Viết đoạn văn bộc lộ cảm xúc của em sau khi đọc bài thơ Mẹ, Ông đồ, Tiếng gà trưa (12 mẫu)
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc của em về bài thơ Mẹ, Ông đồ, Tiếng gà trưa
Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ bốn chữ, năm chữ bao gồm đoạn văn bộc lộ cảm xúc về bài thơ Mẹ (Đỗ Trung Lai), Ông đồ (Vũ Đình Liên), Tiếng gà trưa (Xuân Quỳnh). Đây cũng là nội dung câu hỏi trang 53 SGK Ngữ văn 7 tập 1 Cánh diều. Để giúp các em triển khai đề bài này, VnDoc gửi tới các em một số đoạn văn mẫu cho các em tham khảo, có ý tưởng làm bài. Sau đây mời các bạn tham khảo chi tiết.
Đề bài: Viết đoạn văn bộc lộ cảm xúc của em sau khi đọc một trong các bài thơ: “Mẹ” (Đỗ Trung Lai), “Ông đồ” (Vũ Đình Liên), “Tiếng gà trưa” (Xuân Quỳnh)
Tham khảo chi tiết từng bài
- Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc của em sau khi đọc bài thơ Mẹ (Đỗ Trung Lai).
- Đoạn văn ghi lại cảm xúc của em sau khi đọc bài thơ Tiếng gà trưa
- Đoạn văn ghi lại cảm xúc của em sau khi đọc bài thơ Ông đồ
1. Đoạn văn bộc lộ cảm xúc sau khi đọc bài thơ Mẹ (Đỗ Trung Lai)
Bài tham khảo 1
Bài thơ “Mẹ” của nhà thơ Đỗ Trung Lai là một bài thơ hay viết về hình ảnh người mẹ làm em cảm thấy ấn tượng. Mượn hình ảnh thân quen của làng quê Việt Nam – cây cau, tác giả đã khắc hoạ rõ nét khuôn mặt người mẹ đang gầy đi năm tháng. Nếu như cây cau trong vườn càng ngày càng cao thẳng thì tấm lưng của mẹ sẽ lại còng “Lưng mẹ còng rồi/Cau thì vẫn thế”. Thời gian cho cau xanh dần thì cũng làm mẹ già theo “Cau ngày càng cao/Mẹ ngày một thấp”. Lòng con như quặn thắt, đau xót khi nhìn mẹ ngày một già nua. Tác giả mượn hình ảnh miếng trầu “Cau mẹ bổ tư/Giờ cau bổ tám” như để minh hoạ tuổi già này. Biện pháp tu từ so sánh “Một miếng cau khô/Khô gầy như mẹ” giúp chúng ta nhận thức được sâu sắc nỗi buồn và cái cô đơn nằm sâu trong trái tim con. Câu hỏi cuối bài thơ “Khi mẹ ta già?” đâu chỉ để hỏi trời cao mà còn là câu hỏi người con đặt ra cho chính mình. Bằng ngôn ngữ thơ trong sáng, tự nhiên và thể thơ bốn chữ ngắn gọn với những biện pháp đôi “còng – thẳng”, so sánh “Khô gầy như mẹ” góp phần thể hiện xúc cảm của nhân vật trữ tình. Nhan đề bài thơ chỉ gói gọn trong một từ “Mẹ” nhưng đã gợi cho người đọc bao xúc động bởi sự quan tâm của người con dành cho mẹ cùng những tủi thân khi chứng kiến mẹ ngày càng già đi.
