đau đớn lắm. Dù cho là chị em nữa nhưng phải gượng ép trao đi thứ mình không muốn trao và thứ mà người ta không muốn nhận thì chẳng khác nào mất đi một thứ quý báu. Vân ngây thơ phúc hậu cũng chỉ biết là Thúy Kiều cậy nhờ mình chứ nào đâu hiểu hết được “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.
Tiếp đến Kiều thể hiện hoàn cảnh của bản thân mình và cuộc sống của Vân để làm cho lời cậy nhờ kia nặng hơn khiến cho Thúy Vân có muốn từ chối cũng không thể nào từ chối được:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây!”
Khi cậy nhờ em xong thi Kiều lại quay về cảm giác một mình và cái sự một mình ấy đã khiến cho nàng nghĩ đến những chuyện trước đây, tâm trạng của nàng bắt đầu được bộc lộ rõ ràng hơn. Thứ nhất là Kiều mong muốn trong tuyệt vọng quay về với người yêu của mình:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Chiếc vành với tờ mây kia chính là những kỉ vật tình yêu của hai người. họ đã cùng nhau thề nguyền sống chết, họ đã có với nhau những ngày tháng hạnh phúc những niềm vui tràn ngập vậy mà giờ đây cái xã hội kia đã buộc Kiều chọn chữ hiếu mà hi sinh chữ tình. Thôi thì nàng quyết định giữ cái duyên còn vật kia thì thành của chung. Mai này khi Vân và Kim Trọng có nên duyên vợ chồng thì cũng mong hãy nhớ đến Kiều. Rồi là phím đàn với mảnh hương thề nguyền ngày nào cũng là những kỉ vật tình yêu của Kiều và Kim Trọng. Thế nhưng Nguyễn Du không để những kỉ vật ấy cùng một câu thơ. Có lẽ làm như thế để cho chúng ta thấy được cảm xúc đau buồn của nàng Kiều khi phải trao lại những kỉ vật ấy một cách đầy luyến tiếc cho em gái mình. Nàng như cố níu giữ lấy những kỉ vật tình yêu thế nhưng nàng cũng buộc mình phải đưa cho Vân những kỉ vật ấy nếu không thì sẽ không thể nào mà đền đáp tấm ân tình của chàng Kim Trọng được. Có thể nói qua những câu thơ trên tâm trạng của Thúy Kiều được thể hiện thật sự rất rõ nét. Đó chính là tâm trạng mong muốn trở lại những ngày tháng trước đây, đồng thời luyến tiếc với những kỉ vật tình yêu ấy.
Những tưởng Thúy Kiều trao duyên xong sẽ cảm thấy thanh thản phần nào những trái lại giây phút kết thúc sự trao duyên ấy lại là giây phút Kiều đau nhất. Có lẽ trong sâu thẳm trái tim Kiều một khi đã trao duyên thì tức không phải của mình nữa. Tình yêu bấy lâu nay bỗng chốc không phải là của mình nữa. Kiều đau như chết lặng đi trong sự đau đớn đang giày xé con tim mình:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan”
Kiều nghĩ đến cái chết và Kiều ngẫm rằng kể cả khi nàng chết đi thì những lời thề kia cũng không thể nào quên được. Và sự bất công của xã hội và sự mất đi tình yêu của Kiều sẽ khiến cho nàng cảm thấy thật sự đau oan khuất mà cứ vấn vương trên cõi trần không thể siêu thoát. Mai sau khi Vân Trọng nên duyên thì cũng đừng quên Kiều. Nếu thấy hiu hiu gió thì có thể cảm nhận là nàng đang về. Nàng mượn cơn gió kia để đưa hồn mình về thăm Vân Trọng. Lời thề với chàng Kim thì dẫu cho Kiều có nát thân liễu yếu thì cũng không thể nào đền đáp được cho chàng Kim. Khi ấy chỉ mong Kim và Vân hãy rót một chén rượu cho người thác oan là Thúy Kiều. Có thể nói cuộc sống của con người ai mà chẳng sợ chết người ta nghĩ đến cái chết chỉ khi trong họ thật sự cảm thấy rất đau khổ không thể nào có thể chịu đựng được nữa thì họ mới dám nghĩ đến. Kiều ý thức được nỗi đau trong mình, nàng như biết trước con đường mà nàng sắp đi khổ cực và gian truân đến mức nào. Cũng có thể chết bất cứ lúc nào.
Như vậy qua bài thơ ta thấy được tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên cho em gái mình. Cái xã hội phong kiến kia đã khiến cho chữ tình chữ hiếu bị đặt lên bàn cân và buộc người con gái hiếu thảo kia phải lựa chọn. Mà vốn dĩ chữ hiếu và chữ tình không thể nào đem ra cân được. Chữ hiếu làm tròn thì chữ tình kia lại đành thất hẹn, làm trái lời thề. Chính bởi lẽ ấy mà Kiều cảm thấy rất đau đớn thậm chí cô đã nghĩ đến cái chết.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên - Mẫu 10
Tai biến ập đến, Thúy Kiều đã đi theo con đường quen thuộc của những con người hiếu thảo: "Để lời thệ hải minh sơn/ Làm con trước phải đền ơn sinh thành. "Khi mâu thuẫn giữa hiếu và tình đã được giải quyết, Thúy Kiều lại rơi vào một bi kịch khác, đau đớn và nhức nhối hơn. Đoạn trích Trao duyên đã khắc họa sâu sắc bi kịch đó của Thúy Kiều đồng thời cũng khiến chúng ta trân trọng hơn vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng.
