Phân tích bài thơ Sau phút chia li (Chinh phụ ngâm)
Văn mẫu lớp 7: Phân tích đoạn thơ: Chàng thì đi cõi xa mưa gió… ai sầu hơn ai trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm khúc” dưới đây được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 7 hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra môn Ngữ văn 7 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
Phân tích đoạn trích Sau phút chia li của Đoàn Thị Điểm
Phân tích bài thơ Sau phút chia li mẫu 1
Đoạn trích Sau phút chia li của Đoàn Thị Điểm đã thành công tái hiện lại những cung bậc cảm xúc của người chinh phụ sau khi tiễn chồng ra chốn trận mạc.
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Hai câu thơ xuất hiện từ ngữ xưng hô “chàng” và “thiếp”. Đây là lời xưng hô đầy âu yếm và yêu thương của một đôi vợ chồng. Ấy thế, mà giờ hai người đã phải chia đôi hai ngả. Người thì phải đi cõi xa xôi chẳng biết ngày về, người thì ở lại nơi cũ ôm nỗi nhớ thương. Hai vợ chồng không chỉ xa cách nhau về địa lý. Mà ở giữa còn ấp ủ cả nguy cơ về sự xa cách đáng sợ hơn, khi người chồng phải ra chiến trận, không biết có còn trở về được nữa hay không. Trong bối cảnh ấy, người vợ lại phải một mình ở trong buồng cũ - nơi chứa chan bao kỉ niệm đẹp cùng người chồng. Nhìn cảnh nhớ người khiến cô càng thêm thổn thức. Hai hình ảnh đối lập “đi” và “về” khiến khoảng cách giữa hai vợ chồng ngày càng xa hơn. Từ đó, càng thấm thía hơn tình cảnh cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh
Người chồng đã đi xa, bóng dáng đã không thể nhìn thấy nữa. Nhưng người vợ thì vẫn một lòng khắc khoải. Cô ngoái đầu trở lại để tìm kiếm, cố níu giữ chút dáng vẻ nào đó, nhưng tất cả đều là không thể. Thứ cô nhìn thấy chỉ là những mây biếc, những núi xanh. Đó không chỉ là hình ảnh thiên nhiên bình thường, mà đã được tác giả sử dụng thủ pháp ước lệ tượng trưng. Những dòng mây biếc tuôn không ngừng chính là dòng lệ đau khổ, bất lực đến nghẹn ngào của người vợ. Còn ngọn núi xanh thì chính là cuộc chiến tranh phi nghĩa đã ép người chồng phải rời xa gia đình, quê hương để dấn thân đến nơi nguy hiểm. Khiến người vợ phải đau khổ nhớ chồng da diết.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Đoạn thơ xuất hiện hai địa danh có thực là Hàm Dương và Tiêu Tương. Đây là hai nơi cách nhau rất xa trên bản đồ. Ở đây, Hàm Dương chính là người chồng, Tiêu Tương chính là người vợ. Cũng như hai địa danh ấy, hai vợ chồng cũng cách nhau rất xa, không thể nào gặp gỡ được. Sự xa cách ấy là do một thế lực to lớn hơn quyết định. Xưng hô chàng và thiếp đã gợi lên tình cảm quyến luyến yêu thương của đôi vợ chồng đang chịu cảnh xa cách. Tuy không thể nhìn thấy nhau, nhưng họ lại cùng thực hiện hành động ngoảnh lại - trông sang. Hành động ấy, cho chúng ta cảm nhận được sự khăng khít yêu thương đồng lòng của hai vợ chồng. Điệp ngữ vòng đã khiến cho Tiêu Tương và Hàm Dương trở nên sát với nhau hơn. Tựa như muốn khẳng định rằng dù xa cách về địa lý thì hai trái tim ấy vẫn luôn gần bên nhau.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai
Một lần nữa, hai vợ chồng lại cùng hướng về đối phương bằng hành động “trông lại”. Nhưng một lần nữa, họ lại chẳng thể nhìn thấy nhau. Thứ mà họ thấy được chỉ là những “ngàn dâu” mà thôi. Đó là hình ảnh biểu tượng cho sự xa xôi mà khó có thể tưởng tượng đến được. Tác giả còn khéo kéo sử dụng điệp ngữ vòng, khiến cho từ ngàn dâu vắt liền từ câu thơ này sang câu thơ sau. Khiến cho sự xa cách kia như được kéo dài ra thêm, tạo nên cả một khoảng trống không gian khổng lồ. Hình ảnh ấy khiến người vợ càng thêm đau khổ và bất lực. Đồng thời khắc họa được nỗi nhớ thương và buồn đau da diết của cô.
