Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
Để làm tốt bài văn phân tích hình ảnh bà Tú bài thơ Thương vợ của Tú Xương các em học sinh cũng cần lưu ý đến nội dung cũng như đưa ra các cách phân tích hợp lý. Hãy cùng tham khảo một số những bài văn mẫu lớp 11 dưới đây để có những kinh nghiệm làm văn tốt nhất nhé.
Phân tích hình ảnh người vợ trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
- 1. Dàn ý mẫu Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
- 2. Bài văn mẫu Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
- 2.1. Bài Mẫu Số 1: Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
- 2.2. Bài mẫu số 2: Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
- 2.3. Bài mẫu số 3: Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
- 2.4. Bài mẫu số 4: Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
- 2.5. Bài mẫu số 5: Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
- 2.6. Bài mẫu số 6: Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
- 2.7. Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương mẫu 7
- 2.8. Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương mẫu 8
- 2.9. Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương mẫu 9
1. Dàn ý mẫu Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
I. Mở bài
- Trình bày khái quát về hình tượng người phụ nữ trong thơ ca trung đại: Được nhiều tác giả nhắc đến với tấm lòng trân trọng và niềm cảm thương sâu sắc cho số phận như Nguyễn Dữ, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du…
- Thương vợ của Trần Tế Xương là một trong những bài thơ tiêu biểu viết về hình tượng người phụ nữ. Bài thơ đã thể hiện thành công hình tượng bà Tú
II. Thân bài
a. Hình tượng bà Tú nổi lên là một người phụ nữ vất vả lam lũ
- Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”
+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm khác
+ Địa điểm “mom sông”:phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.
⇒ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định, bà không những phỉ nuôi còn mà phải nuôi chồng
- Sự vất vả, lam lũ được thể hiện trong sự bươn chải khi làm việc:
+”Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng
+ Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tình khái quát
+ “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu
⇒ Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ
+ Eo sèo… buổi đò đông: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc
+ Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cranh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu
- Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.
⇒ Thực cảnh mưu sinh của bà Tú : Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.
- Năm nắng mười mưa: số từ phiếm chỉ số nhiều
⇒ Sự vất vả lam lũ, cực nhọc của Bà Tú
b. Hình tượng bà Tú với những nét đẹp và phẩm chất đáng quý, đáng trọng
- Tuy hoàn cảnh éo le vất vả, nhưng bà Tú vẫn chu đáo với chồng con :
+ “nuôi”: chăm sóc hoàn toàn
+ “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu
⇒ Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con.
- Phẩm chất tốt đẹp của Bà Tú còn được thể hiện trong sự chăm chỉ, tần tảo đảm đang
+ “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, không than vẫn
+ “dám quản công”: Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.
⇒ Cuộc sống vất vả gian truân nhưng càng làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của bà Tú: đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú
⇒ Đó cũng là vẻ đẹp chung cho nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến
c. Nghệ thuật thể hiện thành công hình tượng bà Tú
- Từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm.
- Vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ của văn học dân gian.
- Hình tượng nghệ thuật độc đáo.
- Việt hóa thơ Đường
III. Kết bài
- Khẳng định lại những phẩm chất tốt đẹp của bà Tú
- Trình bày suy nghĩ bản thân
2. Bài văn mẫu Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
2.1. Bài Mẫu Số 1: Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
Người phụ nữ đã đi vào văn học khá nhiều và trở thành một trong những hình tượng lớn của văn chương kim cổ. Tuy nhiên viết về người phụ nữ với tư cách là một người vợ bằng tình cảm của một người chồng thì quả thật rất hiếm. Thương vợ của Tú Xương nằm trong số những trường hợp hiếm hoi đó. Bài thơ là chân dung bà Tú, người bạn đời của Tú Xương, được tái hiện bằng tất cả tấm lòng chân thành của một người chồng dành cho vợ.
Hình ảnh bà Tú hiện lên trước hết gắn liền với bao nỗi gian truân khó nhọc. Thân đàn bà chân yếu tay mềm nhưng bà Tú vẫn phải một mình làm lụng buôn bán, một mình xông pha, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ để lặn lội kiếm sống. Cái gian truân khó nhọc được cụ thể hoá bằng thời gian quanh năm, bằng không gian ven sông, quãng vắng, buổi đò đông. Nghĩa là triền miên suốt năm suốt tháng không ngơi không nghỉ, lúc nào cũng đầu tắt mặt tối. Đặt trong những không gian, thời gian trên hình ảnh bà Tú dường như lại càng trở nên nhỏ bé, cô đơn, tội nghiệp hơn. Cái vất vả nhọc nhằn còn được hiện rõ trong gánh nặng mà bà Tú phải gánh trên vai: Một gia đình với năm con và một chồng. Năm đứa con với biết bao nhu cầu, bao đòi hỏi hàng ngày, bên cạnh đó đức ông chồng giàu chữ nghĩa đã không giúp vợ được gì lại còn trở thành một mối bận tấm lo lắng của vợ, mà nhu cầu của ông chồng ấy nào có ít ỏi gì, nó đủ làm thành một phía để cân bằng với phía năm đứa con. Thế mới biết cuộc sống hằng ngày của bà Tú là như thế nào. Lo cho con, lo cho chồng, mà phải lo làm sao cho đủ tức là không thừa nhưng cũng không được thiếu. Bằng chừng ấy nỗi lo trĩu nặng trên đôi vai gầy của người vợ, người mẹ ấy. Chính vì vậy mà phải bươn chải nắng mưa khuya sớm, bất kể hiểm nguy hay đơn độc. Nói sao cho xiết những nhọc nhằn cơ cực mà bà Tú phải gánh trong suốt cuộc đời của mình. Hình ảnh bà Tú gợi cho ta nghĩ tới hình ảnh của những người đàn bà đảm đang, lam lũ, lặn lội kiếm sống nuôi chồng, nuôi con đã lặng lẽ đi qua trong cuộc sống dân tộc.
Cuộc đời nhiều gian truân vất vả đó là sự thiệt thòi của bà Tú. Thế nhưng cũng chính cuộc đời đó đã làm nổi bật bao vẻ đẹp đáng quý ở người phụ nữ này, vẻ đẹp đầu tiên là vẻ đẹp của sự tảo tần, chịu thương chịu khó. Gánh cả một gánh nặng gia đình trên vai với bao khó khăn cơ cực, lại cô đơn thui thủi một mình, không người sẻ chia giúp đỡ, ấy vậy mà vẫn cần mẫn, không một chút chểnh mảng, bỏ bê công việc. Bà Tú cứ vậy, chăm chỉ, miệt mài, chịu thương, chịu khó, không nề hà khó khăn nguy hiểm, không quản ngại nắng mưa khuya sớm. Hình ảnh thơ không chỉ diễn tả bao nỗi vất vả mà còn làm nổi bật sự nhẫn nại, kiên trì kiếm sống chu tất cho chồng, cho con của bà Tú. Diễn tả đầy đủ nhất điều này có lẽ không câu thơ nào hơn hai câu:
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông."
Con cò, thân cò là hình ảnh quen thuộc trong văn học truyền thống, là biểu tượng cho người nông dân nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Dùng hình ảnh "lặn lội thận cò", Tú Xương đã khái quát được bao phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam truyền thống mà đức tính nổi bật chính là sự tần tảo, chịu thương chịu khó.
Bà Tú còn đẹp ở sự đảm đang tháo vát, ở sự chu đáo với chồng, với con. Cảnh làm ăn kiếm sống của bà Tú thật không dễ dàng gì, nhưng không lúc nào ta thấy bà Tú bó tay chùn bước, lúc thì một mình lặn lội nơi quãng vắng, khi lại đua chen giành giật chốn đò đông. Tất cả đều để chu tất cho gia đình: nuôi đủ năm con với một chồng. Sức vóc một người đàn bà giữa thời buổi cơm cao gạo kém mà vẫn đảm bảo cho chồng cho con một cuộc sống dẫu chưa phải là sung túc nhưng không đến nỗi thiếu thốn như vậy thì quả là giỏi giang hiếm có. Đó là minh chứng cho cái tháo vát đảm đang ở bà Tú, cũng là biểu hiện thuyết phục về tấm lòng hết mực dành cho con cho chồng của người phụ nữ này.
Không chỉ có vậy, qua sự thể hiện của nhà thơ, bà Tú còn hiện lên với một đức hi sinh cao cả. Dẫu bao nhiêu khó khăn vất vả bà Tú vẫn không một lời kêu than phàn nàn, không một lời oán trách. Một mình bà âm thầm, lặng lẽ gánh trọn gánh nặng gia đình. Ngay cả khi ý thức một thực tế cay đắng trong quan hệ vợ chồng, một duyên hai nợ thì bà Tú vẫn chấp nhận tất cả sự vất vả nhọc nhằn về phía mình - Năm nắng mười mưa dám quân công. Đó là sự hi sinh quên mình, là tấm lòng vị tha hết mực của bà Tú dành cho ông Tú và những đứa con.
Được tái hiện bằng tấm lòng thương vợ chân thành, sâu sắc của Tú Xương, hình ảnh bà Tú trong bài thơ đã trở thành mội hình ảnh đẹp tiêu biểu, điển hình cho những người phụ nữ, những người vợ Việt Nam ngàn đời.
2.2. Bài mẫu số 2: Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
Trong sự nghiệp thơ ca phong phú, đa dạng của Tú Xương, "Thương vợ" được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất. Cái hay của bài thơ là đã thể hiện được một cách thấm thía, cảm động thái độ trân trọng, tri ân của nhà thơ đối với sự hi sinh, tảo tần của vợ. Quan trọng hơn từ tác phẩm này người ta thấy hiện lên bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam với những nét phẩm chất điển hình.
Bà Tú tên thật là Phạm Thị Mẫn, xuất thân dòng dõi nho gia "con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ". Bà nhẫn nại, cam phận làm người vợ thảo hiền, làm chỗ dựa tinh thần cho cuộc đời Tú Xương - một trí thức không gặp thời, long đong trên con đường sự nghiệp.
Có lẽ vì thế mà hình tượng người vợ trở thành đề tài quen thuộc trong thơ của Tú Xương. Những bài thơ của ông viết về vợ thường mang nhiều sắc điệu: có khi là lời thủ thỉ tâm tình, lời bông đùa hóm hỉnh, cũng có lúc là nỗi niềm chua chát, xót xa nhưng bao trùm tất cả vẫn là thái độ trân trọng cảm thông, sự hàm ơn chân thành.
Nói đến người phụ nữ truyền thống là nhắc đến không gian gia đình, ở đó người vợ có vai trò quan trọng trong việc thu vén, chăm lo sự nghiệp, danh vị của chồng. Bà Tú cũng không phải là ngoại lệ, nhưng vào buổi Tây, Tàu nhốn nháo, không còn đâu cái cảnh thơ mộng "bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ", bà Tú cũng phải cuốn theo guồng quay của cuộc đời phiền tạp, dạt theo cuộc bươn chải với đổi chác, bán mua :
"Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng"
Chân dung của bà Tú hiện lên không phải từ dáng vóc, hình hài mà từ không gian và thời gian công việc. "Quanh năm" không chỉ là độ dài thời lượng mà còn gợi ra cái vòng vô kì hạn của thời gian, nó chứng tỏ cuộc mưu sinh không có hồi kết thúc. Không gian "mom sông" vừa có giá trị tả thực - là doi đất nhô hẳn ra lòng sông, vừa gợi lên không gian sinh tồn bấp bênh, chông chênh.
Bà Tú phải hằng ngày xuất gia chường mặt ra với đời bởi trên vai bà là cả một gánh nặng gia đình: "Nuôi đủ năm con với một chồng". Biết bao hàm ý toát lên trong cụm từ "nuôi đủ", nó vừa thể hiện sự chăm lo tận tụy chuyện cơm ăn áo mặc lại vừa hàm chỉ sự chịu đựng. Cách nói của nhà thơ đầy ý vị "năm con với một chồng". Nhà thơ đã tự hạ mình ngang hàng với các con khi cay đắng, tủi hổ, xót xa nhận ra mình cũng là một thứ con trong gánh nặng của vợ.
Ca dao xưa khi nói tới hình tượng người phụ nữ thường liên tưởng tới hình ảnh con cò:
"Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non"
Tú Xương đã vận dụng sáng tạo chất liệu ca dao trong hai câu thơ:
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông"
Nhà thơ vừa tiếp thu, vận dụng văn học dân gian lại vừa có những sáng tạo độc đáo. Với việc dùng từ "thân cò", tác giả vừa thể hiện danh phận khiêm nhường vừa làm nổi rõ số kiếp lận đận của bà Tú. Trong cấu trúc cú pháp của câu thơ, biện pháp đảo ngữ đã được sử dụng nhằm nhấn mạnh, gia tăng tính chất âm thầm nhọc nhằn trong công việc của bà Tú. Nếu như hình ảnh "đò đông" thể hiện tính chất bấp bênh trong cuộc mưu sinh thì từ láy "eo sèo" đã diễn tả sinh động sự ồn ào, nhốn nháo, phức tạp, nhục nhằn trong công việc hằng ngày mà bà Tú phải chịu đựng.
Không chỉ tần tảo, lam làm, chịu thương chịu khó, bà Tú trong "Thương vợ" của Tú Xương còn là con người bổn phận vị tha, lấy hi sinh làm hạnh phúc và lẽ sống của mình.
Hóa thân vào nhân vật bà Tú, nhà thơ đã nói hộ nỗi niềm tâm sự của vợ, đó là thái độ chín chắn trước duyên phận, độ lượng trước gia cảnh. Hiện lên trong tâm trí người đọc là hình ảnh một người phụ nữ lặng lẽ an phận, ráng sức lo toan, không trách phận than thân, không phiền lòng phẫn chí. Việc vận dụng thành ngữ số từ "một duyên hai nợ", "năm nắng mười mưa" làm cho lời thơ trở nên cô đúc. Lời kể công, kể khổ của Tú Xương dành cho vợ trở nên trĩu nặng hơn, day dứt hơn. Sự cam chịu và đức hi sinh của bà Tú như càng nổi bật hơn.
Ý thức được nỗi nhọc nhằn gian truân của vợ mà không thể san sẻ, đỡ đần, hai câu kết của bài thơ là tiếng lòng mang nặng nỗi niềm chất chứa:
"Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không"
"Thói đời" ở đây phải chăng là sản phẩm của buổi giao thời đã tạo ra những người chồng hờ hững? để rồi người phụ nữ phải mang gánh nặng trụ cột gia đình. Câu thơ thể hiện nỗi dằn vặt, thái độ chân thành tự trách mình của nhà thơ đồng thời bộc lộ tâm trạng bất lực trong bi kịch tinh thần của người trí thức: trở thành người thừa ngay trong chính gia đình của mình.
Có thể nói với "Thương vợ", Tú Xương đã khắc hoạ rõ nét và sống động hình ảnh người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Đằng sau tiếng thơ là tiếng lòng tri ân trân trọng, cảm thông đồng thời là nỗi day dứt khôn nguôi của nhà thơ đối với người vợ thảo hiền.
2.3. Bài mẫu số 3: Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
Viết về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, đã từng có rất nhiều những áng thơ văn nói lên nỗi khổ hạnh, buồn tủi của số phận nữ nhi bất hạnh, khổ đau. Nhà thơ Trần Tế Xương cũng vậy, người phụ nữ trong thơ ông không phải ai khác mà chính là người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh của mình. Với những tình cảm chân thành, mộc mạc, ông đã khắc họa lại hình ảnh bà Tú trong bài thơ "Thương vợ" một cách rất chân thực và giàu cảm xúc.
Bà vừa là một người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh, vừa là một người mẹ giàu lòng yêu thương. Mọi khó khăn, khổ cực trên cuộc đời này chẳng là gì so với người phụ nữ can đảm, chịu thương chịu khó ấy.
"Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông."
Hình ảnh một người phụ nữ tảo tần, vất vả ở mom sông - nơi ẩn chứa rất nhiều mối hiểm nguy, thậm chí có thể mất mạng bất cứ lúc nào - đã gợi lên bao cảm xúc cho người đọc. Trong thời buổi khó khăn, kiếm được đồng tiền rất cực khổ, nuôi được thân mình thôi đã là vất vả lắm rồi. Vậy mà bà Tú của Tế Xương còn phải "Nuôi đủ năm con với một chồng". "Đủ" không những đủ ăn mà còn đủ mặc, dù không dư giả hay cao sang nhưng cũng không thiếu thứ gì. Mặt khác, hai vế của câu thơ "năm con với một chồng" giống như một chiếc đòn gánh vô hình nhưng rất dài đang đè nặng lên đôi vai gầy của người phụ nữ đáng thương. Nhưng bà không hề than vãn hay kêu ca nửa lời. Bà cam chịu, hi sinh bằng tất cả tấm lòng nhân ái và yêu thương của mình. Tế Xương đã tự ví bà với "thân cò" - một hình ảnh rất đẹp, rất nhân văn và quen thuộc khi nói về những người nông dân lam lũ, vất vả. Bà lặn lội khi quãng vắng, rồi lại "eo sèo mặt nước buổi đò đông". Trong hai câu thơ này, tác giả đã cố tình dùng phép đảo ngữ đẩy hai từ "lặn lội", "eo sèo" lên đầu câu để nhấn mạnh thêm nữa sự vất vả, bon chen của bà Tú. Người phụ nữ ấy không những yêu chồng, thương còn mà còn rất sắc sảo, nhanh nhẹn. Vì thế bà mới có thể vững chân làm nghề buôn bán quanh năm được. Nhất là trong lúc khó khăn, ai ai cũng cố gắng hết mình để giành giật lấy từng đồng từng xu, bà Tú cũng vậy, bà cũng phải bon chen lắm, nỗ lực lắm mới có thể "nuôi đủ năm con với một chồng", cộng thêm cả bản thân bà nữa bẩy người. Một mình bà nuôi cả bẩy miệng ăn.
Nhưng dù có khổ cực đến đâu đi nữa, người phụ nữ ấy vẫn luôn đứng vững và cam chịu tất cả:
"Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không."
Duyên nợ long đong lận đận, kiếp sống khổ cực, nhọc nhằn nhưng xuyên suốt cả bài thơ, không có một từ nào nói lên sự than thở, kêu than của bà Tú. Người phụ nữ ấy có tấm lòng yêu thương quá lớn. Bà đã hi sinh tất cả cho chồng cho con, hi sinh cả tuổi thanh xuân đầy khát vọng của mình. Dù "năm nắng" hay "mười mưa" bà nào có "quản công". Một mình bà sẵn sàng gánh vác cả gia đình. Cũng may, trong thời ấy, dù nhiều người phụ nữ khác cũng lam lũ, cũng vất vả nhưng chẳng mấy ai được chồng cảm thông và thương xót như Bà Tú. Chỉ tiếng rằng ngoài tình thương, Tế Xương cũng không thể làm gì giúp vợ được. Thế nên, ông mới tự nhận "Có chồng hờ hững cũng như không". Bà không cần nói nhưng những việc bà làm đã khiến Tế Xương chồng bà phải khâm phục và nể trọng.
Bà là đại diện cho những người phụ nữ truyền thống của Việt Nam với đức tính chịu thương chịu khó, hi sinh vất vả và giàu lòng yêu thương. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại, do có quá nhiều thứ bon chen, chi phối, một số người đã không còn gìn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, cao quý ấy nữa. Họ sống vì lợi danh, sống ganh đua, chua chát. Không ít kẻ đã trà đạp lên nhau, giẫm chân lên nhau mà sống. Ai cũng vì lợi ích riêng của bản thân mình mà quên đi mất những phẩm giá tốt đẹp vốn có của con người. Chưa kể đến có những bà lười biếng, thích ăn không ngồi rồi, thích hưởng thụ, thích sai khiến người khác phải phục tùng mọi ý muốn của mình. Không mấy ai còn phải vất vả như bà Tú nhưng cũng cũng chẳng có nhiều tấm lòng giàu tình yêu thương và vị tha như vậy nữa.
Giữa thời thế xô bồ hỗn độn, hình ảnh bà Tú lại xuất hiện với những câu thơ chân thành, mộc mạc của Tế Xương như một lời động viên, khích lệ và khuyên nhủ những người phụ nữ hãy nhìn nhận lại bản thân mình, hãy cố gắng vươn lên trong mọi hoàn cảnh. Đừng vì đồng tiên hay vì bất kỳ một điều gì khác mà làm mất đi danh dự và phẩm giá cao quý của mình. Mặt khác, những người chồng, người đàn ông cũng hãy cảm thông, thương yêu và quý trọng người phụ nữ của đời mình, hãy cùng nhau sẻ chia và gánh vác mọi chuyện trong gia đình, cũng như trong cuộc sống. Tế Xương thương vợ, nhưng ông không bắt tay làm cùng vợ được. Bởi đó là do thời thế lúc bấy giờ như vậy. Hơn nữa, nghề của ông là viết văn, làm thơ nên ông cũng không có thời gian để làm cùng vợ. Chỉ tiếc rằng, cái nghề của ông không mang lại nhiều tiền bạc, của cải để gánh vác gia đình, để bà Tú bớt vất vả, để thân cò ấy không phải lặn lội hay eo sèo trong những buổi đò đông.
Bài thơ đã khép lại với hình ảnh chân thực về người vợ tảo tần, giàu đức hi sinh. Bà là một tấm gương sáng cho những người phụ nữ hiện đại soi lại chính mình.
2.4. Bài mẫu số 4: Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
Trần Tế Xương là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông đã dùng ngòi bút sắc bén của mình để đả kích, trào lộng một cách chua cay, sâu sắc về xã hội nửa tây nửa ta, về nạn tham nhũng, thi cử. Nét đặc biệt nhất là ông còn viết những vần thơ trào lộng chính mình. Trong bài thơ “Thương vợ”, Tú Xương không chỉ thể hiện tình thương sâu nặng với vợ thông qua sự thấu hiểu nỗi vất vả, gian lao của bà Tú mà còn châm biếm chính mình vì làm thân nam nhi nhưng lại làm gánh nặng cho vợ con.
Đọc thơ Trần Tế Xương ta có thể dễ dàng bắt gặp những vần thơ trào lộng, châm biếm về chính bản thân nhà thơ. Bài thơ “Thương vợ” cũng là một tác phẩm như vậy. Đọc thơ, ta đồng cảm sâu sắc với tình thương mà Tú Xương dành cho vợ, cũng cảm nhận được cái “tôi” đầy ý thức, tình nghĩa của Trần Tế Xương. Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã vẽ ra không gian lao động đầy lam lũ, vất vả của bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
“Quanh năm” gợi ra cái dằng dặc của thời gian sống cũng gợi ra cái đều đặn của hành động, mang theo được cả những nỗi gian truân, vất vả mà bà Tú phải gánh vác “buôn bán ở mom sông”. “Buôn bán ở mom sông” gợi ra cái không gian nhỏ hẹp nhưng đầy bát nháo, xô bồ của những người buôn, kẻ bán. Trong cái không gian xô bồ, chật hẹp ấy, hình ảnh bà Tú hiện lên thật khiến cho người đọc phải xót xa. Trong quan niệm của người Phương Đông, người phụ nữ ở trong nhà là “an”, ra ngoài là bất an, người phụ nữ được sống trong sự chở che, yêu thương của người chồng là an, phải sống trong sự xô bồ của cuộc sống “con buôn” là vô cùng gian nan, khổ cực.
Bà Tú quanh năm vất vả với công việc buôn bán bởi trách nhiệm cơm áo gạo tiền để duy trì cuộc sống hàng ngày, cũng là bởi trên vai gánh nặng trách nhiệm chồng con: “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Ở đây, Tế Xương đã gộp mình vào những đứa con, là một trong những gánh nặng mà bà Tú phải gánh vác, nhà thơ tự trách mình vì sống là thân nam nhi, không những không làm chỗ dựa được cho vợ mà còn chất chồng thêm những gian khổ nên người phụ nữ ấy.
Hình ảnh bà Tú tiếp tục được Tế Xương khắc họa bằng những gian khổ, bằng tình thương sâu sắc dành cho vợ nhưng đồng thời cũng thể hiện sự bất lực của bản thân khi không thể làm gì hơn để giúp vợ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
“Lặn lội”, “eo sèo” thể hiện được cuộc sống nổi trôi, những thăng trầm trong công việc bán buôn. Hình ảnh con cò thường là hình ảnh biểu tượng cho những người phụ nữ. Ở đây, nhà thơ dùng từ “thân cò” để nói về hình dáng mỏng manh, đầy khổ cực của bà Tú trong công việc, vừa thể hiện được sự xót xa, đau đớn khi chứng kiến sự cực nhọc của người vợ, nhất là khi công việc buôn bán không thuận lợi, nhiều khó khăn “quãng vắng”, “buổi đò đông”.
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Nếu những câu thơ trên, Trần Tế Xương nói về công việc buôn bán đầy cực nhọc cũng như nỗi gian truân, vất vả của bà Tú thì đến câu thơ này, nhà văn nhấn mạnh đến những phẩm chất tốt đẹp của vợ mình. Đó chính là sự hi sinh vô điều kiện vì chồng con. Vất vả là thế, cực nhọc là thế nhưng bà Tú vẫn không hề “quản công”, không một lời than trách mà coi nó là trách nhiệm của mình “âu đành phận” vì con, vì chồng “một duyên, hai nợ”. Nhấn mạnh đến sự hi sinh, tấm lòng vĩ đại của bà Tú, Tế Xương đã sử dụng đến hình ảnh “năm nắng mười mưa” để làm nổi bật lên vẻ đẹp đức hạnh ấy.
Càng thương vợ bao nhiêu thì Tế Xương càng tự trách mình bấy nhiêu, vì làm chồng mà không giúp được gì cho vợ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Tế Xương đã dùng những ngôn ngữ thông tục để nói về sự bạc bẽo của cuộc đời, về sự trớ trêu của hoàn cảnh “cha mẹ thói đời ăn ở bạc”. Cất tiếng “chửi” đời cũng là điểm nhấn để Tế Xương tự giễu chính bản thân mình “Có chồng hờ hững cũng như không”. Hận thói bạc bẽo của cuộc đời bao nhiêu thì ông hận chính mình bấy nhiêu. Câu thơ thể hiện sự thương vợ song cũng tự ý thức về trách nhiệm của chính mình, Tế Xương cho rằng ông đã không hoàn thành được trách nhiệm, bổn phận của một người chồng, không những vậy còn làm tăng thêm gánh nặng cho vợ. Ông trào lộng mình như cách nói tiếng thương cảm chân thành với người vợ của mình “có chồng cũng như không”.
Như vậy, qua bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương, hình ảnh bà Tú hiện lên với bao vẻ cực nhọc, đáng thương song cũng mang đầy vẻ đẹp của phẩm chất, đạo đức. Không thể không nhắc tới ở đây chính là hình ảnh tự họa của chính nhà thơ, tuy Tế Xương trách mình, hận mình song độc giả cũng cảm nhận được tấm lòng thương vợ sâu sắc, ở sự nghiêm khắc với bản thân. Đây là điều mà không phải ai cũng làm được. Nên vậy, hình ảnh Tú Xương hiện lên vẫn rất đáng trân trọng.