Đêm cuối cùng trước ngày ra đi theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều một mình đối diện với chính mình, với ngọn đèn in bóng đau khổ đã cạn dần với chiếc khăn thấm lệ đã đẫm nước mắt: "Dẫu chong trắng địa, lệ tràn thấm khăn". Điều gì đã khiến nàng "ngồi nhẫn tàn canh". Trong tâm trạng "bàn hoàn" đến vậy? Chỉ đến khi Thúy Vân "ghé đến ân cần hỏi han" Kiều mới thổ lộ tâm sự sâu kín của nàng. Người con gái tài sắc ấy không chỉ có lòng hiếu thảo với cha mẹ mà trong tình yêu, nàng là con người thiết tha, sâu nặng, vị tha đến quên mình. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của Thúy Kiều. Số phận nàng ngày mai không biết sẽ ra sao nơi đất khách quê người, nhưng hiện tại trong giờ phút này, Kiều một lòng một dạ hướng về người yêu. Điều này được thể hiện rõ qua lời khẩn cầu thiết tha đối với Thúy Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Cái sâu sắc nước đời của Tố Như thể hiện ở việc lựa chọn từ ngữ diễn tả tâm trạng nhân vật. Trong những từ biểu đạt sự nhờ vả: nhờ, mượn, phiền,... Nguyễn Du chọn từ cậy, vì chỉ từ này mới hàm chứa hai nội dung: nhờ và tin. "Chịu lời" chứ không phải nhân lời vì nhận lời là sự tự nguyện của Vân. Song việc Kiều sắp nhờ cậy em gái là một sự nài nỉ, bắt buộc, không nhận không được, là đưa cả chính nàng và Vân vào hoàn cảnh khó xử. Đó là việc Vân thay Kiều trả "nghĩa" cho Kim Trọng: xót tình máu mủ thay lời nước non". Trong quan niệm của người trung đại tình thường gắn với nghĩa. Cả ba người trong cuộc đều coi việc trả nghĩa này là hợp lí. Nhưng cho dù đó là trách nhiệm và nghĩa vụ của Vân: "Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em". Thúy Kiều vẫn đưa ra những lí lẽ để thuyết phục em gái. Chính những lí lẽ ấy càng thể hiện rõ tình yêu sâu nặng Thúy Kiều dành cho Kim Trọng, càng khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Nói với em, thuyết phục em mà Kiều như sống lại những kí ức tình yêu với Kim Trọng: "Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề"; trao kỉ vật tình yêu cho Vân: chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền,... mà những mong thông qua đó, nàng có thể hiện diện trong tình yêu, trong nỗi niềm với Kim Trọng.
Song càng nặng tình với chàng Kim bao nhiêu, Kiều càng rơi vào bi kịch khổ đau bấy nhiêu. Đó trước hết là bi kịch của tình yêu lứa đôi đang đẹp đẽ, hạnh phúc bỗng chốc tan vỡ, chia lìa. Sự dở dang, tan vỡ này được thể hiện qua một câu thơ mang sắc thái thành ngữ: "Giữa đường đứt gánh tương tư". Hình ảnh ẩn dụ này ta đã bắt gặp trong ca dao, hóa ra, những đau khổ của Kiều nào có xa lạ gì với những số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên bi kịch tình yêu tan vỡ ở nàng vẫn đau đớn và nhức nhối hơn bất cứ thiên tình sử nào trước đó. Một phần là bởi Thúy Kiều chỉ có thể trao duyên cho Vân chứ không thể trao tình yêu cho em gái. Nàng đã trao lại cho Vân những kỉ vật tình yêu đẹp đẽ và thiêng liêng. Trong mối quan hệ chàng Kim, bao giờ Nguyễn Du cũng dành cho người chị chữ "tình", và cô em chữ "duyên".
Khi ăn ở lúc ra vào,
Càng âu duyên mới, càng dào tình xưa
Kiều mong muốn thông qua những kỉ vật, nàng có thể hiện diện trở về trong tình yêu, trong tâm thức của Kim Trọng: "Mất người còn chút của tin", nhưng có nghĩa gì đâu khi "chút của tin" còn mà người đã mất, con đường trở về với tình yêu bằng linh hồn bất tử: "Thấy hiu hiu gió thi hay chị về". Nhưng nàng ý thức được rằng đó là cái chết oan nghiệt: "Rảy xin chén nước cho người thác oan". Trong thiên tình sử xưa, giọt lệ Mị Nương rơi xuống chén trà và oan hồn Trương Chi được giải tỏa, còn trong Truyện Kiều giọt lệ của chàng Kim không thể làm tan mối tình oan khuất của nàng Kiều. Bởi sự trở về bằng linh hồn bất tử là sự trở về không có gặp gỡ, luôn luôn bị chia cắt bởi hai cõi âm dương: "Dạ đài cách mặt khuất lời "Sau này, trong màn "Tái hồi Kim Trọng "sự gặp mặt của Kim - Kiều cũng không còn là sự gặp lại của tình yêu, vì "sự đời đã tắt lửa lòng" "đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì".