Cuối đoạn thơ là một câu hỏi tu từ "Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?". Bởi câu hỏi này là người chinh phụ đang tự hỏi với chính mình và chẳng cần ai trả lời cả. Chồng cô đang ở nơi xa xôi ngàn dặm, không thể tâm sự, chia sẻ được. Nên đành ngồi cô đơn một mình, gặm nhấm nỗi sầu bi của mình mà khóc thầm. Sự cô đơn, và trống trải đến tuyệt vọng ấy đã cô đặc lại, đè nặng lên tâm hồn người vợ tội nghiệp.
Qua đó, đoạn trích Sau phút chia li đã tái hiện lại được tình cảnh đáng thương của người chinh phụ khi phải tiễn biệt người chồng của mình ra trận mạc. Nối đau, buồn, cô đơn ấy càng da diết, sâu nặng đến chừng nào. Thì sự căm phẫn, lên án các cuộc chiến tranh phi nghĩa và những kẻ cầm quyền xấu xa chỉ biết nghĩ đến tiền bạc, quyền lực càng gay gắt đến chừng đó.
Phân tích đoạn trích Sau phút chia li mẫu 2
Trong xã hội phong kiến người phụ nữ phải chịu rất nhiều bất hạnh, khổ cực. Người phụ nữ lúc bấy giờ chưa được xã hội công nhận, họ không có quyền quyết định cuộc đời mình, phải phụ thuộc vào người chồng, người cha. Có rất nhiều tác phẩm nói về số phận người phụ nữ trong giai đoạn nay, trong đó phải kể đến đoạn trích Sau phút chia ly trích trong tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn.
Đoạn trích bày tỏ nỗi lòng sầu thương, nhớ nhung với sự mong mỏi, da diết của người vợ có chồng ra trận. Bài thơ với thể thơ cổ song thất lục bát. Toàn bài là nỗi nhớ thương ngày một tăng tiến, nâng cao của đôi vợ chồng trẻ, đặc biệt là người vợ - một phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Văn bản "Sau phút chia li" là đoạn trích sau khi người vợ ngậm ngùi tiễn chồng ra miền biên ải, nàng trở về đơn chiếc xót xa.
"Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh".
Rồi lại:
"Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai".
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối giữa các câu thất và sử dụng điệp từ ngữ với những tính từ miêu tả độc đáo, đặc sắc đã toát lên nội dung chính là lên án chiến tranh, đặc biệt là khát vọng hòa bình, được yêu thương của người phụ nữ thời phong kiến.
"Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn".
Vì điều kiện đất nước xảy ra chiến tranh người chồng đã phải chia tay người vợ trẻ yêu quý của mình để ra chiến trường. Đó là cuộc chia li buồn và cô đơn của cả hai người. Trong "cõi xa mưa gió" của chàng ẩn chứa bao hiểm nguy, gian nan của hòn tên mũi đạn, của đời sống chốn sa trường. Trong nỗi lòng "buồn cũ chiếu chăn" của thiếp lại đau đớn bao đơn côi phiền muộn, bao khắc khoải đợi chờ. Hai cặp đối "Chàng thì" - "Thiếp thì" ẩn chứa bao chán nản, buồn phiền. Nghĩ đến nhau, họ chỉ còn biết:
"Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh".
Khi đã tiễn chồng ra trận, người vợ quay trở về chỉ biết chôn chặt nỗi buồn trong loàng. "Đoái" nghĩa là ngoảnh lại, ngoái lại nhưng dùng từ "đoái" còn hàm ẩn được cái đau đớn, mệt mỏi của tâm trạng người vợ. Nhưng càng đoái theo trông ngóng chỉ càng thấy cách xa nghìn trùng, giữa họ "đã cách ngăn" "mây biếc" "núi xanh" "tuôn màu" "trải ngàn" cách trở. Nỗi buồn của người phụ nữ như đã âm thầm lan thấm vào thiên nhiên cảnh vật. Đoàn Thị Điểm đã dùng cảnh vật thiên nhiên để nói lên tâm trạng người phụ nữ khi xa chồng:
"Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu".
