Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Hồi hương ngẫu thư - Ngữ văn 7
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương bao gồm dàn ý và 4 bài văn mẫu hay lớp 7 cho các em tham khảo, nâng cao kỹ năng viết văn, đồng thời học tốt môn Ngữ văn 7.
Dàn ý cảm nghĩ về bài thơ Hồi hương ngẫu thư
1. Mở bài
- Đôi nét khi giới thiệu về nhà thơ Hạ Tri Chương cùng tác phẩm Hồi hương ngẫu thư.
- Tóm tắt ý nghĩa và nét đặc sắc trong nội dung cùng nghệ thuật của bài thơ.
- Cảm nghĩ khái quát của bản thân khi cảm nghĩ về bài thơ Hồi hương ngẫu thư.
2. Thân bài
- Nêu ý tóm tắt về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
- Sự trở về của nhà thơ sau thời gian dài xa cách.
- Sự lạc lõng đau xót của nhà thơ trong tình cảnh trớ trêu.
3. Kết bài
- Tóm tắt lại giá trị nội dung cùng nghệ thuật của bài thơ.
- Ý nghĩa của quê hương – nơi “chôn rau cắt rốn” với mỗi người.
- Bày tỏ suy nghĩ của bản thân khi cảm nghĩ về bài thơ Hồi hương ngẫu thư.
Cảm nghĩ về bài thơ Hồi hương ngẫu thư mẫu 1
Tình yêu quê hương đất nước là nguồn cảm hứng bất tận đối với các thi nhân từ xưa đến nay. Nếu nỗi nhớ quê trong "Tĩnh dạ tứ" của Lý Bạch là sự khắc khoải, da diết với ánh trăng vằng vặc của ngày xưa thì "Hồi hương ngẫu thư" của Lý Bạch khắc họa một nỗi buồn thương, nuối tiếc của một cố nhân về thăm chốn cũ. Bài thơ tuy đã lâu nhưng vẫn còn giá trị nổi bật với tình yêu quê hương đi sâu vào lòng người đọc.
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi
(Khi đi trẻ, lúc về già)
Bài thơ mở đầu với một câu chuyện về một người con xa quê đã lâu, nay mới có dịp về thăm lại cố hương. Khoảng thời gian mấy chục năm mà ngỡ như mới hôm qua bởi với tác giả, hình bóng quê hương vẫn luôn nguyên vẹn và đủ đầy như thuở ấu thơ. Hai cặp từ đối lập: đi - về, trẻ - già cho thấy sự khắc nghiệt của thời gian, của tuổi tác và cả của hoàn cảnh sống. Khi tác giả ra đi, đó là thời trai trẻ đầy khí thế, với sức khỏe và niềm tin. Vậy mà khi ông trở lại, tuổi đã xế chiều, tóc đã điểm hoa râm. Có vậy mới thấy, trong giọng thơ của Hạ Tri Chương phảng phất một chút tiếc nuối, một chút bi thương cho thời gian khắc nghiệt, đã lấy đi những gì đẹp đẽ nhất, xuân sắc nhất của con người. Khắc nghiệt là thế, bi thương là thế nhưng đến câu thơ thứ hai, tác giả lại khiến người đọc bồi hổi bởi cụm từ "Hương âm vô cải":
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
(Giọng quê vẫn thế tóc đà khác bao)
Bao nhiêu năm phiêu bạt cùng sương gió, con người đã khác xưa, khuôn mặt, mái tóc đã ít nhiều thay đổi, vậy mà có duy nhất một thứ không đổi thay đó chính là "giọng quê" thân thương mà trìu mến. Cái giọng quê - ấy chính là cái dấu hiệu nhận biết đặc biệt nhất, rõ ràng nhất tình yêu và sự thủy chung son sắt của con người dành cho quê hương. Phải là người yêu quê hương nhiều lắm mới có thể giữ gìn cái hồn của quê hương từ trong giọt máu, trong chính giọng nói của mình như vậy.
Tác giả yêu quê hương là thế, mong được trở về quê hương là thế. Vậy mà một sự việc xảy ra khiến ông không khỏi buồn thương, xót xa:
"Nhi đồng tương kiến, bất tương thức
Tiểu vấn: Khách tòng hà xứ lai"
(Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?)
Ôi chao, lời nói của con trẻ tưởng đùa mà hóa ra rất thật. Nó như chà xát vào vết thương lòng của tác giả, khiến ông nhận ra rằng mình đã không còn trẻ nữa. Sự khắc nghiệt của thời gian không chỉ in hằn trên năm tháng mà còn in hằn trong những kỉ niệm của ông về quê hương xứ sở. Tác giả tự nhận thấy rằng mình đã già, không còn chạy đua được với thời gian và sức trẻ. Đặt chân lên chính quê hương của mình nhưng ông buồn bã nhận ra, giờ đây mình chỉ còn là "vị khách" xa lạ, không ai biết mặt. Điều đó thật xót xa làm sao. Những thế hệ của ông nay đã già đi để nhường chỗ cho những thế hệ khác nối tiếp. Những bạn bè cùng trang lứa nay mỗi người một ngả, không còn gặp nhau hay tụ hợp như trước kia nữa. Càng nuối tiếc bao nhiêu, ta lại càng cảm nhận thấy sự khao khát muốn níu kéo thời gian của tác giả. Bởi chỉ có thời gian mới có thể giúp ông lưu giữ kỉ niệm, lưu giữ tình yêu sâu nặng của ông dành cho quê hương. Có vậy mới biết được tấm lòng sâu nặng của Hạ Tri Chương đối với quê hương của mình. Trong lòng con người luôn mang hình bóng của quê hương xứ sở, bởi vậy, họ cũng khát khao quê hương sẽ nhớ đến mình, nhớ đến người con yêu quê hương tha thiết. Đó là niềm khao khát nhân bản của một tấm lòng đẹp, một thi nhân luôn thiết tha với đời.
Tình yêu quê hương của Hạ Tri Chương trong bài thơ là một tình yêu bao la và vị tha. Tình yêu ấy luôn dào dạt trong trái tim ông dù ông biết quê hương đã nhiều đổi thay mà không còn nhớ đến mình. Từ đó, gieo vào lòng độc giả những thổn thức cùng sự đồng cảm, sẻ chia.
Cảm nghĩ về bài thơ Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương mẫu 2
Chủ đề về quê hương là chủ đề được rất nhiều tác giả lựa chọn để đưa vào các tác phẩm của mình, chủ đề này cũng tạo nên tên tuổi cho rất nhiều các nhà văn, nhà thơ cho đến tận ngày nay. Trong các tác phẩm ấy, “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương vẫn luôn nổi bật, gây cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ qua bao thập kỉ dù chỉ là bài thơ được tác giả viết tình cờ trong ngày đầu tiên về thăm quê cũ mà ông không hề chủ định viết.
Mở đầu với hai câu khai đề, thừa đề, tác giả viết:
“Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.”
Với cách sử dụng ba cặp từ trái nghĩa trong một câu thơ: “li-hồi, tiểu-đại, thiếu-lão”, nghĩa câu thơ cũng rất rõ ràng: tác giả rời quê khi còn trẻ và trở về khi đã là một ông già, câu thơ đã tóm tắt về cuộc đời của tác giả. Nó tóm tắt cuộc đời hơn 50 năm sinh sống, làm quan ở kinh đô Trường An, cũng giới thiệu cho người đọc biết được ông đã rời quê rất lâu, nay mới trở về. Sang câu thơ thứ hai, tác giả chia câu thành hai vế: một vế nói về cái thay đổi là thay đổi về diện mạo bên ngoài, một cái không đổi chính là giọng nói quê hương. Ông đã ở kinh đô hơn 50 năm nhưng giọng quê thì không hề đổi thay, chứng tỏ tunhf yêu mà ông dành cho quê hương mình sâu nặng đến nhường nào. Hai câu thơ đầu vừa kể, vừa tả đã giới thiệu cả quãng thời gian dằng dặc xa quê của tác giả, nói về sự kiện tác giả trở về quê, ta cũng thấy được quê hương trong tác giả là hình ảnh sâu sắc tới đâu.
Tiếp đó, tác giả tiếp tục đưa người đọc đến với mạch cảm xúc nối tiếp của bài với hai câu chuyển đề và hợp đề:
“Nhi đồng tương kiến, bất tương thức
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?”
Chắc chắn “ông già” Hạ Tri Chương sau hơn 50 năm mới trở về thăm quê sẽ có cảm giác bồi hồi, xúc động. Đặc biệt hơn, trong lần trở về này, ông đã gặp một tình huống bất ngờ mà chính ông cũng không lường trước được. Đó là khi trở về, những người đầu tiên ông gặp chính là lũ trẻ sinh sau đẻ muộn, chắc hẳn bố mẹ chúng cũng chẳng thể biết ông là ai bởi ông đã xa quê rất lâu rồi, lũ trẻ cũng vô cùng tò mò, hiếu khách nên đã hỏi ông từ đâu tới. Ông là con người của quê hương, cũng rất yêu quê hương, vậy mà giờ đây ông lại trở thành khách trên chính quê hương của mình. Tác giả từ ngạc nhiên, bỗng lại thấy rất ngậm ngùi, buồn tủi, mặc dù biết đó là sự thật, nhưng ông vẫn xót xa, tủi lòng. Bởi ông không hề nghĩ rằng, bản thân yêu quê như thế mà khi trở về lại thành khách, lại gặp tình huống vừa abats ngờ, vừa hài hước như thế. Có lẽ, đây cùng chính là nguyên nhân mà ông viết nên bài thơ này.
Bài thơ ngắn gọn, súc tích nhưng lại hàm chứa bao ý nghĩa, chất chứa bao tâm tư của tác giả khi trở về quê sau hơn nửa thế kỉ. Qua đó, tác giả tạo nên trong lòng mỗi người đọc tình yêu quê hương sâu sắc, nặng lòng với quê hương mà khó ai có thể có được. Chính điềunày đã làm nên thành công cho tác phẩm, mà cho tới tận bây giờ, khi nhắc đến Hạ Tri Chương, thì “Hồi hương ngẫu thư” hẳn là bài thơ không thể bỏ lỡ.
Cảm nghĩ về bài thơ Hồi hương ngẫu thư mẫu 3
“Hồi hương ngẫu thư” là 1 trong 2 bài thơ viết về quê hương nổi tiếng của Hạ Thi Chương. Sau hơn 50 năm làm quan ở kinh đô Trường An, ông muốn tìm nguồn an ủi nơi quê nhà. Và bao nhiêu cảm xúc dồn nén khi xa quê hương cũng như bột phát lúc trở về được ông bộc lộ trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt viết một cách ngẫu nhiên.
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi.
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
dịch thơ
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê không đổi, tóc đà khác bao
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch)
Ai mà chẳng mang trong mình thứ tình quê thiêng liêng sâu nặng. Nhất là với những người xa quê, tình cảm ấy lại càng trở nên thiết tha, day dứt. Chính vì thế, mặc dù ko phải là đề tài mới lạ, tác giả lại là người Trung Quốc nhưng “Hồi hương ngẫu thư” vẫn nói hộ tâm tình của biết bao bạn đọc Việt. Tình yêu quê hương thường trực, bản thân nhà thơ có thể bộc lộ tình cảm ấy bất cứ lúc nào. Nhưng khi Hạ Tri Chương ko chủ định viết mà lời thơ và cảm hứng dạt dào thì cái duyên cớ đã xui khiến, đã đưa đẩy tác giả cho ra đời bài thơ quả là góp phần quan trọng. Nếu ví tình cảm với quê hương của thi nhân như sợi dây đàn đã căng hết mức thì “Hồi hương ngẫu thư” chính là tiếng ngân vang kéo dài đến hơn 1 nghìn năm bởi cú va đập của “duyên có”.
Xa quê từ khi còn trẻ, cuộc đời Hạ Tri Chương là bước đường thành công trong sự nghiệp. Ông đỗ tiến sĩ, sinh sống, học tập và làm quan trên 50 năm ở kinh đô Trường An, rất được vua Đường Huyền Tông vị nể. Lúc từ quan về quê làm đạo sĩ ông còn được vua tặng thơ, được thái tử và các quan đưa tiễn. Trường An chắc hẳn là quê hương thứ hai thân thiết. Nhưng, con người dù sao cũng ko thể chống lại quy luật tâm lí muôn đời:
“Hồ tử tất như khau
Quyện điểu quy cựu lâm”
(Cáo chết tất quay đầu về núi gò
Chim mỏi tất bay về rừng cũ)
(Khuất Nguyên)
Đó là dù đi những đâu không gì vui hơn được ở nhà mình, dù ở phương nào, ta vẫn hướng về quê hương. Cả một đời làm quan, khi tuổi cao, khi muốn được nghỉ ngơi, Hạ Tri Chương trở về quê. Thời gian năm tháng, cuộc sống nơi đô thành làm cho tóc mai rung, cho vẻ ngoài đổi thay, làm cho chàng thanh niên thuở xưa thành ông già 86 tuổi. Duy có 1 điều ko thay đổi ấy là: Giòng quê”(hương âm vô cải). Thi nhân trở về vẫn vẹn nguyên con nngười của quê hương mặc dòng đời đưa đẩy.
Lẽ thường, về thăm quê, trở lại nơi chôn rau cắt rốn, nhà thơ phải mừng vui sung sướng. Song, phải đọc tới hai câu thơ cuối, người đọc mới hiểu được cái duyên cớ xui khiến thi nhân làm thơ và khiên nhà thơ ngậm ngùi. Sự ngậm ngùi ấy xuất phát từ những đổi thay của quê hương. Bạn bè người quen chắc chẳng còn ai, nếu có còn thì chắc cũng ai nhận ra tác giả. Đúng như vậy, đón nhà thơ là đàn em nhỏ vui vẻ cười nói và rất hiếu khách. Trớ trêu thay, không phải vẻ ngoài của tác giả làm các em không nhận ra mà là việc trong mắt các em, tác giả trở nên hoàn toàn xa lạ. Một vị khách ngay chính tại quê hương mình, sinh ra và lớn lên ở quê hương mà ko được coi là người con của quê hương quả là một tình huống bi hài, cười ra nước mắt.
Giọng thơ trầm tĩnh nhưng chứa đựng tình cảm dạt dào, chan chứa với quê hương. Bài thơ lay động sự đồng cảm và thấu hiểu của người đọc bởi tình huống bất ngờ trớ trêu. Phải ở vào hoàn cảnh của tác giả, chúng ta mới cảm nhận hết được sức mạnh to lớn của thời gian và sự xa cách.
Cảm nghĩ về bài thơ Hồi hương ngẫu thư mẫu 4
Quê hương là nơi chôn rau cắt rốn của mình. Người ta có khi phải xa quê mới hiểu tình quê hương là sâu sắc lắm. Xa quê, dù nỗi nhớ có cồn cào đến mức nào thì người ta cũng có cách để mà bày tỏ. Thế nhưng đặt chân về đến quê mình mà lại bị coi là người xa lạ thì nỗi đau ấy mới thực sự lớn hơn. Đọc bài thơ Hồi hương ngẫu thư ta hiểu và cảm thông với Hạ Tri Chương khi ông rơi vào hoàn cảnh như thế.
Hạ Tri Chương sinh sống và làm việc trên 50 năm ở chốn phồn hoa là kinh đô Trường An. Lúc xin từ quan mới chống gậy về bái lạy quê nhà. Đặt chân về đến đúng cổng làng, nơi ngày xưa mọi người tiễn biệt mình đi, nhà thơ bùi ngùi hạ bút:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi (Khi đi trẻ, lúc về già)
Hương âm vô cải, mấn mao tồi (Giọng quê vẫn thế tóc đà khác bao)
Hai câu đầu là 2 câu kể người, kể việc. Nó ngắn gọn nhưng rất đầy đủ. Mấy chục năm xa cách dồn tự lại trong 2 câu thơ ngắn ngủi. Câu đầu bị chặn bởi 2 mốc thời gian, còn lại trải ra 1 khoảng thời gian mênh mông ở giữa. Trong khoảng 50 năm giữa 2 mốc thời gian ấy, ta có thể hình dung bao nhiêu bão tố phong ba đã đến với tác giả. Những bon chen trong cuộc sống làm mái tóc tác giả pha sương. Mái đầu của người ly hương rất giàu sức gợi. Nó vừa là dấu hiệu của thời gian. của tuổi tác vừa là dấu ấn của 1 cuộc đời. Và biết đâu trong muôn ngàn sợi bạc ấy, người ta tìm thấy những sợi bạc vì nỗi nhớ quê hương.
Trong 2 câu đầu, chú ý đến cụm từ "hương âm vô cải" (giọng quê không đổi). Nếu người ta cần 1 cái gì đó để kiểm nghiệm cái thuỷ chung son sắt của kẻ ly hương thì chỉ cần nghe "Giọng quê"của con người ấy. Ý thơ ngắn gọn mà sâu sắc. Mấy chục năm là một khoảng thời gian không ngắn chút nào thế mà cái tình đối với quê hương của tác giả vẫn không hề thay đổi.
Cái tình đối với quê hương của nhà thơ là như thế. Thế nhưng hai câu thơ đầu đầy tự hào thì hai câu thơ sau đến đột ngột, ngậm ngùi và sót xa biết bao:
"Nhi đồng tương kiến, bất tương thức (Trẻ con nhìn lạ không chào)
Tiểu vấn: Khách tòng hà xứ lai (Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?)"
Một tình huống thật quá bất ngờ, hóm hỉnh mà sót xa thấm thía. Nhìn lũ trẻ cười vui với câu hỏi đầy ngây thơ, lòng tác giả lại cồn cào lên bao lỗi nhớ niềm thương. Ồ! hoá ra mình không còn trẻ nữa. Không biết ở cái làng nhỏ bé này còn bao nhiêu người có thể nhớ mặt và gọi đúng tên ta. Ôi! Sao ta muốn tìm về một nơi ấm áp mà không tìm được. Đặt chân về đúng mảnh đất yêu thương ta không hề thấy lạ. Ta vẫn thuỷ chung và son sắc như xưa, vậy mà sao quê hương đang nhìn ta với một con mắt lạ lẫm, hững hờ...những dòng suy nghĩ của nhà thơ cứ theo cái mạch ấy mà chảy cùng với câu thơ mà ý nghĩa còn đang bỏ ngỏ. Trước câu hỏi ngây thơ của trẻ nhỏ, lòng tác giả bùi ngùi một lỗi sót xa.
Từ hai câu thơ đầu đến 2 câu thơ sau là cả một sự đổi thay rất lớn. Người ly hương vốn là chủ nhà thế mà tự nhiên đột ngột biến thành người không quen biết; Từ một con người hí hửng về làng ôm trong lòng bao lỗi nhỡ niềm thương, nay hoá thành người xa lạ. Hai câu thơ kết thúc hụt hẫng chơi với. Lỗi buồn của tác giả cũng từ đó mà mênh mông lan toả biết nhường nào.
Bài thơ của Hạ Tri Chương khiến người đọc không khỏi bồi hồi, xúc động. Bốn câu thơ ngắn gọn mà ý tứ cô đọng, hóm hỉnh, sâu xa. Tình quê của tác giả không ồn ào mà vô cùng tha thiết, ý nghĩa của nó khiến chúng ta không thể không cảm thấy rung động, xót xa.