Thông qua việc khám phá vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách Thúy Kiều cũng như bi kịch của nàng trong đoạn trích: "Trao duyên", người đọc nhận ra "sức cảm thông lạ lùng" của nhà đại thi hào dân tộc đối với những khổ đau và khát vọng tình yêu của con người.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên - Mẫu 11
Đoạn trích “Trao duyên” có một vị trí đặc biệt trong kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Về mặt kết cấu, bài thơ đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời của nhân vật chính Thúy Kiều: bắt đầu cuộc đời lưu lạc, đau khổ. Về chủ đề, bài thơ thể hiện sâu sắc chủ đề bi kịch của tình yêu tan vỡ. Về nghệ thuật, đoạn thơ chứng tỏ tài năng tuyệt vời của Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.
Diễn biến tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên qua ba chặng được ví như ba nấc thang tâm lý. Mở đầu là lời yêu cầu khẩn thiết của Kiều với Vân:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Hai câu thơ cho thấy Kiều vừa van xin vừa tha thiết, như đặt cả niềm tin và hi vọng vào Vân. Giữa muôn vàn từ ngữ thể hiện sự nhờ vả: hỏi, mượn, phiền,… Nguyễn Du đã chọn từ “cậy”. Phải chăng chỉ một chữ “cậy” đã chứa đựng nội dung của một lời nhắn nhủ và tin tưởng? Lại nữa, tại sao “chịu” mà không phải “nhận”, tại sao “tuân lệnh” trước rồi “bảo” sau? Nếu Kiều trình bày sự việc trước, chưa chắn Vân đã nhận lời. Nói “chịu” tức là có ý kiến của người nhận, có sự tự nguyện của Vân. Nhưng Vân có biết thế nào là tự nguyện hay không tự nguyện? Vì thế, nàng đành “chấp nhận”, bởi đây là việc Kiều chủ động cưỡng bức Vân, đẩy Vân vào tình thế không thể chấp nhận được. Đến lúc này, Kiều mới thấu hiểu nỗi khổ của mình và càng hiểu nỗi khổ của em gái mình.
Thúy Kiều không kể dài dòng về hoàn cảnh của mình. Điều gì đã xảy ra là không rõ ràng. Nhưng nỗi bất hạnh của Kiều thì chỉ Vân mới hiểu. Bởi chính Vân là người chứng kiến cả hai biến cố của cuộc đời Kiều: “Khi gặp chàng Kim” và khi “bất kỳ sóng gió”. Mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều lúc này không phải là giữa chữ hiếu và chữ tình. Hóa giải mâu thuẫn giữa hiếu và tình, Kiều đã làm được điều đó, tuy khó khăn nhưng dứt khoát và có phần thanh thản: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Vả lại, nếu nói đến chữ hiếu, Kiều không nhất thiết phải “cậy”, phải “lạy”, phải “nói” với mình; hẹn hò, với Vân là trách nhiệm và nghĩa vụ.
Xung đột chủ yếu được thể hiện trong đoạn trích là “xung đột giữa tình yêu đôi lứa và hạnh phúc tan vỡ”. Sự dở dang, đứt gánh này được thể hiện qua một câu thơ mang đậm sắc thái thành ngữ: “Giữa đường đứt gánh tình”. Hình ảnh ẩn dụ “giữa đường đứt gánh” ta đã từng thấy trong ca dao. Hóa ra, những đau khổ của Thúy Kiều không xa lạ gì với số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên, bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều vẫn đau đớn hơn bất kỳ lịch sử tình yêu nào trước đây trong văn học.
Sau tám câu mở đầu, Kiều kể cho Vân nghe về nỗi bất hạnh của mình, về việc thấu hiểu tình cảnh khó khăn của nàng, Kiều tiếp tục thuyết phục Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Kiều nói với Vân bằng những lời tâm sự thể hiện qua những câu thơ mang phong cách thành ngữ: “tình máu mủ”, “khúc hát nước non”, “xương thịt mòn”, “nơi chín suối”. Kiều trói Vân bằng chính máu mủ của mình, xin nàng ban cho mình một chút niềm vui, một chút ân sủng, một chút hương thơm cho tấm thân cao quý:
“Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Trong một khổ thơ, tên Kim Trọng được gọi hai lần, kèm theo những thán từ đau đớn, tuyệt vọng “ôi”, “hỡi”. Câu thơ trên ngắt 3/3 đọc như tiếng nấc, câu dưới ngắt như than thở. Lời thương xót kết thúc bằng lời thân tình, bằng tiếng kêu đau đớn, tuyệt vọng. Tuy nhiên, cuộc tình tan vỡ nhưng khát khao tình yêu được khẳng định. Đó chính là vẻ đẹp cao quý của tâm hồn Kiều, giá trị nhân bản bền vững của “Truyện Kiều”. Đoạn thơ bi tráng, đau thương nhưng không hề thê lương, tăm tối mà ngược lại vẫn ánh lên ánh sáng niềm tin vào tình yêu, vào con người.
