Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm
Đóng
Điểm danh hàng ngày
  • Hôm nay +3
  • Ngày 2 +3
  • Ngày 3 +3
  • Ngày 4 +3
  • Ngày 5 +3
  • Ngày 6 +3
  • Ngày 7 +5
Bạn đã điểm danh Hôm nay và nhận 3 điểm!
Nhắn tin Zalo VNDOC để nhận tư vấn mua gói Thành viên hoặc tải tài liệu Hotline hỗ trợ: 0936 120 169

Phân tích Nỗi niềm chinh phụ lớp 9

Lớp: Lớp 9
Môn: Ngữ Văn
Dạng tài liệu: Văn mẫu
Loại File: Word
Phân loại: Tài liệu Tính phí

Bản quyền tài liệu thuộc về VnDoc, nghiêm cấm hành vi sao chép với mục đích thương mại.

1. Phân tích tác phẩm Nỗi niềm chinh phụ

Văn học trung đại là một giai đoạn văn học lẫy lừng, sáng chói của kho tàng văn học Việt Nam, với sô lượng các tác phẩm đồ sộ với giá trị nhân văn cao cả. Nổi bật trong kho tàng ấy là các tác phẩm nói về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Dù ở giai cấp nào, độ tuổi nào, số phận nào, họ vẫn luôn là những nạn nhân với sự bất hạnh và khổ đau. Đó cũng là nguồn cảm hứng khiến giới thi sĩ tốn nhiều giấy mực. Nổi bật trong số đó là tác phẩm "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn. Đọc bài ngâm đó, em đặc biệt có ấn tượng sâu sắc với hai mươi tư câu thơ được đặt tên là "Nỗi niềm chinh phụ",

Đoạn trích "Nỗi niềm chinh phụ" được Đoàn Thị Điểm dịch thơ theo thể song thất lục bát. Nhờ vậy, đoạn trích vẫn giữ nguyên tinh thần, dụng ý và đặc sắc nghệ thuật của thể thơ, vừa thể hiện được nét gần gũi, dung dị của thơ ca dân gian nước ta. Mười hai câu thơ đầu đoạn trích này, lấy bối cảnh là vùng đất rộng lớn phía ngoài thành, nơi đội quân đang dừng chân, chờ xuất phát. Đó cũng là nơi mà người chinh phụ tiễn biệt chồng mình đến nơi xa ngái:

Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
Hà lương chia rẽ đường này
Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi.

[...] Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng,
Hàng cờ bay trong bóng phất phơ.
Dấu chàng theo lớp mây đưa,
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.

Người chinh phụ đứng trên một cây cầu nhỏ, bắng ngang qua dòng sông. Xung quanh nàng là tiếng nhạc ngựa, tiếng trống dồn dập - thứ âm thanh thuộc về một cuộc viễn chinh. Những lá cờ của quân đội tung bay phấp phới trên nền trời, hòa tiếng trống, tiếng nhạc ngựa, khơi dậy sự hào hùng, khát vọng chiến đấu của những người đàn ông. Nhưng cũng gợi dậy sự bất lực, sầu não của những người ở lại. Người chinh phụ này vẫn còn trẻ. Nàng và chồng vừa mới kết hôn, vẫn chưa được hưởng bao nhiêu niềm hạnh phúc lứa đôi, cũng chưa kịp có một đứa con là kết tinh của tình yêu. Thế mà, chồng nàng đã phải ra trận - một nơi xa xôi, chẳng biết có ngày về hay không. Chắc hẳn, trước hôm nay, nàng cũng đã sầu bi khôn kể. Nhưng lúc ấy, chồng vẫn còn kề bên nàng, an ủi nàng. Còn bây giờ, nàng chỉ có thể nhìn bóng chồng mình theo đoàn quân đi xa mãi xa mãi. Từ từ biến thành chấm nhỏ, khuất xa phía trùng dương. 

Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu,
Kị sau còn khuất nẻo Tràng Dương.
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng.

