Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Soạn bài Ôn tập học kì 1 lớp 12 - Kết nối tri thức

Soạn bài Ôn tập học kì 1 - Kết nối tri thức được VnDoc.com sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết hướng dẫn trả lời chi tiết, đầy đủ các câu hỏi, yêu cầu trong SGK Ngữ văn 12 Kết nối tri thức tập 1 trang 158.

Hệ thống hóa kiến thức đã học

Câu 1 trang 158 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Lập bảng tổng hợp về những loại văn bản và thể loại văn học được học trong sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập một. Kể tên các tác phẩm cụ thể thuộc từng loai, thể loại đó.

Trả lời:

Thể loại

Tác phẩm

Tiểu thuyết

Xuân Tóc Đỏ cứu quốc

Nỗi buồn chiến tranh

Trên xuồng cứu nạn

Thơ

Cảm hoài

Tây Tiến

Đàn ghi-ta của Lor-ca

Chính luận

Nhìn về vốn văn hóa dân tộc

Năng lực sáng tạo

Mấy ý nghĩ về thơ

Cảm hứng và sáng tạo

Truyện

Hải khẩu linh từ

Muối của rừng

Kịch

Nhân vật quan trọng

Giấu của

Cẩn thận hão

Câu 2 trang 158 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Nêu khái quát những kiến thức mới về loại văn bản, thể loại văn học được trình bày ở phần Tri thức ngữ văn của từng bài học.

Trả lời

- Tiểu thuyết:

+ Khái niệm: Tiểu thuyết là loại hình tự sự có dung lượng lớn, phản ánh đời sống xã hội một cách rộng lớn, sâu sắc, thông qua hệ thống nhân vật và tình huống phức tạp.

+ Đặc điểm:

Dung lượng lớn, nhiều nhân vật, nhiều tình tiết.

Phản ánh đời sống xã hội một cách rộng lớn, sâu sắc.

Có khả năng miêu tả nội tâm nhân vật phức tạp.

- Thơ:

+ Khái niệm: Thơ là loại hình nghệ thuật ngôn ngữ, sử dụng các biện pháp tu từ, nhịp điệu, âm thanh để biểu hiện cảm xúc, tư tưởng của con người.

+ Thể thơ: Thơ lục bát, Thơ thất ngôn bát cú, Thơ tự do

- Chính luận:

+ Khái niệm: Chính luận là loại văn bản nghị luận nhằm thuyết phục người đọc, người nghe về một vấn đề thuộc lĩnh vực chính trị, xã hội.

+ Đặc điểm:

Dùng lí lẽ, dẫn chứng để thuyết phục người đọc.

Có lập luận chặt chẽ, logic.

Ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.

- Truyện:

+ Khái niệm: Truyện là loại hình tự sự có dung lượng vừa phải, phản ánh một khía cạnh của đời sống xã hội.

+ Phân loại: Truyện ngắn, Truyện trung bình, Truyện dài

- Kịch:

+ Khái niệm: Kịch là loại hình nghệ thuật sân khấu, sử dụng ngôn ngữ, hành động, âm nhạc để thể hiện nội dung.

+ Phân loại: Kịch nói, Kịch thơ, Kịch múa

- Tác phẩm tiêu biểu:

+ Tiểu thuyết: "Xuân tóc đỏ cứu quốc" (Vũ Trọng Phụng)

+ Thơ: "Tây Tiến" (Quang Dũng)

+ Chính luận: "Mấy ý nghĩ về thơ" (Hoài Thanh)

+ Truyện: "Muối của rừng" (Nguyễn Huy Thiệp)

+ Kịch: "Nhân vật quan trọng" (Gogol)

+ Kiến thức mới:

Phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại: Xác định đặc trưng thể loại của tác phẩm; Phân tích tác phẩm theo những đặc trưng đó.

Phân tích tác phẩm theo chủ đề, tư tưởng: Xác định chủ đề, tư tưởng của tác phẩm; Phân tích cách thể hiện chủ đề, tư tưởng.

Phân tích tác phẩm theo ngôn ngữ, nghệ thuật: Phân tích các biện pháp tu từ, giọng điệu, ngôn ngữ,…; Phân tích cách xây dựng nhân vật, tình huống,…

Câu 3 trang 158 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Lập bảng đối sánh phong cách cổ điển, phong cách hiện thực và phong cách läng mạn trong sáng tác văn học. Nêu tên một số tác phẩm cụ thể thuộc từng phong cách đó (không giới hạn tác phẩm được học trong sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập một).

Trả lời

Phong cách

Đặc điểm

Ví dụ tác phẩm

Tác giả

Cổ điển

- Chủ đề: đề cao lý tưởng, đạo đức, con người hoàn mĩ.

- Hình thức: ngôn ngữ trau chuốt, giàu hình ảnh, điển tích.

- Thể loại: thơ Đường, truyện truyền kỳ,...

- Truyện Kiều

- Chinh phụ ngâm khúc

- Cung oán ngâm khúc

Nguyễn Du,…

Hiện thực

- Chủ đề: phản ánh hiện thực đời sống xã hội một cách trung thực, khách quan.

- Hình thức: ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời sống.

- Thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký,...

- Tắt đèn

- Chí Phèo

- Vợ chồng A Phủ

Ngô Tất Tố,…

Lãng mạn

- Chủ đề: đề cao cảm xúc cá nhân, hướng đến cái đẹp, tự do.

- Hình thức: ngôn ngữ giàu hình ảnh, biểu cảm.

- Thể loại: thơ trữ tình, truyện thơ,...

- Đây thôn Vĩ Dạ

- Tây Tiến

- Bến quê

Hàn Mặc Tử,…

Câu 4 trang 158 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Nêu các nội dung thực hành tiếng Việt đã thực hiện trong học kì I và làm rõ tác dụng của các nội dung thực hành ấy đổi với việc đọc hiểu văn bản ở từng bài học.

Trả lời

- Biện pháp tu từ nói mỉa, nghịch ngữ, đặc điểm và tác dụng

- Tác dụng của một số biện pháp tu từ trong thơ

- Lỗi logic, lỗi câu mơ hồ và cách sửa

- Sử dụng điển cố trong tác phẩm văn học.

Câu 5 trang 158 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Xác định những yêu cầu chung và yêu cầu riêng của các kiểu bài viết được thực hiện ở Bài 1, Bài 2 và Bài 4 bằng một sơ đồ phù hợp.

Trả lời

Yêu cầu

Bài 1

Bài 2

Bài 4

Chung

- Đều đảm bảo bố cục rõ ràng

- Đưa ra những dẫn chứng cụ thể

Riêng

Bảng tổng hợp cần có đầy đủ các thông tin:

- Loại văn học

- Thể loại

- Tác phẩm cụ thể

- Tác giả

- Bảng cần được trình bày khoa học, rõ ràng, dễ nhìn.

- Cần nắm rõ các khái niệm về loại văn bản, thể loại văn học.

- Phân tích những đặc trưng cơ bản của từng loại văn bản, thể loại văn học.

- Làm rõ những kiến thức mới được học trong phần Tri thức Ngữ văn.

- Sử dụng ngôn ngữ chính xác, khoa học.

- Liệt kê các nội dung thực hành tiếng Việt đã thực hiện.

- Phân tích tác dụng của từng nội dung thực hành đối với việc đọc hiểu văn bản.

- Sử dụng dẫn chứng cụ thể để minh họa.

- Lập luận chặt chẽ, logic.

- Cần đọc kỹ hướng dẫn đề bài để nắm rõ yêu cầu cụ thể của từng bài viết.

Câu 6 trang 158 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Chỉ ra những yêu cầu mới của việc viết một báo cáo nghiên cứu ở Bài 5 so với việc viết các báo cáo nghiên cứu ở lớp 10 và lớp 11.

Trả lời

- Nêu rõ đề tài và lí do chọn đề tài

- Tìm mục tiêu và phạm vi nghiên cứu

- Tìm các phương pháp nghiên cứu

- Thu thập thông tin, số liệu

-...

Câu 7 trang 158 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Nêu những nội dung của hoạt động nói và nghe được thực hiện trong học kì 1.

Trả lời

- Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện

- Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ

- Thuyết trình về một vấn đề liên quan đến tuổi trẻ.

- Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội.