Đoạn thơ diễn tả sự khủng hoảng, sóng gió trong lòng cô gái đáng thương Thúy Kiều. Nàng đau khổ quằn quại, là do chính mình sao? Tất cả tấm lòng yêu thương của nàng dành cho người yêu. Tấm lòng vị tha ấy cao đẹp biết bao! Yêu thương con người sâu sắc, mong họ hạnh phúc, chấp nhận mất mát, sẵn sàng hy sinh, tấm lòng ấy đã thực sự lay động trái tim người đọc. Đó cũng chính là nét sáng ngời trong phẩm cách của Thúy Kiều, tạo nên cuộc sông trường tồn với thời gian. Bài thơ cũng cho ta thấy “sự đồng cảm lạ lùng” (Hoài Thanh) của nhà đại thi hào dân tộc đối với những đau khổ và niềm khát khao yêu thương của con người. Qua đoạn trích “Đổi người định mệnh” ta cũng thấy được lối viết nội tâm độc đáo của nhà thơ lớn.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên - Mẫu 12
Một trong những thành công tiêu biểu của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là nghệ thuật miêu nội tâm nhân vật. Điều đó được thể hiện rõ trong đoạn trích Trao duyên. Chỉ bằng tầng ngôn từ biểu đạt, Nguyễn Du đã khắc họa thành công dòng tâm trạng của Thúy Kiều trong nỗi đau xót dở dang duyên phận của mình. Những chuyển biến tâm lý của Kiều trong từng lời nói, hành động được Nguyễn Du thể hiện đầy tinh tế, gợi những đồng cảm với nhân vật trong lòng người đọc.
Mở đầu đoạn trích, là tâm trạng buồn tủi, xót xa của Kiều khi mở lời cậy nhờ em gái chắp mối duyên cho mình:
"Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Lời Kiều cất lên vừa chân tình lại vừa tha thiết. Hai tiếng "cậy em" chất chứa cả sự khẩn cầu và tin cậy. Ngoài Vân ra Kiều chẳng thể nhờ ai được, bởi chỉ có Vân là hiểu Kiều, chỉ có Vân là người phù hợp nhất để thay Kiều chắp vá duyên mình. Hành động "lạy", "thưa" ngỡ là vô lý bởi lẽ thường là bậc làm chị sao có thể nào "lạy em", nhưng đặt trong tình huống lại rất hợp lý. Bởi với Kiều lúc này, Vân là một ân nhân, một người có thể giúp Kiều. Những hành động thể hiện trong từng lời nói ấy như báo trước cho Vân một sự hệ trọng mà Kiều sắp nói ra đồng thời cũng cho thấy những tâm tư sầu kín của nàng. Kiểu hiểu rằng với em, nhờ vả chuyện này nào dễ dàng gì, nàng hẳn cũng đã rất day dứt, nghĩ suy rất nhiều mới ngỏ lời nhờ em như vậy:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai"
Bằng lời lẽ chân tình, Kiều giãi bày với em về sự tình lúc này. Giờ đây, tình yêu của Kiều và Kim bị "đứt gánh" giữa đường, đành cậy nhờ em "chắp mối tơ thừa" cho chị. Là người sâu sắc và hiểu truyện, Kiều hiểu được sự thiệt thòi và khó xử của Vân, nhưng không còn cách nào khác đành phó mặc em chắp mối duyên tình dang dở cùng Kim Trọng. Vừa nhờ em, nàng vừa tâm sự cùng em những kỉ niệm đẹp đẽ bên chàng Kim. Đó là những tháng ngày Kiều được hưởng hạnh phúc, vui vầy trọn vẹn. Điệp từ "khi" cùng những hình ảnh "quạt ước", "chén thề" như tái hiện lại khoảng thời gian hạnh phúc trong tâm trí Kiều, đồng thời diễn tả nỗi nhớ nhung tha thiết và tiếc nuối của Kiều ngay lúc ấy. Cuộc sống, ai cũng khát khao hạnh phúc, Kiều không nằm ngoài lẽ ấy. Để có được hạnh phúc không phải là điều dễ dàng, hạnh phúc có được mà đành ngậm ngùi rời bỏ càng tiếc nuối trăm bề. "Sóng gió bất kỳ" xảy đến, gặp cơn gia biến, Kiều có lựa chọn nào khác đâu ngoài bán thân mình chuộc cha cho vẹn đạo làm con, cho tròn chữ " Hiếu". Nhưng trọn chữ "Hiếu" rồi kiều cũng không thể phụ chữ "Tình" với chàng Kim, nên việc cậy nhờ Vân của Kiều là điều hợp lẽ. Tuy vậy, dù lý trí dẫn đường mà lòng nàng không đặng, trong mỗi tiếng thơ là đều thấy được những tiếc nuối của Kiều về mối tình dang dở. Dặn lòng mình để thuyết phục em, Kiều đưa ra những lời lẽ thật thấu tình đạt lý, mà hẳn khi Vân nghe cũng không thể nào chối từ nguyện vọng của chị:
"Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
Với Kiều, tuổi xuân giờ đây dường như không còn nữa, bán mình, nàng đành chấp nhận mất đi thanh xuân ngắn ngủi. Còn với Vân thì khác, Vân vẫn còn tuổi xuân, sắc xuân, vẫn còn thời gian để tìm hiểu và yêu thương Kim Trọng, Kiều mong em hãy vì tình máu mủ mà thay phần chị chăm sóc, san sẻ cùng Kim. Nếu được vậy thì dẫu cho có chết đi kiều vẫn vui, được an lòng nơi chín suối "ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây".
Lời Kiều thốt ra như đẫm giọt lệ thương tâm, vừa xót xa, bi ai lại vừa day dứt, tiếc nuối. Phải yêu Kim Trọng đến nhường nào, chung thủy với Kim Trọng đến ra sao thì Kiều mới đau đớn đến như vậy. Đành rằng là cậy nhờ em, nhưng là lời cậy nhờ trong tiếc nuối, trong nỗi đớn đau khôn cùng khi phải buông bỏ mối tình không trọn vẹn, trao cho người khác cái hạnh phúc mà mình vốn chắt chiu, gìn giữ bấy lâu. Vừa dứt lời cậy nhờ, Kiều trao lại những kỉ vật tình yêu của mình cho em trong nỗi luyến tiếc khôn nguôi:
"Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai"
Tay muốn trao mà lòng chẳng đặng, bởi bao nhiêu kỉ vật là bấy nhiêu kỉ niệm, bấy nhiêu ân tình của Kiều và Kim trọng dành cho nhau. Trao cho em chiếc vành với bức tờ mây trong tiếc nuối, duyên thì mong em giữ, chắp nối nhưng vật là "của chung". Bởi dù có thế nào đi chăng nữa thì trong Kiều vẫn chung thủy một mối tình sắt son cùng chàng Kim mà thôi, không gì có thể thay đổi được điều đó. Trong nỗi đau đớn tột cùng, Kiều ngậm ngùi nghĩ đến cái chết. Nhưng dẫu có ở chốn suối vàng lạnh lẽo, lòng Kiều vẫn sẽ không quên lời thề son sắt, thủy chung. Nỗi đau lên đến tận cùng, nàng nói với em mà như nói với chính lòng mình, với người thương nơi xa xôi. Lời Kiều thiết tha, mang nỗi xót xa, tuyệt vọng, mang nỗi phẫn uất, đớn đau, mang cả những luyến tiếc, nhớ thương và cả trăm ngàn những ngổn ngang:
"Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim Lang! hỡi Kim Lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây."
Yêu Kim Trọng bao nhiêu thì Kiều lại càng trách cứ bản thân mình phụ bạc chàng Kim bấy nhiêu. Một người trân trọng và thủy chung như Kiều luôn mang trong mình mặc cảm tội lỗi. Hành động "trăm nghìn gửi lạy" như lời tạ lỗi mà Kiều gửi đến Kim vì đã phụ chàng, vì đã khiến cho mối tơ duyên trở nên " ngắn ngủi", lỡ làng, không trọn vẹn. Trong nỗi xót xa, Kiều trách móc phận mình bạc bẽo, trái ngang. Tiếng gọi Kim Lang trong nghẹn ngào:
“Ôi Kim Lang! hỡi Kim Lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây."
Trong tiếng gọi "Kim Lang" là cả nỗi nhớ thương chất chứa, nỗi đau giằng xé tâm can và những yêu thương tha thiết. Dẫu cho thế nào đi nữa, Kiều vẫn trân trọng chàng Kim, gọi Kim Trọng bằng hai tiếng " Kim Lang" thầy chân thành.
"Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"
Cho đến cuối cùng, Kiều vẫn nghĩ đến hạnh phúc của người mình thương. Đến cuối cùng, Kiều vẫn tự nhận lỗi về mình, trách chính mình đã phụ bạc.
Đoạn trích Trao duyên tuy chỉ là một phần nhỏ trong tác phẩm dài 3254 câu thơ lục bát của Truyện Kiều nhưng góp phần không nhỏ trong việc tạo nên thành công cho tác phẩm. Nỗi đau giằng xé của Thúy Kiều khi lâm vào bi kịch tình yêu được lột tả thật chân thực. Ở đó, ta thấy được sự mạnh mẽ, dứt khóa cửa một người con gái hết mực lý trí và cũng thấy được sự yếu đuối nhưng rất mực chân thành của một người phụ nữ thủy chung, giàu tình cảm.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên - Mẫu 13
Nguyễn Du đã thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật trong Truyện Kiều, điều này rõ ràng trong đoạn Trao duyên. Thông qua ngôn từ biểu đạt, tác giả đã tinh tế khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều, với đau đớn dở dang về số phận. Sự biến động tinh tế trong tâm lý của Kiều qua từng lời nói, hành động khiến độc giả cảm nhận sâu sắc hơn về nhân vật.