Từ "đoạn trường" có nghĩa là từ một mảnh dài mà đứt vỡ thành từng mảnh nhỏ. Dùng để chỉ nỗi đau đớn như thể đứt từng khúc ruột ở bên trong cơ thể. Đó là nỗi đau đớn được cụ thể hóa, hữu hình hóa đang tồn tại trong cơ thể nhỏ bé, côi cút của người vợ. Chứng kiến bóng chồng hoàn toàn đi khuất, cô đao đớn đến tận cùng, đến "ngẩn ngơ". Từ "ngẩn ngơ" rất phù hợp với trạng thái của người chinh phụ lúc này. Bởi nàng đã hoàn toàn chẳng biết nghĩ suy gì về hiện tại, tương lai hay cho chính bản thân mình. Trong đầu nàng chỉ toàn là hình bóng của người chồng đang từng chút rời xa đến nơi nguy hiểm, không rõ ngày về. Nàng lo cho an nguy của chồng, sợ cái tương lai mịt mờ phía trước.

Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ gối chăn.
Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Hàng loạt các hình ảnh đối lập giữa người chồng và người vợ đã được tác giả khắc họa dồn dập như sóng xô vào bờ cát. Người chồng đi xa thì người vợ trở về nhà. Họ càng di chuyển, thì càng cách xa nhau. Cái khoảng cách địa lý ấy cứ mỗi lúc mỗi rộng ra, chẳng gì ngăn cản được. Hình ảnh "buồng cũ" - nơi người vợ trở về đối lập với "cõi xa" của người chồng như dày vò thêm sự đau đớn, cô độc của người phụ nữ ở nơi từng chứa đựng bao hạnh phúc của cuộc đời nàng. Như chưa đủ, tác giả lại vẽ nên hai đầu tận cùng thế giới: mây biếc - núi xanh. Chẳng khác gì đang gián tiếp nhận định rằng đôi vợ chồng trẻ nay ở hai nơi cùng trời cuối đất, khó mà được gặp lại nhau thêm một lần nữa. Nhưng đau đớn nhất chưa bao giờ là khoảng cách về địa lý, mà phải là nỗi đau trong tâm hồn.

Sự xa cách về địa lý, khiến lòng người cũng dễ đổi thay. Người chinh phụ ở nhà dấy lên một nỗi lo sợ khác về lòng chàng và ý thiếp. Liệu sau bao ngăn cách về không gian và thời gian, người chồng của nàng có còn yêu nàng, thương nàng như trước hay không? Ngay tại đây, hình ảnh ước lệ "ngàn dâu" được xuất hiện không chỉ một lần, mà thậm chí còn xuất hiện trong cấu trúc điệp vòng. Như phóng đại lên vô hạn những tiềm ẩn về sự biến đổi bất ngờ, chẳng còn chút dấu vết cũ, khiến lòng người lạnh lẽo, bẽ bàng.

Hai mươi tư câu thơ trong "Nỗi niềm chinh phụ" đã khắc họa trọn vẹn đến sâu thẳm nhất những nỗi niềm, cảm xúc của người chinh phụ khi tiễn chồng đi xa. Tác giả đã thực sự chạm tới những suy nghĩ riêng tư, thầm kín nhất của người phụ nữ trước biến cố lớn của cuộc đời. Càng cảm nhận, em lại càng thêm xót xa cho số phận của nàng, càng thêm oán giận những cuộc chia li, căm phẫn những trận chiến vô nghĩa gây nên cảnh li tan của biết bao gia đình. Có lẽ, đó cũng chính là nỗi niềm của tác giả khi chắp bút viết nên áng thơ này.

2. Phân tích bài thơ Nỗi niềm chinh phụ

Đề tài về người phụ nữ trong văn học trung đại luôn là một đề tài lớn được nhiều cây bút chọn để sáng tác. Những tác phẩm đó luôn giàu chất hiện thực và nhân đạo, trường tồn cùng thời gian, vượt qua cả quy luật băng hoại của lịch sử. Một trong số đó chính là tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn. Tác phẩm này được Đoàn Thị Điểm dịch lại theo thể thơ song thất lục bát của người Việt, chứa đựng sâu sắc những cung bậc cảm xúc của người chinh phụ. Trong đó, sâu sắc nhất, phải kể đến hai mươi bốn câu thơ trong đoạn trích “Nỗi niềm chinh phụ”.

Đoạn trích này chia thành hai mạch cảm xúc được xếp theo diễn tiến của thời gian. Từ khi người chinh phụ ra tiễn chồng về nơi chiến trận, cho đến khi nàng trở về nhà, bắt đầu sống chuỗi ngày cô đơn, mòn mỏi một mình. Ở mười hai câu thơ đầu, đoạn trích tập trung miêu tả khung cảnh nơi người chồng chuẩn bị cùng đoàn quân rời ra chiến trường. Đó là một không gian rộng lớn với sự xuất hiện của cả một đội quân hùng mạnh. Xung quanh tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống hào hùng, những bóng cờ bay phấp phới. Bởi vậy, mà bóng dáng của người phụ nữ đang đứng nép trên cầu càng trở nên nhỏ bé xiết bao. Tuy không muốn thừa nhận, nhưng giờ phút chia xa cũng đã “giáp mặt” rồi.

“Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu,
Kị sau còn khuất nẻo Tràng Dương.”

“Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng,
Hàng cờ bay trong bóng phất phơ.”

Các dòng thơ đã tái hiện lại hình ảnh đoàn quân của người chồng đang ngày càng đi xa hơn, dần khuất khỏi tầm mắt của người vợ. Nàng đã đứng yên ở đó, nhìn chồng mình càng lúc càng đi xa hơn, chỉ còn lại tiếng địch thổi vọng lại trong gió và hình ảnh những lá cờ bay phất phơ. Tác giả đã sử dụng điển cố “đoạn trường” để diễn tả trực tiếp nỗi đau đớn, thống khổ vô cùng của người chinh phụ trước hình ảnh này. Nỗi đau khi phải đứng im nhìn chồng đi đến nơi nguy hiểm trùng trùng, chẳng biết có ngày đoàn tụ hay không khiến người phụ nữ không còn thiết tha điều gì nữa. Nàng cứ thế đứng nhìn rặng núi nơi xa mà chồng đang đi qua đến ngẩn ngơ. Những hình ảnh đó cho thấy sự quyến luyến, nhung nhớ và yêu thương chồng vô cùng sâu sắc của người vợ trẻ. Càng như thế, sự cô đơn, buồn đau của nàng lại càng nổi bật và sâu đậm hơn bao giờ hết.

Bước sang mười hai câu thơ tiếp theo, tác giả Đặng Trần Côn đã sử dụng phép đối một cách hàng loạt, với nhiều hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc.

Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Hai hành động “đi” của người chồng đối với hành động trở “về” nhà của người vợ. Họ di chuyển theo hai hướng hoàn toàn đối lập, khiến cho khoảng cách địa lí giữa hai người ngày càng lớn hơn. Hình ảnh người chồng ở nơi “cõi xa” còn người vợ về nơi “buồng cũ” chính là kết quả của sự xa cách về địa lí đó, vô hình chung lại càng tô đậm hơn sự xa cách của hai vợ chồng. Đồng thời nhấn mạnh thêm sự cô đơn, trống vắng của người vợ trẻ khi một mình ngồi trong không gian quen thuộc nhưng thiếu bóng dáng của chồng. Sự xa cách ấy còn được tác giả khơi sâu thêm với hình ảnh đối giữa “mây biếc” và “núi xanh”. Lần này, khoảng cách đó đã được kéo dài ra hơn nữa, đến mức không thể nào vượt qua, bởi con người chẳng ai có thể tiến tới bầu trời được cả. Từ đó, thể hiện sự xa cách đến vô vọng, không thể nào tưởng tượng hay gặp mặt lại được giữa hai vợ chồng. Nhưng dẫu vậy, đôi vợ chồng cũng chỉ xa cách về không gian, về thể xác mà thôi, còn trái tim của họ thì vẫn cận kề bên nhau, đồng lòng hướng về nhau. Điều đó được thể hiện qua hành động “ngoảnh lại” và “trông sang” cùng lúc của hai người như có thần giao cách cảm.