Luyện tập và vận dụng

1. Đọc

Câu 1 trang 160 SGK Ngữ văn 12 tập 1: Có thể xếp bài thơ Bình đựng lệ vào loại thơ tượng trưng được không? Vì sao?

Trả lời

Có thể xếp vào loại thơ tượng trưng vì ngay từ nhan đề đã xuất hiện hình ảnh biểu tượng và hình ảnh này cũng chảy dài theo suốt bài thơ. Bài thơ thể hiện những cảm xúc, suy tư sâu sắc của thi nhân về cuộc sống, về tình yêu, đồng thời thể hiện một tâm hồn nghệ sĩ đa cảm, tinh tế.

Câu 2 trang 160 SGK Ngữ văn 12 tập 1: Theo hiểu biết của bạn, hình ảnh “Bình đựng lệ” có thể gợi nhớ đến những câu chuyện cổ nào?

Trả lời

Có thể gợi nhớ đến câu chuyện: Nàng tiên cá, Truyện Kiều,… đều là những câu chuyện kể về sự hy sinh, chịu đựng của con người. Qua đó, thể hiện những cảm xúc, suy tư của thi nhân về cuộc sống, về tình yêu, đồng thời thể hiện một tâm hồn nghệ sĩ đa cảm, tinh tế.

Câu 3 trang 160 SGK Ngữ văn 12 tập 1: “Bình đựng lệ” là biểu tượng của cái gì? Căn cứ vào đâu để xác định những hàm nghĩa của biểu tượng này?

Trả lời

- “Bình đựng lệ” tượng trưng cho nỗi đau

- Nhân vật trữ tình: tôi: có thể là một người lính: “xứ lắm bom” => viết từ những trải nghiệm của bản thân về những nỗi bất hạnh, đau khổ => thời gian trôi qua tưởng đã trơ lì vậy mà “vẫn bàng hoàng”

=> Nỗi đau khổ luôn tồn tại song song với sự tồn tại của con người.

Câu 4 trang 160 SGK Ngữ văn 12 tập 1: Tìm những câu thơ thể hiện nhận thức của tác giả về sự tồn tại vĩnh cửu của “bình đựng lệ”. Tác giả phát biểu nhận thức này dựa trên những trải nghiệm cá nhân nào?

Trả lời

“Chiếc bình tuột khỏi tay nhân loại/ Lại về trở lại”; “Ờ, Thế mà chẳng có gì mất hết/ Chiếc bình kia vẫn còn”

Câu 5 trang 160 SGK Ngữ văn 12 tập 1: Thủ pháp đối lập đã được tác giả vận dụng như thế nào và đạt hiệu quả nghệ thuật gì?

Trả lời

Chế Lan Viên đã thành công trong việc sử dụng thủ pháp đối lập như một công cụ nghệ thuật trong thơ ca của mình. Thông qua việc linh hoạt và sáng tạo áp dụng thủ pháp này, nhà thơ đã mang lại sự sâu sắc cho nội dung, tăng cường tính biểu cảm và tạo ra ấn tượng mạnh mẽ. Kỹ thuật này đã làm cho các bài thơ của ông trở nên đa chiều và sâu sắc hơn, làm cho người đọc cảm nhận được sự phong phú và đa dạng của tác phẩm.

Câu 6 trang 160 SGK Ngữ văn 12 tập 1: Nêu nhận xét về màu sắc nghị luận của bài thơ thông qua một số dấu hiệu hình thức mang tính đặc trưng.

Trả lời

"Bình đựng lệ" là một tác phẩm thơ đặc sắc, không chỉ về mặt nghệ thuật mà còn về mặt tư tưởng. Sự đa dạng và phong phú của màu sắc nghị luận trong bài thơ đã giúp tác giả truyền đạt những ý niệm, tư tưởng một cách sâu sắc và đầy ấn tượng. Điều này đã làm cho tác phẩm trở nên đặc biệt và có ảnh hưởng sâu rộng đối với độc giả.

Câu 7 trang 160 SGK Ngữ văn 12 tập 1: Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) bày tỏ thái độ đồng cảm hay không đồng cảm của bạn đối với nỗi niềm và nhận thức của tác giả được bộc lộ qua bài thơ.

Trả lời

Đọc bài thơ "Bình đựng lệ" của Chế Lan Viên, ta không thể không cảm nhận được những nỗi niềm bi tráng và sâu sắc về cuộc sống mà tác giả muốn truyền đạt. Hình ảnh "bình đựng lệ" được sử dụng như một biểu tượng đầy ý nghĩa, tượng trưng cho những đau khổ, nước mắt và khó khăn của con người. Dòng nước mắt tuôn rơi không ngừng, làm ướt cả bầu trời, hòa vào đại dương, thể hiện một sự bất lực và bi tráng của cuộc sống. Tác giả thấu hiểu rằng cuộc sống không phải lúc nào cũng công bằng, con người phải đối diện với nhiều gian khổ, đau thương và nỗi đau. Là một người trẻ, tôi cảm thông với tình cảm và suy tư của tác giả về sự đau khổ và bất lực trong cuộc sống. Tuy nhiên, dù cuộc sống có thể gặp phải những gian khổ và thách thức, tôi không hoàn toàn đồng ý với quan điểm rằng cuộc đời chỉ là nước mắt. Cuộc sống cũng chứa đựng những niềm vui và hạnh phúc, có những khoảnh khắc tươi đẹp và ý nghĩa. Có những người tốt lành, những mối quan hệ ấm áp và những giá trị đích thực. Chúng ta có thể tìm thấy niềm vui trong những điều giản dị, trong tình thân, tình bạn, và trong những thành tựu của bản thân. Tóm lại, bài thơ "Bình đựng lệ" không chỉ là một tác phẩm thơ cao về nghệ thuật mà còn là một lời nhắc nhở về cuộc sống, về sự đau khổ và hạnh phúc, về sự bất lực và hy vọng. Chúng ta cần giữ niềm tin vào giá trị tốt đẹp của cuộc sống và con người, và biết trân trọng những khoảnh khắc tươi đẹp và ý nghĩa trong cuộc sống.

2. Viết

Đề 1: Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện cùng sáng tác về một đề tài hoặc cùng nói về một loại nhân vật

Bài làm

Cả hai tác phẩm "Chuyện chức phán sự Đền Tản Viên" và truyện cổ tích "Thạch Sanh" đều sử dụng yếu tố kì ảo, và điều này tạo ra nhiều điểm tương đồng giữa chúng. Trước hết, trong cả hai tác phẩm, chúng ta thấy xuất hiện những nhân vật kì ảo, không có thực. Trong "Chuyện chức phán sự Đền Tản Viên", các nhân vật kì ảo được mô tả rất chi tiết, mang đầy ý nghĩa sâu xa. Hồn ma tướng giặc Bách hộ họ Thôi, cái hồn bơ vơ ở Nam Triều, hay nhân vật Thổ Công - người giữ chức Ngực sự đại phu từ thời Lý Nam Đế, tất cả đều là hiện thân của cái ác và giả dối. Trong khi đó, Diêm Vương, người đứng đầu Minh ti, cũng là một nhân vật kì ảo, trực tiếp phán xử vụ án giữa Tử Văn và hồn ma tướng giặc. Tương tự, trong truyện "Thạch Sanh", cũng có những nhân vật không có thực, chỉ tồn tại trong thế giới cổ tích như Ngọc Hoàng, thái tử, chằn tinh và các đồ vật thần kỳ như niêu cơm thần ăn mãi không hết, tiếng đàn giúp cho Thạch Sanh được giải oan. Ngoài ra, cả hai tác phẩm đều có mô típ về vong hồn tồn tại sau khi chết và sự phân chia Thiện - Ác trong thế giới thần linh, những yếu tố này là những điểm quen thuộc Tuy vậy, việc sử dụng yếu tố kì ảo trong cả hai tác phẩm lại có những điểm khác biệt đáng chú ý. Đầu tiên, là sự xuất hiện của nhân vật chính. Trong "Chuyện Chức phán sự Đền Tản Viên", nhân vật chính là Ngô Tử Văn, được tác giả giới thiệu một cách cụ thể và chi tiết. Tên và nơi sinh của Ngô Tử Văn được liên kết với những địa điểm thực tế như "huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang". Trong khi đó, nhân vật chính của truyện cổ tích "Thạch Sanh" có một nguồn gốc xuất thân hoàn toàn kì ảo. Thạch Sanh được mô tả là một thái tử, nhưng lại được sinh ra từ một gia đình giàu lòng nhân ái, luôn giúp đỡ mọi người, một nguồn gốc không có thực trong thế giới thực tế.

Tuy vậy, việc sử dụng yếu tố kì ảo trong cả hai tác phẩm lại có những điểm khác biệt đáng chú ý. Đầu tiên, là sự xuất hiện của nhân vật chính. Trong "Chuyện Chức phán sự Đền Tản Viên", nhân vật chính là Ngô Tử Văn, được tác giả giới thiệu một cách cụ thể và chi tiết. Tên và nơi sinh của Ngô Tử Văn được liên kết với những địa điểm thực tế như "huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang". Trong khi đó, nhân vật chính của truyện cổ tích "Thạch Sanh" có một nguồn gốc xuất thân hoàn toàn kì ảo. Thạch Sanh được mô tả là một thái tử, nhưng lại được sinh ra từ một gia đình giàu lòng nhân ái, luôn giúp đỡ mọi người, một nguồn gốc không có thực trong thế giới thực tế. Sự khác biệt tiếp theo nằm ở kết thúc của hai tác phẩm. Trong "Chuyện Chức phán sự đền Tản Viên", Ngô Tử Văn trở về và nhận chức phán sự đền Tản Viên, thể hiện sự công bằng và can đảm của một kẻ sĩ trong việc đấu tranh cho sự công lý, không chỉ cho bản thân mà còn cho những người yếu thế. Trong khi đó, ở truyện cổ tích "Thạch Sanh", Thạch Sanh được kết duyên với công chúa và được truyền lại ngôi vua, thể hiện triết lý sống "ở hiền gặp lành" và nguyên tắc báo ứng của kẻ ác. Về giá trị của tác phẩm, mỗi tác phẩm đều đặt nặng vào một mô típ chuyện riêng biệt. "Thạch Sanh" nhấn mạnh vào triết lý sống và nguyên tắc báo ứng, trong khi "Chuyện Chức phán sự Đền Tản Viên" đề cao sự cứng cỏi và can đảm trong việc tìm kiếm công bằng và sự công lý. Điều này thể hiện sự đa dạng và sâu sắc của văn học dân gian, mỗi tác phẩm mang một thông điệp riêng biệt và giá trị độc đáo của mình.

Qua sự phân tích, đánh giá giữa những điểm tương đồng và khác biệt, ta có thể thấy yếu tố kì ảo trong thể loại truyền kì là sự kế tục của thể loại văn học dân gian: Sự xuất hiện của những nhân vật kì ảo không có thực hay là mô típ truyện có những chi tiết hoang đường, huyền ảo như: người chết sống lại, thế giới thần linh cũng phân chia thiện ác… Dòng truyện kì ảo trung đại, dù vẫn còn mang bóng dáng của văn học dân gian, nhưng đây là những sáng tác đậm dấu ấn cá nhân của tác giả, gắn liền với sự bừng ngộ, sự ý thức của con người đối với hiện thực. Cảm hứng của Nguyễn Dữ khi sáng tác Truyền kì mạn lục là lấy cái “ kì” để nói cái “ thực”.. Vì lẽ đó, yếu tố kì ảo được sử dụng như một phương thức kể chuyện khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn, sinh động. Ngoài ra, yếu tố kì ảo và yếu tố hiện thực đan xen vào nhau, cùng tồn tại để bộ lộ tư tưởng của tác giả. Điều này khác với truyền cổ tích Thạch Sanh khi mà yếu tố kì ảo có vai trò to lớn, không thể thiếu trong sự phát triển tình tiết, giải quyết xung đột: chiếc đàn thần, niêu cơm của Thạch Sanh….

Đề 2: So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu được sáng tác theo những phong cách nghệ thuật khác nhau

Bài làm

Tác giả Nguyễn Khoa Điềm và Tố Hữu là hai nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn 1945-1975, thời kỳ đầy biến động và chiến tranh. Cả hai đều chấm dứt cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, và tác phẩm của họ nhiều lúc trở thành bản ghi chép đầy cảm xúc về đất nước và nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là một nhà thơ và nhà văn nổi tiếng, ông có nhiều đóng góp lớn cho văn học Việt Nam. Trích đoạn từ "Đất Nước" trong trường ca "Mặt đường khát vọng" không chỉ tập trung vào khía cạnh lịch sử và chiến tranh mà còn nêu bật sự quan trọng của nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Hình tượng đất nước không chỉ là một vùng đất trải dài mà còn là nguồn cảm hứng vô tận và nguồn năng lượng bất tận từ tâm hồn nhân dân. Tố Hữu, một nhà thơ và chính trị gia nổi tiếng, đã để lại nhiều tác phẩm với chủ đề Đất Nước và cuộc chiến tranh giành độc lập. Bài thơ "Việt Bắc" của ông tập trung vào mảnh đất nổi tiếng với cuộc kháng chiến chống Pháp, và qua đó, ông tạo nên một bức tranh hùng tráng về tinh thần chiến đấu và tình yêu quê hương.

Nét chung về hình ảnh đất nước trong hai đoạn trích. Cả hai tác giả đều chú trọng vào hình ảnh của một đất nước độc lập, tự do, nơi con người tự hào làm chủ đất nước của mình. Hình ảnh đất nước không chỉ là một địa lý mà còn là nguồn tình yêu và tự hào, đặc biệt trong những trang sử hào hùng của dân tộc. Cả hai tác giả đều nhấn mạnh truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Đất nước không chỉ là một vùng đất mà còn là sự hiện thân của những người dân yêu nước, họ là những người làm nên vẻ đẹp, hùng vĩ của đất nước.

Đất nước trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là một đề tài mà là biểu tượng của tình yêu, niềm tự hào, và tâm huyết của mỗi người con Việt Nam. Nhà thơ đã sử dụng ngôn ngữ mỹ thuật để tạo ra những hình ảnh sống động, cảm xúc sâu sắc, và lời thơ sâu sắc. Đất nước không chỉ là một không gian địa lý mà còn là không gian tinh thần, mang theo những giá trị văn hóa, lịch sử và tình nghĩa đồng bào. Từ những đoạn thơ của Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy đất nước không chỉ là hình ảnh của cảnh đẹp thiên nhiên, những dòng sông, núi non, mà còn là những kí ức lịch sử, những trận chiến anh hùng, và tình cảm tương thân tương ái giữa những con người Việt Nam.

"Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra đất nước"

Đất nước không chỉ là biểu tượng của sự hi sinh và đoàn kết mà còn là nơi gắn bó tâm linh, nơi chứa đựng những giá trị tinh thần cao quý. Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện sự nhạy bén trong việc chọn lọc ngôn ngữ, hình ảnh, và biện pháp diễn đạt để làm cho đất nước trở nên thực tế và gần gũi với độc giả. Những đường văn của ông không chỉ là những câu thơ đơn lẻ, mà là một sự kết hợp tinh tế của từ ngữ, âm nhạc, và tâm trạng. Cuối cùng, qua những bài thơ về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm truyền đạt một thông điệp mạnh mẽ về tình yêu quê hương, trách nhiệm bảo vệ đất nước, và niềm tự hào về lịch sử dân tộc. Đất nước trong thơ ông không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà là một thực tế sống động, đầy sức sống và ý nghĩa sâu sắc.

Trong bài thơ "Việt Bắc," Tố Hữu đã sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh mạnh mẽ để thể hiện sức mạnh và hào hùng của đất nước Việt Nam trong cuộc kháng chiến.

"Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu sung bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sang như ngày mai lên"

Các đường Việt Bắc được mô tả như những dải đất "rầm rập như là đất rung," tượng trưng cho sự chấn động và mạnh mẽ. Hình ảnh quân đội và dân công điệp điệp trùng trùng, ánh sao đầu sung cùng mũ nan, tạo nên một bức tranh sống động về sự đoàn kết và sự quyết tâm. Bằng cách sử dụng từ láy và biện pháp so sánh cường điệu, Tố Hữu tạo ra những hình ảnh mạnh mẽ và lãng mạn, như bước chân nát đá muôn tàn, lửa bay, sương dày. Những tượng tươn này không chỉ thể hiện sự hy sinh và kiên trì của nhân dân Việt Nam mà còn là biểu tượng của niềm tự hào và lòng yêu nước. Cuối cùng, hình ảnh "đèn pha bật sang như ngày mai lên" thể hiện hy vọng và ánh sáng trong tương lai, tạo nên một tác phẩm thơ đầy tính chất tâm linh và ý nghĩa. Tố Hữu đã thành công trong việc kết hợp các yếu tố này để tạo ra một bức tranh hùng vĩ về sức mạnh của đất nước trong kháng chiến.

Nét riêng – đóng góp của mỗi nhà thơ. Tố Hữu tập trung vào mảnh đất Việt Bắc, tạo nên một bức tranh anh hùng về chiến tranh chống Pháp. Ông thể hiện sự lưu luyến và nhớ nhung giữa những người chiến sĩ và những người ở lại. Nguyễn Khoa Điềm trình bày Đất Nước như một thực thể toàn vẹn, kết hợp lịch sử, văn hoá và tâm hồn dân tộc. Ông tập trung vào ý nghĩa của nhân dân trong việc xây dựng và giữ gìn đất nước.

Nhìn chung, cả hai bài thơ của Tố Hữu và Nguyễn Khoa Điềm đều mang đến cho độc giả những ấn tượng sâu sắc về hình ảnh đất nước Việt Nam trong giai đoạn lịch sử quan trọng. Cảm hứng về độc lập, tự do, tình yêu Tổ quốc, truyền thống bất khuất và vai trò quan trọng của nhân dân làm nên đất nước đã được thể hiện một cách độc đáo qua từng nét văn hóa, nghệ thuật của hai nhà thơ tài năng.

Đề 3: Phân tích, đánh giá việc khái thác các chủ đề, hình tượng, mô típ của sáng tác dân gian (ca dao, thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích) trong 1 tác phẩm văn học hiện đại.

Bài làm

Văn học tồn tại như một dòng chảy vô tận, luôn liên tục chuyển động và phát triển. Trong dòng chảy đó, việc các tác giả sử dụng, biến đổi và sáng tạo từ những nguồn tài liệu có sẵn là không thể tránh khỏi. Điều này đóng góp vào sự phong phú và đa dạng của kho tàng văn học. Truyện Kiều của Nguyễn Du, một tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam, là một ví dụ tiêu biểu cho quá trình sáng tạo, biến đổi và sử dụng các nguồn tài liệu có sẵn trong văn học.

Tác phẩm được lấy cảm hứng từ Truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã không sao chép một cách đơn thuần mà vay mượn một cách có chọn lọc những chất liệu như: cốt truyện, nhân vật, mô típ,... để tạo nên một tác phẩm mới mẻ, mang đậm dấu ấn cá nhân.

Nguyễn Du đã không ngừng tiến xa hơn khỏi khung cảnh cơ bản của Truyện Kim Vân Kiều, mà đã táo bạo tạo ra những biến đổi sáng tạo và phong phú. Việc bổ sung nhân vật Thúy Kiều, một nhân vật mới với đời sống tâm lý sâu sắc và đầy đau thương, không chỉ làm phong phú thêm câu chuyện mà còn tạo ra sự đồng cảm và sự chú ý đặc biệt từ độc giả. Sự thay đổi về kết thúc, từ một kết cục truyền thống sang một kết thúc mới, mang lại một thông điệp sâu sắc hơn về cuộc sống và con người. Đặc biệt, trong việc phát triển nhân vật, Nguyễn Du đã làm cho những nhân vật đã có trong Truyện Kim Vân Kiều trở nên sống động hơn bằng cách tạo ra những đặc điểm tâm lý phức tạp và mang tính nhân văn sâu sắc. Thúy Kiều, một biểu tượng của sự đẹp đẽ và tài năng, đồng thời cũng là biểu tượng của sự kiên nhẫn và lòng dũng cảm trong cuộc đời, đã trở thành một biểu tượng về sự kiên định và sức mạnh trong cuộc sống, đồng thời là sự lên án sâu sắc đối với sự bất công của xã hội phong kiến. Nguyễn Du đã tận dụng những mô típ quen thuộc trong văn học dân gian, nhưng thay đổi chúng để phản ánh ý tưởng và phong cách sáng tạo của mình. Ví dụ, mô típ "hòn đá thử vàng" không chỉ đơn thuần là một thử thách vật chất, mà còn là một thử thách về lòng kiên nhẫn và sự chống chọi với số phận của Thúy Kiều, từ đó khẳng định giá trị nhân văn của tác phẩm. Sự sáng tạo là yếu tố quan trọng nhất, giúp Truyện Kiều trở thành một tác phẩm vĩ đại, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của văn học Việt Nam. Nguyễn Du đã sáng tạo nên một bức tranh xã hội phong phú và đa chiều, thể hiện tư tưởng nhân văn sâu sắc và khẳng định tài năng vĩ đại của mình trong lịch sử văn học.

Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học Việt Nam, là bông hoa rực rỡ trong vườn hoa văn học thế giới. Sự vay mượn, cải biến và sáng tạo của Nguyễn Du đã góp phần tạo nên giá trị trường tồn của tác phẩm.

Đề 4: Viết bài nghị luận về vấn đề: Thanh niên và việc xác lập giá trị sống

Trả lời:

Có bao giờ bạn tự hỏi mình sinh ra trên cuộc đời là vì điều gì? Bạn sống để làm gì? Chắc hẳn sẽ rất khó khăn để đưa ra câu trả lời, tại sao lại như vậy? Bởi vì chúng ta chưa có cho cuộc đời mình một mục tiêu hay chính là lí tưởng, giá trị sống. Hơn bất cứ thứ gì đây là một yếu tố quyết định tương lai của bạn, đáng để bạn suy ngẫm...

Trước hết, hãy cùng tìm hiểu thế nào là lí tưởng sống? Lí tưởng sống là mục đích, là điều mà mỗi người hướng đến. Là mục tiêu mà mỗi người mong muốn đạt được, là đích đến cho những cố gắng của con người trong cuộc sống. Mỗi người đều có một lí tưởng sống cho mình, người có lí tưởng cao đẹp chính là người sống với mục đích tốt đẹp, suy nghĩ và hành động tích cực, không ngừng phấn đấu và rèn luyện để hoàn thiện bản thân mình.

Vậy tại sao con người phải sống có lí tưởng? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng nhớ đến hình ảnh Bác Hồ trong cuộc trò chuyện với bác Lê - một người bạn của Bác trước khi Người rời khỏi Bến Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước. Năm ấy, khi bác Lê hỏi tiền đâu, Bác đã đưa hai bàn tay ra và nói tiền đây. Trong lòng người thanh niên Nguyễn Tất Thành ngày ấy là cả một nhiệt huyết tràn đầy lí tưởng tìm đường cứu đất nước. Bác có lí tưởng, đó là con đường Cách mạng và Bác đã dùng hai bàn tay của mình để thực hiện lí tưởng đó. Cuối cùng, Bác đã thành công. Vậy nên, khi chúng ta có lí tưởng, có mục tiêu của cuộc đời mình chúng ta sẽ chiến đấu đến cùng để hoàn thành nó. Con người sống trong cuộc đời này ai cũng có ước mơ, có mục đích sống. Và chỉ khi đó ta mới sống hết mình, sống có kế hoạch, sống đúng nghĩa của sống. lí tưởng sống chính là điều kiện để con người vươn lên hoàn thiện bản thân mình hơn. Người sống có lí tưởng sẽ thành công hơn trong cuộc sống, trở thành một người lạc quan, sống có ích cho xã hội. Đó là điều hiển nhiên và Bác Hồ là một minh chứng rõ nhất. Hoặc lướt đọc qua cuộc đời của những người thành công ta không thể phủ nhận một điều rằng họ có ước mơ, họ phấn đấu từng ngày để hoàn thiện ước mơ. Mỗi người nên tự lựa chọn cho mình một lối đi riêng, một cuộc đời, một lí tưởng riêng và không ngừng nỗ lực để đi đến cuối đỉnh của thành công - hoàn thành lí tưởng của cuộc đời mình.

Chúng ta - những thế hệ trẻ của tương lai, của đất nước, càng nên sống có mục tiêu, có hoài bão, có ước mơ. Nếu trong thời kì cách mạng ngày trước thế hệ thanh niên yêu nước lấy lí tưởng cộng sản làm lí tưởng chung, sẵn sàng chiến đấu hi sinh để đổi lấy bình yên cho tổ quốc. Còn chúng ta bây giờ, được sống trong thời kì hòa bình, được tự do lựa chọn mục tiêu sống của cuộc đời mình. Có thể bạn mong muốn sau này có thật nhiều tiền, đi thật nhiều nơi, mục tiêu của bạn là được đi vòng quanh thế giới. Hay bạn ước mình sẽ có thể mang nụ cười, chia sẻ tình yêu thương đến với mọi người. Và để làm được điều đó bạn bắt đầu từ những chuyến đi thiện nguyện nhỏ. Lí tưởng, ai cũng có. Nhưng quan trọng bạn đã nuôi dưỡng lí tưởng đó như thế nào? Tôi có một cậu bạn, từ bé đã mơ ước được bay lượn trên bầu trời - cậu ấy muốn được làm phi công. Ngày thơ bé, ước mơ đó vô cùng mãnh liệt. Nhưng rồi theo thời gian, cậu ấy lớn lên, đến bây giờ khi đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời, cậu ấy đã không điền vào phiếu đăng kí thi chuyên ngành hàng không. Tôi hỏi tại sao, cậu ấy chỉ lắc đầu và nói cậu không đủ khả năng. Tôi tự hỏi, gần mười hai năm trời cậu kiên trì theo đuổi, coi đó như mục đích sống của cuộc đời, tại sao bây giờ lại buông dễ dàng như vậy? Nhưng câu nói sẽ không bao giờ từ bỏ, cậu sẽ chờ đến một ngày cậu đủ điều kiện để thực hiện điều đó. Cả cuộc đời cậu ấy chỉ theo đuổi duy nhất một điều đó, và tôi tin cậu sẽ không bao giờ từ bỏ. Thật ra chúng ta ai cũng có lúc như thế, bởi lẽ ta chưa biết sẽ theo đuổi lí tưởng bằng cách nào, nên làm như thế nào?

Một điều ta rõ ràng có thể thấy, những người thành công luôn là những người sống có lí tưởng, kiên trì theo đuổi đam mê. Còn những thanh niên sống chơi bời, lêu lổng, nghĩ rằng đó là điều tốt, họ buông thả trước cuộc đời. Họ - những con người đó sẽ đi theo con đường sai trái. Thế hệ thanh niên chúng ta bây giờ nên lựa chọn thái độ sống tích cực, sống có ích cho xã hội. Sống để những năm tháng sau này khi nhìn lại ta sẽ không thấy hối tiếc vì những gì đã qua. Riêng đối với bản thân tôi, tôi không có lí tưởng cao siêu hay vĩ đại, nhưng tôi biết tôi muốn được đem cái chữ về với buôn làng, về những nơi núi đồi nghèo khổ. Và tôi vẫn đang hằng ngày tích cực học tập, rèn luyện để có thể thực hiện điều đó.

Sống trong cuộc đời này, thế giới đang không ngừng biến đổi, nếu bạn không có mục đích, có lí tưởng bạn sẽ sớm bị guồng quay xã hội đảo ngược. Hãy chọn cho bản thân một cuộc sống thật ý nghĩa, để những giọt mồ hôi, giọt máu của những thế hệ đã qua không đổ một cách vô ích. Và cuối cùng tôi muốn nhắn nhủ với các bạn rằng: "Tuổi trẻ không có lí tưởng giống như buổi sáng không có mặt trời."

Đề 5: Xây dựng đề cương cho báo cáo nghiên cứu về một vấn đề liên quan đến vấn đề sinh hoạt học đường.

Trả lời:

Tư vấn hướng nghiệp là một trong việc cực kỳ quan trọng đối với học sinh lớp 12 đang chuẩn bị chọn trường thi đại học. Tuy nhiên làm sao để tư vấn hướng nghiệp cho học sinh lớp 12 đúng cách và hiệu quả nhất? Khám phá ngay trong bài viết sau.

1. Hướng nghiệp cho học sinh lớp 12 là gì?

Ở nước ngoài học sinh có được rất nhiều chương trình học ngoại khóa để có thể tìm hiểu và biết bản thân mình thích hay phù hợp với ngành nghề này. Bên cạnh đó nền giáo dục ở các nước tiên tiến còn có riêng các chương trình hướng nghiệp cho học sinh.

Điều này sẽ giúp ích cho các bạn trẻ có thể chọn được một con đường học tập và phát triển nghề nghiệp tốt hơn, rõ ràng hơn. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay vấn đề này chưa thực sự được chú trọng. Học sinh chỉ tập trung học những kiến thức trên sách giáo khoa và chưa có nhiều tiết học định hướng nghề nghiệp hay thực tiễn để giúp các em có thể tự tin lựa chọn nghề nghiệp hay trường đại học đi thi sau khi tốt nghiệp lớp 12.

Việc học sinh chọn được đúng nghề nghiệp và chọn đúng trường để học sẽ giúp các em có thể phát huy được tối đa những khả năng và điểm mạnh của bản thân, phát triển năng lực một cách tối đa và có nhiều cơ hội thăng tiến hơn trong công việc sau này. Chính vì lợi ích như vậy mà bất kỳ ai cũng có thể thấy được mặt tích cực của việc tư vấn định hướng nghề nghiệp.

Còn với doanh nghiệp việc các em học sinh được tư vấn và định hướng được nghề nghiệp phù hợp và đúng đắn sẽ giúp cho tổ chức được phát triển một cách mạnh mẽ hơn, chất xám được đầu tư và khai thác có hiệu quả hơn trong từng mảng công việc và từng phòng ban.

Điều này còn sẽ giúp doanh nghiệp lựa chọn được những lao động có tay nghề chuyên môn, tránh được tình trạng thiếu hụt nhân lực giữa các ngành hot hiện nay. Bên cạnh đó còn hỗ trợ cho doanh nghiệp giảm được tối đa tỷ lệ nghỉ việc do công việc không hợp hay nhân viên không hứng thú với công việc hiện tại.

Về mặt xã hội thì việc tư vấn nghề nghiệp cho học sinh 12 đúng đắn sẽ giúp cho thị trường lao động được cân bằng hơn, giảm tỷ lệ mất cân đối trong nhân lực, đồng thời sẽ giúp xã hội tránh được tình trạng thiếu hay khan hiếm nhân lực trong một số ngành hot hay ngành khó tuyển người.

2. Khi nào phù hợp để định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT

Thực ra việc định hướng nghề nghiệp cho học sinh nên được chú trọng và thực hiện càng sớm càng tốt. Ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường bản thân các em phải biết mình thích điều gì, có điểm mạnh gì và điểm yếu như thế nào để có thể chọn được một nghề nghiệp hay công việc thật phù hợp trong tương lai.

Tuy nhiên hiện nay với nhiều bạn trẻ thì thời điểm định hướng tốt nhất là trong giai đoạn bước vào cấp 3. Đây là giai đoạn cuối cùng của chương trình học phổ thông trên toàn quốc. Đến thời điểm này các bạn sẽ có những nhìn nhận và đánh giá riêng cho bản thân mình về sở thích cũng như năng lực mình có.

Chính vì thế nhà trường, thầy cô, bạn bè hay chính ngay gia đình là những người bên ngoài có cái nhìn về tính cách và con người bạn cũng có thể cho bạn được những tư vấn và lời khuyên tốt nhất.

Tuy nhiên trước đó bạn cũng nên tìm hiểu kỹ về thông tin của từng ngành nghề thông qua tivi, sách báo hay chính những người thân quen trong cuộc sống hằng ngày của mình. Bên cạnh đó nhà trường cũng nên thường xuyên có những buổi học ngoại khóa về hướng nghiệp để các bạn học sinh có một cái nhìn thực tế nhất.

3. Các yếu tố để chọn nghề phù hợp cho tương lai

3.1. Xác định rõ điểm mạnh của bản thân

Việc đầu tiên để bản thân bạn có thể tìm được câu trả lời cho câu hỏi nên chọn nghề gì cho tương lai? đó chính là bạn cần phải nhìn nhận lại bản thân mình, liệu bạn có những điểm mạnh nào và những điểm mạnh đó thì phù hợp với những nhóm ngành nào. Từ đó bạn mới đi sâu hơn để có thể chọn được nghề nghiệp phù hợp nhất.

Việc xác định rõ điểm mạnh của bản thân có thể do bạn tự đánh giá và cả những người xung quanh mình đánh giá đưa ra ý kiến. Trên cơ sở đó, bạn tổng hợp hết những điểm mạnh đó để có thể xác định được những thông tin nghề nghiệp tiếp theo.

Hiện nay với sự phát triển của công nghệ thông tin bạn chỉ cần tra cứu thông tin trên mạng hay làm những bài test để có thể đưa ra được danh sách những nghề nghiệp phù hợp với điểm mạnh của mình.

3.2. Xác định sở thích, niềm yêu thích, hứng thú về lĩnh vực nào đó

Ngoài việc xác định được điểm mạnh của bản thân thì một yếu tố khác cũng tác động rất lớn đến việc chọn nghề nghiệp theo đúng hướng nghiệp cho học sinh lớp 12 đó chính là xác định sở thích và niềm yêu thích riêng của bản thân.

Thường thì trong quá trình hình thành và phát triển theo từng giai đoạn bất cứ ai cũng có một sở thích hay niềm yêu thích nào đó, có bạn sẽ yêu thích nghệ thuật, khoa học, nghiên cứu và có bạn cũng yêu thích khám phá sinh học, thực vật ....

Chính những tư duy về mặt sở thích hay đam mê này cũng là một yếu tố để dẫn lối cho việc lựa chọn nghề nghiệp của các bạn. Hiện nay tại các trường THPT lớn tại các thành phố lớn đều cũng đã có những câu lạc bộ chuyên sâu về các lĩnh vực cho các bạn học sinh có được môi trường tốt nhất để phát triển sở thích và đam mê của bản thân.

3.3. Xác định tính cách của mình

Bên cạnh bạn có điểm mạnh hay sở thích với ngành nghề đó thì một yếu tố khác cũng quyết định đến việc bạn có nên chọn lựa nghề đó để theo đuổi học và làm hay không đó chính là tính cách của bản thân. Nếu bạn là người hướng ngoại, thích sáng tạo, tìm tòi cái mới và thích công việc có sự thay đổi thường xuyên thì hoàn toàn không phù hợp với kế toán, kiểm toán…

Ngược lại nếu bạn là người hướng nội, ít nói, sợ va chạm thì không thể làm được Marketing, quảng cáo,… Việc xác định tính cách của mỗi người được coi như một yếu tố đủ để bạn có được một định hướng nghề tốt cho bản thân trong tương lai.

3.4. Xác định phát triển xu hướng nghề nghiệp trong tương lai

Một yếu tố khác cũng được nhiều người nhắc đến trong các chương trình hướng nghiệp cho học sinh lớp 12 đó chính là nhu cầu nhân lực trong tương lai. Không ai đổ xô đi chọn và học một ngành có quá nhiều người theo học và đang dư nhân sự về sau này.

Học sinh cũng không nên chọn những ngành có dự báo thiếu nhân sự hay sẽ hot trong tương lai, vì nếu ai cũng có suy nghĩ đó thì chắc chắn trong tương lai khi bạn ra trường sẽ có nhiều người giống bạn và tỷ lệ cạnh tranh để có việc làm sẽ cao hơn.

Với yếu tố này bạn cần phải có sự nhìn nhận tổng quan và đánh giá khách quan nhất từ những cơ quan dự báo hay sự kiện liên quan diễn ra trong thời điểm bạn ra trường. Điều quan trọng là bạn nên tìm hiểu và chọn lọc những thông tin có căn cứ và số liệu chính xác nhất.

3.5. Xác định trường có ngành nghề đào tạo phù hợp

Hiện nay có một thực trạng là có rất nhiều trường đại học được thành lập và đào tạo nhiều ngành nghề giống nhau. Vì vậy bạn cần phải xác định được nghề nghiệp phù hợp nhất với bản thân trước tiên, sau đó tìm hiểu đến những trường chuyên đào tạo về ngành nghề đó để có được một sự lựa chọn phù hợp và đúng đắn nhất.

3.6. Xác định điều kiện gia đình

Ngoài ra bạn cũng nên xác định điều kiện kinh tế của gia đình để chọn được một trường đại học hay cao đẳng phù hợp với ngành nghề và chương trình đào tạo. Nếu gia đình bạn có điều kiện kinh tế khá giả có thể đăng ký học tại những trường quốc tế, đào tạo chương trình quốc tế, chất lượng cao hay chương trình liên kết với nước ngoài. Ngược lại bạn có thể học các trường công lập, chính quy có chương trình học và đào tạo bài bản.

4. Các ngành nghề đang có tiềm năng phát triển

4.1. Ngành Công nghệ thông tin

Để có được một chương trình hướng nghiệp cho học sinh lớp 12 có hiệu quả nhất thì bạn cũng nên tìm hiểu sơ qua những ngành học đang có tiềm năng phát triển do thiếu nhân lực trầm trọng trong tương lai. Đầu tiên có thể kế đến là ngành công nghệ thông tin.

Với sự phát triển của công nghệ 4.0 và sắp tới có thể là 5.0 hay 6.0 nên xã hội đang dần dần thay thế tất cả mọi thứ xung quanh bằng công nghệ thông tin. Như hiện nay bạn có thể làm mọi thứ trên điện thoại di động từ đặt xe, đặt vé máy bay online nhanh chóng, tiện lợi, vé xem phim, đặt đồ ăn giao hàng tận nhà hay mua sắm online vô vàn sản phẩm dùng trong cuộc sống… Chính vì thế nguồn lực trong ngành này đang rất hot và dự đoán thiếu nhiều nhân lực trầm trọng trong tương lai.

4.2. Ngành Y-Dược chăm sóc sức khỏe

Một ngành nghề thiếu nhân lực khác thường hay được nhắc tới trong các buổi hướng nghiệp cho học sinh lớp 12 đó chính là Y - dược. Hiện nay xã hội ngày càng phát triển, dân số ngày càng đông, chất lượng sống đang suy giảm,…

Chính vì thế nhiều người mắc bệnh hơn làm cho nhiều bệnh viện đang quá tải và nhân sự trong ngành này cũng đang rất thiếu. Tuy nhiên điểm đầu vào của những ngành Y - dược thường nằm trong top dẫn đầu do chương trình đào tạo và thực hành rất khó và nguy hiểm vì bạn phải trực tiếp làm việc với tính mạng của con người.

4.3. Ngành Marketing

Trong khối ngành kinh tế thì ngành Marketing được đánh giá là thiếu nhân lực và có tiềm năng phát triển trong tương lai. Hiện nay để bán được một sản phẩm thì chất lượng không còn là yếu tố quyết định mà điểm mấu chốt chính là các chương trình Marketing và quảng bá sản phẩm.

4.4. Ngành Dịch vụ

Trong quá trình chọn nghề và thi đại học thì các bạn lớp 12 thường rất kén chọn với ngành dịch vụ. Vì các bạn sợ ngoại hình chưa đủ, phải làm cuối tuần, lễ tết hay ca đêm không có thời gian cho bản thân,… Tuy nhiên nhu cầu nhân lực của ngành dịch vụ cực kỳ khan hiếm và bạn sẽ có nhiều cơ hội làm việc ở nước ngoài với ngành này nếu có khả năng ngoại ngữ tốt. Bên cạnh đó, bạn còn có được trải nghiệm làm việc chuyên nghiệp ở các khách sạn sang trọng, cao cấp, hay tham gia làm hướng dẫn viên tour du lịch khám phá mọi miền tổ quốc hấp dẫn,...

4.5. Ngành Bán hàng - Kinh doanh

Song song với Marketing thì ngành bán hàng kinh doanh cũng đang rất cần một đội ngũ lớn nhân sự trẻ và có năng lực trong tương lai gần.

3. Nói và nghe

Chọn thực hiện theo nhóm học tập một trong các nội dung sau:

Nội dung 1: Thuyết trình về một tác phẩm truyện có cách tiếp cận và thể hiện mới mẻ đối với đời sống, khát vọng của tuổi 20

Bài làm

Thuyết trình: "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" - Nguyễn Nhật Ánh

Nếu bạn từng trải qua những kỷ niệm ngọt ngào của tuổi thơ, những ngày hè êm đềm bên những trang sách của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, hoặc từng lớn lên trong những làng quê yên bình của Việt Nam, thì chắc chắn bạn không thể bỏ qua cuốn sách "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" - một tác phẩm đã được vinh danh bằng giải thưởng văn học ASEAN vào năm 2010 của Nguyễn Nhật Ánh. Cuốn sách đã gây ra một làn sóng mới khi được đạo diễn Victor Vũ chuyển thể thành bộ phim với tựa đề vẫn giữ nguyên.

Nguyễn Nhật Ánh, sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955, là người con của thôn An Mỹ, xã Bình An, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ông là một nhà văn nổi tiếng tại Việt Nam, chuyên viết về thế giới của tuổi mới lớn. Ông được biết đến với biệt danh "ông hoàng của văn học trẻ thơ". Mặc dù trào lưu văn học nước ngoài ngày càng được giới trẻ quan tâm, nhưng những tác phẩm về tuổi thơ của ông vẫn giữ được sức hút đặc biệt đối với độc giả. Điều này là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của văn học Việt Nam.

"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" là một tiểu thuyết dành cho thanh thiếu niên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Cuốn sách được phát hành lần đầu tiên tại Việt Nam vào ngày 9/12/2010. Đây là một trong những tác phẩm dài của ông, ra đời sau "Đảo mộng mơ" và "Lá nằm trong lá". "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" là một trong những cuốn sách bán chạy nhất tại Việt Nam từ năm 2010 đến nay, với tổng số bản in lên đến hơn 20.000 bản. Câu chuyện kể về cuộc sống hàng ngày và tâm trạng của Thiều, một cậu bé 13 tuổi sống ở một vùng quê nghèo. Thiều có một người em trai tên là Tường, một cậu bé đáng yêu, hiền lành và rộng lượng. Trái ngược với Tường, Thiều là một người hướng ngoại, khá tinh quái, nhưng thực sự rất quan tâm và hào hiệp. Câu chuyện cũng mô tả mối quan hệ giữa hai anh em và cộng đồng người dân trong ngôi làng, bao gồm cả gia đình và bạn bè của họ. Thiều nhận ra mình có tình cảm với Mận, một cô bé xinh xắn hơn cậu một tuổi, và học chung lớp với cậu. Một biến cố xảy ra khi nhà Mận bốc cháy, gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận và đưa cô bé về sống chung với gia đình. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận khiến Thiều cảm thấy ghen tỵ. Mùa lũ đến, làng quê bị ngập lụt, gây ra nhiều thiệt hại như đói kém và mất mùa. Trong khi đó, sự ghen tức và hẹp hòi trong Thiều khiến em trai của cậu bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Một ngày, Tường kể cho Thiều nghe một câu chuyện về một nàng công chúa, là nguồn động viên giúp Tường hồi phục. Công chúa đó thực chất là Nhi, con gái của một người dân trong làng, có vấn đề về thần kinh và cho rằng mình là công chúa. Sự quan tâm của Tường đã giúp Nhi tìm lại sức mạnh và sự tự tin của mình, khiến cô bé trở lại bình thường.

Đây là câu chuyện cổ tích về tuổi thơ, tình ạnh em, về tình bạn giữa cuộc sống xô bồ, vội vã này. Nó giống như những bông hoa vàng trên bãi cỏ xanh rộng lớn để rồi khi gấp trang sách lại, ta khẽ mỉm cười, chợt nhận ra có cái gì đó nảy nở trong lòng. Đây là lần đầu tiên ông đưa ra nhân vật phản diện vào tác phẩm của mình . Sự đố kỵ, hung hang của Sơn khi cố giành bé Mận từ tay Thiều. Bé Nhi chính là yếu tố làm cho câu chuyện liền mạch, tình cảm của các cô-cậu bé cũng gắn bó hơn bao giờ. Đối với những độc giả trung thành của nhà văn thì đây là tác phẩm có nét độc đáo so với các tác phẩm trước. Nguyễn Nhật Ánh trong một lần trả lời phỏng vấn đã chia sẻ : “Tuổi thơ của tôi là cả một thế giới đầy ám ảnh, tôi luôn luôn bắt gặp mình thổn thức khi nhớ về những ngày thơ ấu. Khi ấy là khi tôi nhận ra mình đã ở quá xa sân ga tuổi thơ và tôi viết những cuốn sách để kéo chúng lại gần.”. Cuốn sách“Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” không chỉ là cuốn sách chỉ để đọc một lần, thi thoảng chúng ta mở vài trang rồi gấp lại để khiến tâm hồn thêm chút thư thái, thảnh thơi giữa cuộc sống vội vã. Trong tác phẩm “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ” của Nhật Ánh cũng viết rằng: “ Cuốn sách này không dành cho trẻ em nhưng viết cho những ai từng là trẻ em.”. Và ở cuốn sách “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” cũng vậy, cuốn sách không chỉ dành cho các em thiếu nhi mà dành cho ai từng có một tuổi thơ.

Nội dung 2: Thuyết trình về mối quan hệ giữa vay mượn và sáng tạo trong sáng tác văn học qua phân tích một số tác phẩm cụ thể lấy từ văn học Việt Nam (thơ, truyện, kịch)

Bài làm

Kính thưa quý thầy cô và các bạn. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau bước vào một hành trình thú vị, khám phá về việc vay mượn, cải biến và sáng tạo trong văn học. Đây là một chủ đề không chỉ đầy thách thức mà còn rất hấp dẫn, vì nó là nền tảng của sự phát triển và đa dạng hóa trong ngành nghệ thuật. Trên hành trình này, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá sâu hơn về cách những tác giả thông qua việc sáng tạo và tái chế các yếu tố văn học đã tồn tại, để tạo ra những tác phẩm mới mẻ, độc đáo và ý nghĩa.

Vấn đề về việc vay mượn, cải biến và sáng tạo không chỉ là một khía cạnh kỹ thuật của việc viết văn, mà còn là một phần quan trọng của quá trình sáng tạo nghệ thuật. Khi một tác giả lấy cảm hứng từ những tác phẩm trước đó, họ không chỉ đơn giản là sao chép, mà còn làm mới và làm giàu thêm ý nghĩa, tạo ra một sản phẩm mới với cái nhìn và cảm xúc riêng. Qua cuộc thảo luận hôm nay, chúng ta hy vọng sẽ có cái nhìn rõ ràng hơn về tầm quan trọng của việc vay mượn, cải biến và sáng tạo trong văn học, cũng như cách mà những yếu tố này góp phần làm nên sự độc đáo và giá trị của một tác phẩm nghệ thuật. Hãy cùng nhau khám phá và thảo luận để hiểu sâu hơn về chủ đề này và trao đổi ý kiến của mình trong quá trình học tập và nghiên cứu văn học.

Văn học, với bản chất nghệ thuật đặc biệt của nó, là nơi mà các tác giả sử dụng ngôn ngữ để phản ánh tư tưởng, cảm xúc và quan điểm của mình về thế giới xung quanh. Trong quá trình sáng tác, họ không chỉ dựa vào trải nghiệm và cảm nhận cá nhân mà còn mượn một số yếu tố từ các tác phẩm khác. Tuy nhiên, việc mượn không đồng nghĩa với việc sao chép. Để tạo ra một tác phẩm độc đáo và mang dấu ấn riêng, các tác giả thường cần phải cải biến những yếu tố mượn và sáng tạo trên cơ sở đó. Mượn là việc sử dụng các yếu tố từ các tác phẩm khác như cốt truyện, nhân vật, chi tiết, mô típ, hình ảnh, ngôn ngữ... Mục đích của việc mượn là để làm phong phú thêm nội dung và hình thức của tác phẩm, tạo sự liên kết với các tác phẩm khác và giúp tác giả truyền đạt quan điểm, tư tưởng của mình. Ví dụ, việc Nguyễn Du lấy cảm hứng từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để sáng tạo ra Truyện Kiều hay việc nhiều nhà văn Việt Nam chuyển thể vở kịch Hamlet của Shakespeare sang sân khấu.

Tuy nhiên, việc mượn chỉ là bước khởi đầu. Để tạo ra một tác phẩm độc đáo, các tác giả thường cần phải cải biến những yếu tố đã mượn để phù hợp với mục đích sáng tạo của mình. Cải biến có thể thể hiện qua việc thay đổi cốt truyện, nhân vật, chi tiết, mô típ... và sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh sáng tạo và độc đáo. Ví dụ, Nguyễn Du đã cải biến nhiều chi tiết trong Truyện Kiều để tạo ra một tác phẩm mới với nội dung và ý nghĩa mới, hoặc Shakespeare đã thay đổi nhiều yếu tố trong vở kịch Hamlet để phản ánh văn hóa và xã hội của nước Anh. Sáng tạo là yếu tố quan trọng nhất, thể hiện bản sắc riêng của mỗi tác giả. Sáng tạo là khả năng kết hợp hài hòa giữa việc mượn và cải biến, đồng thời thể hiện tư tưởng, quan điểm và tình cảm của tác giả qua tác phẩm của mình. Ví dụ, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một sáng tạo độc đáo, thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc và tài năng nghệ thuật của ông, trong khi Hamlet của Shakespeare là một sáng tạo phản ánh những suy tư về cuộc đời và con người.

Vay mượn, cải biến và sáng tạo có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau. Vay mượn là nền tảng để cải biến và sáng tạo. Cải biến là cầu nối giữa vay mượn và sáng tạo. Sáng tạo là yếu tố quyết định giá trị của tác phẩm. Việc sử dụng hợp lý các yếu tố vay mượn, cải biến và sáng tạo góp phần tạo nên giá trị của tác phẩm. Khi vay mượn, cần ghi rõ nguồn gốc để thể hiện sự tôn trọng đối với tác giả và tác phẩm gốc. Cải biến và sáng tạo là yếu tố thể hiện bản sắc riêng của tác giả.

Hiểu được tầm quan trọng của vay mượn, cải biến và sáng tạo giúp chúng ta đánh giá cao giá trị của tác phẩm văn học, đồng thời sáng tạo hiệu quả trong các lĩnh vực khác nhau.

Nội dung 3: Thảo luận về đề tài tôn trọng và bảo vệ quyền được phát biểu chủ kiến trước các vấn đề đời sống

Bài làm:

Xin chào thầy cô và các bạn thân mến. Tôi là…………, học sinh lớp 12….., trường………………..

Các bạn thân mến! Hiện nay, các cuộc thi tái chế trang phục từ rác thải trong trường học đang gây nhiều tranh cãi. Nhiều ý kiến cho rằng những cuộc thi này chỉ mang tính hình thức, không đem lại hiệu quả bền vững trong việc bảo vệ môi trường.

Thời gian gần đây, nhiều trường học trên khắp cả nước đã tổ chức các cuộc thi tái chế rác thải, nhựa phế liệu thành trang phục cho học sinh tham gia. Những cuộc thi này được tạo ra với mục đích nâng cao nhận thức và ý thức cho các bạn trong vấn đề bảo vệ môi trường. Thông qua đây, những thông tin, kiến thức về rác thải nhựa và phương pháp tái chế chúng đến với học sinh một cách dễ tiếp thu, dễ ứng dụng hơn. Nhiều bạn đã có những sản phẩm rất chất lượng, công phu, thể hiện được tài năng, tính sáng tạo của mình.

Tuy nhiên, thời trang tái chế trong trường học cũng gây tranh cãi khi nhiều ý kiến cho rằng chúng chỉ mang tính hình thức bởi hầu hết các sản phẩm làm ra đều dùng từ giấy, bao nilon, chai nhựa mới với số lượng lớn. Bên cạnh đó, để làm ra các trang phục như vậy phải sử dụng rất nhiều băng dính, hồ dán… – những thứ vẫn liên quan đến nhựa. Sau khi kết thúc cuộc thi, những sản phẩm này cũng không thể sử dụng trong thực tiễn và lại quay về làm rác thải, vừa gây lãng phí vừa làm ô nhiễm môi trường.

Cô Phạm Thị Bình (giáo viên Trường THPT Dân Tộc Nội Trú số 2, tỉnh Nghệ An) nhận xét: “Những cuộc thi này chủ yếu chỉ mang tính hình thức, không đem lại nhiều hiệu quả, thậm chí còn xả rác nhiều hơn ra môi trường”.

Chị Hoàng Thu Trang (Nguyên Chủ nhiệm CLB Khởi nghiệp xanh và hành động vì môi trường GSEA) cho rằng: “Mình tôn trọng tinh thần muốn cống hiến của các bạn học sinh cũng như nhà trường, dù còn nhỏ nhưng các bạn cũng góp một phần ảnh hưởng, thay đổi tư duy về việc bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, nhiều trường và đơn vị lại không có quy định rõ ràng về nguồn gốc nguyên liệu. Thay vì sử dụng vật liệu tái chế thì các bạn lại “tự tạo vòng đời” mới bằng việc mua đồ mới (chai nước, giấy) để dùng. Các bạn dường như hiểu sai về khái niệm tái chế hay giảm thiểu. Hậu sự kiện, một số nhóm chạy theo thành tích nên đôi khi không đạt được giải như mong muốn lại “bỏ mặc” những sản phẩm mình vừa tái chế, không thu gom đúng cách”.

Xuất phát từ mong muốn tốt đẹp, nhưng hầu hết những cuộc thi này không mang đến kết quả đúng như mục đích mà nó hướng tới: đó là góp phần bảo vệ môi trường.

Theo chị Hoàng Thu Trang, để những cuộc thi thời trang tái chế mang lại kết quả đúng với mục đích thì không nên tổ chức nhỏ lẻ ở mỗi trường và liên kết mạnh trong vùng, hạn chế chạy theo thành tích. “Ngoài ra, nhà trường còn có thể tổ chức đặt bàn hoặc kho thu gom phục vụ cho cuộc thi. Bên cạnh đó, việc tái chế nên là việc hàng ngày chứ không phải gần đến cuộc thi thì đi mua hẳn đồ mới về để dùng rồi tái chế. Bảo vệ môi trường cần là vấn đề lâu dài”.

Với cô Phạm Thị Bình, muốn nâng cao nhận thức của học sinh trong vấn đề về môi trường còn những cách hiệu quả hơn: “Nhà trường có thể tổ chức một số cuộc thi tái chế nhưng theo hướng phát minh các mô hình, trò chơi, sản phẩm mang tính mỹ thuật”. Có nhiều phong trào, hoạt động chống rác thải nhựa vẫn đang được triển khai thực hiện tại nhiều trường học mà không phải là thi thời trang tái chế, ví dụ như các mô hình: chế tạo đồ dùng, đồ chơi, tác phẩm nghệ thuật từ nhựa phế liệu; sáng tạo tranh, ảnh, poster, infographic tuyên truyền; đổi rác lấy cây xanh… Đơn cử như sự kiện “Đổi rác lấy tương lai” được các bạn sinh viên thuộc Câu lạc bộ Sinh học (Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) tổ chức tháng 10 vừa qua đã thành công thu hút nhiều bạn trẻ trên địa bàn Hà Nội tham gia với nhiều hoạt động ý nghĩa: đổi rác lấy cây, các sản phẩm handmade được tái chế từ rác thải nhựa hay từ giấy các loại (vòng tay cao su; xích đu, lọ hoa bằng que kem, hoa giấy,…); khuyến khích sử dụng những sản phẩm thân thiện với môi trường…

Bên cạnh đó, tổ chức những cuộc thi, chương trình để nâng cao nhận thức cho các bạn học sinh không hẳn là điều nhất thiết phải làm. Việc bảo vệ môi trường ở lứa tuổi học trò có thể xuất phát từ những hành động đơn giản, thường ngày. Em Hà Khánh Đạt (học sinh trường THPT Hà Huy Tập, TP Vinh) chia sẻ: “Để bảo vệ môi trường thì trước tiên cần đảm bảo trường lớp được sạch sẽ. Chúng em vẫn thường xuyên có phát động các phong trào dọn dẹp vệ sinh trong trường học, nhặt rác, tiết kiệm điện…”. Đó là những hành động nhỏ bé nhưng thiết thực mà các bạn học sinh có thể làm hàng ngày để góp phần bảo vệ, giữ gìn môi trường xanh – sạch – đẹp.

Trên đây là phần thảo luận của tôi về vấn đề: Thời trang tái chế tại trường học: có thật sự hiệu quả?. Rất mong sự góp ý của thầy cô và các bạn. Cảm ơn mọi người đã chú ý lắng nghe.

Bài tiếp theo: Soạn bài Tác gia Hồ Chí Minh - Kết nối tri thức

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Sắp xếp theo

    Soạn văn 12 Kết nối tri thức

    Xem thêm