Bắt đầu đoạn trích, Kiều bày tỏ tâm trạng buồn tủi, đau đớn khi nương tựa vào em gái để tạo ra một mối duyên mới cho mình:
'Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Lời Kiều phản ánh sự chân thành và tình cảm sâu sắc. 'Cậy em' là niềm tin và hy vọng cuối cùng. Nàng chỉ tin tưởng Vân có thể chắp cánh cho mối duyên mới. Hành động 'lạy', 'thưa' có vẻ lạ lùng nhưng lại thể hiện sự sẵn sàng hy sinh vì tình cảm và tin cậy tuyệt đối vào em gái. Kiều biết rằng điều này không dễ dàng, nhưng bất kỳ lựa chọn nào cũng đồng nghĩa với sự đau đớn và hy sinh. Kiều đã nói ra điều này với hy vọng Vân sẽ hiểu và chấp nhận nhiệm vụ quan trọng.
'Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai'
Kiều chia sẻ với em về tình hình hiện tại. Tình yêu giữa nàng và Kim đã đứt gánh giữa đường, và nàng muốn em giúp chắp vá mối duyên mới. Những từ ngữ như 'quạt ước', 'chén thề' tái hiện những kí ức hạnh phúc nhưng đồng thời làm nổi bật nỗi nhớ và nuối tiếc. Kiều đã phải đối mặt với sự lựa chọn giữa hiếu và tình, và lời nói này là cách nàng thể hiện tâm trạng và mong đợi với em gái.
'Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây'
Với Kiều, thanh xuân đã trôi qua, nàng đành hy sinh bản thân để giữ lấy tình cảm gia đình. Vân, còn trẻ trung, có thể tận hưởng tuổi xuân và yêu thương Kim Trọng. Kiều mong em hãy chăm sóc và chia sẻ tình yêu với Kim, để nếu nàng phải chết, cũng có thể điều đó sẽ là niềm vui trong sự an bình.
Lời thốt ra từ trái tim Kiều như là những giọt nước mắt của tình cảm sâu sắc. Tình yêu chân thành với Kim Trọng khiến nàng đau đớn khi phải chia tay. Dù cậy nhờ em, nhưng lời nói đầy nuối tiếc, trong nỗi đau chấp nhận buông bỏ tình yêu, nàng trao kỉ vật tình yêu như một cách để lưu giữ những kí ức đẹp nhất.
'Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai'
Nỗi đau đớn của việc trao đi những kỉ vật tình yêu được thể hiện qua từng từ, từng câu. Kiều trao em chiếc vành và bức tờ mây với hy vọng duyên này sẽ được giữ lại. Tuy nàng chấp nhận mối duyên mới, nhưng trong trái tim nàng vẫn là của chàng Kim. Kiều thể hiện tình cảm chân thành và lòng chung thủy dù đối diện với sự hy sinh.
'Gửi tình quân trăm nghìn lạy,
Tơ duyên ngắn ngủi chỉ vậy thôi.
Phận sao phận bạc, chẳng vôi!
Dòng nước chảy đi, hoa trôi mất làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi! Thiếp phụ chàng từ đây.'
Mặc dù Kiều yêu Kim Trọng, nhưng nàng lại tự trách bản thân đã làm tổn thương chàng. Hành động 'trăm nghìn gửi lạy' như một lời xin lỗi, tạ lỗi cho sự ngắn ngủi của tơ duyên và nỗi đau về số phận. Trong tiếng gọi đầy xót xa, Kiều thốt lên:
'Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.'
Tiếng gọi 'Kim Lang' chứa đựng cả nỗi nhớ, nỗi đau giữa những lời trách móc bản thân và lòng trung thành của Kiều. Bằng hai tiếng chân thành, nàng thể hiện tình cảm sâu sắc đối với Kim Trọng.
'Thiếp đã phụ chàng từ đây, thôi thôi.'
Cuối cùng, Kiều vẫn nghĩ đến hạnh phúc của người mình yêu, và tự trách chính mình về sự phụ bạc.
Trích đoạn Trao duyên, mặc dù chỉ là một phần nhỏ, nhưng nó đóng góp lớn vào thành công của Truyện Kiều. Nỗi đau giằng xé trong tình yêu của Kiều được miêu tả chân thực, thể hiện sự mạnh mẽ và chân thành của một người phụ nữ.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên - Mẫu 14
Nguyễn Du là ngôi sao sáng trên bầu trời thơ ca Việt Nam, ông cũng là bậc thầy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật. Nguyễn Du viết Truyện Kiều bằng tất cả niềm say mê, ông cũng hóa thân vào từng nhân vật để cảm nhận nỗi khổ của lòng người. Vì vậy, trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật, đoạn Trao Duyên là một trong những đoạn trích miêu tả rõ nhất diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều.
Đoạn trích là tiếng lòng đau đớn, tê tái của Thúy Kiều khi phải nói lời chia tay với hạnh phúc. Nàng đã trao duyên cho tôi và nhờ tôi thay nàng trả ơn Kim Trọng. Đoạn trích đã miêu tả đầy đủ và sinh động nhất về diễn biến tâm lí ngổn ngang trong lòng Kiều. Bằng tài miêu tả của mình, Nguyễn Du đã tạo nên một bài thơ về một nàng Kiều đa cảm, đa cảm.