2.5. Bài mẫu số 5: Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
Tú Xương là người có tố chất thông minh từ nhỏ, ông từng tám lần đi thi nhưng chỉ đậu đến Tú tài vì phạm húy. Cuộc đời ông đầy những chua chát, đắng cay và tất cả những điều đó đã được thể hiện đầy đủ trong các bài thơ của ông. Thơ của Tú Xương dành một dung lượng khá lớn viết về vợ của mình, một điều hiếm thấy xưa nay. Và trong chùm đề tài ấy bài thơ Thương vợ là bài hay nhất, chỉ với bài thơ này nhưng hình ảnh bà Tú đã hiện lên với đầy đủ vẻ đẹp cũng như số phận của người phụ nữ.
Mở đầu bài thơ, Tú Xương giới thiệu về công việc của bà Tú:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Câu thơ đã giúp người đọc đã hình dung được công việc của bà Tú đó là làm nghề buôn bán gạo, công việc đó kéo dài triền miên, mang tính tuần hoàn hết tuần này nối tiếp đến tuần khác, dường như trong cuộc đời bà không có lấy một giây phút được nghỉ ngơi, thư giãn. Hơn nữa nơi bà làm ăn buôn bán lại chứa đựng đầy sự nguy hiểm – mom sông – phần đất nhô ra phía lòng sông, đây là phần đất chênh vênh và có thể bị ngã bất cứ lúc nào. Bà Tú đã phải chịu đựng biết bao vất vả, cực nhọc, cuộc sống mưu sinh đầy gian truân khiến cho bà dù biết những nguy hiểm nhưng vẫn không thể bỏ bởi phải: “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Trong xã hội phong kiến, người đàn ông vốn được mặc định coi là trụ cột gia đình, lo toan về kinh tế cho cả nhà, nhưng ở đây trong gia đình Tú Xương trụ cột ấy lại chính là bà Tú. Bà không chỉ nuôi con mà nuôi cả chồng, như vậy là sáu miệng ăn chưa tính đến bà. Chữ “đủ” chứa đựng nhiều ý nghĩa, đủ là nuôi cả gia đình; đủ còn có thể hiểu là đủ ăn đủ mặc, và đủ cả những thú vui thanh cao, tao nhã của ông Tú. Đặc biệt trong cách đếm “năm con với một chồng” là cách đếm lạ, Tú Xương tự tách mình riêng, đặt sau con cho thấy nỗi hổ thẹn trong ông khi không giúp được gì cho bà Tú, và sự trách sự vô tích sự của bản thân. Câu thơ như một lời tự trào chính mình của tác giả. Hai câu thơ đầu tiền, tác giả đã khắc họa thành công sự tảo tần, tháo vát mà cũng đầy vất vả, cơ cực của bà Tú.
Không dừng lại ở đó, hai câu thơ tiếp theo càng tô đậm hơn nữa sự vất vả của bà Tú trong công cuộc mưu sinh: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Hai từ “lặn lội”, “eo sèo” được đảo lên đầu câu tô đậm nỗi vất vả, nhọc nhằn của bà Tú. Đồng thời từ "lặn lội" kết hợp với hình ảnh "thân cò" đầy ám ảnh đã khắc đậm nỗi truân chuyên của bà Tú. Hình ảnh con cò trong ca dao vốn để chỉ những người nông dân nhọc nhằn, vất vả:
Cái cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vướt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng ….
Và bà Tú cũng chẳng khác những thân cò kia, một mình lặn lội kiếm ăn, chịu đựng để nuôi chồng, nuôi con. Công việc ấy lại vô vàn nguy hiểm “khi quãng vắng”, “buổi đò đông” phải chen lấn, xô đẩy, đầy cực nhọc, vất vả. Với hai câu thơ ba và bốn, đã khắc sâu hơn nữa nỗi nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh của bà Tú. Đằng sau đó, ta còn thấy tiếng uất nghẹn của một người chồng nhìn thấy nỗi cơ cực của vợ mà không thể đỡ đần. Và hơn cả là nỗi niềm thương xót, cảm phục và biết ơn vợ sâu sắc của Tú Xương.
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Trong hai câu thơ tác giả sử dụng thành ngữ và cách nói tăng cấp: “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” đã khắc họa cuộc đời cơ cực, tủi nhục của bà Tú. Bà với ông Tú, duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Ông Tú tự thấy mình là một gánh nợ trong suốt cuộc đời người vợ. Nhưng người mẹ, người vợ đó không hề ý thức rằng đó là sự hi sinh. Như bao người phụ nữ Việt Nam khác, bà làm mọi việc một cách tự nhiên, âm thầm, không hề đòi hỏi, oán trách. Bà Tú coi đó như một lẽ thường tình, nào có kể công. Cách nói cam chịu “âu đành phận”, “dám quản công” là ông Tú ngao ngán về chính mình, xót xa cho thân phận bà Tú mà thốt lên, mà kể công thay cho bà.
Khắc họa hình ảnh bà Tú, Tú Xương đã vận dụng tài tình nghệ thuật đảo ngữ (lặn lội, eo sèo), sử dụng thành ngữ (một duyên hai nợ, năm nắng mười mưa). Giọng điệu đan xen hài hòa giữa trữ tình và trào phúng trong đó giọng trữ tình là chủ đạo để làm nổi bật lên vẻ đẹp nhân cách, phẩm chất của bà Tú.
Bài thơ khắc họa một cách chân thực, xúc động hình ảnh bà Tú đảm đang, tháo vát, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Bà Tú là điển hình cho đức hi sinh, sự tảo tần của người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời tác phẩm cũng cho ta thấy bức chân dung tinh thần của chính nhà thơ – một con người bất đắc chí nhưng nhân cách cao đẹp.
2.6. Bài mẫu số 6: Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
Phụ nữ là một đề tài lớn trong văn học Việt Nam. Từ các tác phẩm văn chương hiện lên với vẻ đẹp chân dung, đức hạnh trên nhiều bình diện. Tuy nhiên hiếm có thi nhân nào viết về người phụ nữ với tư cách là người vợ bằng tình cảm chân thành của một người chồng như trong thơ Trần Tế Xương. “Thương vợ” là một bài thơ tiêu biểu khắc họa sinh động hình ảnh bà Tú cùng với những phẩm chất tốt đẹp giàu đức hi sinh, chịu thương chịu khó và nhẫn nại, kiên cường vì chồng con. Hình ảnh ấy đã trở thành điển hình cho nét đẹp của người phụ nữ Việt.
Hình ảnh bà Tú xuất hiện với công việc vất vả và gian truân, gánh nặng trách nhiệm gia đình đè lôi vai người vợ hiện lên thật sinh động, giàu giá trị nhân văn qua bốn câu thơ đầu:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo nước mặt buổi đò đông”
Nghề nghiệp của bà Tú là buôn bán. Nhắc đến nghề buôn là người ta thường nghĩ ngay đến sự an nhan và giàu có “Phi thương bất phú” nhưng với bà Tú lại đối lập hoàn toàn với điều đó. Không gian buôn bán ở đây là “mom sông” - nơi “đầu sóng ngọn gió” với bao nguy hiểm, là “cái địa điểm cheo leo chênh vênh, chứ không phải ở cái bến ngang sông tấp nập bình thường”. Thời gian làm việc là “quanh năm” thời gian đằng đẵng hết ngày này, tháng khác lại năm nọ chẳng bao giờ được nghỉ ngơi dù là ngày nắng hay ngày mưa. Vì miếng cơm manh áo để “Nuôi đủ năm con với một chồng” không cho phép bà được an nhàn một giờ khắc. “Đủ” ở đây là đủ không chỉ về cơm ăn mà còn áo mặc, mọi thứ không thừa nhưng cũng không thể thiếu. Nào có phải là một chồng hai con như xã hội hiện đại mà là “năm con” rất đông, con số nhiều được đặt ngang hàng để đối với “một chồng” số ít tạo nên một đòn gánh cân bằng trên đôi vai của bà Tú. Chi phí cho ông Tú_ nhà Nho “dài lưng tốn vải” ngang bằng với cơm ăn áo mặc của năm đứa con gộp lại. Điều đó cho thấy trách nhiệm lo kinh tế gia đình thật chẳng hề dễ dàng đối với một người phụ nữ sống trong thời buổi khó khăn con người ta bon chen nhau kiếm từng xu từng hào.
Hình ảnh “Thân cò” lặn lội càng gợi thêm sự cơ cực và cô độc của người đàn bà tảo tần. Thân cò trong văn học truyền thống là biểu tượng cho người nông dân nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Hình ảnh “Thân cò” với nghệ thuật đảo ngữ “lặn lội thân cò” gợi lên một thân phận, số phận cụ thể, nhỏ bé, mong manh giữa cuộc đời. Tú Xương đã vận dụng thành công ngôn ngữ của dân gian vào trong ý thơ của mình để đặc tả sự gian truân mà bà Tú phải chịu. Khi thì “lặn lội” lúc “quãng vắng”, khi thì “eo sèo” lúc “buổi đò đông”. Tú Xương phả là một người chồng hết mực yêu thương và cảm thông với vợ mới có thể viết được những câu thơ hay và đặc sắc khi nói về cái vất vả mà vợ mình phải gánh chịu.
Bấy nhiêu cực khổ ấy nhưng bà Tú chẳng nề hà, kêu than lấy một lời. Bà giàu đức hi sinh và rộng lượng để âm thầm cam chịu, chấp nhận tất cả những gian nan, cực khổ một lòng vì chồng vì con vì mái ấm gia đình.
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Là như vậy, dù cho “ Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” và “Có chồng hờ hững cũng như không” nhưng bà vẫn không một lời oán trách. Bà coi đó là cái duyên phận, tình nghĩa vợ chồng và là trách nhiệm của một người vợ có chồng là thi sĩ. Bốn câu thơ cuối là lời của Tú Xương thác ra giọng của bà Tú để bày tỏ, để nói hộ lòng vợ. Ông cũng tự trách bản thân mình là một người chồng “hờ hững” không giúp gì được cho vợ mà ngược lại còn là gánh nặng trên đôi vai của bậc hiền phụ. Trách mình trách đời cũng là cách gián tiếp để ông Tú ca ngợi, đề cao công lao và phẩm chất của vợ theo cái cách chưa từng có trong thơ văn trung đại:
“Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh”.
Bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương với những bút pháp nghệ thuật đặc sắc kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ đời thường với ngôn ngữ bác học trong tám câu thơ Đường luật giải quy phạm đã khắc họa thành công hình ảnh bà Tú_ người vợ, người phụ nữ đảm đang, tháo vát giàu lòng yêu thương, rộng đức hi sinh vì gia đình. Con người ấy xuất hiện trong những câu thơ trữ tình sâu lắng trở thành một biểu tượng đẹp cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam.
Trong xã hội ngày nay với những xô bồ của cuộc sống không ít những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ bị vùi lấp đi bởi giá trị của đồng tiền, của danh vọng và địa vị. Bài thơ “Thương vợ” được đưa vào chương trình phổ thông là một bài học giàu giá trị nhân văn để các em học tập và là tấm gương để những người phụ nữ hiện đại phần nào soi mình vào đó gìn giữ nét đẹp truyền thống mà vẫn phù hợp với thời đại.
2.7. Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương mẫu 7
Với phong cách trào phúng quen thuộc, tác giả Trần Tế Xương đã dùng ngòi bút sắc bén của mình để đả kích, trào phúng sâu cay về xã hội nửa tây nửa ta cùng những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Có thể nói Tế Xương là nhà thơ thấu tình đạt lí với cái nhìn chủ quan, tỉnh táo. Trong sự nghiệp sáng tác của ông, độc giả không ít lần bắt gặp ông mang chính mình ra để trào lộng, chế giễu, điển hình nhất có thể kể đến bài thơ Thương vợ.
Thông qua bài thơ Thương vợ, tác giả Tế Xương đã xây dựng lên chân dung đầy sống động về bà Tú, một người vợ hiền, mẹ tốt cả đời tần tảo, lam lũ mưu sinh vì chồng, vì con. Ngay phần mở đầu bài thơ, tác giả đã mở ra không gian lam lũ cùng công việc vất vả của bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
“Quanh năm” mang đến ấn tượng về thời gian dài dặc, lặp đi lặp lại hết ngày này qua tháng khác, đó cũng là những tháng ngày gian khổ vì mưu sinh của bà Tú cùng công việc “buôn bán ở mom sông”. “Mom sông” là không gian vô cùng đặc biệt, đó là vùng đất bồi ven sông, đồng thời qua hình ảnh này, tác giả Tế Xương còn mang đến cho người đọc ấn tượng về một không gian nhỏ hẹp nhưng xô bồ, bát nháo với người mua, kẻ bán. Trong không gian ấy, hình ảnh bươn trải của bà Tú hiện lên sao thật xót xa.
Quanh năm buôn bán vất vả, không quản nắng mưa, dãi dầu bởi trên vai bà Tú không chỉ có gánh nặng về cơm áo gạo tiền mà còn là trách nhiệm lớn lao đối với chồng, với con. Trong cách nói có phần hài hước mà không kém phần cay đắng “nuôi đủ năm con với một chồng”, Tế Xương không chỉ thể hiện được tấm lòng yêu thương, đức hi sinh đầy cao cả của bà Tú mà còn là lời châm biếm sâu cay với chính bản thân mình khi thân là nam nhi nhưng lại mang đến những gánh nặng cho người vợ.
Nối liền mạch cảm xúc của 2 câu thơ đầu của bài thơ, ở câu thơ 3, 4 tác giả Tế Xương tiếp tục phác họa lên chân dung tần tảo bà Tú bằng những hình ảnh tả thực đầy chân thực:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Tế Xương đã gợi ra hai không gian mang tính đối lập, đó là không gian hoang vắng, rợn ngợp của quãng vắng và cái ồn ào, chen chúc đầy thị phi khi gặp buổi đò đông. “Lặn lội”, “eo sèo” gợi ra cuộc sống vất vả, nổi trôi của bà Tú với công việc buôn bán vất vả. Mượn hình ảnh con cò trong ca sao, tác giả Tế Xương đã có sự sáng tạo đặc biệt qua từ “thân cò”. Nếu “con cò” chỉ gợi ra cái cơ cực của những người phụ nữ xưa thì “thân cò” còn gợi ra dáng vẻ mong manh, nhỏ bé đầy lam lũ của bà Tú trong công việc mưu sinh thường ngày.
Bà Tú đẹp ở sự đam đang, tháo vát với những công việc nhà, việc chợ để thực hiện trách nhiệm với chồng, với con. Khung cảnh làm ăn đầy những lam lũ, xô bồ nhưng bà Tú chưa bao giờ chùn bước mà vẫn mạnh mẽ lặn lội nơi quãng vắng, vững vàng đứng vững chốn đò đông.
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Tuy phải bươn chải trong cuộc sống xô bồ đầy cực khổ nhưng bà Tú vẫn không một lời oán thán mà vẫn mạnh mẽ vượt qua mọi khó khăn để lo cho chồng, cho con “năm nắng mười mưa dám quản công”. Bà Tú hiện lên với vẻ đẹp của sự tần tảo, hi sinh một nét đẹp điển hình của những người phụ nữ Việt Nam.
Hình ảnh bà Tú hiện lên trong bài thơ là người phụ nữ tần tảo, lam lũ với công việc buôn bán để lo lắng chu toàn cho chồng con. Hình ảnh đó thật đẹp và đáng trân trọng biết bao. Bài thơ cũng thể hiện được cái tôi ý thức, giàu yêu thương.
2.8. Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương mẫu 8
Trong văn học Việt Nam thời kì trước, hình ảnh người phụ nữ đã trở nên quen thuộc trong những bài ca dao, những vần thơ bay bổng. Những người nghệ sĩ nhìn họ với sự đồng cảm, xót thương và yêu mến. Nhưng hiếm khi ca ngợi họ bằng giọng điệu của một người chồng như nhà thơ Tú Xương đã khắc họa hình ảnh vợ mình trong Thương Vợ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đầu đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
Tú Xương là một nhà thơ hào hoa phong nhã, có một chút ngông nhưng khi là một người chồng, ông luôn hết mực yêu thương và ca ngợi vợ của mình. Mở đầu bài thơ, ông khắc họa hình ảnh tảo tần của bà Tú với công việc hàng ngày:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Một người vợ đảm đang tảo tần, với nghề buôn bán, người vợ ấy "quanh năm" ở ven sông chăm chỉ với công việc của mình. Hai từ "quanh năm" diễn tả thời gian dài đằng đẵng, lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn, cứ năm này qua năm khác, bà buôn bán ở bờ sông, địa thế trắc trở, đó là một mô đất nhô ra sông, nơi những con thuyền dừng lại và diễn ra các hoạt động trao đổi buôn qua bán lại đông đúc và tạp nham. Một người phụ nữ có lẽ phải ở nhà dệt vải thuê thùa chăm sóc gia đình nhưng ngược lại bà Tú hàng ngày phải kiếm kế sinh nhai nuôi cả gia đình: "Nuôi đủ năm con với một chồng". Bà Tú không những vất vả đảm đang mà còn hết mực chăm sóc cho chồng con. Đặc biệt "năm đứa con" và "một chồng", nghe có vẻ khập khiễng nhưng đây là lối so sánh rất độc đáo và sáng tạo của tác giả khi nói về gánh nặng đang đè nặng lên đôi vai gầy của bà Tú. Vả lại, ông đặt mình bằng năm đứa con thơ là cách ông tự chế giễu chính mình, là đấng nam nhi nhưng lại là người tạo ra gánh nặng cho gia đình, cho vợ con. Bà Tú cần mẫn là thế, chỉ làm ra "nuôi đủ" chứ không thừa cũng không thiếu, sự khéo léo trong tính toán cuộc sống của người mẹ hiền ấy đã nuôi sống cả gia đình bảy người. Có lẽ "đủ" với ông Tú không phải là chăn ấm đệm êm mà còn nuôi đủ những thú vui cao sang, những lần nghe hát ả đào, uống rượu ngâm thơ,.. Chính sự hy sinh ấy khiến ông Tú vừa hổ thẹn vừa tự hào và thương xót vợ mình. Thương bà gầy gò vất vả:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đầu đông
Con cò trong ca dao xưa là biểu tượng quen thuộc cho những người nông dân cần cù chăm chỉ. Tú Xương cũng sử dụng hình ảnh này để tả thực về vợ mình. Nhưng ông có sự sáng tạo độc đáo mang đậm phong cách tác giả: "thân cò". Thân hình gầy guộc cặm cụi sớm hôm. Một chữ "thân" làm nổi bật thân phận nhỏ bé vất vả gian truân mà trong ca dao xưa cũng có câu:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Không chỉ sử dụng hình ảnh " thân cò" mà tác giả kết hợp với đảo ngữ từ láy "lặn lội" nhằm nhấn mạnh sự vất vả gian truân của bà Tú nơi mom sông buôn bán quanh năm suốt tháng. Bất kể thời gian nào ngay cả "khi quãng vắng" mở ra một không gian mênh mang rợn ngợp u ám và sự khắc khoải khôn nguôi của thời gian vũ trụ. Chính giữa không gian rộng lớn ấy là hình ảnh nhỏ bé của người phụ nữ tần tảo sớm hôm. Có khi bà Tú lại ngược xuôi giữa "buổi đò đông" , sự bận rộn của bà lại một lần nữa tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ "eo sèo" gợi sự tấp nập ồn ã nơi chợ búa đông đúc, nơi người ta vì miếng cơm manh áo mà bon chen.
Với những vần thơ tiếp , tác giả như nhập vai vào chủ thể trữ tình, mượn lời tâm sự của vợ để ngầm ca ngợi những công lao âm thầm vì chồng vì con mà bà Tú một mình gồng gánh trên đôi vai:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Duyên và nợ luôn gắn liền với nhau, Có duyên mới có nợ. Thường hai chữ ấy nói đến quan hệ phu thê thời phong kiến xưa. Nó còn mang nặng lễ giáo, tư tưởng xưa. Nhưng trong thơ Tú Xương, chữ duyên và nợ không trở nên nặng nề kết hợp với các thành ngữ "năm nắng mười mưa" , "một duyên hai nợ" tạo nên tính nhạc trầm bổng, sự hàm súc cho câu thơ. Cái duyên vợ chồng, cái nợ phu thê khiến bà Tú phải "năm nắng mười mưa" suốt những năm dài tháng rộng. Các từ chỉ số lượng như "năm, mười" song hành cùng hình ảnh thiên nhiên "mưa, nắng" làm tăng sự vất vả của bà Tú- một người vợ, một người mẹ đảm đang, không bao giờ than phiền trước số phận. Chính vì thế mà ông Tú đã cất tiếng nói thay cho người vợ tần tảo của mình:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Vì tình thương và lòng biết ơn vợ, ông cất tiếng chửi đời, chửi mình. Vì xã hội trọng nam khinh nữ kia đã biến ông thành ông chồng vô tích sự. Ông không còn ẩn mình dưới những lời ca ngợi bà Tú nữa mà xuất hiện cất tiếng chửi gay gắt có phần thô cứng: " cha mẹ thói đời". Câu chửi mang tính dân giã, suồng sã nhưng ngược lại hợp với giọng thơ trào phúng của Tú Xương. Ông coi thường cái xã hội Tây Tàu Lố Lăng, nạn thi cử khiến ông trở thành gánh nặng, thành người chồng vô tích sự không gánh nổi gia đình vợ con. Sự cay đắng, phẫn uất trong lòng mình đã phát ra với tiếng cười trào phúng, với cách tự chửi mình:" có chồng hờ hững cũng như không". Hai chữ "hờ hững" là thái độ dửng dưng, coi nhẹ trách nhiệm. Một ông chồng "hờ hững" chẳng thể lo nổi cho vợ con thì có lẽ "như không". Ta thà không có còn hơn là có đấng phu quân nằm trong chăn ấm đệm êm, vợ nuôi như vậy. Nhưng trong câu thơ, tuy sự trào phúng cao độ bộc lộ qua tiếng chửi của ông Tú, chính trong lời thơ ấy ẩn chứa một tấm lòng yêu thương, kính trọng và luôn dõi theo người vợ của mình. Có lẽ đây là cách ông Tú bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với người vợ hiền tảo tần của mình.
Thi phẩm khép lại với hai câu thơ mang âm điệu day dứt, làm cho người ta phải suy nghĩ về cái xã hội bất công kia, thương cho thân phận bà Tú, xót cho cái tài năng của Tú Xương. Để lại trong ta những ấn tượng khó phai.
2.9. Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương mẫu 9
Có thể nói bài Thương vợ là một bài thơ tâm sự thấm đượm nghĩa yêu thương. Mở đầu bài thơ Tú Xương đã khắc hoạ hình ảnh của vợ mình với bao vất vả lo toan.
Quả thật tác phẩm là lời khẳng định chắc chắn về 1 tấm lòng thuỷ chung son sắt, một tình cảm thương yêu mà người phụ nữ dành cho chồng mình. Trải qua nhiều năm chúng ta lại bắt gặp những tình cảm đó ở bà Tú trog bài “Thương Vợ ” của Trần Tế Xương.Quanh năm buôn bán ở mom sông.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Ở đây thấy tác giả đang muốn mạnh rằng :bà Tú là một người vợ hiền thục, đảm đang và cũng chịu thương chịu khó. Được mang danh là bà Tú nhưng bà lại phải “quanh năm buôn bán ở mom sông”. Từ “quanh năm” như khẳng định một cái vòng xoáy của thời gian cũng là vòng quay trong công việc của bà. Công việc của bà cứ liên tiếp nối nhau cho đến hết ngày này qua ngày nọ. Nó không chỉ là cơ cực, vất vả , dải nắng dầm mưa mà đôi vai nhỏ bé của bà phải ghánh chịu, mà bà còn phải ghánh chịu bao mánh khoé của cuộc đời đen bạc. Rồi những khi thời tiết càng khắc nhiệt, địa thế càng khó khăn hiểm trở thì bà lại phải cố gắng nhiều hơn để “nuôi đủ năm con với một chồng” không chỉ nuôi đủ cho ông Tú mà còn phải “nuôi đủ năm con”. Tác giả không nói vợ mình nuôi đủ sáu người mà lại nói “nuôi đủ năm con với một chồng”ở đây từ “với” đã làm tăng thêm sự đông đúc trong gia đình. Sự vất vả của bà lại càng nặng thêm:
“Lặn lội thân cò khi quảng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Hình ảnh “thân cò khi quảng vắng” đã đêm đến cho người đọc nhiều liên tưởng xúc động qua ca dao:
“Con cò lặn lội bờ sông
Ghánh gạo nuôi chồng nước mắt nỉ non”
Hoặc:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.”
Khi màn đêm buông xuống thì tất cả đã vào giấc ngủ say mê sau một ngày lao động mệt mỏi thì cò còn phải mò mẫm trong đêm tối để kiếm ăn. Phải chăng đây là hình ảnh của bà Tú? Bằng cách sử dụng các từ láy “eo sèo”, “lặn lội”. Tú Xương đã làm tăng thêm tính cam go, dai dẳng trong công việc của vợ mình.
Trong hoàn cảnh ấy thì con người thường có ý nghĩa tiêu cực nhưng đối với bà Tú thì bà không than thân, trách phận mà tự an ủi mình:
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Bà Tú lấy ông Tú xuất phát từ cái duyên, cái số, từ dây tơ hồng của ông Tơ bà Nguyệt. Chính vì lẽ đó dù”năm nắng mười mưa” để lo cho gia đình bà cũng” âu đành phận”và” chẳng dám quản công”. Hơn nữa bà Tú sống với ông Tú đã có năm con, cùng nhau chia ngọt sẽ bùi, vượt qua bao sống gió nên bà hiểu rõ ông, do đó mà bà không hề than vãn.
Phải chăng hiểu được vợ mà ông tú đã” thương vợ “hơn, muốn cùng vợ ghánh vác lo toan, nhưng:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Có lẽ đây là lời nói của tác giả, thương vợ, thương cho mình, Tú Xương đã mượn lời vợ mình để “chưởi” cả một cái xã hội với bao thói đời ăn ở bạc, bất công vì những người có tài như ông mà trở thành người thừa trong xã hội, Ông còn chưởi chính mình vì ông cho rằng ông là người chồng hờ hững, vô tích sự.
Qua đây ta thấy bài “thương vợ” là một bài thơ hay của tác giả với phong cách trữ tình. Bài thơ miêu tả bà Tú nhưng ẩn đằng sau đó là một người mẹ, người chị , người vợ và người phụ nữ Việt Nam xưa và nay. Đó là một con người phụ nữ dịu dàng, đảm đang, tháo vát. Họ chỉ biết làm việc để lo toan cho chồng cho con. Ngoài ra bài thơ hay còn ở cách thể hiện của tác giả mượn lời vợ để chưởi mình . chưởi cái xã hội hiện tại.
Ngoài nội dung Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương được giới thiệu ở trên, các em có thể tìm hiểu thêm chuyên mục Soạn văn 11 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 11.
Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 11 để có thêm tài liệu học tập nhé
Một số tài liệu liên quan đến bài thơ Thương vợ: