Thuyết minh về núi Bà Đen lớp 9
Thuyết minh giới thiệu một danh lam thắng cảnh Núi Bà Đen
Dàn ý Thuyết minh về núi Bà Đen
1. Mở bài: Giới thiệu địa điểm cần thuyết minh: Núi Bà Đen.
2. Thân bài
a. Khái quát chung
- Hệ thống am, điện, chùa, hang động ở núi Bà Đen thu hút đông đảo khách thập phương đến viếng lễ hàng năm.
- Với cảnh quan hùng vĩ của núi đã tạo nên khu di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng ở Nam bộ và cả nước.
- Núi Bà Đen gắn với truyền thuyết về một người con gái nhan sắc mặn mà, có nước da bánh mật tên là Lý Thị Thiên Hương.
- Núi Bà Đen còn có tên gọi khác là núi Vân Sơn do ngọn núi quanh năm có mây bao phủ.
- Ngày 21/01/1989, núi Bà Đen đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử và danh thắng cấp quốc gia
b. Thuyết minh chi tiết
- Quần thể danh thắng núi Bà Đen trải rộng trên diện tích khoảng 24km², gồm 3 ngọn núi tạo thành: núi Heo - núi Phụng - núi Bà Đen.
- Với độ cao 986m, nhìn từ xa, núi Bà Ðen như một chiếc nón úp trên đồng bằng.
- Nằm rải rác từ chân núi lên đến đỉnh núi Bà Đen là một quần thể kiến trúc gồm điện, chùa, miếu, tháp... phản ánh những đặc trưng của văn hóa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian.
- Núi Bà Đen có nhiều loại gỗ quý hiếm cùng các loại động thực vật phong phú như ốc, dơi, thằn lằn, cheo, mễnh, nai và các loại cây rau, quả có giá trị.
c. Ý nghĩa, vai trò của núi Bà Đen
- Là một danh thắng nổi tiếng thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, mang lại nguồn lợi về kinh tế.
- Là nơi trở về với cội nguồn đời sống tâm linh và du lịch sinh thái của dân tộc.
- Với đỉnh núi cao nhất Nam bộ, núi Bà Đen trở thành một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nên trong suốt 2 cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc (1946 - 1975).
3. Kết bài: Khái quát lại những giá trị của núi Bà Đen đối với tỉnh Tây Ninh nói riêng và với đất nước Việt Nam nói chung.
Thuyết minh về núi Bà Đen Ngắn gọn
Núi Bà Đen ở Tây Ninh là một ngọn núi vô cùng nổi tiếng về hoạt động du lịch. Nhưng ít ai biết rằng, ngọn núi này còn là một kho tàng tài nguyên thiên nhiên vô cùng đa dạng và phong phú.
Núi Bà Đen còn được biết đến với tên gọi Vân Sơn, do nơi đây quanh năm luôn có mây mờ bao phủ. Còn tên gọi Bà Đen vốn được đặt do truyền thuyết nổi tiềng ở đây về một người con gái xinh đẹp, mặn mà có nước da bánh mật tên là Lý Thị Thiên Hương. Gọi là núi Bà Đen, nhưng thật ra nó là một quần thể danh thắng, bao gồm ba ngọn núi lớn là núi Heo, núi Phụng và núi Bà Đen. Nhìn từ xa, nó trông như một cái nón khổng lồ úp lên mặt đất. Tại đây có một hệ thống các am, điện, chùa chiền và hang động mang vẻ đẹp độc đáo, hòa mình với thiên nhiên bao la và hùng vĩ. Các kiến trúc đó đều mang đậm tín ngưỡng Phật giáo nên thu hút rất nhiều du khách đến lễ Phật và ngắm cảnh thiên nhiên. Ngoài ra, quần thể danh thắng núi Bà Đen còn có giá trị kinh tế lớn với nhiều loại gỗ quý hiếm và hệ thống động thực vật phong phú như ốc, dơi, thằn lằn, nai và các loại thuốc giá trị khác.
Núi Bà Đen không chỉ là địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng, đem lại nguồn lợi kinh tế lớn cho người dân bản xứ. mà nơi đây cũng từng đóng vai trò chiến lược đặc biệt trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc ta. Nơi đây xứng danh là danh lam thắng cảnh đẹp và ý nghĩa hàng đầu tại vùng Nam Bộ.
Thuyết minh về núi Bà Đen Mẫu 1
Bất cứ ai đã một lần đến với Tây Ninh chắc hẳn không thể quên những danh lam thắng cảnh mà họ đã đặt chân tới. Nổi bật trong các danh lam thắng cảnh ở Tây Ninh mà chúng ta phải kể đến chính là núi Bà Đen đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận núi Bà Đen là Di tích lịch sử và danh thắng cấp quốc gia năm 1989.
Với diện tích khoảng 24km², gồm 3 ngọn núi tạo thành: núi Heo - núi Phụng - núi Bà Đen, quân thể danh thắng này quả thật vô cùng đồ sộ và rộng lớn. Núi Bà Đen là ngọn núi cao nhất miền Nam Việt Nam với độ cao 986 mét; nhìn từ xa, núi Bà Ðen trông giống như một chiếc nón đang úp xuống. Đi từ chân núi lên đến đỉnh núi Bà Đen có thể khám phá điện, chùa, miếu, tháp... trong khối quần thể kiến trúc được xây dựng tại núi Bà Đen, lối kiến đặc trưng của văn hóa Phật giáo rất độc đáo và bí ẩn.
Hệ thống hang động, am, chùa chiền ở núi Bà Đen vô cùng huyền bí và đồ sộ. Với cảnh quan hùng vĩ của núi đã tạo nên khu di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng ở Nam bộ và được biết đến qua sách báo, internet rất nhiều. Núi Bà Đen gắn với truyền thuyết về một người con gái nhan sắc xinh đẹp, đức hạnh có nước da bánh mật tên là Lý Thị Thiên Hương. Thiên Hương là người yêu của thanh niên Lê Sĩ Triệt, một thanh niên chiến lớn vì nước quên thân. Khi chàng lên đường phố Nguyễn Huệ để giữ nước đã chia tay cô và cô vẫn luôn giữ một lòng chung thủy với chàng trai ấy. Núi Bà Đen còn có tên gọi khác là núi Vân Sơn do ngọn núi quanh năm được bao phủ bởi mây mù. Ngày 21/01/1989, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận núi Bà Đen là Di tích lịch sử và danh thắng cấp quốc gia.
Núi bà đen là một di tích lịch sử, danh thắng nổi tiếng thu hút khách du lịch trong và ngoài nước tạo ra nguồn kinh tế và mang lại nguồn kinh tế cho tỉnh Tây Ninh nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó, núi Bà Đen cũng là nơi trở về với cội nguồn đời sống tâm linh và du lịch sinh thái của dân tộc. Với đỉnh núi cao nhất Nam bộ, núi Bà Đen trở thành một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nên trong suốt 2 cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc (1946 - 1975).
Núi Bà Đen luôn là một điểm đến vô cùng hấp dẫn và thú vị, thu hút phần lớn số lượng khách du lịch. Nếu có dịp ghé thăm mảnh đất Tây Ninh hãy thử một lần khám phá vẻ đẹp hùng vĩ của núi Bà Đen nhé.
Thuyết minh về núi Bà Đen Mẫu 2
Với những người đam mê leo núi và muốn khám phá, chinh phục thử thách thì chắc hẳn không thể biết đến núi Bà Đen. Núi Bà Đen có độ cao 986m so với mực nước biển và chính là ngọn núi cao nhất Nam Bộ. Ngọn núi có mây phủ quanh năm nên còn có tên chữ là Vân Sơn.
Núi Bà Đen còn có rất nhiều tên gọi khác. Như là núi Một, núi Điện Bà. Huyền thoại xưa kể rằng khi xưa có cô Lý Thị Thiên Hương ở Trảng Bàng sở hữu nét đẹp lộng lẫy. Tuy nhiên vì đường tình duyên của mình trắc trở nên cô đau lòng và bỏ lên núi. Thế nhưng lại bị bọn cướp giết chết, xác thì khô đen.
Có một tương truyền khác vào khoảng nửa cuối thế kỷ 18, Trịnh Nguyễn phân tranh khiến cho dân chúng lầm than. Lý Thị Thiên Hương là người yêu của thanh niên Lê Sĩ Triệt, một thanh niên chí lớn vì nước quên thân. Khi chàng lên đường phò Nguyễn Huệ để giữ nước đã chia tay cô.
Cô là một người con gái xinh đẹp nhưng có đức hạnh cao, vẫn luôn một lòng chung thủy với Lê Sĩ Triệt. Thân là một người con gái xinh đẹp mà phải sống trong vòng vây của cường hào ác bá, đến một hôm cô bị cưỡng bức.
Vì để giữ tiết hạnh cô đã không tiếc thân mình gieo mình xuống núi quyên sinh. Ít lâu sau đấy sư trụ trì được cô về báo mộng cho biết nơi mà thân thể cô đang chịu gió sương. Người trụ trì khi ấy tìm thấy thân thể khô đen của cô nên liền đem về mai táng và thờ phụng.
Từ đó người ta gọi cô là Bà Đen, người đời thờ phụng và cầu nguyện cô phù hộ độ trì. Thấy vậy nhà chùa đã lập đền thờ. Hội xuân núi Bà là việc hành hương về chùa vào mùa xuân, hay còn gọi là lễ Thượng ngươn đã là một tập tục quen thuộc của địa phương này.
Nhắc đến Tây Ninh ai cũng sẽ nghĩ đến núi Bà Đen, một quần thể di tích lịch sử-văn hóa và danh thắng, một biểu tượng về đất và người của Tây Ninh.
Núi Tây Ninh bao gồm có 3 ngọn núi là núi Phụng, núi Heo, núi Bà Đen tạo thành. Trải rộng tới diện tích 24km2. 300 năm trước đây nơi đây chỉ là vùng rừng già hiểm trở và hoang vu.
Sau đấy bắt đầu xuất hiện những bước chân của người Việt tới sinh cơ lập nghiệp và khai mở đất đai.
Đồng thời những tăng ni, phật tử cũng đến đây và lập những am, miếu xây dựng chùa chiền để thờ phụng.
Trong số đó thì núi Bà Đen có một hệ thống am, điện, chùa và hang động thu hút khách tứ phương đến viếng lễ mỗi năm đều đặn.
Sách Đại Nam nhất thống chí có ghi về núi Bà Đen rằng: “Linh Sơn cách Tân Ninh 20 dặm về phía tây bắc, hình núi cao chót vót là trấn sơn của tỉnh, phía tây giáp địa giới Cao Miên, lưng núi có chùa đá ít người đi đến”.
Lịch sử của núi Bà Đen được tô đậm với những truyền thuyết huyền bí, Linh Sơn thánh mẫu, hệ thống am, chùa cùng với những sự kiện về cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
Không những vậy không hổ danh là núi cao nhất Nam Bộ, cảnh quan hùng vĩ nơi đây đã tạo thành một khu di tích lịch sử-văn hóa nổi tiếng cả nước. Cho đến ngày nay núi Bà Đen vẫn thu hút nhiều du khách từ khắp nơi trong nước đến chiêm bái và leo núi trải nghiệm.
Năm 1983 con đường dài 11km từ thị xã Tây Ninh đến núi đã được trải nhựa và trang bị hệ thống điện lưới quốc gia đã nối mạng đến núi.
Tại khu di tích các cơ sở hạ tầng cũng được xây dựng hoàn chỉnh lại. Chùa Hang, con đường từ chân núi đến chùa Bà được nâng cấp và mở rộng. Không những vậy còn có thêm hệ thống nhà trạm dừng chân cho khách đến hành hương.
Đầu năm 1998 hệ thống cáo treo từ chân núi lên chùa Bà cũng được xây dựng và đưa vào sử dụng. Để đáp ứng lượng du khách đông đảo nên có nhiều dịch vụ khác đã được xây dựng và đáp ứng để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho du khách.
Trước thời kỳ chiến tranh tàn phá thì núi Bà Đen có thảm động, thực vật rất phong phú như những lại gỗ quý hiếm, những loại động vậy như ốc, dơi, thằn lằn, cheo, mễnh,… và các lại rau, quả có giá trị.
Tuy nhiên ngày nay do hoạt động khai thác bừa bãi nên sự đa dạng hóa tại núi Bà Đen đã giảm đáng kể. Bởi vì cấu tạo địa chất của nơi đây nên đã tạo nên nhiều hang động tự nhiên.
Cũng bởi có vị trí chiến lược quan trọng nên núi Bà Đen đã đóng vai trò quan trọng trong suốt 2 cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc.
Điện Bà nằm ở độ cao 350m. Gồm có chùa Thượng (chùa Thượng) và chùa Hang. Điện Bà là nơi thờ Bà Đen hay còn gọi là Linh Sơn Thánh Mẫu. Những huyền thoại như Sự tích Nàng Đênh, truyện Lý Thị Thiên Hương,… được nhân dân truyền tụng nhau.
Điện Bà là một hang động được cải tạo từ một mái đá tự nhiên nhô ra. Điện Bà có cửa rộng 6m, vòm mái cao 2,5m. Hai bên dùng gạch ốp sát vách đá và ở giữa điện có cột gạch chống đỡ. Vòm mái trước được xây thêm nên thành một nhà điện dài 8m.
Đây là nơi cho phật tử chiêm bái và hành lễ. Trong động có thờ các tiên nữ và thờ cốt Bà (tượng Bà).
Mỗi ngày trong năm lúc nào cũng có người hành hương về núi để lạy Phật, viếng bà. Với những thiện nam, tính nữ từ khắp nơi thường viếng Bà vào tháng giêng hằng năm để xin lộc và cầu tài.
Đặc biệt hơn chính là ngày vía Bà, ngày mùng 5 tháng giêng là thời điểm đông nhất. Có hàng vạn hàng chục người đến viếng lễ.
Vào ngày 21/01/1989 Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận núi Bà Đen là Di tích lịch sử và danh thắng cấp quốc gia. Sở hữu hệ thống hang động, cảnh quan thiên nhiên ngút ngàn cùng lối kiến trúc đậm chất tôn giáo đã làm núi Bà Đen trở nên độc đáo hơn.
Nơi đây mang trong mình một nét đẹp hòa quyện giữa nét đẹp thiên phú và nét đẹp nhân tạo. Mỗi người đến đây đều sẽ được hòa quyện với thiên nhiên và cảm giác nhẹ nhõm lòng mình.
Núi Bà Đen chính là một biểu tượng tiêu biểu cho đời sống tâm linh của dân tộc ta cũng như là cội nguồn của thềm sinh thái đất nước.
Thuyết minh về núi Bà Đen Mẫu 3
“Ừ đây là núi Bà Đen
Khói đời nghi ngút nỗi niềm cơ duyên
Dọc theo triền núi nghiêng nghiêng
Cáp treo lơ lửng nối miền tĩnh tâm.”
Nhắc đến Tây Ninh một vùng đất thuộc khu vực Nam Bộ là nơi được mệnh danh là thiên đường của bánh tráng, muối tôm,…địa điểm du lịch nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh thu hút du khách từ khắp nơi trên thế giới.
Một trong số đó phải kể đến địa danh núi Bà Đen đã gắn liền từ bao đời nay với vùng đất Tây ninh thơ mộng, yên bình, mang đến cảm giác trải nghiệm thú vị cho du khách khi ghé thăm.
Núi Bà Đen được biết đến là ngọn núi cao nhất của vùng Nam Bộ với độ cao 986m do đó mà quanh năm nơi đây đều được bao phủ bởi mây mù. Do địa thế đặc biệt này mà nơi đây còn có tên gọi là Vân Sơn, ngày nay nhiều người thường gọi nó là núi Điện Bà.
Nơi đây thường được tương truyền rất nhiều về huyền thoại xa xưa, có người kể rằng xưa có cô Lý Thị Thiên Hương là người ở Trảng Bàng, nhưng vì tình duyên trắc trở, lận đận mà buồn tuổi nên cô đành bỏ lên núi, thì không may gặp phải bọn cướp chúng đã giết chết, xác bị khô đen.