Mở đầu bài thơ ta thấy rõ những lời dịu dàng, ân cần của Thúy Kiều nói với Thúy Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi đây cho chị lạy rồi sẽ thưa
Cô không cầu cứu mà “nhờ cậy”. Trong lời Kiều không chỉ có sự tin tưởng mà còn có sự van xin. Từng câu từng chữ ấy khiến ta cảm thấy Kiều là người thông minh.
Nhưng đằng sau đó, ta cũng có thể nhận ra những mong đợi, hi vọng của Kiều. Tuy nhiên, cái hay trong miêu tả nội tâm nhân vật không dừng lại ở đó, Kiều không chỉ dựa vào Vân mà còn “lạy” rồi “thưa”, đó là một nghịch lý. Điều Kiều sắp nói hẳn là một việc lớn, hệ trọng. Kiều đẩy Vân vào tình thế khó xử nhưng Vân vẫn chấp nhận. Tâm lý nhân vật được miêu tả tốt, thể hiện được những suy nghĩ nội tâm sâu sắc của cô.
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
“Đứt gánh tương tư giữa đường” – chỉ với câu này thôi ta đã cảm nhận được cuộc đời đầy bi kịch và éo le của nàng. Nỗi đau, sự xót xa ấy cho thấy Kiều bắt đầu hồi tưởng về những ngày hạnh phúc của mình với Kim Trọng.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Những kỷ niệm về lời hẹn ước và thời gian bên nhau của Thúy Kiều thật khó quên. Ngày vui đến thật nhanh nhưng cũng đi thật nhanh mà ta không thể ngờ. Kiều chưa kịp tận hưởng thì đã vuột khỏi tầm tay.
Có lẽ những kỉ niệm về Kim Trọng sẽ không bao giờ phai trong Kiều. Những ngày hạnh phúc vui vẻ ấy đến nhanh và đi cũng vội. Kiều chưa kịp tận hưởng thì hạnh phúc đã vuột khỏi tay.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Trao duyên - Mẫu 15
'Truyện Kiều' của Nguyễn Du là tác phẩm vô cùng kiệt xuất trong văn học Việt Nam. Nó không chỉ góp phần làm nên văn hóa dân tộc mà còn là bức tranh chân thực về xã hội bất công, đồng thời thể hiện sự thấu hiểu và đồng cảm với số phận, đặc biệt là của phụ nữ. Tác phẩm không chỉ nổi bật về nội dung mà còn chứa đựng những biện pháp nghệ thuật tinh tế của Nguyễn Du, đặc biệt là bằng cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm và các cuộc đối thoại để thể hiện tâm trạng và tính cách của nhân vật.
Thúy Kiều, một cô gái có tất cả: gia đình quý phái, vẻ đẹp xuất sắc, trí tuệ hơn người và một tình yêu tuyệt vời với Kim Trọng. Nhưng chỉ sau một biến cố, tất cả tan biến. Kiều trở thành người yếu đuối trong xã hội, không kiểm soát được vận mệnh của mình. Bán mình để cứu gia đình, nàng trải qua bi kịch không chỉ trong tình yêu mà còn trong sự phụ lòng. Dù đã trao duyên cho Thúy Vân, nhưng đau đớn vẫn đeo bám, khiến Kiều cảm thấy tiếc nuối cho tình duyên dang dở và số phận bản thân.
'Cậy em em có chịu lời, ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Giữa đường đứt gánh tương tư, keo loan chắp mối tơ thừa mặc em. Kể từ khi gặp chàng Kim, khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề. Sự đâu sóng gió bất kỳ, hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. Ngày xuân em hãy còn dài, xót tình máu mủ, thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.'
Trong 12 câu thơ đầu, Thúy Kiều thể hiện sự trưởng thành, thông minh và quyết đoán trong quyết định trao duyên. Cô đã suy tính kỹ lưỡng, chu đáo, nhưng đau đớn vẫn ẩn sau ánh mắt, khiến cho tình cảm và tâm trạng của Kiều trở nên đậm chất đời sống.
Đối diện với em gái nhỏ, Kiều nhẹ nhàng mở lời 'cậy' nhờ, khiêm tốn và dè dặt. Nàng không ép em theo thân phận chị, mà tôn trọng em như một người cần giúp đỡ. Bằng cách nhờ như vậy, Kiều vừa nhắc nhở về sự quan trọng của sự việc và khó khăn sắp đối mặt, vừa thể hiện lòng mến khách đối với Kim Trọng.
Dù tình yêu tan vỡ, Kiều vẫn muốn trân trọng và trao duyên cho người mà nàng tin tưởng. Lời 'Giữa đường đứt gánh tương tư, keo loan chắp mối tơ thừa mặc em' thể hiện quyết đoán của Kiều. Tuy nhiên, đau đớn vẫn ẩn sau ánh mắt mạnh mẽ, để chuyện trao duyên diễn ra êm đẹp và để em gái không phải chứng kiến bản thân yếu đuối.
Kiều giải thích cho em về biến cố trong gia đình và lý do phải trao duyên. Nàng chọn hiếu đạo và từ bỏ tình yêu. Thúy Kiều muốn đền đáp những tình nghĩa cũ, trân trọng tình yêu với Kim Trọng và mong em gái nối duyên để nàng an tâm về tương lai của chàng.