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Bước sang khổ thơ cuối, nhà thơ đã tập trung sâu hơn vào khắc họa nỗi lòng của người chinh phụ ở hiện thực, khi chồng đã ở nơi rất xa. Chỉ trong bốn dòng thơ, tác giả đã sử dụng hàng loạt biện pháp tu từ điệp ngữ với các từ “cùng”, “thấy”, “ngàn dâu”, “ai”. Từ đó khắc họa sự đồng điệu, đồng lòng từ trong hành động và cả suy nghĩ của cả hai vợ chồng. Tuy cách xa nhau, nhưng họ đều cùng hướng về nhau, cùng mong nhớ và suy nghĩ cho nhau. Giữa hai người là hình ảnh “ngàn dâu” đã được ẩn dụ, hình tượng hóa. Nó gợi tới thành ngữ “thương hải tang điền” (biển xanh hóa thành nương dâu) để khắc họa những biến cố lớn của cuộc đời, khiến mọi thứ thay đổi đến chẳng thể nhận ra, không còn có thể trở về như lúc xưa nữa. Từ đó, “ngàn dâu” được Đặng Trần Côn sử dụng để gợi lên nỗi lo sợ của người chinh phụ về tương lai phía trước. Cô sợ hãi rằng mình và chồng chẳng thể tương phùng, trở lại những ngày tháng đoàn tụ ấm áp như khi xưa. Nhưng tác giả đâu chỉ dừng lại ở đó. Ông còn sử dụng biện pháp điệp vòng với hình ảnh “ngàn dâu” để khiến hai câu thơ như hòa làm một để kéo dài thêm khoảng cách giữa hai vợ chồng, để nhân đôi thêm sự lo sợ của người vợ trước tương lai vô định, mịt mờ ở phía trước. Cũng chính vì thế, mà ở dòng thơ cuối hình ảnh đối “lòng chàng” - “ý thiếp” bỗng nhiên được đặt cạnh nhau mà cũng không ai vui được. Bởi người chinh phụ hiểu rằng, giờ đây, không chỉ nàng mà cả chồng nàng cũng vô cùng đau khổ, buồn bã. Kết thúc đoạn trích với câu hỏi tu từ đó, là sự thắc mắc của người chinh phụ về tấm lòng của người chồng và cũng là câu hỏi mà nàng đang tự hỏi bản thân. Câu hỏi đó chẳng có ai trả lời được, vì chính nàng cũng không rõ nỗi đau đến đoạn trường của mình có phải đã là tận cùng của nỗi đau hay không. Câu trả lời có lẽ ngay cả tác giả và độc giả như chúng ta cũng chẳng thể tỏ bày. Chúng ta chỉ cảm nhận được sâu sắc nỗi đau đớn, buồn khổ, lưu luyến, nhớ nhung nồng đượm của nàng chinh phụ dành cho chồng của mình mà thôi.

Xuyên suốt đoạn trích “Nỗi niềm chinh phụ”, tác giả đã giúp người đọc cảm nhận được những cung bậc cảm xúc của người chinh phụ khi tiễn chồng đến nơi chiến trận. Đó là sự lưu luyến không đành, là sự đau khổ, cô đơn, là sự lo lắng, dằn vặt về an nguy của chồng. Càng thương xót, đồng cảm cho hoàn cảnh của người chinh phụ bao nhiêu, chúng ta lại càng căm giận, lên án những cuộc chiến tranh phi nghĩa bấy nhiêu. Vì chúng mà người phụ nữ phải chịu cảnh chia li đầy đau đớn, buồn tủi và sự lo sợ về tương lai vô định phía trước. Bởi đâu ai biết liệu có còn ngày đoàn tụ và nếu có thì chắc gì đã được hạnh phúc như thuở ban đầu. Điều đó chẳng phải đã từng được gặp gỡ ở nàng Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” hay sao. Chính vì thế, mà tác phẩm “Nỗi niềm chinh phụ” trong “Chinh phụ ngâm” mới có thể xem là một kiệt tác của văn chương, mang đậm chất hiện thực và giá trị hiện thực sâu sắc.

3. Dàn ý phân tích bài thơ Nỗi niềm chinh phụ

>> Tham khảo các dàn ý chi tiết tại đây Dàn ý phân tích bài thơ Nỗi niềm chinh phụ

4. Phân tích Nỗi niềm chinh phụ Ngắn gọn

>> Tham khảo bài văn mẫu Ngắn gọn tại đây: Phân tích đoạn trích Nỗi niềm chinh phụ Ngắn nhất

Chọn file muốn tải về:
Đóng Chỉ thành viên VnDoc PRO/PROPLUS tải được nội dung này!
Đóng
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
30 lượt tải tài liệu
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%

Có thể bạn quan tâm

Xác thực tài khoản!

Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

Số điện thoại chưa đúng định dạng!
Số điện thoại này đã được xác thực!
Bạn có thể dùng Sđt này đăng nhập tại đây!
Lỗi gửi SMS, liên hệ Admin
Sắp xếp theo
🖼️

Văn mẫu lớp 9 Sách mới

Xem thêm
🖼️

Gợi ý cho bạn

Xem thêm