Trong đoạn thơ tiếp, nỗi sầu chia li và lưu luyến chẳng muốn rời của đôi vợ chồng trẻ đã được thể hiện bằng những điển tích cổ, thủ pháp đối, phép điệp ngữ rất độc đáo.
Những địa danh Tiêu Tương, Hàm Dương tác giả mượn trong điển tích Trung Quốc gợi đến sự cách xa, chia lìa: "cách... mấy trùng". Phép đối vừa thể hiện tấm lòng sâu nặng dành cho nhau của đôi vợ chồng người chinh phụ vừa như thể hiện sự rời xa nhau từng giờ từng khắc của họ: "Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại" - "Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang", "Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương" - "Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương". Đặc biệt, phép điệp ngữ khiến những câu chữ như muốn đan quyện vào nhau chẳng muốn rời: Tiêu Tương - Tiêu Tương, Hàm Dương - Hàm Dương, thấy - thấy, xanh xanh - xanh, ngàn dâu - ngàn dâu. Nét đặc sắc đó đã thể hiện thành công tấm lòng lưu luyến chẳng muốn rời xa nhau của hai vợ chồng nàng. Thể thơ song thất lục bát thiết tha đã góp phần thể hiện tâm trạng u sầu nhung nhớ khôn nguôi trong lòng người chinh phụ. Nhưng dầu thế, đất trời như đang đẩy họ xa nhau hơn. Trong hai câu thơ:
"Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu"
Tác giả đã mượn ý câu thành ngữ "Thương hải tang điền" - biển rộng đã biến thành ruộng dâu tít tắp, ý chỉ những dâu bể cuộc đời. Chẳng những vậy, những sắc thái khác nhau của màu xanh được sử dụng trong hai câu thơ này cũng góp phần diễn tả sâu sắc nỗi lòng người chinh phụ. "Xanh xanh" là màu xanh nhẹ, xanh nhạt. "Xanh ngắt" lại là màu xanh đậm. Từ "xanh xanh" đến "xanh ngắt" là sự tăng tiến, màu xanh thể hiện sự chia li, li biệt; sự tăng tiến đó như thể hiện nỗi buồn ngày càng đậm nét, ngày càng quằn quại xót xa.
Đoạn trích đã sử dụng thể thơ song thất lục bát ngắn ngủi cùng khá nhiều những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng thành công, tác giả đã thể hiện sâu sắc nỗi lòng của người vợ "sau phút chia li" tiễn chồng đi chinh chiến. Đó là nỗi buồn tê tái, nỗi nhung nhớ vơi đầy, sự lưu luyến khôn nguôi... Và như thế, văn bản "Sau phút chia li" (trích "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm) đã thể hiện tinh thần nhân đạo rất nhân bản, nhân văn.
Người phụ nữ trong xã hội cũ phải chịu quá nhiều đắng cay tủi nhục, chỉ có người chồng là chỗ dựa tinh thần rồi cũng phải ra đi, chưa biết khi nà o mới gặp lại. Sự ác liệt của chiến tranh làm cho nỗi nhớ chồng của người phụ nữ càng nhân ên gấp bội, bởi giữa cái sông và cái chết của con người trong hoàn cảnh đó là quá mong manh.
Phân tích tác phẩm Sau phút chia li mẫu 3
‘Chinh phụ ngâm khúc’ là khúc ngâm tả nỗi buồn cô đơn, thương nhớ, chờ mong của người vợ trẻ có chồng đi chinh chiến miền xa. Tác giả khúc ngâm là Đặng Trần Côn, một danh sĩ tài ba, sống vào nửa đầu thế kỉ 18, khi đất nước ta đang đắm chìm trong cảnh loạn lạc, nội chiến lầm than và đau thương. Nguyên tác bằng chữ Hán, gồm có 470 câu thơ dài, ngắn xen nhau theo thể tự do. Bản dịch thơ dài 408 câu thơ song thất lục bát, tương truyền là của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, người cùng thời với tác giả. Tiếng Việt và thể thơ song thất dưới ngòi bút sáng tạo của
dịch giả đã nâng ‘Chinh phụ ngâm khúc’ lên một tầm vóc mới, trở thành kiệt tác trong nền thi ca cổ điển Việt Nam. Nghệ thuật diễn tả tâm trạng, hình tượng thơ mỹ lệ, nhạc điệu du dương, thiết tha, ngôn ngữ thơ tinh luyện, biểu cảm… là vẻ đẹp của áng thơ này. Nỗi buồn cô đơn, niềm khao khát hạnh phúc của nàng chinh phụ giữa thời chiến tranh loạn lạc mang ý nghĩa thể hiện khát vọng hòa bình của nhân dân, lên án chiến tranh phi nghĩa. Tinh thần nhân đạo là giá trị to lớn và sâu sắc của ‘Chinh phụ ngâm khúc’.