Kiều trân trọng đến tận cùng trong chuyện trao duyên. Thậm chí 'thịt nát xương mòn', nàng vẫn chấp nhận trả giá. Tâm sự của Kiều thể hiện sự hiểu biết lý lẽ, lòng nhân ái và lòng xót thương cho em gái. Nàng dành tâm sức để trao duyên, đền đáp những điều thiêng liêng, thể hiện lòng mạnh mẽ và đau đớn của một con người sống với những biến cố khó khăn.
'Bức tờ mây và chiếc vành,
Duyên này giữ lại, vật này của hai ta.
Dù là vợ hay là chồng,
Đau lòng mệnh bạc vẫn nhớ mãi!
Mất người chỉ còn chút tin,
Phím đàn và hương nguyền ngày nào.'
Thúy Kiều trao những kỷ vật của mình và Kim Trọng cho em gái để hoàn tất trao duyên. Mặc dù buông bỏ nhưng lời nói của nàng vẫn thể hiện sự mâu thuẫn, tiếc nuối và ích kỷ. Mất tình yêu, nàng vẫn giữ lại chút níu kéo trong mối duyên để an ủi lòng mình.
Thúy Kiều, đáng thương vì khổ ải tuổi trẻ, trao những tín vật như 'phím đàn' và 'mảnh hương nguyền' với mong muốn hạnh phúc cho Thúy Vân và Kim Trọng. Nàng giữ lưu luyến với ngôi nhà và những người thân, mong rằng sẽ luôn là một phần nhỏ trong cuộc sống của họ.
'Mai sau, dù thế nào đi chăng nữa,
Đốt lò hương ấy, so với tơ phím này.
Nhìn ra cỏ cây gió bay,
Nếu có gió, thì nhớ đến chị.
Hồn vẫn mang lời thề kín,
Nát thân cây bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách xa, giấu lời,
Này, hãy rót chén nước cho người thác oan.'
'Càng đọc, tâm trạng Kiều càng trở nên nặng nề, u uất, buồn thảm và tuyệt vọng hiện hữu trong từng câu chữ. Thúy Kiều dường như không chỉ tâm sự về hậu sự cuộc đời mình, mà còn như là kẻ đang dạo bước vào cõi chết. Tâm trạng buồn thảm, tuyệt vọng đến nỗi nàng dặn dò em gái nghe những lời ảm đạm và thiếu não.'
Thúy Kiều nhắc nhở Vân rằng nếu cùng Kim Trọng gặp chuyện gì đó, gẩy đàn và đốt hương, nếu cảm nhận tiếng gió hiu hiu quanh cỏ cây, đó là dấu hiệu của hạnh phúc. Lời này như là nhắc nhở đến cái chết oan ức, nhưng tâm hồn Kiều vẫn muốn quay về bên cạnh Vân và Kim Trọng, mong họ giải nỗi oan cho chị.
'Bây giờ trâm gãy, bình tan,
Làm sao giải quyết muôn vàn tình cảm!
Trăm nghìn lời cầu nguyện tới quân
Duyên tơ ngắn ngủi chỉ đến đây thôi.
Phân số phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi, thiếp đã phụ chàng từ đây!'
Những dòng thơ cuối cùng là lời nói lên nội tâm đau đớn của Thúy Kiều. Nàng thổn thức với việc trâm gãy và tình cảm tan vỡ. Kiều và Kim Trọng dường như đã hết duyên, mối tình như trâm vàng, bình ngọc, giờ đã tan tác, không thể hàn gắn. Điều này làm cho Kiều thêm đau đớn, phần vì mất tình yêu, phần vì tội lỗi bội ước và những lời thề ái ân với Kim Trọng.
Trước cảnh day dứt, tủi khổ, Thúy Kiều không còn cách nào khác để tạ tội với Kim Trọng, chỉ có thể “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”, lời tạ lỗi duy nhất mà Kiều có thể làm. Kiều tự nhủ với bản thân “Tơ duyên ngắn ngủi có từng ấy thôi” để đỡ phần đau đớn và gửi lời chia buồn đến Kim Trọng.
Thúy Kiều thông qua bi kịch tình yêu và gia đình, nhìn nhận thấu đáo về cuộc đời và thân phận của mình. Câu thơ “Phận sao phận bạc như vôi/Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng” thể hiện tuyệt vọng, bế tắc, và hoang mang của Kiều trước những biến cố. Cuối cùng, trong tiếng than khóc, Kiều cảm thấy những đau đớn tột cùng, kết thúc mối tình và cuộc đời xuân sắc.
Đoạn thơ Trao duyên là bức tranh rực rỡ biểu hiện sắc thái tâm trạng và phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều. Sử dụng ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm, diễn biến tâm lý nhân vật được mô tả chân thực. Bi kịch cuộc đời Kiều được khắc sâu và tạo ấn tượng mạnh mẽ, thể hiện tấm lòng nhân đạo tiến bộ của Nguyễn Du trong xây dựng hình tượng Thúy Kiều.
Mời các bạn cùng tải về bản PDF để xem đầy đủ nội dung