Và cũng nghe nói một tương truyền khác kể lại rằng vào khoảng cuối thế kỷ 18 trong giai đoan “Trịnh Nguyễn phân tranh” có một người anh hùng tên là Lê Sĩ Triệt với tài cao, chí lớn, quyết tâm đánh đuổi quân ngoại xâm mà đành chia tay người yêu là Lý Thị Thiên Hương lên đường làm chí lớn.
Dù vậy, cô gái vẫn rất chung tình, giữ trọn tiết hạnh đợi chàng trở về, thế nhưng xung quanh nàng là bao ác bá ngày đêm dồm ngó nàng. Một hôm nàng bị chúng cưỡng hiếp vì quá đau khổ mà gieo mình xuống núi để giữ trọn đạo.
Sau đó, sư trụ trì là người được Thiên Hương báo mộng về tìm nơi thân thể đang rã đi của mình, thì lúc đến chỉ còn là một bộ xác khô đen.
Để tưởng nhớ người con gái đức hạnh nhưng lại có kết thảm nên đã lập bàn thờ, mai tang cho cô, sau đó người dân ở đây thường hay đến để chiêm bái, cầu nguyện để được hộ trì mà sau này núi có tên là Bà Đen.
Nói đến núi Bà Đen đây là một quần thể di tích lịch sử to lớn vĩ đại của nhân loại, là một biểu tượng lâu đời của vùng đất Tây Ninh. Được biết đến là nơi với phong cảnh sơn thủy hữu tình, nên thơ, núi Bà Đen nằm trong quần thể di tích văn hóa lịch sử núi Bà Đen.
Từng được mệnh danh là “Đệ nhất thiên sơn” nghĩa là ngọn núi cao nhất miền Nam Viêt Nam với độ cao 986m tính từ chân núi. Được biết đây là nơi có từ thời xa xưa cách đây khoảng 300 năm là một vùng đất nhô lên khỏi đồng bằng giữa một rừng già hiểm trở, hoang vu, bí hiểm.
Quần thể di tích được trải rộng lên đến 24 km, bao quanh là rừng núi, cây cối xanh um tùm, đường đi lên cũng vô cùng quanh co, khúc khủy, ngày nay đã được tu sửa đã khá dễ dàng thuận tiên di chuyển. Khi lên đến đỉnh núi du khách sẽ được tận mắt thấy được không gian bao la rộng lớn quang cảnh hùng vĩ của vùng trời.
Đặc biệt núi Bà Đen tọa lạc ở vị trí đắc địa, khi nhìn về hướng Đông Nam sẽ thấy được ngọn núi Phụng và khi nhìn về Tây Bắc sẽ là ngọn núi Heo. Điểm đến khiến du khách vô cùng thích thú đó là Điện Bà, là nơi nằm cách mặt nước biển với độ cao 250m về sườn Đông Nam của núi.
Khuôn viên có khoảng sân rộng trên 2000 mét vuông quần tụ xung quanh là các ngơi chùa Phật và chùa Tổ mang tính ngưỡng thiêng liêng cao quý. Được biết theo sách “Ngọn đuốc cửa thiền” thì xa xưa hang Điện Bà chỉ là một hang động tự nhiên được hình thành do đá núi cấu tạo chồm ra ngoài che một khoảng không gian rộng 30m2.
Bên trên sẽ là hai tầng mái bê tông được thiết kế giả ngói có tổng cộng 8 đầu đao vươn ra bốn phía, bên trong sẽ có bàn thờ bà đặt ngay chính giữa, trên là ngai tượng Bà và hai cô thiếu nữ đứng hầu hai bên.
Nằm trên cùng một mặt bằng sân, ngoài Điện Bà còn có chùa Bà hay được gọi là Linh Sơn Tiên Thạch Tự. Chùa được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 19, được cấu tạo hoàn toàn bằng gỗ cây sao, bên trong còn có một nhà giảng.
Đi từ dưới lên sẽ đi qua một bậc thang bằng đá có lan can bằng sắt ở hai bên, dẫn lên một khoảng mặt bằng phía trước cửa hang, tại đây thường là nơi có gió lùa rất mát mẻ nên đươc đặt là hang Gió.
Nhìn chung nơi đây có kiến trúc khá cổ kính, hoang sơ với nhiều lớp mái bê tông giả ngói đó, thiết kế hoa văn chạm khắc hình rồng hình phượng vô cùng tinh tế, đặc sắc.
Thường là vào tháng giêng hằng năm nơi đây thường rất đông đúc, là lúc các tín nữ thiện nam từ khắp các nơi về tụ hội viếng lễ, thắp hương cầu bình an, tài lộc, may mắn cho năm mới. Vào ngày mùng 5 tháng giêng sẽ là ngày diễn ra lễ vía bà, sẽ là lúc đông khách đến viếng lễ nhất.
Di chuyển đi lai trên núi giờ đã thuận tiện hơn xưa, được đầu tư cáp treo để đưa du khách từ chân núi lên đến đỉnh núi. Do được cấu tạo là một khối đất nhô lên giữa một đồng bằng nên nhìn từ xa trông núi Bà Đen giống như một cái bát úp ngược lai to lớn, hùng vĩ lạ thường.
Từ trên cao nhìn xuống, mây trời bao quanh xanh biếc, khí hậu lại mát mẻ dễ chịu thường khiến cho tâm hồn mình nhẹ nhàng, thư giãn, bỏ quên đi hết sự mệt nhọc mà thả hồn vào thiên nhiên tận hưởng một danh lam thắng cảnh có một không hai này.
Đỉnh núi cũng được biết đến là nơi thường được du khách lựa chọn để tổ chức cắm trại hay các hoạt động vui chơi, giải trí, đặc biệt đây còn là địa điểm hấp dẫn các bạn trẻ đến để chụp những bức ảnh lưu lại kỉ niệm khi đến vùng đất này.