Bài tham khảo 2
Đọc bài thơ "Mẹ" của Đỗ Trung Lai, em thấy rung động sâu sắc về tình cảm của người con dành cho người mẹ kính yêu. Mở đầu bài thơ, ta bắt gặp hình ảnh người mẹ với tấm lưng gầy "Lưng mẹ còng rồi/ Cau thì vẫn thẳng". Hai hình ảnh thơ trái ngược đã nhấn mạnh tâm trạng thảng thốt và nỗi đau thầm lặng trong lòng người con khi nhận ra mẹ đã già. Quy luật khắc nghiệt của thời gian một đi không trở lại làm lòng con càng thêm quặn thắt "Cau gần với trời/ Mẹ thì gần đất". Hình ảnh "cau bổ tám" càng ngày càng nhỏ gợi nên tuổi già móm mém của mẹ. Khi con dần trưởng thành cũng là lúc mẹ trở nên gầy yếu theo năm tháng: "Một miếng cau khô/ Khô gầy như mẹ". Và con càng thêm kính trọng nâng niu tình mẹ "con nâng trên tay" nhưng lại không cầm được những giọt nước mắt yêu thương xót xa. Câu hỏi ở cuối bài thơ "Sao mẹ ta già?" như là lời tự vấn chính mình, đồng thời cũng gợi nỗi cô đơn trống trải trong lòng người con. Bằng hình ảnh thơ đối lập, ngôn ngữ mộc mạc và thể thơ 4 chữ ngắn gọn đã khắc họa cho chúng ta hình ảnh người mẹ già luôn tần tảo, đảm đang. Bài thơ như lời nhắc nhở mỗi người hãy biết yêu thương, quan tâm tới mẹ cùng những người thân trong gia đình.
Bài tham khảo 3
Những bài thơ viết về mẹ luôn có sức lay động, truyền cảm đặc biệt bởi tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng đối với mỗi con người. Bài thơ Mẹ của Đỗ Trung Lai là một trong số những bài thơ hay viết về mẹ. Trong bài thơ, tác giả đã chọn hình ảnh cây cau, trái cau xuất hiện song hành cùng mẹ. Đây là một phát hiện khá tinh tế, nhiều biểu cảm. Cây cau muôn đời thẳng, lưng mẹ mỗi ngày còng; lá cau mãi vẫn xanh, tóc mẹ gần với đất; trái câu xưa bổ bốn, nay bổ tám ngại to. Duy nhất một c nét tương đồng giữa mẹ và cau thì gợi lên bao xót xa: Cau khô - khô như mẹ. Vậy là thời gian đã lấy đi tuổi xanh, rút cạn sức lực của mẹ, khiến con đau lòng mà tự vấn trời xanh. Nhưng câu hỏi đâu có lời hồi đáp… Sinh, lão. bệnh, tử là quy luật muôn đời của loài người. Như vậy, bài thơ Mẹ là lời của người con, bộc lộ cảm xúc xót xa thương cảm khi thấy mẹ ngày một già đi, tuổi cao sức yếu, không còn khỏe mạnh minh mẫn như ngày xưa.
Bài tham khảo 4
Bài thơ Mẹ của Đỗ Trung Lai là một bài thơ viết về người mẹ với những hình ảnh đối lập giàu sức biểu cảm. Ở khổ thơ đầu, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh để chỉ ra sự đối lập giữa hình ảnh "mẹ" và "cau": "Lưng mẹ còng rồi/ Cau thì vẫn thẳng", "Cau - ngọn xanh rờn/ Mẹ - đầu bạc trắng". Hai hình ảnh, hai màu sắc trái ngược đã nhấn mạnh và làm nổi bật tâm trạng thảng thốt cũng như nỗi đau thầm lặng, quặn thắt trong lòng tác giả khi nhận ra mẹ đã già. Các khổ thơ cứ nối tiếp nhau với hai hình ảnh song song là mẹ và cau ấy. Để rồi tiếp theo đó, tác giả miêu tả mẹ gián tiếp bằng cách so sánh: "Một miếng cau khô/ Khô gầy như mẹ". Cách miêu tả này không những gây xúc động mà còn tinh tế và có thể coi là một cách để chủ thể trữ tình lảng tránh khỏi nỗi buồn của chính mình trước hình ảnh mẹ đã già. Cả bài thơ với hai hình ảnh đối sánh là "mẹ" và "cau" đã làm nổi bật hình ảnh người mẹ và tình thương mẹ sâu sắc của nhà thơ.
2. Đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Tiếng gà trưa
Bài tham khảo 1
Bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh là một bài thơ nói về những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ và tình bà cháu. Tình bà cháu trong bài thơ, nói rộng hơn là tình cảm gia đình đã làm sâu sắc thêm tình quê hương đất nước. Người cháu ra đi chiến đấu vì lòng yêu Tổ quốc. "Tổ quốc" là một từ thật thiêng liêng nhưng cũng hết sức trừu tượng. "Tổ quốc" có trong mình "xóm làng thân thuộc". "Tổ quốc" có trong mình những kỉ niệm với bà, giản dị như tiếng gà cục tác. Như vậy, có thể nói "Tổ quốc" thiêng liêng, trừu tượng nhưng cũng thật giản dị, gần gũi. Bài thơ Tiếng gà trưa đã nói về tình cảm và kỉ niệm đẹp đẽ của người cháu với bà của mình. Chính vì tình cảm, kỉ niệm đó mà người cháu "chiến đấu hôm nay". Tình cảm đã khiến người ta có sức mạnh để bảo vệ những điều bình dị mà thiêng liêng. Đó là điều được gợi ra trong tôi sau khi đọc bài thơ.
Bài tham khảo 2
Đọc bài thơ "Tiếng gà trưa" của Xuân Quỳnh, em lại càng thêm trân trọng tình cảm bà cháu thắm thiết, sâu đậm. Trên bước đường hành quân, cháu nghe được tiếng gà trưa từ xóm nhỏ "Dừng chân bên xóm nhỏ/ Tiếng gà ai nhảy ổ/ Cục... cục tác cục ta". Và lòng cháu lại dâng lên niềm xúc động, thao thức khi nhớ về tuổi thơ bên những ổ trứng hồng, nhớ về những tháng ngày sống cùng bà. Tiếng gà "Cục... cục tác cục ta" đã xua tan những bước chân mệt nhọc, gian khổ khi làm nhiệm vụ và đưa cháu trở về kỉ niệm tuổi thơ. Miên man hồi tưởng theo tiếng gà trưa, cháu nhớ hình ảnh con gà mái mơ "Khắp mình hoa đốm trắng", con gà mái vàng "Lông óng như màu nắng" mang đến một ổ trứng hồng. Nổi bật trên những hình ảnh đẹp đẽ, bình dị ấy, cháu thấy đôi tay bà cần mẫn, tần tảo chăm chút từng quả trứng. Đó còn là ngày đông giá rét, bà chăm sóc, nuôi nấng đàn gà cẩn thận để "Cháu được quần áo mới/ Ôi cái quần chéo go/ Ống rộng dài quét đất..." Tất cả sự dịu dàng, yêu thương, bà dành hết cho cháu. Và tình yêu ấy mãi in sâu trong kí ức của cháu, theo cháu trên mọi nẻo đường xa xôi. Tình yêu của cháu dành cho bà như hòa vào tình yêu lớn lao trước non sông đất nước, là động lực để cháu vững tay súng chiến đấu. Những câu thơ năm chữ ngắn gọn kết hợp với hình ảnh gần gũi, các biện pháp tu từ so sánh "lông óng như màu nắng", ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "Tiếng gà ai nhảy ổ/ Cục... cục tác cục ta/ Nghe xao động nắng trưa..." mang đến hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam cùng tình cảm bà cháu sâu nặng. Bài thơ "Tiếng gà trưa" đã khắc họa nên những kí ức đẹp của tuổi thơ và tình bà cháu, tình yêu quê hương đất nước tha thiết.
Bài tham khảo 3
Bài thơ "Tiếng gà trưa" của nhà thơ Xuân Quỳnh đã để lại trong em nhiều cảm nhận sâu sắc về tình bà cháu. Từ tiếng gà trưa nghe được được trên bước đường hành quân "Dừng chân bên xóm nhỏ/ Tiếng gà ai nhảy ổ/ Cục... cục tác cục ta" đã khơi dậy dòng cảm xúc trong lòng người cháu. Nghe tiếng kêu thân thuộc ấy, lòng cháu lại thổn thức, bồi hồi, nhớ về kỉ niệm tuổi thơ tươi đẹp bên bà. Cháu nhớ tới những hình ảnh thân thuộc, bình dị ở làng quê Việt Nam "Ổ rơm hồng những trứng/ Này con gà mái mơ...". Cháu nhớ tới người bà tần tảo, chắt chiu từng quả trứng "Cho con gà mái ấp". Cháu còn nhớ những tháng ngày sống trong tình yêu thương của bà. Bà cần mẫn chăm sóc đàn gà nhỏ để cháu được mặc bộ quần áo mới "Khi gió mùa đông tới/ Bà lo đàn gà toi/ Mong trời đừng sương muối/ Để cuối năm bán gà". Cảm nhận được tình thương bao la, thắm thiết mà bà dành cho cháu, cháu vẫn luôn vững lòng chiến đấu nơi chiến trường khói lửa. Tình yêu cháu dành cho bà như hòa cùng tình yêu quê hương đất nước, là động lực để cháu tiến bước về phía trước "Vì lòng yêu Tổ quốc/ Vì xóm làng thân thuộc/ Bà ơi, cũng vì bà/ Vì tiếng gà cục tác". Bằng biện pháp điệp ngữ "tiếng gà trưa", so sánh "Lông óng như màu nắng" cùng thể thơ năm chữ ngắn gọn đã mang đến những kỉ niệm đẹp về tuổi thơ và tình bà cháu. Bài thơ mãi để lại đấu ấn trong lòng bạn đọc bởi những hình ảnh giản dị, thân thuộc cùng tình cảm bà cháu, tình yêu quê hương, đất nước thiêng liêng, cao cả.
Bài tham khảo 4
Tình cảm bà cháu là tình cảm đẹp đẽ, thiêng liêng và vô cùng sâu nặng. Tình cảm đó đã hằn sâu trong kí ức tuổi thơ của người chiến sĩ. Do vậy, trên đường hành quân xa, chỉ một tiếng gà cục tác đã gợi dậy những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ, đáng nhớ về bà. Đó là sự chắt chiu, tần tảo với bao nỗi lo, bao niềm mong ước của bà với tình thương bao la dành cho cháu. Những kỉ niệm đó thật bình dị mà thiêng liêng! Nó nhắc nhở, lay động bao tình cảm đẹp dâng lên trong lòng người chiến sĩ trên đường hành quân ra mặt trận chiến đấu. Tình cảm tốt đẹp đó sẽ mãi là hành trang theo bước chân của người chiến sĩ, tiếp thêm sức mạnh cho anh trong cuộc chiến đấu hôm nay.
2. Đoạn văn bộc lộ cảm xúc sau khi đọc bài thơ Ông đồ
Bài tham khảo 1
Bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên là một bài thơ ngũ ngôn bình dị mà cô đọng, đầy gợi cảm. Trong bài thơ, tôi ấn tượng nhất với hình ảnh: "Giấy đỏ buồn không thắm/ Mực đọng trong nghiên sầu". Khi đọc hai câu thơ này, người ta dễ dàng nhận thấy ở đây có sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa. Vì giấy, mực nghiên là những vật vô tri, vô giác giờ đây lại cũng biết buồn. Vậy là những vật dụng liên quan đến thư pháp, liên quan đến một vẻ đẹp truyền thống của ông cha đã trở thành một điều gì đó thiêng liêng, tinh túy, vì chúng có "hồn". Đấy có lẽ là một trong những nét nghĩa đầu tiên của hai câu thơ này. Vậy còn nét nghĩa thứ hai? Nếu để ý, ta sẽ thấy hai câu thơ chỉ thuần tả cảnh mà không tả người. Cảnh vật ở đây có hồn, như nhuốm màu tâm trạng. Không có một từ ngữ nào nói về con người và trạng thái tâm lí của họ, nhưng "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"! Chính là vì thế, vì người không vui nên cảnh mới buồn. Nói cách khác, bóc lớp nghĩa sử dụng biện pháp nhân hóa, ta sẽ thấy được nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Vậy là chỉ hai câu thơ tưởng như đơn giản, mà có tới hai tầng ý nghĩa. Điều đó đã cho thấy sự cô đọng, gợi cảm trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên.
Bài tham khảo 2
Sau khi em đọc bài thơ này đã hiện lên trong đầu em rất nhiều suy nghĩ. Ông Đồ là một người được coi như một bậc thầy thư pháp đáng để mọi người kính trọng. Nhưng giờ đây, vị thế ông Đồ ngày càng mất dần đi bởi con người đã lãng quên cái gọi là truyền thống tốt đẹp, không một ai ngó ngàng tới thoáng chốc thì chỉ có đôi ba người ghé thăm tiệm ông Đồ mua tranh chữ. Chúng ta thấy xót thương cho số phận ông Đồ nay đã bị rơi vào sự lãng quên của mọi người, cô đơn giữa dòng người mùa xuân nhộn nhịp. Giống như Nguyễn Du đã từng nói : “ Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”
Bài tham khảo 3:
“Ông đồ” của Vũ Đình Liên là tác phẩm đã để lại cho em ấn tượng sâu sắc, tác giả đã khắc họa hình ảnh ông đồ từ quá khứ đến hiện tại.
Trong quá khứ, mỗi năm Tết đến, ông đồ lại bày mực, tàu giấy đỏ bên phố đông người để viết câu đối. Ông viết câu đối mà như người biểu diễn thư pháp: “Hoa tay thảo những nét/ Như phượng múa rồng bay” khiến người xem tấm tắc khen ngợi, trân trọng.
Nhưng số người nhiệt thành với chữ Nho “mỗi năm mỗi vắng”, khách quen cũng tan tác “người thuê viết nay đâu?”, phong tục treo câu đối Tết cũng phạt phai. Ông đồ dần dần bị lãng quên, phương cách mưu sinh ngày càng khó. Bởi vậy nỗi buồn thấm tận cốt tuỷ, lan sang cả những vật vô tri:
“Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”
Và như một sự tất yếu khi người ta đua nhau “vứt bút lông đi viết bút chì”, xã hội nhá nhem với những Xuân tóc đỏ ( Số đỏ – Vũ Trọng Phụng) – Ông đồ đã hoàn toàn bị quên lãng. Ông ngồi đó ” như cái di tích tiều tuỵ đáng thương của một thời tàn”:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”
Ông đồ ngồi giữa mùa xuân mà ta tưởng như ở mùa đông ảm đạm, ông như chìm vào không gian để mặc gió mưa thời gian phủ nhoà. Hình ảnh” lá vàng rơi” tượng trưng cho sự lụi tàn. Chữ Nho đã mạt vận. Chỉ còn lại nỗi thương cảm ngậm ngùi.
Những giọt mưa bay hay những giọt nước mắt xót xa tiếc nuối? Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của tác giả đã đạt đến độ chín khiến người đọc cũng thấy lòng mình thấm đẫm nỗi sầu nhân thế cùng ông đồ già cô đơn lỡ vận.
Có lẽ, trước thực tại phũ phàng, lớp trẻ năng động đã quá vội vàng lên đường tìm kiếm, khơi phá những miền đất nghệ thuật đang rộ nở muôn nơi, bỏ lại riêng ông âm thầm tìm về chốn cũ. Có thể nói thơ Vũ Đình Liên đã quá cũ so với đương thời nhưng lại có sức hút mãnh liệt khiến ai đọc tới cũng phải nao lòng.
Bài tham khảo 4
Bài thơ "Ông đồ" của nhà thơ Vũ Đình Liên đã mang đến cho em những rung cảm sâu sắc. Với hai khổ thơ đầu, trong không khí hân hoan, vui tươi của Tết, ông Đồ xuất hiện với "mực tàu, giấy đỏ". Mỗi khi hoa đào nở, người đi chơi xuân lại thấy hình bóng ông đồ già viết câu đối. Họ thưởng thức và tấm tắc khen ngợi những nét chữ "như phượng bay, rồng múa" của ông. Tuy nhiên, thời Nho học ngày một suy tàn khiến người ta dần lãng quên hình bóng ông đồ già ngồi trên phố với "giấy đỏ", với "nghiên mực". Hình bóng của ông hiện lên thật cô đơn, buồn tủi trong tiết trời lạnh lẽo, ảm đạm "Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi bay". Đối lập khung cảnh tươi vui, náo nhiệt ở hai khổ thơ đầu, hai khổ thơ sau đã cho ta thấy những xót thương của tác giả trước cảnh ông đồ tài năng nhưng lại lẻ loi, đìu hiu "Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua đường không ai hay". Thời gian vẫn tiếp tục chảy trôi. Mùa xuân đến trong sắc hồng của hoa đào nhưng lại thiếu vắng hình bóng thân thuộc xưa kia. Câu hỏi tu từ cuối bài thơ như một lời đau xót trước số phận, cuộc đời của ông đồ, cho những giá trị Nho học đang dần mai một. Với ngôn ngữ trong sáng, nhịp điệu linh hoạt cùng các biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh đã mang đến cho người đọc những cảm xúc sâu lắng về một thế hệ tài hoa không được coi trọng do thời thế thay đổi. Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh ông đồ già trong thời kì hoàng kim và suy tàn của Nho học, từ đó bày tỏ mong muốn thế hệ sau hãy biết giữ gìn và phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.