Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa siêu hay

Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

VnDoc.com xin giới thiệu tới các bạn học sinh lớp 12 tài liệu: Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, qua bộ tài liệu này các em học sinh có thể tham khảo để học tốt môn Ngữ văn lớp 12 một cách dễ dàng. Mời các bạn và thầy cô tham khảo.

1. Dàn ý Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa

Dàn ý Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa - Bài mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu nhà văn Nguyễn Minh Châu và Chiếc thuyền ngoài xa.

2. Thân bài

a. Hai phát hiện của Phùng

• Phát hiện thứ nhất

Nguyên nhân: trưởng phòng yêu cầu Phùng chụp tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển, Phùng đã tới một vùng biển từng là chiến trường cũ mà anh từng tham gia chiến đấu để phục kích.

Phát hiện ra một vẻ đẹp trời cho trên mặt biển sớm mờ sương, một cảnh đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ bắt gặp được một lần: con thuyền kéo lưới đang tiến vào bờ, vài bóng người im phăng phắc. → Tất cả bức tranh đó từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thật đơn giản và toàn bích.

→ Bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim với cảm giác hạnh phúc tràn ngập tâm hồn. Dường như anh đã bắt gặp cái thiện, mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn của cuộc đời.

• Phát hiện thứ hai

Khi con thuyền tiến vào bờ, Phùng chứng kiến nghịch lí, đằng sau vẻ đẹp của con thuyền khi nãy là cảnh tượng gã thuyền chài lôi vợ mình lên bò đánh đập dã man, vừa đánh vừa hết lời mắng nhiếc, chửi rủa. → Chẳng phải là đạo đức, là chân lý của sự toàn thiện.

Nhưng chưa kịp thì ra can ngăn thì thằng Phác - con trai lão đàn ông đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương. Nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.

→ Phùng cay đắng nhận ra rằng, đằng sau cái vẻ đẹp toàn bích, toàn thiện kia là những điều hết sức ngang trái, xấu xa và những nghịch cảnh trớ trêu của cuộc đời.

b. Nhân vật người đàn bà làng chài

- Ngoại hình: Trạc ngoài bốn mươi, thân hình cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Khuôn mặt mệt mỏi sau những đêm thức trắng, tấm lưng bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng.

Sinh nhiều con, cuộc sống túng quẫn, lão chồng trở nên hung bạo đánh đập vợ để trút giận.

- Tính cách, phẩm chất:

Nhẫn nhục, chịu đựng: Thường xuyên bị chồng đánh bằng roi mây một cách tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng chị không hề khóc than, không van xin cũng không chống trả.

Khi đứng trước quan tòa, vị chánh án khuyên bà bỏ chồng, bà van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.

→ Bà cam chịu, nhẫn nhịn vì con, muốn con có một gia đình và nuôi chúng nó khôn lớn.

Giàu tình yêu thương:

Sự cam chịu, nhẫn nhịn của bà bắt nguồn từ tình yêu thương con vô bờ bến. Thương con, chị không muốn con chứng kiến cảnh bạo hành nên xin chồng đánh trên bờ, gửi thằng Phác lên rừng, chị cảm thấy có tội với nó khi vì thương chị mà nó hận bố nó.

Vị tha, bao dung:

Bị người chồng đánh đập mà bà vẫn không hề căm giận, oán trách hay muốn trả mối hận. Thậm chí bà còn biết ơn người đã cùng bà chèo chống con thuyền trách nhiệm để nuôi con.

Bà nhận mọi lỗi lầm về mình, bà nghĩ sự hung bạo của chồng cũng vì bà mà ra.

Thấu hiểu lẽ đời:

Bà ý thức được thiên chức của người phụ nữ và quy luật ngàn đời của tạo hóa: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”.

• Đánh giá chung

Người đàn bà là chân dung thành công của Nguyễn Minh Châu, để lại ấn tượng mạnh trong lòng mọi người.

Người đàn bà là biểu tượng nghệ thuật đầy ám ảnh mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải tư tưởng nhân đạo qua tác phẩm.

3. Kết bài

Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã góp phần không nhỏ làm nên sự đa dạng, phong phú cho nền văn học Việt Nam.

Dàn ý Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa - Bài mẫu 2

1. Đặt vấn đề

Nguyễn Minh Châu được đánh giá là một người mở đường tinh anh và đầy tài năng của nền văn học Việt Nam những năm sau đổi mới. Sáng tác của ông giai đoạn này chủ yếu thường hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết có thể nói không quá dòng tài năng của ông xứng đáng được xếp vào những hàng tài năng xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại bởi trình độ nghệ thuật cũng như chất lượng tư tưởng.

“ Chiếc thuyền ngoài xa” được viết năm 1983 đã thể hiện được những khám phá quan trọng của nhà văn từ cuộc sống nghệ thuật của thời kì mới. Thành công về nghệ thuật nổi bật của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm này có thể kể tới việc ông xây dựng tình huống truyện vô cùng độc đáo.

2. Thân Bài

* Khái niệm tình huống

- Là một sự kiện đặc biệt của đời sống được mô tả trong tác phẩm mà tại sự kiện đó nhà văn đã làm sống dậy một tình thế bất thường có tính chất éo le và gây bất ngờ giữa các nhân vật tại sự kiện đó, tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét, ý tưởng của nhà văn cũng hiện hình khác trọn vẹn. Các nhà văn lý luận vẫn đưa ra ba loại tình huống phổ biến.

Thứ nhất là tình huống nhận thức mọi tình tiết, chi tiết trong truyện chủ yếu hướng tới sự lý giải giác ngộ nhận nhận thức của nhân vật.

Thứ hai tình huống tâm lý: chủ yếu hướng tới việc khám phá diễn biến tư tưởng, tình cảm và tâm lý của nhân vật.

Thứ ba là tình huống hành động: chủ yếu hướng tới hoạt động và bước ngoặt của nhân vật.

Trong truyện ngắn “ chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một hệ thống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống, tình huống nhận thức.

3. Kết bài

Vừa là đồng hương vừa là bạn chiến đấu của nhiếp ảnh Phùng là chánh án Đẩu. Đẩu là người tốt bụng, đầy trách nhiệm, anh luôn đứng về người phụ nữ nạn nhân của sự bảo hành để bênh vực họ. Anh mời người vợ đến tòa án huyện để khuyên bà ta ly hôn với chồng. giải thoát cho người đàn bà khỏi người chồng vũ phu: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với gã đàn ông vũ phu ấy đâu! Chị nghĩ thế nào” Chánh án Đẩu muốn giúp người đàn bà, muốn dùng pháp lý và đạo lý để bảo vệ chị ta như anh quả là xa vời. Thực tế khi chưa hiểu rằng cuộc sống của người phụ nữ làng chài cần có một người đàn ông làm trụ cột.

Video Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa

2. Văn mẫu Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa

Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 1

Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) quê tỉnh Nghệ An. Bắt đầu viết văn từ năm 1960 Nguyễn Minh Châu đã có những đóng góp đáng kể cho văn học kháng chiến chống Mĩ. Sau 1975, đặc biệt từ 1980 của thế kỉ XX, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải là hai cây bút tiên phong trong phong trào đổi mới văn học. Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm xuất sắc của ông trong giai đoạn này.

Trước 1975, các sáng tác của giai đoạn này mang cảm hứng sử thi với giọng điệu ngợi ca trang trọng. Nhân vật trung tâm là những người anh hùng, những người lính. Ngôn ngữ trong trang viết của Nguyễn Minh Châu đậm chất trữ tình, lãng mạn.

Từ sau 1975, từ cảm hứng sử thi, Nguyễn Minh Châu chuyển dần sang cảm hứng triết luận về những giá trị nhân bản đời thường. Nhân vật trung tâm là những con người trong cuộc mưu sinh trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Ngôn ngữ trong trang viết của Nguyễn Minh Châu trở về với đời thường, giàu tính chính luận, triết luận

Nguyễn Minh Châu viết Chiếc thuyền ngoài xa năm 1983, in lần đầu trong tập Bến quê. Sau được in riêng thành tập Chiếc thuyền ngoài xa năm 1988. Tác phẩm tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống ở góc độ đời tư – thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác sau 1975.

Tác phẩm chia làm hai phần khá rõ rệt. Phần đầu là hai phát hiện mới mẻ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh đang tìm kiếm cái đẹp ở trên đời. Phân hai là câu chuyện của người đàn bà làng chài tại toà án huyện.

Câu chuyện xoay quanh những gì nhìn thấy và nhận thức của nghệ sĩ Phùng về sự thật ở đời qua cuộc sống của một gia đình làng chài. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau theo yêu cầu của trưởng phòng. Tại đây, anh đã tìm thấy và chụp được một bức ảnh về chiếc thuyền ẩn hiện ngoài xa như mình mong muốn đồng thời cũng chứng kiến cuộc sống vô cùng khốc liệt và khổ đau của gia đình sống trên chiếc thuyền ấy. Phùng nhận ra phía sau vẻ đẹp của nghệ thuật là nỗi đau khổ của con người và đằng sau nỗi đau khổ ấy, tình người vẫn mãi âm ỉ nồng ấm.

Hai phát hiện mới mẻ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh

Phát hiện thứ nhất: hình ảnh chiếc thuyền trên biển – “một cảnh đắt trời cho”

Sau bao ngày phục kích trên bờ biển ở nhiều thời điểm, cuối cùng Phùng cũng bắt được một cảnh tượng tuyệt đẹp. Một “bức hoạ” diệu kì mà thiên nhiên, cuộc sống đã ban tặng cho con người. Sở dĩ có thể đánh giá như vậy là vì nó là một “sản phẩm” quý hiếm của hoá công mà trong đời người nghệ sĩ không phải khi nào cũng chộp được.

Mặt khác, như cảm nhận của nghệ sĩ Phùng, cái cảnh tượng ấy giống như “một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”. Toàn bộ khung cảnh “Từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Đó khoảnh khắc hiếm có và hiếm gặp ở trên đời. Chỉ khoảnh khắc đó, đất trời mới hội tụ đủ những yếu tố để làm nên một bức ảnh nghệ thuật tuyệt vời. Thiếu một yếu tố nào là xem như hỏng cả bức tranh. Đời người nghệ sĩ, hiếm khi bắt được khoảnh khắc trời cho ấy.

Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác của hoá công, người nghệ sĩ trở nên thực sự “bối rối” và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Phải chăng, đó là hạnh phúc, là niềm xúc động mãnh liệt, có cả sự vội vã, niềm lo lắng nó sẽ biến mất và phải bắt chộp ngay. Tâm hồn người nghệ sĩ rung động thật sự và một cảm xúc thẩm mĩ cao thượng đang bùng nổ trong lòng anh.

Người nghệ sĩ còn “khám phá cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn mình”. Trong lúc đó, anh cho rằng: “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”

Nói cách khác, trong một khoảnh khắc tuyệt đẹp của cuộc sống, nghệ sĩ Phùng đã cảm nhận được cái Chân, cái Thiện của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi vô cùng. Điều này có nghĩa là cái đẹp đã có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Với tác dụng ấy, cái đẹp chẳng phải là “đạo đức” hay sao!

Văn chương thực sự có thể thanh lọc tâm hồn tốt hơn bất kì một sự thanh lọc nào khác. Nói như Thạch Lam: “Văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao mà đắc lực mà chúng ta vừa có để tố cáo, thay đổi thế giới giả dối, tàn ác vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.

Hay trong Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân cũng đã tâm niệm rằng nghệ thuật có thể cải hóa và làm sạch mọi tội lỗi của con người qua sự thức tỉnh của Viên quản ngục trước nét chữ của Huấn Cao. Nó có sức mạnh hoàn lương đối với những kẻ lầm lỗi và đưa họ về với đạo đức cao thượng.

Tuy nhiên, ngay khi tâm hồn đang bay bổng trong những cảm xúc thẩm mĩ, đang tận hưởng cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã kinh ngạc phát hiện ra một sự thật trần trụi sau vẻ đẹp ấy khi người phụ nữ từ trên thuyền bước ra.

Phát hiện thứ hai: hiện thực cuộc sống khắc nghiệp bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là:

Bước ra từ con thuyền là một người đàn bà xấu xí, khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt, thân hình cao lớn, tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới. Hình ảnh ấy khiến cho Phùng không khỏi ngạc nhiên. Cái đẹp của cảnh vật dường như bị tàn phá bởi cái trần trụi đến thô kệch của cuộc sống. Người đàn bà chính là hiện thân của sự nghèo khổ, vất vả và cam chịu đến cùng cực.

Tiếp đến là hình ảnh một gã đàn ông to lớn với tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền. Mái tóc của gã hình tổ quạ, rối bời bởi gió biển. Hai chân đi chữ bát, bước từng bước chắc chắn. Khuôn mặt dữ tợn với hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt độc dữ. Gã xuất hiện và phá tan cái dịu dàng, đầy mơ mộng mà mới đây thôi làm cho Phùng vô cùng xúc động. Cuộc sống nghèo đói, lam lũ đã hằn lên dáng vẻ khắc khổ của người đàn ông.

Sau đó là một cảnh tượng tàn nhẫn mà có lẽ Phùng cũng không muốn phải chứng kiến. Gã chồng đã lôi vợ lên bờ và đánh đập người vợ một cách thô bạo. Nhưng chị vẫn chịu đựng “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn”… Đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát,…

Chứng kiến cảnh tượng đó, nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ. “Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Người nghệ sĩ như “chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. “Chết lặng” là bởi vì cái đẹp vừa mới bị cướp mất đi trong tâm hồn anh. Anh cũng “chết lặng” bởi hành động khó hiểu của người dàn bà kia.

nghệ sĩ Phùng không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp kỳ diệu của tạo hoá kia lại có cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Vừa mới lúc trước, anh còn cảm thấy “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Anh vừa thấy “chân lý của sự toàn thiện”. Thế mà, chỉ ngay sau đó chẳng còn cái gì là “đạo đức”, là cái “toàn thiện” của cuộc đời nữa. Anh nhận ra, cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí, luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn: đẹp – xấu; thiện – ác,…

Giả sử có ai đó muốn can thiệp vào tác phẩm của nhà văn bằng cách đảo vị trí hai phát hiện này. Tức là để cho người nghệ sĩ Phùng chứng kiến bi kịch của gia đình làng chài hôm trước, rồi sáng hôm sau mới phát hiện vẻ đẹp của cảnh biển mờ sương thì nghệ sĩ Phùng liệu có còn nhận lấy được cái đẹp hay không. Tất nhiên là không thể. Nhà văn đã có dụng ý để khi cảnh tượng “trời cho” hiện ra trước như là vỏ bọc bên ngoài hòng che dấu cái bản chất thực của đời sống thực ở bên trong. Người nghệ sĩ phải nhìn thấy cái đẹp trước để ca tụng nó, tôn thờ nó. Sau đó mới nhận thấy bản chất thực của nó. Nhà văn khẳng định: đừng nhầm lẫn giữa hiện tượng với bản chất, giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong. Không phải bao giờ chúng cũng thống nhất. Đừng vội đánh giá con người, sự vật ở dáng vẻ bên ngoài mà phải đi sau và phát hiện ra bản chất thực sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng.

Câu chuyện cảm động của người đàn bà ở toà án huyện

Người đàn bà đến toà án theo lời mời của chánh án Đẩu - người có ý định khuyên bảo. Thậm chí đề nghị người đàn bà nghèo khổ ấy từ bỏ lão chồng vũ phu. Đó là chị làm theo lời đề nghị của chánh án Đẩu, người bảo vệ công lí, chứ thực tình chị cũng không hề muốn đến. Chị đến để hi vọng rằng mọi người sẽ không làm phiền đến chị nữa.

Mọi người muốn chị bỏ người chồng tàn ác kia. Nhưng đó là điều chị không hề muốn. Chị đau đớn đánh đổi bằng mọi giá để không phải bỏ lão chồng vũ phu: “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Chị đã kể về câu chuyện của cuộc đời mình trong nước mắt. Chị bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Thế nhưng, chị cam tâm chấp nhận điều đó trong cuộc sống của mình. Chị từ chối cả lời đề nghị và sự giúp đỡ của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng một cách khẩn thiết.

Chị giải thích bằng: “Các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”. Rồi chị đưa ra các lí do để minh chứng cho quyết định của mình. Lúc này, người đàn bà đã mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Điệu bộ và ngôn ngữ cũng khác hẳn lúc mới bước vào. Chị thể hiện một sự sắc sảo đến nỗi chánh án Đẩu và nghệ sĩ cũng phải kinh ngạc.

Thứ nhất: gã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời của những người đàn bà hàng chài như chị. Nhất là những khi biển động, phong ba, không có người đàn ông, phận đàn bà như chị chẳng biết làm thế nào.

Thứ hai: Chị cần hắn vì còn phải nuôi những đứa con nhỏ. Chị đâu có thể chỉ sống cho riêng mình. Chị còn phải sống vì chúng nữa.

Thứ ba: Trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng sống hoà thuận, vui vẻ. Sự giận dữ và tàn bạo của gã chồng chỉ là để giải quyết những ức chế bực bội bởi cảnh sống nghèo khó, túng thiếu mà thôi.

Nghe tới đây, chánh án Đẩu – “vị bao công của cái phố huyện vùng biển” có “một cái gì mới vừa vỡ ra”. Lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ.

Sự thật, người đàn ông ấy vốn là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”. Trước đây, anh không bao giờ đánh đập vợ. Chỉ vì “nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”, vì quá nhiều con mà anh ta trở nên độc dữ. Trong con mắt của người đàn bà, người chồng vũ phu kia chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Một phần nguyên nhan gây ra điều đó là có lỗi của chị như chị đã giãi bày: bởi sinh nhiều con quá. Đó là thái độ thẩu hiểu, cảm thông, chia sẻ đáng trân trọng của người đàn bà mà những người đứng bên ngoài như chánh án Đẩu hay nghệ sĩ Phùng sẽ không thể thấu hiểu được.

Nhận thức mới của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng qua câu chuyện cuộc đờ của người đàn bà:

Cuộc đời của người đàn bà ấy không hề giản đơn. Trong hoàn cảnh này, cách hành xử của chị ta dường như là không thể khác. Có lẽ giải pháp “bỏ chồng” mà Đẩu đang áp dụng cho trường hợp người đàn bà này là không ổn.

Cũng giống như Đẩu, nghệ sĩ Phùng đã lặng im sau câu chuyện của người đàn bà. Có lẽ người nghệ sĩ cũng đang trầm ngâm, suy nghĩ sau những gì vừa diễn ra. Câu chuyện đó đã giúp Phùng hiểu rõ hơn vè các nhân vật.

Phùng hiểu ra, người đàn bà không hề cam chịu một cách vô lí. Chị không hề nông nổi một cách ngờ nghệch như Phùng đã nghĩ lúc đầu. Thực ra, chị ta là người rất sâu sắc, thẩu hiểu lẽ đời. Người phụ nữ này có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ nhưng biết chắt chiu hạnh phúc đời thường. Chị sống cam chịu, kín đáo luôn sẵn lòng hi sinh. Một người phụ nữ xấu xí, thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ. Ở chị thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh và lòng vị tha

Phùng cũng nhận ra ở người bạn của mình – chánh án Đẩu. Chánh án Đẩu là người có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng anh chưa thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân. Lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng cần phải đi vào đời sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ thể, không thể áp dụng chung cho mọi đối tượng

Phùng cũng đã thức tỉnh khi nhìn nhận cuộc đời và con người. Cuộc đời không đơn giản như Phùng thường trông thấy. Cuộc đời không phải lúc nào cũng đẹp trong như nghệ thuật. Và trước biển hiện thô kệch của cuộc đời, đừng vội thất vọng hay miệt thị nó.

Từ đó, tác phẩm muốn gửi đến người đọc một thông điệp sâu sắc. Đừng nhìn nhận cuộc đời và con người dễ dãi, xuôi chiều. Cần phải nhìn mọi sự việc, hiện tượng trong hoàn cảnh cụ thể của nó và trong quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa. Không thể nhìn đời một cách đơn giản mà cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều.

Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy:

Mỗi khi nhìn thấy bức ảnh, tác giả đều thấy: “hiện lên cái màu hồng của ánh sương mai”. Nhìn lâu hơn bao giờ cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh…”. Cái màu hồng của ánh sương mai là chất thơ của cuộc sống, là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu tượng của nghệ thuật. Còn hình ảnh “người đàn bà ấy bước ra khỏi bức tranh” là hiện thân của những lam lũ, khốn khó của đời thường. Nó là sự thật cuộc đời đằng sau bức tranh. Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời. Nghệ thuật là chính cuộc đời và phải luôn luôn vì cuộc đời

Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa:

Chiếc thuyền ngoài xa là biểu tượng của bức tranh thiên nhiên về biển và cũng là biểu tượng về cuộc sống sinh hoạt của người dân hàng chài. Nó còn là một hình ảnh gợi cảm, có sức ám ảnh về sự bấp bênh, dập dềnh của những thân phận, những cuộc đời trôi nổi trên sông nước

Chiếc thuyền ngoài xa là biểu tượng cho mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Cái hồn của bức tranh nghệ thuật ấy chính là vẻ đẹp rất đỗi bình dị của những con người lam lũ, vất vả trong cuộc sống thường nhật.

Chiếc thuyền ngoài xa trước hết là biểu tượng của nghệ thuật, đó là thứ nghệ thuật đạt tới sự toàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc.

Đặc sắc nghệ thuật

Độc đáo trong cách xây dựng cốt truyện: tức là tạo được tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá và phát hiện về đời sống.

Hình thức kể chuyện: Nhà văn đã nhập vai vào nhân vật Phùng để kể. Nhờ vậy mà câu chuyện trở nên gần gũi, khách quan, chân thực hơn và cũng có sức thuyết phục hơn, có thể nhìn cuộc đời và con người ở các góc độ khác nhau, cự li khác nhau.

Ngôn ngữ giản dị đằm thắm mà đầy dư vị. Giọng điệu chiêm nghiệm, suy tư phù hợp với nhận thức.

Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu thể hiện sâu sắc những đổi mới cơ bản của văn học Việt Nam sau 1975. Văn học đã trở về với những vấn đề của đời sống nhân sinh, quan tâm nhiều hơn đến các đề tài đạo đức – thế sự (như câu chuyện của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn này). Khác với giai đoạn trước- chủ yếu khắc hoạ con người, ở giai đoạn này, văn học đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm phức tạp và đầy mâu thuẫn của con người trong cuộc sống thường nhật (đời sống tâm hồn của người đàn bà vùng biển).

Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 2

Nguyễn Minh Châu (1930-1989), là một cây bút sử thi lãng mạn, trước năm 1975 các tác phẩm của ông chủ yếu viết nhiều về đề tài người lính. Tuy nhiên sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức và triết lí chân thực. Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy, với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời.

Nguyễn Minh Châu đã miêu tả bức tranh thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng, đẹp mê lòng người. Bức tranh ấy quyến rũ kì lạ đối với những người biết yêu và thưởng thức cái đẹp như Phùng. Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù.

Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án huyện, Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Đã mấy buổi sáng mà anh vẫn chưa chụp được một bức ảnh nào. Sau một tuần lễ, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa: “một chiếc thuyền lưới vó, như là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”.

Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe, bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích” đã khiến Phùng bối rối và trong trái tim Phùng “như có gì bóp thắt vào”, trong cái giây phút bối rối ấy Phùng “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái không khí trong ngần của tâm hồn”.

Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đã mang lại khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn Phùng, anh đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào trong ống kính của mình. Tuy nhiên hiện thực lại không hề tươi đẹp đến như vậy.

Tác giả mô tả bức tranh tuyệt vời kia đồng thời với cuộc sống của một gia đình làng chài, một gia đình nhiều đau thương. Ở đó, tác giả tập trung thể hiện nhân vật người đàn bà hàng chài mang số phận bất hạnh, hằng ngày chịu bi kịch của bạo lực gia đình. Một người đàn bà vô danh, xấu xí nhưng bao dung, vị tha và hiểu lẽ đời sâu sắc. Một người đàn bà điển hình cho vẻ đẹp khuất lấp của phụ nữ miền biển nói riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung.

Người đàn bà ấy ngoài 40, cái tên cũng không có, khi tác giả gọi là “mụ”, khi gọi là “chị ta”. Người đàn bà ấy có một ông chồng chỉ biết say xỉn, chửi bới và đánh đập. Nhưng bằng tình thương yêu con cái, chị vẫn cố gắng bám lấy biển, giữ lấy nhà, đùm bọc con cái.

Chị nhẫn nhịn chịu đánh, “3 ngày trận nhẹ, 5 ngày trận nặng” bởi chị hiểu rằng con thuyền giữa biển khơi cần một người đàn ông chèo chống. Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.

Tác giả còn xây dựng chân dung nhân vật Phùng. Phùng là người nghệ sĩ tài năng, say mê cái đẹp và trách nhiệm với nghề. Phùng có tấm lòng nhân hậu, thương người khi chứng kiến và sẵn sàng giúp đỡ người đàn bà xa lạ chịu bất công. Tuy không chấp nhận cái xấu nhưng Phùng lại chưa đủ sâu sắc lẽ đời. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh.

Làm thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy (chồng người đàn bà hàng chài). Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng chài, những đứa trẻ như chị Phác, cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào? Những người nghệ sĩ như Phùng, những nhà quản lí xã hội như Đẩu sẽ làm gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đời như vậy? Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.

Chiếc thuyền ngoài xa, với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện (nhân vật Phùng) đã để lại ấn tượng sâu đậm. Tác phẩm đã đem đến cho người đọc những chiêm nghiệm thú vị về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật.

Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 3

Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới với lối viết lãng mạn những vẫn chân thực và giàu cảm xúc. Khi chiêm nghiệm về cuộc đời và nghệ thuật, ông đã viết lên truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa với hai bức tranh đối lập nhau giữa cái đẹp toàn bích của nghệ thuật và sự thật đau đớn phũ phàng của đời thực.

Câu chuyện kể lại chuyến đi thực tế của người nghệ sĩ nhiếp ảnh, nếu như những phát hiện mới mẻ của anh về vẻ đẹp nghệ thuật của thiên nhiên khiến người ta rung động, thì sự phát hiện về sự thật trần trụi và đắng cay của con người đằng sau vẻ đẹp ấy lại bóp nghẹt bao trái tim người đọc.

Tác giả đã viết lại câu chuyện của Phùng khi đi thực tế để săn tìm một bức ảnh đẹp nhất về chủ đề biển trong sương sớm theo yêu cầu của trưởng phòng. Anh đã quay trở lại vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh tham gia kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Nhân dịp này, anh thăm lại người bạn Đẩu nay đang làm chánh án tòa huyện. Sau nhiều buổi phục kích, cuối cùng Phùng cũng bắt gặp được một cảnh đẹp thiên nhiên trời cho khiến tâm hồn anh xao xuyến đến lạ lùng. Một chiếc thuyền ngoài xa mờ mờ ảo ảo trong sương sớm.

Nhưng khi chiếc thuyền lại gần, bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp ấy không còn nữa, hiện ra trước mắt anh là sự thật nghiệt ngã về cuộc đời éo le, đầy tủi nhục của người đàn bà hàng chài. Sau những lần chứng kiến cảnh người chồng bạo lực vũ phu đánh vợ, Phùng đã xông vào can ngăn. Người đàn bà được đưa tới tòa án huyện.

Trước những lời khuyên nhủ, giảng giải của Phùng và Đẩu về cuộc ly hôn, người đàn bà không những không đồng ý mà còn van xin họ đừng làm vậy. Câu chuyện của bà khiến cả hai người chiến sĩ cách mạng suy ngẫm lại về cuộc đời và nghệ thuật.

Nghệ thuật ở đây là một bức tranh thiên nhiên thật đẹp và sống động về chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm. Phùng gọi đó là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầy sương mù như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vẻ đẹp ấy khiến người nghệ sĩ rung động và xuyến xao. Một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến Phùng bối rối như tâm trạng khi đứng trước một người con gái đẹp.

Phùng tự hỏi lòng mình Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Cảnh đẹp ấy đang xuyên thấu tâm hồn người nghệ sĩ, bóp thắt trái tim anh, làm nên cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Có lẽ Phùng đang dành hết tất cả xúc cảm của mình để hòa vào thiên nhiên. Anh muốn được thưởng thức nó một cách trọn vẹn.

Cảnh đẹp ấy không phải ai cũng có thể cảm nhận được. Phải là người tinh tế, nhạy cảm mới trải nghiệm được hết món quà thiêng liêng mà thiên nhiên ban tặng. Phùng chụp vội những tấm ảnh để mang về chọn lọc cho trưởng phòng.

Thế nhưng, đằng sau bức tranh ấy lại là sự thật cay đắng về cuộc đời bất hạnh của người đàn bà làng chài. Chưa kịp tận hưởng hết những nét đẹp huyền diệu của thiên nhiên thì sự phũ phàng của cuộc đời đã phơi bày ngay trước mắt người nghệ sĩ.

Tiếng quát mắng thô lỗ, cục cằn của người đàn ông trên thuyền làm Phùng bừng tỉnh. Hắn trút hết cơn giận bằng cách dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào vợ mình. Nhưng điều đáng chú ý ở đây là người đàn bà dù bị đánh đau đến vậy vẫn không hề chống cự, cũng không có dấu hiệu trốn chạy. Điều đó càng làm Phùng thấy tò mò và khó hiểu.

Anh ngỡ ngàng và chua xót trước sự thật éo le, trớ trêu ngay trên chiếc thuyền vừa đi vào bức ảnh nghệ thuật của anh. Người xem có thể cũng sẽ cảm nhận được một bức tranh toàn bích giống như anh vừa thấy, nhưng chỉ một mình anh chứng kiến được sự thật phũ phàng đằng sau vẻ đẹp toàn thiện của bức tranh. Phải chăng cuộc đời luôn ẩn chứa nhiều trái ngang mà người ta khó lòng phát hiện được ra nếu không tìm hiểu kỹ càng, chi tiết?

Sau nhiều lần chứng kiến cảnh bạo lực của người đàn ông vũ phu, Phùng đã quyết định xông vào can ngăn và đánh nhau với hắn, Phùng bị thương được đưa về tòa án huyện để băng bó. Tại đây, câu chuyện của người đàn bà làng chài khiến cả Phùng và Đẩu một lần nữa rung động và xót xa. Dù bị chồng đánh, nhưng bà không hề có ý định bỏ chạy hay ly hôn. Thậm chí khi Đẩu đề nghị bà ly hôn với lý do Bà không thể ở cùng người chồng vũ phu như vậy đâu, bà đã một mực chối từ và van xin các anh đừng làm vậy.

Cuộc sống là vậy, có nhiều uẩn khúc bên trong những gì ta nhìn thấy. Đằng sau bức tranh thiên nhiên toàn bích đầy nghệ thuật của chiếc thuyền ngoài xa lại là cảnh bạo lực gia đình tàn bạo trong nước mắt khổ đau. Nhưng đằng sau giọt nước mắt ấy lại là sự nhẫn nhục, là đức hi sinh của người vợ dành cho con cái. Bà chấp nhận những trận đòn roi vì tình yêu thương vô bờ cho đàn con. Cuộc sống trên thuyền không có người đàn ông sẽ chẳng thể nào vượt qua được những lúc bão bùng mưa gió.

Có thể Phùng và Đẩu sẽ thở dài sau câu chuyện của người đàn bà nhẫn nhục, nhưng trong thâm tâm họ lại dành sự xót thương, đồng cảm với những số phận cơ cực giống như bà. Lúc này, nghệ thuật và cuộc đời không đơn thuần chỉ là một bức tranh toàn bích, mà còn là sự cảm thông, thấu hiểu của những con người đang thưởng thức nghệ thuật.

Qua những tình huống trên, tác phẩm đã mang lại bài học về cách nhìn nhận cuộc đời qua cái nhìn toàn diện. Mặt khác, đó cũng là những khó khăn của nhân dân trong thời kỳ đầu đổi mới đất nước. Chiến tranh kết thúc, bao nhiêu máu xương của người anh hùng đã đổ xuống, nhưng đằng sự ăn mừng chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc, đời sống nhân dân vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Những hủ tục, những tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, nghèo đói… vẫn đeo bám họ từng ngày.

Bằng lối viết chân thực, giàu cảm xúc, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã thể hiện niềm xót thương và lòng đồng cảm với số phận những người nông dân bất hạnh. Nhất là người phụ nữ, họ luôn sống cam chịu, nhẫn nhục và giàu đức hi sinh. Nếu như chiếc thuyền ngoài xa không tiến lại gần, có lẽ, Phùng sẽ không phát hiện ra sự thật đằng sau cảnh đẹp tuyệt trần mình vừa chụp được.

Sau này, mỗi khi nhìn lại bức ảnh, bóng dáng người đàn bà lam lũ vất vả lại thấp thoáng hiện ra giữa cảnh đẹp thiên nhiên mờ mờ ảo ảo. Tất cả đã làm nên một tuyệt tác thống nhất giữa cuộc đời và nghệ thuật. Đồng thời, cách khắc họa nhân vật, xây dựng cốt truyện tài tình của Nguyễn Minh Châu qua việc sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo đã góp phần làm nổi bật chủ đề – tư tưởng của tác phẩm.

Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 4

Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu được đánh giá mang tính chất tự sự và triết lí. Mỗi tác phẩm ông viết lên luôn nhằm khám phá, phát hiện ra muôn vàn vẻ đẹp của cuộc sống. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm xuất sắc của họ, được viết năm 1983, khắc họa cái lãng mạn của nghệ thuật và sự trần trụi của hiện thực đời thường.

Nhận được yêu cầu của thủ trường, Phùng đã mang máy ảnh về vùng chiến trường cũ, chụp một bức tranh kiệt tác để hoàn thành bộ lịch năm nay. Và trong lần ấy người nghệ sĩ đã chiêm nghiệm được biết bao chuyện, biết bao điều trong cuộc sống đầy những lo toan, vất vả này.

Sau những ngày chật vật, quả thực hôm đó người nghệ sĩ Phùng đã gặp vận may hiếm có, cảnh đẹp trời cho hiện ngay trước mặt Phùng. Anh không chần chừ, vội vàng lôi máy ra tác nghiệp, khung cảnh trước mắt hiện ra vô cùng diệu kì: “thuyền in một nét mơ hồn lòe nhòe vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào.

Đằng sau bức tranh toàn bích kia lại là một hiện thức làm người ta nhói lòng. Trong cảnh thanh tĩnh là tiếng gầm ghè, đầy phẫn nộ “cứ ngồi nguyên đây, động đậy tao giết cả mày đi bây giờ” rồi hình ảnh người đàn bà dần dần lộ diện, to lớn, thô kệch đi sau người đàn ông hung ác, độc dữ. Những gì xảy ra sau đó làm cho Phùng quá đỗi bất ngờ và choáng váng.

Người đàn ông rút chiếc thắt lưng, vừa quất tới tấp vào người đàn bà. Nhưng kì lạ thay người phụ nữ đó không hề kêu than lấy một tiếng, Điều đó làm Phùng “há mồm mà nhìn” vô cùng “kinh ngạc”. Sau nỗi kinh ngạc, Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống vội vàng can ngăn. Thì chính lúc này, một cái bóng nhỏ con lao vụt đến, nhắm thẳng vào người đàn ông.

Người mẹ tội nghiệp, gọi tên đứa con “ôm chầm lấy thằng bé, rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy…”, khiến người đọc không khỏi xót thương, xúc động. Tất cả những hình ảnh đó làm Phùng bàng hoàng, đau đớn. Rất nhanh gia đình nọ rời đi, khung cảnh trở về cảnh thanh tĩnh như nó vốn có.

Với Phùng đây có lẽ là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: “chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì trần trụi, ở ngay trước mắt”. Phùng đau đớn vì trước nay cái nhìn của mình quá giản đơn, xuôi chiều, mà hiện thực cuộc sống lại vô cùng đa đoan, phức tạp.

Quả thực qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài ta lại càng thấy rõ hơn không chỉ thể đánh giá một con người, một sự việc qua vẻ bề ngoài của nó. Sự việc, con người vốn nông sâu khôn lường, nếu không truy nguyên, không lắng lòng để nghe thì cả đời này chúng ta chỉ là những kẻ hời hợt, đi đánh giá mọi chuyện bằng con mắt thờ ơ.

Tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm này phải kể đến nghệ thuật tạo dựng tình huống bất ngờ, hấp dẫn. Nhà nhiếp ảnh phát hiện khoảnh khắc trời cho, nhưng đằng sau đó lại là cảnh bạo lực tàn nhẫn. Cho người đàn bà đến để nói chuyện, để phân tích lí giải nhưng nào ngờ chính Phùng và Đẩu lại được người phụ nữ tưởng như thô kệch ấy làm cho “sáng mắt”. Giúp họ hiểu hơn những quanh co, uẩn khúc trong cuộc đời, từ đó có những nhận xét đánh giá đứng đắn trước bất cứ sự việc, hiện tượng nào.

Với tình huống truyện đặc sắc, chân thực Chiếc thuyền ngoài xa mang giá trị nhân đạo và nhân bản sâu sắc. Cuộc đời này gồm cả rồng phượng, gồm cả đúng sai, tốt xấu. Bởi vậy khi đánh giá bất cứ điều gì cũng không nên hời hợt. Cuộc sống này vô cùng phức tạp, để hiểu nó cần phải soi ngắm từ nhiều phía, nhiều góc cạnh. Bài học cho Phùng và Đầu cũng chính là những gì Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm đến các thế hệ bạn đọc.

Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 5

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiên phong trong thời kì đổi mới với nhiều truyện ngắn xuất sắc như Bến quê, Mảnh trăng cuối rừng, Chiếc thuyền ngoài xa, … Các tác phẩm của ông luôn chứa đựng những triết lý, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời. Và truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa cũng là một trong những tác phẩm mang đậm phong cách tự sự - triết lý của ông.

Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 kể về một người nghệ sĩ nhiếp ảnh tên Phùng. Để hoàn thành nhiệm vụ chụp một bộ ảnh về cảnh biển, anh đã thực hiện chuyến đi thực tế ở một vùng biển – nơi từng là chiến trường cũ của mình để kiếm tìm một bức ảnh cho bộ lịch mới. Và tại đây, anh đã có được hai phát hiện to lớn, một là một bức ảnh “đắt giá trời cho” khiến anh phải say mê, ngây ngất vì đẹp, hai là phát hiện về một sự thật trần trụi ngay đằng sau vẻ đẹp hoàn mỹ anh vừa tìm ra.

Sau vài ngày “phục kích” mà vẫn chưa ưng ý, cuối cùng Phùng cũng “bắt gặp” một khung cảnh “trời cho”, đó là bức ảnh với những nét đẹp “đắt giá” nhất: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Khung cảnh ấy đẹp quá đỗi và với Phùng, đó là một “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” vừa đẹp đẽ vừa quý giá vô cùng. Vẻ đẹp của bức tranh “đơn giản và toàn bích”, một vẻ đẹp hoàn hảo, một khung cảnh diệu kì.

Phùng cho rằng “có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy”. Trước khung cảnh ấy, anh cảm thấy sự bồi hồi và có chút bối rối bởi cái đẹp kia toàn mỹ quá, huyền diệu quá, cái đẹp ấy dường như chỉ có trong những bức hoạ xa xưa, nó khiến Phùng cảm thấy “trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Và chính trong lúc ấy, Phùng cảm thấy dường như “chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”, và anh cho rằng phải chăng “cái đẹp chính là đạo đức”. Bởi cái đẹp không chỉ mang đến những rung động mà còn thanh lọc tâm hồn, mang đến “hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình”.

Phải nói rằng, Phùng là người nghệ sĩ có đam mê, trách nhiệm với nghề, bởi để có được bức ảnh ưng ý nhất, anh sẵn sàng “phục kích” hàng tuần trên biển, dù chụp được rất nhiều ảnh về cảnh biển nhưng anh đều không lòng mà tiếp tục tác nghiệp. Hơn thế, anh cũng rất nhạy cảm với cái đẹp để có thể phát hiện ra một bức tranh hoàn mỹ để mà thu lấy, mà cái đẹp ấy chỉ diễn ra trong tích tắc.

Thế nhưng, ít ai để ý rằng, nơi Phùng gác chiếc máy ảnh của mình để thu trọn cái cảnh đẹp kia chẳng phải là một nơi có thể bao quát toàn cảnh mà lại chỉ là bên một “bánh xích của chiếc xe tăng” – tàn tích của chiến tranh để lại. Có lẽ chính vì thế mà trong lần đầu tiên nhìn thấy cảnh đẹp ấy, Phùng mới chỉ có thể nhìn thấy vẻ ngoài của khung cảnh mà không phải là toàn bộ bức ảnh. Và những phát hiện phía sau bức ảnh “toàn bích” kia đã khiến anh phải hụt hẫng vô cùng. Đó là khi Phùng phải chứng kiến một cảnh đời vừa tàn nhẫn, vừa ngang trái và bi kịch, từ một trong những con thuyền bước ra một người đàn ông thô lỗ và một người đàn bà tội nghiệp. Lão đàn ông “hùng hổ, mặt đỏ gay”, rút chiếc thắt lưng “quật tới tấp vào lưng người đàn bà” lão vừa đánh nói những lời nguyền rủa độc ác “chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Và thật kì lạ làm sao, người đàn bà ấy chẳng chút phản kháng, cũng chẳng kêu một tiếng mà “cam chịu đầy nhẫn nhục” hứng chịu từng trận đòn roi.

Chứng kiến cảnh đó, Phùng “kinh ngạc đến mức” chỉ biết “đứng há mồm ra mà nhìn”. Bởi anh không thể hiểu được điều đang diễn ra trước mắt mình. Anh từng là người lính ở chiến trường khói lửa, những sự dã man, tàn bạo nhất cũng đã từng chứng kiến, thế nhưng cảnh tượng vô lí trước mặt vẫn khiến anh khó lòng mà chấp nhận. Càng kinh ngạc hơn khi hình ảnh của một đứa bé con lao vút qua người anh, “giằng lấy chiếc thắt lưng” và “ưỡn thẳng người vung chiếc khoá sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của người đàn ông. Đứa bé đó là Phác, đứa con trai của hai vợ chồng người đàn bà nọ. Và đáp lại hành động của thằng bé là hai cái tát “nảy lửa” từ người đàn ông khiến nó “ngã dúi xuống cát”. Khi ấy, người đàn bà hàng chài mới bật khóc, ôm lấy đứa con và rồi lại vội vã “đuổi theo lão đàn ông” và trở lại con thuyền.

Tất cả những sự việc diễn ra trước mắt khiến Phùng “ngơ ngác”, sự việc quái đản diễn ra bất ngờ khiến anh chẳng thể nào hiểu nổi. Chiếc thuyền vó đã biến mất “như trong câu chuyện cổ quái đản”, nhưng lại để lại trong Phùng nhiều điều băn khoăn, nhiều điều bối rối. Cái hình ảnh trần trụi mà anh vừa chứng kiến dường như đã thay đổi cảm quan bên trong con người anh. Anh phát hiện ra rằng: ranh giới giữa cái đẹp và cái xấu, cái hoàn mỹ đạo đức và dã man chỉ cách nhau một tấm màn mỏng. Một bức tranh tuyệt mỹ nhưng ẩn chứa trong nó là bao nhiêu cái dã man, tàn nhẫn và xấu xa vô cùng. Nó cũng là những điều mà nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm, ông cho rằng nghệ thuật tuy hướng về cái đẹp thế nhưng cũng phải gắn liền với hiện thực và không thể lừa đối. Không thể lấy cái đẹp mà che giấu đi những điều xấu xí, tàn ác bên trong được. Và người nghệ sĩ chân chính, phải là người có cái nhìn đa nhiệm, đa chiều, nhìn thấu cả cái đẹp bên ngoài và cả nội dung phía trong nữa.

Sau khi chứng kiến cảnh bạo lực gia đình dã man, vô lí, để giúp đỡ người đàn bà, Phùng đã ở lại bãi biển vài ngày để cùng Đẩu giúp người đàn bà thoát khỏi cuộc hôn nhân “địa ngục”. Thế nhưng người đàn bà ấy đến tòa án huyện bằng khuôn mặt “sợ sệt, lúng túng”, dù rằng đây là lần thứ hai bà ta đến đây để giải quyết công chuyện gia đình. Người đàn bà ấy “rón rén đến ngồi vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”.

Phải sống trong địa ngục trần gian với những trận đòn roi liên tục “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, thế nhưng chị ta lại cam chịu những tổn thương về cả thể xác và tinh thần chứ không chịu bỏ chồng, thậm chí chị ta còn quỳ lạy để cầu xin Đẩu và Phùng để không bắt mình bỏ chồng “Quý tòa bắt tội con cũng được , phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Trước thái độ cam chịu và hành động không sao hiểu nổi của người đàn bà, Phùng và Đẩu cảm thấy bất bình, khó hiểu thế nhưng lắng nghe câu chuyện của chị ta, hai người bỗng hiểu ra tất cả.

Khi kể về câu chuyện cuộc đời mình, người đàn bà ấy đổi cách xưng hô từ “con - quý tòa” sang “chị - các chú”. Chị ta chấp nhận sống cùng người chồng vũ phu, cam chịu những trận đòn roi vô lí bởi chị ta biết ơn và cũng hiểu được tâm tính của người chồng. Trước kia người đàn ông ấy cũng đã từng là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, ông ta cũng là người duy nhất chấp nhận cưu mang người phụ nữ xấu xí, lỡ thì là chị ta. Bởi vậy với người chồng bạo tàn hiện tại, người đàn bà không chỉ có sự thấu hiểu, tình nghĩa mà còn là sự biết ơn sâu sắc.

Những lời kể chân thật của người đàn bà đã khiến hai người đàn ông sững sờ. Họ chợt hiểu ra tấm lòng của một người phụ nữ, nó bao dung và đầy hy sinh đến nhường nào! Người đàn bà ấy thấu hiểu bản chất và sự thay đổi của người chồng, cũng chỉ vì khổ quá mà chị lại đẻ nhiều con nên người chồng mới trở nên cục cằn, bạo lực. Chị cũng hiểu về cuộc sống trên biển, một con thuyền lênh đênh trên biển không thể thiếu bàn tay chèo lái của người đàn ông, nhất là khi biển động, bão bùng. Và sự cam chịu của chị ta càng trở nên ý nghĩa hơn khi giúp cho những đứa con của mình có một gia đình hoàn chỉnh, có đủ bố mẹ.

Câu chuyện của người đàn bà giúp Phùng và Đẩu hiểu rõ rằng cái căn nguyên của bạo lực gia đình là cái nghèo, là cái đói. Phùng ngỡ ngàng nhận ra bản chất xù xì của hiện thực, đó có thể là những nghịch lí, những sự thật xấu xí vẫn tồn tại trong cuộc sống mà nếu chỉ nhìn bề ngoài, quan sát bằng đôi mắt hời hợt, khách quan thì không thể nhận ra. Hiện thực ấy cũng giúp Phùng chiêm nghiệm: nghệ thuật không thể chỉ có lãng mạn và thi vị hoá, nó đôi khi còn lại sự thật, là ngang trái.

Sau khi trở về toà soạn và bức ảnh kia được chọn thì trong lòng Phùng lại luôn canh cánh những điều mà ít ai có thể thấu hiểu. Bức ảnh ấy đã diễn tả một cảnh đẹp tinh khôi và trở thành bức ảnh nghệ thuật “được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Thế nhưng, chỉ riêng Phùng có thể nhìn thấy bước ra từ sâu bức tranh ấy bước ra “một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch”.Ở đây, Nguyễn Minh Châu đã cố ý lồng vào đó những hình ảnh mang tính biểu tượng. Một là “màu hồng hồng của ánh sương mai”, đó là biểu tượng cho cái đẹp, cái thơ mộng, cho vẻ đẹp toàn mỹ mà con người ta luôn tìm kiếm. Hai là hình ảnh người đàn bà vùng biển với dáng vẻ mệt mỏi, tiều tụy, đó là hiện thực, đó là cái nhìn có chiều sâu vào sự vật, hiện tượng, để thấy được những nội dung phía sâu bên trong cái đẹp và có đôi khi, cái chiều sâu ấy trái ngược hoàn toàn với vẻ đẹp bên ngoài.

Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm là nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực, không được tách rời với hiện thực và người nghệ sĩ phải là người có cái nhìn đa chiều để phát hiện ra bản chất bên trong về đẹp bề ngoài rực rỡ, hào nhoáng.

Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 6

Nguyễn Minh Châu là “nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”. Một trong số những tác phẩm tiêu biểu của ông là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã thể hiện nhiều quan niệm sâu sắc về con người và nghệ thuật.

Theo yêu cầu của trưởng phòng, nhiếp ảnh Phùng quyết định đi về một vùng biển cách Hà Nội ngoài sáu trăm cây số để thực hiện một bộ sưu tập chuyên đề về thuyền và biển. Nhân chuyến đi, anh cũng muốn thăm người đồng đội cũ của mình là Đẩu - nay đã là chánh án của một tòa án huyện. Phùng đã phục kích mấy buổi sáng mà vẫn chưa chụp được bức ảnh nào. Sau nhiều ngày, anh đã chớp được ra một cảnh trời cho đắt giá mà trong cảm nhận của Phùng nó giống như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Trước vẻ đẹp đó, Phùng cảm thấy bối rối: “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”, nhận ra rằng “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Đó chính là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp khiến anh nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật.

Nhưng đằng sau vẻ đẹp đó, Phùng lại chứng kiến một cảnh tượng đau lòng. Từ chiếc thuyền nhỏ đẹp đẽ vừa rồi, một người đàn bà thô kệch xấu xí, mặt đầy sự mệt mỏi bước ra và một lão chồng với tấm lưng rộng, mái tóc tổ quạ, đôi mắt độc dữ cùng bước ra từ con thuyền. Ông chồng đã “dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn”. Chứng kiến cảnh tượng đó, Phùng cảm thấy kinh ngạc. Anh ngỡ ngàng nhận ra bản chất thực sự của cái đẹp anh vừa bắt được. Qua hai phát hiện này, Nguyễn Minh Châu muốn nói đến đằng sau cái đẹp của ngoại cảnh là cái xấu xa của cuộc sống bị khuất lấp. Người họa sĩ cần phải có cái nhìn đa diện trước cuộc sống.

Câu chuyện về người đàn bà hàng chài tiếp tục được gợi mở. Mấy ngày sau đó, chị ta được chánh án Đẩu mời lên tòa. Tại đây Đẩu khuyên chị hãy bỏ người chồng vũ phu: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu. Chị nghĩ thế nào?”. Thế nhưng, khi chánh án Đẩu nhắc đến chuyện ly hôn, chị ta lại van xin “Con lạy quý tòa … Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Câu trả lời của người đàn bà hàng chài khiến cho Phùng cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt và phải bước ra. Sự xuất hiện của anh đã khiến người đàn bà cảm thấy lo sợ. Nhưng khi nghe Đẩu nói, trái với vẻ sợ sệt lúc ban đầu, người đàn bà hiện lên là một người phụ nữ từng trải: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn…”. Chị đã nhận mọi lỗi lầm về mình “Giá tôi đẻ ít đi…”, hiểu được nỗi khổ của chồng “người đàn ông bản chất vốn không phải kẻ vũ phu, độc ác, anh ta chỉ là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Người chồng là chỗ dựa khi có biển động…”. Và chấp nhận hy sinh vì các con: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ…”, “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn no”... Hình ảnh người đàn bà hàng chài chính là hiện thân cho kiếp người bất hạnh bị cái đói khổ, cái ác và số phận đen đủi dồn đến chân tường. Nhưng ở chị ta lại có một tâm hồn vị tha, tình yêu thương tha thiết và là người từng trải, sâu sắc. Sau câu chuyện này, Phùng đã hiểu ra không thể đơn giản, một chiều mà phải có cái nhìn đa chiều đa diện để hiểu đúng bản chất của đối tượng và phát hiện những vẻ đẹp tiềm ẩn sâu xa sau lớp vẻ ngoài xù xì, thô nhám của cuộc sống.

Như vậy, Chiếc thuyền ngoài xa đã gửi gắm một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.

Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 7

Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút tiên phong của nền văn học hiện đại. Ông luôn dùng ngòi bút của mình để "đi tìm hạt ngọc sâu" trong tâm hồn con người. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa". Tác phẩm kể về câu chuyẹn của một gia đình làng chài ven biển quanh năm gắn bó với chiếc thuyền ngoài khơi xa, tác giả đã thể hiện những ý niệm triết lý sâu sắc về quan điểm nghệ thuật và cuộc đời của mỗi con người.

Trong tác phẩm, tác giả đã xây dựng tình huống truyện độc đáo qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng.- người nghệ sĩ nhiếp ảnh luôn đi tìm cái đẹp. Sau những ngày "phục kích" ngoài bãi biển, Phùng đã bắt gặp một khoảnh khắc trời cho tuyệt đẹp về hình ảnh một chiếc thuyền ngoài xa ẩn hiện trong sương sớm: "mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào ban sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng của ánh sương mai chiếu vào". Trong cảnh vào buổi sáng tinh mơ và chớm bình minh ấy, chiếc thuyền ngoài xa lòe nhòe, mơ hồ như thực, như ảo. Đó là một khoảnh khắc tuyệt diệu như Phùng đã đánh giâ: đó là một " cảnh đắt trơi cho". "tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi" . Cảnh không chỉ có sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người mà bức tranh đó còn hài hóa từ đường nét đến màu sắc, ánh sáng: "toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích". Vẻ đẹp tuyệt bích đó đã làm trái tim người nghệ sĩ mê cái đẹp rung động và trở lên "bối vối, trong trái tim như có cái gì đó bóp thắt vào" và thể hiện cảm hứng triết lí về nghẹ thuật. Khoảnh khắc mà Phùng bắt gặp chính là " khám phá chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn".

Đối lập với cảnh đẹp toàn mĩ ấy là một cảnh tượng đầy trớ trêu và nghịch lý diễn ra ngày từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như tranh vẽ ấy. Đó là cảnh người chúng rút chiếc thắt lưng "chẳng nói chẳng rằng quất tới tấp vào lưng người đàn bà". Người phụ nữ cao lớn với những đường nét thô kệch không hề kêu than một lời mà chỉ cam chịu trước những trận đòn roi từ lão chồng mà không hề chống trả, đặc biệt là không hề chạy trốn. Khung cảnh đó hiện lên khiến Phùng ngỡ ngàng và cay đắng nhận ra: đằng sau vẻ đẹp toàn bích của thiên nhiên là những mảnh đời đne tối, đằng sau cái vẻ đẹp thơ mộng của chiếc thuyền chính là bi kịch bạo lưc gia đình. Sau khi chứng kiến cảnh tượng đầy nghiệt ngã ấy, Phùng đã có những suy ngẫm về hiện thực ngang trái, bất công trong cuộc sống của con người.

Hai phát hiện đã khiến cho Phùng - người nghệ sĩ luôn đi tìm cái đẹp trăn trở, suy tư. Và người đàn bà làng chài và câu chuyện đời tự kể đã giúp nghệ sĩ Phùng tìm ra giải đáp cho những thắc mắc của mình.

Xuất hiện tại toàn án huyện, người phụ nữ đã có những lí giải sâu sắc khiến Đầu và Phùng vỡ lẽ ra nhiều điều. Người phụ nức với những đường nét thô kệch, xấu xi ấy lại chứa đựng những nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam đó là vẻ đẹp chiu thương chịu khó, giàu lòng vị tha, nhẫn nhục chịu đựng cùng đức hi sinh cao cả. Lúc đầu chị sợ sệt, lúng túng tim đến một góc để ngồi với một vẻ dè chừng và cẩn thận. Chị rón rén ngồi vào chiếc ghế mà Đẩu mời. Trái với dự đoán của Phùng và Đầu khi được khuyên bỏ lão chồng đi thì người đàn bà ấy đã van xin đừng bắt mụ bỏ lão: "quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó". Hành động kiên quyết không bỏ chồng đã khiến co hai nhân vật vô cùng bất ngờ. Dù phải gánh chịu những đòn roi tàn nhẫn: "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" nhưng chị vẫn cam chịu, nhẫn nhục.

Các từ ngữ xưng hô " con, quý tòa " của mụ thiếu tự tin, bị động, yếu thế đã dần thay đổi thành chủ động, bình đẳng qua cách xưng hô " chị, các chú " để lí giải về lí do " đừng bắt tôi bỏ nó". Bằng sự đồng cảm, chị đã đưa ra những lí do để giải thích cho những hành động vũ phu, trời đánh của lão chồng: đám đàn bà chúng tôi đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật, và gia đình làng chài trên biển luôn cần có một người đàn ông để trèo lái con người lúc sóng lớn hay những lúc kéo lưới và trên thuyền cũng có nhứng phút giây đầm ấm, vui vẻ và hạnh phúc bên nhau. Thậm chí để biện minh cho hành động tàn bạo của chồng mà còn tự trách mình: giá để ít đi. Với tâm thế của một người đàn bà từng trải và có hiểu biết với người lắng nghe, người phụ nữ ấy đã bộc bạch những suy nghĩ từ kinh nghiệm của bản thân mình: "là bởi các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết nỗi vất cả của một người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông".

Qua câu chuyện của người đàn bà, độc giả có thể thấy được tấm lòng vị tha cùng đức tính hi sinh chịu thương chịu khó của một người mẹ luôn sống vì con chứ không phải sống vì mình. Người đàn bà ấy mang vr đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Hình tượng người đàn bà hàng chài với số phận đau khổ, bất hạnh cùng tính cách vị tha, nhân hậu, am hiểu lẽ đời chính là sự lí giải cho hiện thực đời sôngs nghịch lý mà Phùng và Đẩu "không bao giờ hiểu được".

Sau những ngày đi tìm kiếm cái đẹp của cuộc đời thì nghệ sĩ Phùng đã tìm thấy được vẻ đẹp toàn bích ấy. Trở về toà soạn Phùng vẫn mang tấm ảnh đó về và quả nhiên tấm ảnh đó đã được chọn và được treo ở nhiều nơi đặc biệt là các nhà sành nghệ thuật. Qua tấm ảnh Phùng nhận thấy những giá trị của cuộc đời: "Cái màu hồng của sương mai" ( biểu tượng của nghệ thuật ) và bà hàng chài nghèo khổ bước ra từ bước tranh ( hiện thân của đời thưc ) đan xen vào nhau. Và nghệ thuật chân chính sẽ không bao giờ tách rời cuộc sống.'

Có thể thấy rằng với sự tài năng của mình mà cây bút Nguyễn Minh Châu đã đem đến cho người đọc về cách nhìn cuộc sống xung quanh con người. Đó là cái nhin đa diện, nhiều chiều, phải phát hiện bản chất thực sự đằng sau vẻ đẹp bề ngoài của hiện tượng. Xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặc sắc, cốt truyện hấp dẫn đồng thời ngôn từ được tác giả chắt lọc đã khắc họa vô cùng thành tình huống truyện với nhân vật sắc sảo và điểm nhìn trần thuật linh hoạt.

Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 8

Có những tác phẩm đọc xong, gấp sách lại là ta quên ngay, cho đến khi bắt gặp lại nó ở đâu đó, ta mới chợt nhận ra là mình đã đọc rồi. Nhưng cũng có những khi, có những tác phẩm đi qua cuộc đời ta, để lại một lớp phù sa, để lại những khắc chạm trong tâm khảm. Chiếc thuyền ngoài xa (1983) của Nguyễn Minh Châu là một trong những truyện ngắn thuộc loại thứ hai này, bởi những gì được thể hiện trong tác phẩm khiến cho người đọc không khỏi những trăn trở, băn khoăn về giá trị nghệ thuật, về cuộc sống và tâm hồn con người.

Nguyễn Minh Châu thuộc thế hệ những nhà văn Việt Nam trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau khi nước nhà giành được độc lập, con người ấy lại sớm bắt vào nhịp sống mới của dân tộc, trở thành cây bút tiên phong, nhà văn lớn, “người đã đi được xa nhất” trong cao trào đổi mới văn học. Một trong những tác phẩm tiêu biểu, mang dấu ấn rõ nhất phong cách Nguyễn Minh Châu ở thể loại truyện ngắn chính là Chiếc thuyền ngoài xa.

Với Chiếc thuyền ngoài xa, nhiều hướng tiếp cận đã và đang được đặt ra: tiếp cận tác phẩm từ góc độ nội dung tư tưởng, chủ nghĩa cấu trúc, cảm quan hậu hiện đại, xã hội học, văn bản học... Từ những góc độ tiếp cận đó, các bình diện khác nhau của giá trị tác phẩm đã lần lượt được khẳng định. Trong số những hướng tiếp cận tác phẩm này, tiếp cận dưới góc độ phân tâm học có thể xem là một trong những hướng tiếp nhận khả quan bởi nó giúp mở ra lớp màn sâu kín nhất của tác phẩm, cho ta một cái nhìn mới về một tác phẩm mà giá trị đã được định hình trong tâm khảm nhiều người đọc chúng ta.

Có thể nói, lý thuyết phân tâm học là một trong những lý thuyết không quá xa lạ trên thế giới từ cuối thế kỉ XIX, nhưng phải đến sau 1986 nó mới được chấp nhận ở nước ta. Từ lý thuyết phân tâm học, soi chiếu vào Chiếc thuyền ngoài xa chúng ta sẽ có một cái nhìn, một cách lí giải mới đối với tác phẩm này.

Tác phẩm mở ra từ việc Phùng, phóng viên ảnh đi “săn” một tấm hình chụp cảnh bình minh trên biển. Tấm hình kia phải là một tác phẩm nghệ thuật, dĩ nhiên, như anh nhận thức, cần tránh lặp lại, nhàm chán và quen thuộc. Phùng rời Hà Nội, đi gần sáu trăm cây số, “phục” ở một bờ biển, nơi vẫn còn lưu dấu cuộc chiến tranh: đó là bãi chiến trường. Anh quen được Phác, một cậu bé thông minh ở vùng biển đó. Sau gần tuần lễ, anh vẫn chưa có được kiệt tác mà anh hằng mong muốn. Và rồi anh cũng có một cảnh trời cho: “Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào... Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Nhưng câu chuyện đột ngột chuyển sang một hướng khác, sau khoảnh khắc trời cho ấy, Phùng rơi vào một khoảnh khắc, một tình huống “hiện thực cuộc sống” ban cho. Chính từ lúc này, Phùng vấp phải một thách đố khác, có lẽ còn nghiệt ngã hơn cả sự sáng tạo nghệ thuật – thách đố lí giải, nhận thức hiện thực.

Trước cảnh tượng liền kề với khoảnh khắc nghệ thuật, Phùng kinh ngạc đến mức “trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Thế rồi, trước lúc Phùng kịp “nhào tới” nơi người đàn ông mà “tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ” đang dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà “cao lớn với những đường nét thô kệch”, anh đã bị ngăn lại bởi “bóng một đứa con nít”, đó là Phác, con trai của cặp vợ chồng kia. Phác giành được chiếc thắt lưng từ tay người đàn ông, “liền rướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào khuôn ngực vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên”. Người đàn ông cố giằng lại chiếc thắt lưng, nhưng chẳng được, liền giang tay tát thằng nhỏ hai cái rồi bỏ đi. Và sau đó, “bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và hoang sơ”.

Có lẽ, đó là một hiện thực “quái đản”, một hiện thực hiển nhiên mà không thể lí giải. Người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng, người chồng đánh đập vợ tàn nhẫn như một thói quen, vô cảm và bản năng. Những đứa con phải chứng kiến cảnh bạo lực diễn ra giữa chính cha mẹ chúng. Tất cả diễn ra một cách im lặng và triền miên, ngay sau vẻ giản dị mà toàn bích của thiên nhiên. Cảnh tượng ấy Phùng còn có dịp chứng kiến thêm một lần nữa, và lần này, nếu không có đứa con gái kịp chạy theo ôm lấy thằng Phác và lôi từ cạp quần đùi của nó ra một con dao găm thì không biết chuyện gì đã xảy ra. Lần ấy anh đánh quật ngã đàn ông vũ phu ấy, kết quả là anh phải vào bệnh viện. Đáng ngạc nhiên là khi được gọi lên ủy ban huyện và được khuyên hãy bỏ người đàn ông vũ phu đó thì vợ anh ta liền nói: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...” dù rằng “ bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh”.


Quả thực, có rất nhiều những điều khó lí giải trong tác phẩm này nếu chỉ nhìn bằng con mắt phân tích bình thường, nhất là nếu ta mổ xẻ nó theo lối phân tích như trong nhà trường phổ thông. Ví như, phải lí giải sao trước thái độ trái ngược của Phác đối với mẹ và cha? Lí giải sao cho hiện tượng người đàn ông trong tác phẩm từ một người “cục tính nhưng hiền lắm” – theo lời kể của người vợ - lại trở thành kẻ đánh đập vợ như một thói quen, vô cảm và bản năng? Tuy nhiên, nếu thử soi rọi tác phẩm này dưới ánh sáng của phân tâm học thì những thắc mắc trên sẽ trở nên dễ lí giải hơn nhiều.

Trước hết, thái độ của thằng Phác đối với cha và mẹ nó gợi cho ta suy nghĩ gì? Đọc tác phẩm ta dễ dàng nhận ra tình yêu thương mà nó dành cho mẹ, cũng như sự căm ghét dành cho cha. Dường như càng thương mẹ bao nhiêu thì nó càng ghét cha bấy nhiêu. Nó đã từng tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển thì mẹ nó không bị đánh. Và có lẽ trước đây, trước khi Phùng hai lần được chứng kiến cảnh tượng “quái đản” ấy thì Phác đã từng có những hành động “phản kháng” đối với cha nó rồi. Bởi thế thì mới có việc mẹ nó phải gửi nó cho ông ngoại “vì sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột với bố nó”. Ám ảnh trong tôi là hình ảnh thằng Phác với “sự giận dữ căng thẳng” lao qua trước mặt Phùng “như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm”, “nhảy xổ vào người đàn ông”, “giành được chiếc thắt lưng”, “rướn người vung khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực” của cha nó là ánh mắt “hết sức thù ghét” và giọng hét the thé đầy giận dữ: “Hãy cút đi! Cút đi” mà nó dành cho Phùng sau khi anh chứng kiến cảnh tượng “quái đản” lần thứ nhất. Tại sao vậy? Có phải vì cha nó đánh mẹ nó nên nó mới ghét cha đến như thế? Có phải vì Phùng đã nhìn thấy điều đáng ra không nên thấy? Hay còn vì lí do nào khác được ẩn giấu dưới những lí do nhìn thấy được như thế? Ta chỉ có thể vỡ lẽ điều thắc mắc này khi soi chiếu nó bằng phân tâm học. Theo phân tâm học thì đây chính là mặc cảm Oedipe. Vì mang trong mình mặc cảm này mà Phác mới có thái độ thái quá như vậy với cha nó. Nó căm ghét cha vì nó ghen tức với cha – người nhận được tình yêu từ mẹ nó. Từ sự căm ghét có sẵn trong vô thức, cộng thêm sự bất bình trước hành động mà cha đã làm với mẹ khiến nó trở nên như một con thú hoang, một con hổ sẵn sàng lao vào vồ xé cha mình, và mang trong lòng ý định giết cha để bảo vệ mẹ (thể hiện ở việc cất con dao găm trong cạp quần và chạy đến nơi cha đang hành hạ mẹ nó). Mặc cảm này có sự chuyển vị đối tượng, nên sau khi cha nó bỏ đi và người đàn ông đầu tiên nó nhìn thấy lại là Phùng nên bao nhiêu bực tức trong nó, thái độ của nó đối với cha dường như cũng chuyển sang Phùng. Vì thế, thái độ của nó đối với Phùng - theo ý tôi - cũng không hẳn là vì anh đã vô tình chứng kiến cảnh tượng không nên xem mà còn vì một nguyên nhân khác, đó chính là “mặc cảm Oedipe” trong vô thức của Phác. Cũng chính vì mặc cảm này mà ta có cái nhìn mới hơn trước hành động : “nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”. Đó không hẳn là tình thương, tình cảm mẹ - con như giữa mẹ và con gái, mà dường như có cái gì đó như là tình yêu và sự che chở. Nó yêu mẹ nó biết nhường nào! Thái độ của thằng bé như vậy phần nào cũng là do nó biết rằng trong đám con cái đông đúc đang sống dưới thuyền, mẹ nó không yêu một đứa nào bằng nó – “cái thằng con từ tính nết đến mặt mũi giống như lột ra từ cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ”. Thế nên, nó yêu mẹ vì mẹ nó yêu nó nhất trong đám con; nó ghét cha vì cha nó không những dành được tình yêu, sự cam chịu của mẹ nó mà còn vì nó quá giống cha nó chăng?

Một vấn đề nữa cần được giải đáp của tác phẩm mà chỉ có thể được làm sáng rõ bằng phân tâm học đó là hành động đánh vợ của người đàn ông – cha Phác. Để lí giải được điều này chúng ta không thể không xét đến hoàn cảnh sống của gia đình thuyền chài kia. Thử tưởng tượng, trên một con thuyền nhỏ, suốt tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác chỉ lênh đênh trên biển, có lổn nhổn những con người trong một gia đình sinh sống. Vì thế, đừng nói đến việc ở đó không có chỗ riêng tư của vợ chồng mà ngay đến cả chỗ ngủ chung cho cả gia đình ấy cũng còn chật chội, vất vả nữa là. Và rồi, biết bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, vất vả trong cuộc mưu sinh trên biển, rồi những đứa trẻ nối tiếp nhau chào đời lại càng làm cho cuộc sống ngày một thêm khốn khó. Bao nhiêu vất vả, nhọc nhằn, không lối thoát cứ dồn nén lại mà không được giải tỏa. Ngay cả chuyện “vợ chồng” – một hình thức giải tỏa - cũng ngày một thưa dần vì mệt nhọc, bận bịu con cái, rồi sự chật hẹp của con thuyền cản trở. Bực bội, căng thẳng, bế tắc bị dồn nén. Năng lượng tính dục cũng bị dồn nén trở thành những ẩn ức. Con người ta có thể sẽ trở nên phát điên nếu không được giải tỏa khỏi những ẩn ức, dồn nén đó. Và vì không thể thực hiện được quan hệ “vợ chồng” trong hoàn cảnh ấy và trước mặt con cái, người chồng đã chuyển xung năng tính dục ấy sang một hành động khác – đánh vợ. Đánh nhiều lần thành quen tay. Đánh nhiều lần thành chai sạn. Người đàn ông ấy đã dần dần coi đó như một điều tất yếu, một thói quen, một bản năng và vì thế mà trở nên vô cảm trước nỗi đau mà người vợ phải gánh chịu. Còn người vợ, hẳn cũng không phải chỉ vì cuộc sống mưu sinh trên biển cần lắm một người đàn ông “đứng mũi chịu sào”, chèo chống cho cả gia đình mà không thể bỏ chồng, để rồi cứ mãi cam chịu bị hành hạ như thế. Có lẽ, cũng như chúng ta, và hơn cả chúng ta, chị hiểu hơn ai hết lí do nào khiến một người “cục tính nhưng rất hiền”, “không bao giờ đánh đập” chị dù chị đã có con với người đàn ông khác trước khi lấy anh lại trở thành một con người vô cảm, dửng dưng đến thế. Hơn ai hết, người vợ ấy hiểu rằng, đó là lối thoát duy nhất cho chồng chị và cho cả gia đình chị, dù cho chị phải chịu hi sinh chăng nữa. Chỉ có để cho chồng được giải tỏa những ẩn ức bị dồn nén trong một thời gian dài lênh đênh trên biển thì cuộc sống của gia đình chị mới có thể tiếp tục. Một câu hỏi đặt ra là: không có con đường nào khác để giải tỏa ngoài bạo lực ư? Cũng có đấy, ấy là rượu, như những người đàn ông ở các thuyền khác. Nhưng anh lại không uống rượu. Câu nói nghẹn ngào như một lời than thở, một tiếng thở dài của chị cho ta thấy rõ hơn điều này: “Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ...” Từ đây, có thể thấy, anh là một con người hiền lành, lương thiện, không ham mê rượu, chè, cờ, bạc... Nhưng có lẽ cũng vì thế mà anh khổ - khổ vì không tìm được cái gì để giải tỏa ẩn ức - và vợ anh cũng khổ theo - khổ vì thương anh.

Tuy nhiên, trong hành động đánh vợ của người chồng ấy, dưới góc độ của phân tâm học, ta có thể thấy thêm một vấn đề nữa đó là bản năng sống trong anh ta đang mất dần, nhường chỗ cho bản năng chết trỗi dậy, nhất là bản năng gây hấn. Ở một lát cắt của cuộc sống trong tác phẩm này, găm lại trong tâm trí ta không hề có một dấu vết nào của sự lạc quan, yêu đời, hay nụ cười của người đàn ông đó, mà chỉ có ấn tượng về một tiếng quát: “...Động đậy tao giết cả mày bây giờ” về một hình hài: “Tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ” về thái độ “hùng hổ, mặt đỏ gay” về hành động: “chẳng nói chẳng rằng... trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!” về hai cái tát lão dành cho thằng Phác. Tất cả những chi tiết ấy, cùng với chi tiết “bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh” đã cho thấy bản năng chết mạnh mẽ ở con người này. Người đàn ông ấy mang cái dáng vẻ thù hằn, bực bội có lẽ là với chính cuộc đời này chứ không phải với vợ con dù ông ta có nghiến răng chửi rủa đi nữa. Ông ta cứ lặp đi lặp lại việc đánh vợ thành thói quen, bản năng. Và hơn nữa, ông ta còn chĩa bản năng gây hấn vào vợ và con trai mình. Như thế, trong những lúc bị dồn nén, ẩn ức, bản năng chết của ông ta trỗi dậy mãnh liệt, lấn át, chi phối tất cả suy nghĩ và hành động của con người này, biến ông ta thành một người chồng vũ phu, tàn bạo.

Lý giải những điều này từ lý thuyết phân tâm học, không hề có ý định biện minh hay ủng hộ cho hành động đáng trách của người đàn ông ấy. Nhưng, qua đó, ta thấy được nguyên nhân nào biến một con người từ hiền lành, không hề đánh vợ thành một người đánh vợ như một thói quen, dửng dưng, vô cảm, để rồi có cái nhìn đúng đắn, nhân ái, độ lượng hơn với nhân vật này nói riêng và nhiều nữa những con người khác trong xã hội nói chung.

Phải nói rằng, với lý thuyết phân tâm học, khi soi chiếu vào Chiếc thuyền ngoài xa, ta có thể có một cái nhìn mới hơn, khác hơn về một tác phẩm đã có quá nhiều hướng nghiên cứu này. Với dung lượng hạn hẹp của bài viết, hẳn nhiên, người viết sẽ khó có thể nói hết, cũng không dám chắc đã chạm đúng dụng ý của nhà văn, song, những gì thể hiện trong bài viết cũng có thể xem như là một bước thử nghiệm hướng nghiên cứu còn khá mới mẻ và nhiều suy ngẫm trong văn học nước ta hiện nay – phê bình phân tâm học.

Nguyễn Minh Châu trước sau vẫn là nhà văn suốt đời không hề mệt mỏi trong cuộc hành hương vô tận đi “tìm cái hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người”. Vì thế, đọc tác phẩm của ông không nên và không thể chỉ nhìn nhận con người ở bề mặt ngôn ngữ mà nên có cái nhìn sâu hơn vào tâm hồn họ để khám phá con người bên trong, tìm kiếm hạt ngọc ẩn trong tâm hồn người đó. Chiếc thuyền ngoài xa cũng không nằm ngoài quy luật này, và phân tâm học chính là một trong những phương thức thích hợp để khám phá thế giới tâm lý phức tạp của nhân vật trong tác phẩm.

Mời bạn đọc cùng tải về bản DOC hoặc PDF để xem đầy đủ nội dung nhé

Đánh giá bài viết
16 38.672
3 Bình luận
Sắp xếp theo
  • Gà Bông
    Gà Bông

    Cảm ơn bạn nhiều nhé

    Thích Phản hồi 10/06/22
    • Chuột nhắt
      Chuột nhắt

      Có bài phân tích người đàn bà làng chài không ạ?

      Thích Phản hồi 10/06/22
      • Nhân Mã
        Nhân Mã

        Cho mình xin dàn ý phân tích nhân vật Phùng ad ơi

        Thích Phản hồi 10/06/22

        Ngữ văn lớp 12

        Xem thêm