Cứ mỗi dịp xuân về, núi Bà Đen Tây Ninh luôn là điểm đến hấp dẫn, thu hút nhất của du khách từ khắp thập phương tụ hội, vừa chiêm ngưỡng vừa bái lễ cầu mong sự bình an, hạnh phúc.
Ngày 21/1/1989, núi Bà Đen vinh dự được Bộ văn hóa thể thao và du lịch công nhận là Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh tiêu biểu, nổi bật cấp quốc gia.
Tất cả những điều đó, đã góp phần tạo tiền đề để phát triển cả về kinh tế lẫn du lịch, một nét đẹp đặc trưng vốn có của vùng đất Tây Ninh của Việt Nam.
Thuyết minh về núi Bà Đen Mẫu 4
Tây Ninh được biết đến là một vùng đất thuộc miền Nam nước ta với những nét bản sắc văn hóa vô cùng khác biệt. Một trong số những danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở miền đất văn hóa này chính là núi Bà Đen.
Núi Bà Đen còn có tên gọi khác là núi Vân Sơn do ngọn núi quanh năm có mây bao phủ. Núi Bà Đen gắn với truyền thuyết về một người con gái nhan sắc mặn mà, có nước da bánh mật tên là Lý Thị Thiên Hương. Với cảnh quan hùng vĩ của núi đã tạo nên khu di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng ở Nam bộ và cả nước. Hệ thống am, điện, chùa, hang động ở núi Bà Đen thu hút đông đảo khách thập phương đến viếng lễ hàng năm. Ngày 21/01/1989, núi Bà Đen đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử và danh thắng cấp quốc gia
Quần thể danh thắng núi Bà Đen trải rộng trên diện tích khoảng 24km², gồm 3 ngọn núi tạo thành: núi Heo - núi Phụng - núi Bà Đen. Với độ cao 986m, nhìn từ xa, núi Bà Ðen như một chiếc nón úp trên đồng bằng. Nằm rải rác từ chân núi lên đến đỉnh núi Bà Đen là một quần thể kiến trúc gồm điện, chùa, miếu, tháp... phản ánh những đặc trưng của văn hóa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Núi Bà Đen có nhiều loại gỗ quý hiếm cùng các loại động thực vật phong phú như ốc, dơi, thằn lằn, cheo, mễnh, nai và các loại cây rau, quả có giá trị.
Núi Bà Đen có ý nghĩa và vai trò vô cùng quan trọng đối với người dân nơi đây cũng như đất nước. Núi Bà Đen là một danh thắng nổi tiếng thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, mang lại nguồn lợi về kinh tế. Đây cũng là nơi trở về với cội nguồn đời sống tâm linh và du lịch sinh thái của dân tộc. Với đỉnh núi cao nhất Nam bộ, núi Bà Đen trở thành một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nên trong suốt 2 cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc (1946 - 1975).
Từ những vai trò, ý nghĩa to lớn của núi Bà Đen, chúng ta cần có ý thức bảo vệ, giữ gìn và quảng bá những danh lam thắng cảnh của quê hương mình đến bạn bè khắp mọi nơi để góp phần làm cho đất nước thêm giàu đẹp hơn.
Thuyết minh về núi Bà Đen Mẫu 5
Đất nước Việt Nam ta nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp đẽ và con người thân thiện. Nếu bạn đã một lần đến với Tây Ninh chắc hẳn không thể quên mảnh đất giàu tình yêu thương này. Nổi bật trong các danh lam thắng cảnh ở Tây Ninh mà chúng ta phải kể đến chính là núi Bà Đen.
Quần thể danh thắng núi Bà Đen trải rộng trên diện tích khoảng 24km², gồm 3 ngọn núi tạo thành: núi Heo - núi Phụng - núi Bà Đen. Với độ cao 986m, núi Bà Đen là ngọn núi cao nhất miền Nam Việt Nam; nhìn từ xa, núi Bà Ðen như một chiếc nón úp trên đồng bằng. Nằm rải rác từ chân núi lên đến đỉnh núi Bà Đen là một quần thể kiến trúc gồm điện, chùa, miếu, tháp... phản ánh những đặc trưng của văn hóa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Núi Bà Đen có nhiều loại gỗ quý hiếm cùng các loại động thực vật phong phú như ốc, dơi, thằn lằn, cheo, mễnh, nai và các loại cây rau, quả có giá trị.
Hệ thống am, điện, chùa, hang động ở núi Bà Đen thu hút đông đảo khách thập phương đến viếng lễ hàng năm. Với cảnh quan hùng vĩ của núi đã tạo nên khu di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng ở Nam bộ và cả nước. Núi Bà Đen gắn với truyền thuyết về một người con gái nhan sắc mặn mà, có nước da bánh mật tên là Lý Thị Thiên Hương. Núi Bà Đen còn có tên gọi khác là núi Vân Sơn do ngọn núi quanh năm có mây bao phủ. Ngày 21/01/1989, núi Bà Đen đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử và danh thắng cấp quốc gia
Là một danh thắng nổi tiếng, núi Bà Đen hiện đã và đang thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, mang lại nguồn lợi về kinh tế lớn cho tỉnh Tây Ninh nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó, núi Bà Đen cũng là nơi trở về với cội nguồn đời sống tâm linh và du lịch sinh thái của dân tộc. Với đỉnh núi cao nhất Nam bộ, núi Bà Đen trở thành một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nên trong suốt 2 cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc (1946 - 1975).
Núi Bà Đen luôn là một điểm đến hấp dẫn thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Đất nước chúng ta có rất nhiều vẻ đẹp khác nhau vô cùng đáng mến, đáng yêu. Là một công dân của tổ quốc, chúng ta cần có ý thức giữ gìn và phát huy những vẻ đẹp tự nhiên của đất nước ngày càng tốt đẹp và phát triển hơn.
Thuyết minh về núi Bà Đen Mẫu 6
Núi Bà Đen – một quần thể di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng, từ lâu vốn là biểu tượng về đất và người của quê hương Tây Ninh. Núi trải rộng trên diện tích 24km2, gồm 3 ngọn núi tạo thành: núi Heo, núi Phụng và núi Bà Đen. Núi Bà Đen cao 986m, là ngọn núi nhô lên giữa đồng bằng và cao nhất Nam Cách đây 300 năm, nơi đây còn là vùng rừng già hoang vu, hiểm trở. Cùng với bước chân của cộng đồng người Việt đến vùng đất Tân Ninh xưa khai mở đất đai, sinh cơ lập nghiệp, thì các tăng ni, phật tử cũng đồng thời đến đây lập những am, miếu xây dựng chùa chiền để thờ Phật. Trong đó, hệ thống am, điện, chùa, hang động ở núi Bà Đen đã từ lâu thu hút đông đảo khách thập phương đến viếng lễ hàng năm.
Núi Bà Đen được sách Đại Nam nhất thống chí ghi: “Linh Sơn cách Tân Ninh 20 dặm về phía tây bắc, hình núi cao chót vót là trấn sơn của tỉnh, phía tây giáp địa giới Cao Miên, lưng núi có chùa đá ít người đi đến”.
Truyền thuyết về Bà Đen, Linh Sơn thánh mẫu, với hệ thống chùa, điện, am động… cùng với nhiều sự tích trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đã tô đậm các sự kiện lịch sử trên núi Bà Đen.
Với cảnh quan hùng vĩ của núi đã tạo nên khu di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng ở Nam bộ và cả nước. Hiện nay, hàng năm thu hút hơn nữa triệu lượt người khắp nơi trong nước đến chiêm bái và du ngoạn.
Từ năm 1983, con đường từ thị xã Tây Ninh đến núi dài 11km đã được trải nhựa với hệ thống điện lưới quốc gia đã nối mạng đến núi. Các cơ sở hạ tầng tại khu di tích được xây dựng hoàn chỉnh. Một bia đài tưởng niệm và vườn hoa được xây dựng. Con đường từ chân núi đến chùa Bà, chùa Hang được nâng cấp mở rộng, cùng với hệ thống nhà trạm dừng chân cho khách hành hương. Đặc biệt, hệ thống cáp treo đưa khách từ chân núi lên chùa Bà được xây dựng và đưa vào sử dụng đầu năm 1998. Với nhiều dịch vụ khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách đi tới các di tích, hang động trong toàn bộ quần thể di tích.
Khu vực Suối Vàng nằm ở phía Tây núi Phụng với hồ Chầm, sân quần ngựa và đền thờ Quan lớn Trà Vong, cùng với đường ô tô được mở rộng lên lưng chừng núi Phụng, xưa có những ngôi chùa cổ, tạo cho vùng Suối Vàng Ma thiên lãnh thành trung tâm văn hóa độc đáo.
Phía bắc núi Heo là căn cứ địa của liên đội 7 anh hùng trong thời chống Mỹ. Với những hang động lớn, nhiều bãi đá trắng, trải rộng trên sườn núi. Phía đông núi Bà có suối tràn, nước chảy quanh năm bởi một tản đá khổng lồ chặn ngang lưng chừng núi. Phía dưới tản đá khổng lồ này có hệ thống hang động. Nơi đây từng là căn cứ của Huyện ủy huyện Dương Minh Châu, Huyện ủy Tòa Thánh (nay là Hòa Thành) trong thời chống Mỹ. Ở lưng chừng xung quanh núi là cả hệ thống hang động từng được các tăng ni, phật tử cải biến thành am, động, miếu, thờ. Những hang tiêu biểu như: hang Gió, chùa Hang, động Thanh Long, động Ông Hổ, động Ông Tà, động Ba Cô và động Thiên Thai… từng là căn cứ địa vững chắc của quân dân Tây Ninh trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc.
Núi Bà Đen có nhiều loại gỗ quý hiếm cùng các loại động thực vật phong phú như ốc, dơi, thằn lằn, cheo, mễnh, nai và các loại cây rau, quả có giá trị. Song do chiến tranh tàn phá và sự khai thác bừa bãi của con người nên thảm thực, động vật ở núi Bà Đen hiện còn không đáng kể.
Khi nói đến núi Bà Đen người ta nghỉ ngay đến Điện Bà hay Linh Sơn Tiên Thạch Động. Điện Bà ở độ cao 350m, khu vực này có chùa Thượng (chùa Bà) và chùa Hang.
Điện Bà – thờ Bà Đen - Linh Sơn Thánh Mẫu. Có nhiều huyền thoại về Bà Đen như Sự tích Nàng Đênh, truyện Lý Thị Thiên Hương… được truyền tụng trong nhân dân (dù đã được viết thành sách hoặc dàn dựng thành phim, nhưng vẫn dựa vào truyền thuyết).
Truyện kể về một đôi trai tài, gái sắc đã nguyện ước đính hôn, nhưng giữa buổi loạn ly, chàng trai Lê Sĩ Triệt phải lên đường tòng quân giữ nước. Nàng Lý Thị Thiên Hương, người con quê hương xứ Trảng Bàng ở lại một dạ thủ tiết thờ chồng. Nàng Thiên Hương là người mộ đạo. Trong một ngày lên núi đi chùa lạy Phật nàng bị thát oan. Về sau nàng hiển linh luôn phù hộ cho nhân dân trong vùng được phước lành. Vua Gia Long khi lên ngôi tưởng nhớ chuyện được Bà mách bảo nên thoát nạn tại núi - Vua sai Tả quân Lê Văn Duyệt lên núi làm lễ sắc phong và tạc tượng Bà thờ ở một hang đá trên núi gọi là Điện Bà (Linh Sơn Tiên Thạch Động). Sắc phong đó bị thất lạc. Đến năm 1936 (Bảo Đại thập niên, tứ nguyệt, thập cửu nhật) đã tái phong sắc cho Bà.
Điện Bà được cải tạo từ một mái đá tự nhiên nhô ra tạo thành một hang động. Vòm mái cao 2,5m; cửa rộng 6m. Hai bên được xây gạch ốp sát vách đá. Ở giữa có xây cột gạch chống đỡ, vòm mái trước xây thêm tạo thành 2 lớp nhà điện dài 8m dùng để nơi phật tử chiêm bái và hành lễ. Trong động thờ cốt Bà (tượng Bà) và các tiên nữ.
Tháng giêng hàng năm thiện nam, tính nữ thập phương về lễ viếng Bà cầu tài, xin lộc. Đặc biệt, ngày mùng 5 tháng giêng hàng năm, ngày vía Bà có hàng chục vạn lượt người đến viếng lễ. Suốt trong năm mỗi ngày đều có người hành hương về núi viếng Bà, lạy phật.
Toàn bộ quần thể núi Bà rải rác có nhiều chùa, nhưng chỉ có ngôi chùa chính có quy mô lớn. Ngoài chùa Thượng (chùa Bà) còn có chùa Hạ, chùa Trung. Những ngôi chùa này đã được xây dựng từ lâu đời, nhưng qua các cuộc chiến tranh ác liệt, bom đạn tàn phá nên đổ nát. Những ngôi chùa hiện nay được xây dựng lại từ các năm 1995, 1997.
Từ những ngày đầu tiên xây dựng chùa có các vị tổ sư: Chủ tổ Thiệt Diệu, Tế Giác, Đại Cơ, Đạo Trung, Tánh, Thiền Hải Hiệp (nay còn tháp ở chùa). Tiếp đến là Thánh Thọ Phước Chí (tại vị 1871 - 1880). Tổ Trừng Tùng Chơn Thoại kiến thiết chùa phật, nhà giảng đường (tại vị 1880 - 1910). Tổ Tâm Hòa Chánh Khâm (tại vị 1910 - 1937) xây cất chùa tổ bằng đá (1922 - 1924), nhà tổ bằng đá (1937). Tổ Nguyên Cơ Giác Phú, Nguyên Cần Giác Hạnh lập tháp cho bổn sư và sư huynh (1939), Sư Nguyên Bộ Giác Ngọc (tự DiNa) trụ trì từ 1946 - 1957. Hòa Thượng Nguyên Chất Giác Điền (tại vị 1952 - 1957) thay mặt hàng năm lo liệu lễ vía Bà và khai trường hương, trường kì. Từ năm 1956, lập ra Hội núi Điện Bà do bác sĩ Nguyễn Văn Thọ giữ chức danh Hội trưởng.
Từ năm 1983, tỉnh Tây Ninh thành lập Ban Tổ chức Hội xuân Núi Bà hàng năm và Ban Quản lý di tích lịch sử văn hóa núi Bà Đen.
Cấu tạo địa chất bởi nhiều tầng đá tảng chồng lên nhau tạo ra nhiều hang động tự nhiên và một thảm động, thực vật phong phú đa dạng về sinh thái. Với đỉnh núi cao nhất Nam bộ, núi Bà Đen trở thành một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nên trong suốt 2 cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc (1946 - 1975), lực lượng cách mạng và phản cách mạng đã giành giật nhau quyết liệt quả núi này.
Tháng 6/1946 lực lượng kháng chiến rút lên núi, thực dân Pháp đưa quân lên bao vây, cuộc chiến đấu tại dốc thượng làm tiêu hao nhiều binh lực Pháp. Chùa Trung đã từng làm nơi hội nghị của Chủ tịch Ủy ban Hành chánh kháng chiến các xã để trường kỳ kháng chiến. Suốt 15 năm kháng chiến chống Mỹ (1960 - 1975) nhiều đơn vị của cách mạng bám giữ núi Bà Đen. Đã có 7 lần tấn công căn cứ truyền tin của quân Mỹ trên đỉnh núi. Các căn cứ Huyện ủy Tòa Thánh. Dương Minh Châu, Liên đội 7 và nhiều đơn vị chủ lực đã bám núi đánh giặc – đến ngày 6/1/1975 toàn bộ núi Bà Đen được hoàn toàn giải phóng.
Núi Bà Đen là một quần thể di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở Nam bộ. Với hệ thống hang động và cảnh quan tự nhiên kết hợp kiến trúc tôn giáo đã tô điểm cho núi Bà Đen một nét đẹp thiên phú và nhân tạo, con người hòa quyện với thiên nhiên. Nó thật sự trở thành nơi trở về với cội nguồn đời sống tâm linh và du lịch sinh thái của dân tộc.
Thuyết minh về núi Bà Đen Mẫu 7
Núi Bà Đen là núi nằm trong một quần thể di tích văn hóa lịch sử nổi tiếng bởi phong cảnh hữu tình và nhiều huyền thoại tại Tây Ninh. Theo Gia Định thành thông chí, tên gốc của núi Bà Đen là Bà Dinh. Những bậc kỳ lão địa phương thì cho rằng tên gốc là núi Một. Đến khoảng nửa thế kỷ XVIII mới xuất hiện tên gọi núi Bà Đênh, sau gọi trại dần thành núi Bà Đen. Cũng có người gọi là núi Điện Bà.
Núi Bà Đen là ngọn núi cao nhất miền nam Việt Nam (986m) và là biểu tượng cho mảnh đất và con người Tây Ninh.
Núi Bà Đen còn có tên gọi khác là núi Vân Sơn do ngọn núi quanh năm có mây bao phủ. Núi Bà Đen gắn với truyền thuyết về một người con gái nhan sắc mặn mà, có nước da bánh mật tên là Lý Thị Thiên Hương. Người yêu cô là Lê Sỹ Triệt, quê ở Quang Hóa (tức huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh ngày nay), có tài cao, chí lớn, nên đã lên đường phò Nguyễn Huệ giữ nước.
Nhân dịp Tết Đoan Ngọ, cô theo gót đoàn hành hương lên núi Một lễ Phật, cầu cho đất nước được thanh bình để người yêu sớm trở về thì bị bọn quan quân Tuần Phủ vây bắt và có ý định hãm hại. Cùng đường túng thế, cô đã gieo mình xuống núi tuẫn tiết để giữ tấm lòng chung thủy với người yêu. Đêm hôm ấy, cô đã về báo mộng cho nhà sư trụ trì ngôi chùa trên núi để đưa thi thể cô về an táng. Sau khi chết, cô rất hiển linh, luôn phù hộ độ trì cho thiện tín mười phương nên được nhân dân quanh vùng lập điện thờ trên núi. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long, tưởng nhớ đến chuyện lúc lên núi được Bà mách bảo nơi ẩn náu và thoát nạn nên đã sắc phong cho Bà là Linh Sơn Thánh Mẫu và tạc tượng Bà bằng đồng đen để nhân dân chiêm bái, phụng thờ. Từ đó, núi Một có tên gọi là núi Bà Đen.
Quần thể danh thắng núi Bà Đen trải rộng trên diện tích khoảng 24km², gồm 3 ngọn núi tạo thành: núi Heo - núi Phụng - núi Bà Đen. Với độ cao 986m, nhìn từ xa, núi Bà Ðen như một chiếc nón úp trên đồng bằng. Để lên đến đỉnh núi, du khách có thể đi bằng nhiều cách như: đi bộ, đi cáp treo (tuyến cáp dài 1.200m) hoặc sử dụng hệ thống máng trượt. Máng trượt ở núi Bà Đen là một hệ thống khép kín, gồm hai tuyến: tuyến kéo (tuyến lên) dài 1.190m và tuyến trượt (tuyến xuống) dài 1.700m.
Nằm rải rác từ chân núi lên đến đỉnh núi Bà Đen là một quần thể kiến trúc gồm điện, chùa, miếu, tháp... phản ánh những đặc trưng của văn hóa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Trong đó, nổi bật là chùa Bà Đen (Linh Sơn Tiên Thạch tự) hay còn gọi là chùa Thượng và Điện Bà, nơi đặt bức tượng Bà Đen bằng đồng. Chùa Bà Đen được trùng tu và khởi dựng lại vào năm 1997. Đặc biệt, chùa còn giữ hai cột đá xanh được tạc thời Tổ Tâm Hòa (1919) ở tiền đường, mỗi cột cao 4,5m, đường kính 0,45m, chạm hình rồng uốn lượn rất đẹp. Bên cạnh chùa là Điện Bà được xây dựng dựa vào thế núi từ một mái đá tự nhiên nhô ra tạo thành am động. Vòm mái của Điện Bà cao 2,5m và gian nhà thờ nhân tạo phía trước dài 8m.
Ngoài ra, trên núi còn có một số ngôi chùa khác như: chùa Phật với tượng Phật nhập Niết bàn, chùa Hang (Linh Sơn An Phước tự), chùa Hạ, chùa Trung (Linh Sơn Phước Trung tự), chùa Vân Sơn. Đan xen với hệ thống chùa là rất nhiều hang động được các tăng ni, phật tử sửa chữa làm nơi thờ tự như: động Thanh Long, động Ông Hổ, động Ba Cô, động Ba Tuần, động Thiên Thai, động Ông Tà, hang Gió... Dưới chân núi là Khu Du lịch Văn hóa núi Bà với nhiều khu vui chơi, giải trí, nhà hàng, nhà nghỉ.
Do giữ một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng nên trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1947 – 1975), núi Bà Đen đã từng là nơi diễn ra nhiều trận đánh ác liệt của quân và dân ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Hiện nay, tại đây có 3 địa điểm trưng bày một số hiện vật và hình ảnh về các cán bộ, chiến sĩ quân Giải phóng, đó là động Kim Quang, khu chùa Hang và bảo tàng dưới chân núi.
Hàng năm, cứ mỗi dịp xuân về, nhất là ngày Rằm tháng Giêng, du khách trong và ngoài tỉnh lại tụ hội về khu vực núi Bà Đen để hành hương, lễ bái và tham quan du lịch.
Ngày 21/01/1989, núi Bà Đen đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử và danh thắng cấp quốc gia.