Đoạn thơ 12 câu dưới đây trích từ câu 53 đến câu 64 của khúc ngang đã thể hiện một cách cảm động tâm trạng cô đơn và nỗi sầu chia ly của nàng chinh phụ trong những ngày đầu, sau khi tiễn chồng ra trận:
‘Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?’
Hai vế đối xứng song hành: ‘Chàng thì đi’ / ‘thiếp thì về’ làm hiện lên một cảnh ngộ chia ly của lứa đôi đầy bi kịch giữa thời loạn lạc. Người vợ trẻ thương chồng phải dấn thân vào ‘cõi xa mưa gió’, phải nếm trải bao nguy hiểm, gian lao nơi chiến địa xa xôi. Rồi nàng lại tự thương mình phải sống lẻ loi, cô đơn, một mình một bóng suốt năm canh nơi ‘buồng cũ chiếu chăn’. Hai hình ảnh tượng trưng: ‘cõi xa mưa gió’ và ‘buồng cũ chiếu chăn’ hô ứng nhau, đã thể hiện một cách sâu sắc nỗi đau khổ của ‘đôi lứa thiếu niên’ khi đất nước ‘nổi cơn gió bụi’:
‘Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn’
Ba chữ ‘đoái trông theo’ gợi tả một cái nhìn đăm đắm về phía chân trời xa. Hình bóng người chồng thân yêu đâu còn nhìn thấy nữa, đã ‘cách ngăn’ bởi màu ‘biếc’ của mây, cứ ‘tuôn’ mãi ra, bởi ‘ngàn núi xanh’ cứ trải dài trải rộng và che khuất ở phía chân trời. Chinh phụ một mình một bóng lẻ loi giữa trống vắng bao la. Nỗi buồn cô đơn như thấm vào mây, núi:
‘Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh’
‘Mây biếc càng làm cho bầu trời cao hơn, mênh mông hơn. ‘Ngàn núi xanh’ càng làm cho chân trời thêm xa xăm, cách trở. Câu thơ ‘Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh’ là một câu thơ có hình tượng mỹ lệ và rất hay. Tác giả đã lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm trạng thương nhớ và cô đơn của chinh phụ một cách đặc sắc.
Nỗi buồn cô đơn của nàng chinh phụ được khắc sâu, được tô đậm qua cách nói ước lệ tượng trưng ở đoạn song thất tiếp theo:
‘Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng’
Hàm Dương và Tiêu Tương, hai địa danh trên đất nước Trung Hoa bao la, cách xa nhau hàng nghìn dặm, được nhắc đi nhắc lại đến ba lần đầy ám ảnh. Trên cõi sa trường tầm tã gió mưa sương tuyết, giữa rừng gươm giáo ‘chàng còn ngoảnh lại’… Ó chốn ‘buồng cũ chiếu chăn’, sớm sớm chiều chiều ‘thiếp hãy trông sang’. Nhưng chỉ thấy ‘bến’, thấy ‘cây’, thấy ’khói’ mịt mù trong tâm tưởng. 90
Không gian địa lý bao la đã trở thành không gian nghệ thuật trống vắng. Chữ ‘cách’ được điệp lại hai lần, kết hợp với ‘mấy trùng’ càng làm nổi bật bi kịch chia ly của lứa đôi. Và đó cũng là tâm trạng nghệ thuật: nỗi buồn cô đơn, thương nhớ của nàng chinh phụ không thể nào kể xiết.
Cách nói ước lệ tượng trưng là một thủ pháp nghệ thuật của thi pháp cổ mang giá trị thẩm mĩ đặc sắc: tạo nên tính hàm súc và liên tưởng phong phú, đầy ý vị. ‘Chinh phụ ngâm khúc’ có nhiều đoạn thơ mang tính ước lệ rất hay. Lúc thì gợi lên nỗi gian truân của khách chinh phu trên chiến địa:
‘Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua,
Hình khe, thế núi gần xa,
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao…’
Lúc thì tái hiện một cách rùng rợn chốn sa trường:
‘Non Kì quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi…’
Bốn câu thơ cuối đoạn đã cực tả nỗi buồn của nàng chinh phụ trong sự trông ngóng nhớ thương:
‘Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?’
Càng ngóng trông càng vô vọng cô đơn; ở hai phía chân trời, chàng và thiếp đang buồn đau: ‘Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy’. Ngày và đêm, thực và mộng ‘chẳng thấy’ hình bóng thân thương của chàng, mà thiếp chỉ ‘thấy’ màu ‘xanh xanh’ của ngàn dâu, càng về sau càng nhạt nhòa trên cái nền bao la ‘ngàn dâu xanh ngắt một màu’. Màu ‘xanh xanh’, màu ‘xanh ngắt’ ấy của ngàn dâu cũng là màu xanh của tâm tưởng, màu xanh của ly biệt. Thiếp đang sống trong nỗi buồn nhớ thiết tha. Chẳng có ngọn gió tây, chẳng có cánh chim nhạn để thiếp gửi tình thương nhớ tới chàng đang chinh chiến trên ải xa? Câu hỏi tu từ như một tiếng thở dài ngao ngán: ‘Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?’.
Các từ ngữ: ‘cùng trông lại’, ‘cùng chẳng thấy’, ‘thấy’, ‘ngàn dâu… ngàn dâu’, ‘ai… ai’ – lúc thì tương phản, lúc thì hô ứng đăng đối, tăng cấp, lúc thì điệp và láy – đã tạo nên nhạc điệu du dương, tha thiết, diễn tả một cách xúc động một tâm trạng đầy bi kịch thời loạn lạc. Biện pháp nghệ thuật liên hoàn và cách diễn tả trùng điệp là một nét rất tài hoa của nữ sĩ được thể hiện qua 4 câu song thất này. Chữ ‘thấy’ cuối câu bảy trên được nhắc lại đầu câu bảy dưới; chữ ‘ngàn dâu’ cuối câu bảy dưới lại được điệp lại đầu câu sáu, đã làm cho thơ liền mạch, làm nổi bật nỗi sầu, nỗi buồn ly biệt diễn ra triền miên khôn nguôi trong tâm hồn chinh phụ.
Trong ‘Chinh phụ ngâm khúc’, biện pháp nghệ thuật liên hoàn – trùng điệp đã để lại dấu ấn tuyệt đẹp qua nhiều đoạn thơ tuyệt tác:
‘Hướng dương lòng thiếp như hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,
Hoa để vàng bởi tại bóng dương.
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần’…
Thơ là cái đẹp muôn đời của sự sống. ‘Chinh phụ ngâm khúc’ là cái đẹp chứa chan tinh thần nhân đạo phản ánh một thời kỳ loạn lạc đau thương, để lại bao xúc động trong lòng người hơn 250 năm nay. Đoạn thơ 12 câu trên đây là một nét đẹp của khúc ngâm tuyệt tác này. Ngôn từ tinh luyện, biểu cảm, hình tượng mĩ lệ, nhạc điệu du dương, câu thơ song thất của khúc ngâm đã trở thành cổ điển. Cách nói ước lệ tượng trưng, cấu trúc song hành đối xứng, biện pháp liên hoàn tượng trưng đã được nữ sĩ sử dụng rất tài tình.
Chiến tranh loạn lạc đã để lại bao nỗi đau trong lòng người. Nỗi buồn ly biệt, tình thương nhớ, cảnh ngộ cô đơn của người vợ trẻ sau khi tiễn chồng ra trận như thấm sâu vào cảnh vật từ mây trời, núi non đến cây cỏ, từ chốn phòng khuê đến ải xa nơi chiến địa. Đoạn thơ thấm đượm tính nhân văn, thể hiện niềm khao khát của người chinh phụ muốn được sống trong tình yêu hạnh phúc, trong hòa bình yên vui.
-----------------------------------------------------------------------
Trên đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu Phân tích đoạn thơ: Chàng thì đi cõi xa mưa gió… ai sầu hơn ai trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm khúc” cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 7 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 7 và biết cách soạn bài lớp 7 các bài Tác giả - tác phẩm ngữ văn 7 trong sách Văn tập 1 và tập 2. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.
Các bài liên quan đến tác phẩm: