Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm
Đóng
Điểm danh hàng ngày
  • Hôm nay +3
  • Ngày 2 +3
  • Ngày 3 +3
  • Ngày 4 +3
  • Ngày 5 +3
  • Ngày 6 +3
  • Ngày 7 +5
Bạn đã điểm danh Hôm nay và nhận 3 điểm!
Nhắn tin Zalo VNDOC để nhận tư vấn mua gói Thành viên hoặc tải tài liệu Hotline hỗ trợ: 0936 120 169

Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong 10 dòng thơ cuối đoạn trích Trao duyên

Lớp: Lớp 11
Môn: Ngữ Văn
Dạng tài liệu: Văn mẫu
Bộ sách: Kết nối tri thức với cuộc sống
Loại File: Word
Phân loại: Tài liệu Tính phí

Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong 10 dòng thơ cuối đoạn trích Trao duyên được VnDoc.com sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo để có thêm tài liệu học tập môn Ngữ văn 11 Kết nối tri thức. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.

Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong mười dòng thơ cuối (chú ý sự thay đổi đối tượng tâm tình và giọng điệu).

1. Phân tích tâm trạng Thúy Kiểu trong 10 câu thơ cuối mẫu 1

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân

….……………………………..

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Sau khi trao duyên cho Thúy Vân, Kiều âm thầm nhắn nhủ đến Kim Trọng: nàng đã phụ tình chàng từ đây. Đó không chỉ là câu nói đau xót khi phải chia tay người yêu khi tình cảm vẫn còn mặn nồng sâu sắc mà còn là suy tư về cuộc sống tăm tối phía trước đang chờ đón Kiều.

Tơ duyên của Kiều và Kim chỉ ngắn ngủi có từng ấy, xin gửi lại chàng mối duyên này cho người em là Thúy Vân.

Kiều đã phải thốt lên: “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” đây vừa là lời xin lỗi Kiều gửi đến Kim, vừa là lời oán trách vì phận mình sao bạc bẽo.

→ Kiều không chỉ suy nghĩ về việc cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình cho Vân mà còn suy nghĩ cho người mình hết lòng yêu thương. Một cô gái nhỏ bé vốn sống bình an nay phải suy tư rất nhiều, không chỉ thế,cuộc sống trôi nổi phía trước của nàng cũng khiến người ta vô cùng đau xót về kiếp hồng nhan bạc phận.

Diễn biến tâm lí của Kiều đi qua nhiều cảm xúc khác nhau, từ nghĩ cách cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình, đến việc nghĩ cho người mình yêu thương và đến cuộc sống bấp bênh của nàng sau này khiến người ta không khỏi đau xót.

2. Phân tích tâm trạng Thúy Kiểu trong 10 câu thơ cuối mẫu 2

Kết thúc đoạn thơ, bi kịch càng được đẩy lên cao. Mâu thuẫn này nối tiếp mâu thuẫn khác, Kiều đã hoàn toàn bất lực trước mong muốn níu kéo, cố gắng trở về với tình yêu. Nhưng tất cả chỉ là quá khứ xa xôi và tương lai mờ mịt.

Dù có quay về quá khứ hãy hướng tới tương lai, cuối cùng Kiều vẫn là con người sống với thực tại của mình:

"Bây giờ trâm gãy gương tan

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng"

Hàng loạt những thành ngữ được liệt kê hàm chứa bao bi kịch người con gái. Đó là sự vỡ tan, dở dang của tình yêu và bọt bèo, trôi nổi của đời Kiều. Bi kịch càng sâu sắc khi trước hiện tại nàng vẫn không thôi khao khát tình yêu hạnh phúc. Những từ ngữ có tính chất vô hạn định như "muôn vàn, trăm nghìn" thể hiện sâu sắc khát vọng về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn. Oan nghiệt thay, khát vọng ấy cũng chính là hiện thực không gì cứu vãn nổi. Bi kịch tình yêu dâng lên tột đỉnh.

Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lý của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn:

"Ôi Kim lang hỡi Kim lang

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Cạn lời hồn đứt máu say,

Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng"

Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Tố Hữu đã nói thay bao người, bao thế hệ! Chỉ một câu thơ và tên Kim Trọng được gọi đến hai lần. Những thán từ "ôi, hỡi" khiến câu thơ vang lên như một lời than, tiếng gọi thảng thốt, nghẹn ngào, mang theo lời trăn trối cuối cùng gửi đến chàng Kim trước lúc đi xa. Kiều đã rất ân cần với chàng Kim thế mà giờ đây nàng tự nhận mình là người phụ bạc, không đổ lỗi cho hoàn cảnh mà tự nhận hết trách nhiệm về mình. Nàng đâu còn nghĩ đến nỗi đau của riêng mình. Tất cả tấm lòng, sự lo lắng lại dành cho hạnh phúc của người mình yêu. Kiều thương chàng Kim hơn chính bản thân mình.

Ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã thể hiện xuất sắc những diễn biến phức tạp của nhân vật. Với hệ thống ngôn từ được sử dụng một cách điêu luyện và độc đáo, Nguyễn Du chính là một bậc thầy về ngôn ngữ.

Tác phẩm đã làm rung động biết bao trái tim người đọc từ hàng thế hệ nay. Đoạn trích "Trao duyên" đã phác họa thành công bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, nhưng ánh lên rực rỡ một nàng Kiều đẹp đẽ, sống động với nhân cách cao cả. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao.

3. Phân tích tâm trạng Thúy Kiểu trong 10 câu thơ cuối mẫu 3

Qua mười câu thơ cuối trích đoạn "Trao duyên", ta càng thấu hiểu, thương cảm cho cho số phận truân chuyên, bạc mệnh của Thuý Kiều. Mười câu cuối bài thơ là đoạn thơ đầy ấn tượng khi tái hiện đầy xót xa tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều.

Sau khi cậy nhờ em thay mình chắp mối "duyên thừa" cùng Kim Trọng, Thúy Kiều đã đau đớn mà bộc lộ lòng mình. Đó là nỗi tuyệt vọng, khổ đau lên đến tột cùng khi phải buông tay với mối tình đẹp đẽ với chàng Kim.

"Bây giờ trâm gãy gương tan

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân"

Trạng ngữ xác định thời gian "bây giờ" chỉ thực tại đau đớn mà Kiều đang đối mặt, chịu đựng, đó là nỗi đau khắc sâu vào tâm khảm khi chứng kiến tình duyên tan vỡ, chữ tình chưa hề phai nhạt nhưng vì biến cố mà rơi vào cảnh chia lìa không gì có thể hàn gắn “trâm gãy gương tan”. Tác giả sử dụng khéo léo thành ngữ "trâm gãy gương tan" để ẩn dụ cho mối tình đẹp đẽ nhưng mong manh của Kim- Kiều.

Tình yêu Kiều dành cho Kim càng chân thực, mãnh liệt, lớn lao bao nhiêu thì nỗi đau mà nàng đang gánh chịu lại xót xa bấy nhiêu. Trâm đã gãy, bình đã tan, tình yêu nào có thể chắp vá được nữa, hy vọng gắn kết mối tình xưa cũng không còn. Kiều đau đớn nghĩ về giây phút hạnh phúc "muôn vàn ái ân" của hai người trước đây. Đó là những kỉ niệm thắm thiết, những kí ức nồng đượm mà cả Kim và Kiều có được. Đêm trăng thề nguyện hẹn ước, uống chén rượu hồng hẹn ước trăm năm, thưởng ánh trăng vàng, ngâm thơ, đàn hát,... Tất cả những hạnh phúc lớn lao trước đây đều trở thành dĩ vãng, tan biến trong hư vô khi tình chưa cạn mà buộc phải chia xa.

Tiếc thương cho tình yêu không trọn, nghĩ về Kim Trọng , Kiều trách móc bản thân mình phụ bạc chàng, lời dằn vặt nghẹn lòng cất lên:

"Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi"

Xuyên suốt cuộc đời Kiều qua từng trang thơ của Nguyễn Du ta đều biết Kiều là một người sống tình nghĩa, nàng chưa từng phụ bạc một ai. Hơn nữa, Kiều cũng luôn dành hết những điều tốt đẹp cho người mà mình yêu thương, tin tưởng. Nàng đánh đổi hạnh phúc đời mình để tròn chữ hiếu “phận làm con trước phải đền ơn sinh thành”, không còn cách nào khác nàng đành phụ tấm chân tình cùng mối lương duyên tốt đẹp với Kim Trọng. Trong thâm tâm nàng luôn day dứt và tự trách móc vì cho rằng mình đã bội ước với Kim Trọng. Hành động "trăm nghìn gửi lạy" cùng lời tha thiết, cảm thán "Tơ duyên ngắn ngủi, có ngần ấy thôi" là lời tạ lỗi đầy day dứt, xót xa dành cho chàng Kim. Phải là một người yêu thương, trân trọng tình yêu thiêng liêng với Kim Trọng nhiều đến thế nào Kiều mới tự trách móc, dằn vặt chính mình đến như thế?

Sau những tỏ bày gửi chàng Kim là lời Kiều than trách cho phận mình bạc bẽo, sự tự ý thức về thân phận mình đã cho thấy Kiều là một người thấu hiểu lẽ đời, đó cũng là một dự cảm của nàng về tương lai không mấy êm ả trong cuộc đời mình:

"Phận sao phận bạc như vôi.

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng"

Lời kêu than đầy uất ức về nỗi đau thân phận như một biểu hiện đầy tự nhiên khi nỗi xót xa lên đến đỉnh điểm trong Kiều. Các thành ngữ "bạc như vôi", "nước chảy hoa trôi" như một lời thở than, trách móc uất nghẹn của Kiều trước cuộc đời bất công, trước một xã hội tàn nhẫn đã đẩy nàng vào bế tắc, khổ đau, tuyệt vọng. Chấp nhận "đã dành" cho "nước chảy hoa trôi" cũng là sự cam chịu, là biểu hiện về đức hi sinh của người con gái trước những sóng gió cuộc đời. Và phải chăng, điều đó như báo hiệu một tương lai mờ mịt, một số phận bạc mệnh của nàng.

Hai tiếng "Kim Lang" tha thiết chứa chan biết bao yêu thương, trân trọng mà Kiều dành cho Kim Trọng. Điệp ngữ "Kim Lang" kết hợp với thán từ "Ôi", " Hỡi" cùng nhịp thơ 3/3 như tiếng gào thét tâm can của Kiều. Từng tiếng thơ thốt lên nghẹn ngào, đau xót, đượm màu nước mắt, nhuốm vị thương đau. Lời từ biệt cuối của người con gái thủy chung, trọng nghĩa trọng tình ấy mang cả nỗi luyến tiếc, đớn đau đến tận cùng:

“Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Cạn lời hồn đứt máu say,

Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng"

Mười câu thơ cuối trích đoạn tuy không dài nhưng ta vẫn cảm nhận được bao phẩm chất tốt đẹp nơi Kiều. Đó là lòng chung thuỷ, nhân ái, là sự ý thức thân phận và một trái tim khát khao hạnh phúc sâu thẳm trong Kiều. Qua tám câu thơ, giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du gửi gắm cũng được thể hiện rõ. Đó là lời lên án xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy con người vào những bi kịch đớn đau. Là tiếng nói thương cảm trước những số phận bạc mệnh như Kiều và bày tỏ niềm trân trọng trước những phẩm chất, tình cảm tốt đẹp của con người trong xã hội. Mặt khác, thành công về nghệ thuật cũng là một điểm nhấn đầy ấn tượng trong đoạn thơ. Đó là bút pháp miêu tả nội tâm tính tế, nghệ thuật độc thoại nội tâm, so sánh, ẩn dụ, sử dụng kết hợp các thành ngữ dân gian cùng thề thể thơ lục bát quen thuộc tất cả đã làm nên một đoạn thơ đầy trọn vẹn và ý nghĩa.

Trao duyên nói chung và mười câu cuối trích đoạn nói riêng đã góp phần mình vào sự thành công của tuyệt tác Truyện Kiều. Tin rằng, trong tương lai, Trao duyên cùng với Truyện Kiều sẽ vẹn nguyên giá trị lâu bền, được bao thế hệ đọc giả trân trọng và giữ gìn.

4. Phân tích tâm trạng Thúy Kiểu trong 10 câu thơ cuối mẫu 4

Trong nền văn học Việt Nam, đã từng có rất nhiều tác phẩm nói về hình tượng của người phụ nữ. Điển hình có thể kể đến bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và còn rất nhiều tác phẩm nổi bật khác nữa. Trong kho tàng văn học đó, tôi đã bắt gặp một tác phẩm cũng nói về người phụ nữ Việt Nam với cuộc đời và số phận vô cùng bi đát, đó là tác phẩm “Truyện Kiều” của tác giả Nguyễn Du. Và để hiểu rõ hơn về hình ảnh người con gái mà Nguyễn Du khắc họa, ta sẽ cùng nhau phân tích và tìm hiểu diễn biến tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều trong mười dòng thơ cuối của đoạn trích “Trao duyên”.

Trước hết, ta hãy tìm hiểu một chút về tác giả Nguyễn Du. Ông sinh năm 1765 tại Thăng Long, có tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Thơ của Nguyễn Du thường đề cập đến những vấn đề rất mới, nhưng cũng rất quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học, thể hiện tình cảm chân thành cùng sự cảm thông sâu sắc đối với cuộc sống cũng như số phận éo le của những người phụ nữ hay trẻ em bất hạnh. Phong cách thơ vô cùng phong phú, giàu ngôn từ cùng với lối diễn đạt tinh tế, khéo léo. Về đoạn trích “Trao duyên” được trích trong “Truyện Kiều” (Đoạn trường tân thanh). Đoạn trích thuộc phần Gia biến và lưu lạc, đây cũng là lời nói của Thúy Kiều với Thúy Vân khi cô muốn nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim trọng giúp mình, còn cô thì sẽ đi bán mình để chuộc cha. Dưới đây là mười câu thơ cuối trong đoạn trích Trao duyên, bộc lộ nỗi đau đớn, dằn vặt trong nội tâm của nhân vật Thúy Kiều:

“Dạ đài cách mặt, khuất lời,

Rày xin chén nước cho người thác oan.

Bây giờ trâm gãy bình tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Phận sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"

Như đã biết ở những câu thơ trước, Thúy Kiều nhờ Thúy Vân trả nghĩa giúp mình cho Kim Trọng. Sau đó cô đã phải trao những tín vật tình yêu của mình cho Vân và thật lòng mong hai người họ hạnh phúc. Dù vậy, sao có thể nói là không đau lòng hay buồn bã, nhưng chỉ đành chấp nhận số phận đã an bài. Kiều chấp nhận ra đi, xa người thân, xa gia đình, xa người mình thương. Thậm chí cô còn đã nghĩ trước đến cái chết của chính mình và căn dặn Thúy Vân nếu linh hồn của cô có quay trở về nhà thì hãy “Rày xin chén nước cho người thác oan”. Đến đây, nỗi đau của cô như được nhân lên ngàn lần, sự xót xa, đau đớn dày xé tâm hồn người con gái ấy. Vốn dĩ là một cô gái bình thường sống một cuộc sống bình thường, vui vẻ, hạnh phúc bên cạnh gia đình, bên cạnh người yêu, nhưng bây giờ lại lâm vào tình cảnh éo le như vậy.

Sau khi đã nhắn nhủ và gửi gắm hết mọi thứ cho Thúy Vân thì giờ đây là lúc những lời tâm sự sâu thẳm trong lòng Kiều về cuộc tình dở dang của mình cùng với đó là nỗi đau đớn, dằng xé của nội tâm. “Bây giờ trâm gãy bình tan” - Kiều ý thức được thực tại rằng chuyện tình của cô không còn có thể tiếp tục được nữa và mãi mãi cũng không còn cơ hội để quay lại. “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân” có thể thấy những kỉ niệm tươi đẹp của Thúy Kiều bên cạnh người cô yêu là rất nhiều. Những kỉ niệm ấy là một phần kí ức hạnh phúc của cô, có lẽ nhớ về nó cũng là cách duy nhất để cô cảm thấy an ủi hơn một phần nào trong tình cảnh hiện tại. Đồng thời, hai câu thơ cũng cho thấy nỗi buồn xé lòng của Thúy Kiều, nhiều kỉ niệm đẹp như thế thì có ích gì khi bây giờ mọi thứ đều phải kết thúc. Giờ đây, những kỉ niệm đó chỉ còn cách cất lại trong kí ức của người con gái ấy.

Đọc đến đây, người đọc không khỏi tiếc nuối cho cuộc tình của Thúy Kiều và Kim Trọng, xót thương cho cuộc đời của Kiều, cho những việc Kiều đã làm, đã phải hi sinh. Nhưng bên trong thâm tâm người con gái ấy lại luôn cảm thấy có lỗi với người mình yêu. Vì vậy, cô đã quỳ gối và lạy người mình yêu “Trăm nghìn gửi lạy tình quân” đây có lẽ là điều cuối cùng Kiều có thể làm cho Kim Trọng, bằng cả tấm lòng của mình, cô muốn gửi lời xin lỗi vì đã thất hứa, không thể thực hiện những lời hứa hẹn trước đây của mình. Cô sợ Kim Trọng sẽ đau lòng sẽ oán trách cô, nhưng giờ phút này cô là người đau lòng hơn bất cứ ai, tự trách, tự dằn vặt sao tình duyên của mình lại ngắn ngủi như vậy. Tự biết cuộc đời mình bất hạnh, hạnh phúc mỏng manh nên Kiều chỉ đành rời xa người mình yêu để Kim Trọng có thể tìm được một hạnh phúc mới. Tiếc thương và đau lòng cho người con gái bạc phận, bản thân đã đi đến đường cùng nhưng vẫn lo nghĩ cho người khác. Ta có thể thấy, bằng những từ ngữ của mình Nguyễn Du đã khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều một cách rõ nét và sống động.

Bằng cách sử dụng câu hỏi tu từ “Phân sao phận bạc như vôi?”, tác giả đồng cảm, xót thương cho số phận người con gái ấy. Cuộc đời của Kiều bạc bẽo, tẻ nhạt như vôi nhưng cũng chẳng biết phải than trách với ai chỉ biết cam chịu mà sống tiếp. Hình ảnh “hoa trôi lỡ làng” còn tượng trưng cho số phận của Thúy Kiều, lững lờ, vô định, không biết tương lai của bản thân sẽ đi về đâu. Đến giây phút này thì Kiều đã hoàn toàn tuyệt vọng với cuộc đời bất hạnh của chính mình. Ta nhận thấy rằng, Thúy Kiều không phải là người duy nhất có số phận éo le như vậy trong thời đao kiếm loạn lạc, cô đại diện cho số kiếp của rất nhiều phụ nữ đáng thương khi ấy, phải cam chịu và chấp nhận thực tại khắc nghiệt một cách yếu ớt và bất lực.

Đứng trước tình cảnh hiện tại, Kiều đau đớn đến mức chỉ biết thốt lên trong sự bất lực “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!”. Câu nói chứa đựng bao nỗi niềm, tâm sự của người con gái đáng thương, Kiều ý thức được số phận của mình giờ đây như chiếc lá lìa cành, không biết sẽ trôi dạt về đâu. Vì thế Kiều chỉ đành từ bỏ tình yêu của mình “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” câu nói cất lên trái tim của Kiều cũng tan nát. Dù trong hoàn cảnh khốn khổ nhưng cô vẫn nghĩ cho người mình yêu, không muốn họ vì minh mà khổ sở, thà bản thân tự rời đi chỉ mong đối phương được hạnh phúc, vui vẻ. Sự hi sinh của Kiều chính là điển hình cho tấm lòng của rất nhiều người phụ nữ thời bấy giờ, chấp nhận số phận của bản thân và tự chịu đựng chứ không muốn những người mình yêu thương phải chịu khổ.

Qua những gì ta đã tìm hiểu về đoạn trích trên, ta có thể thấy Nguyễn Du đã sử dụng ngôn từ của mình để thể hiện một cách rõ nét những nỗi đau mà Thúy Kiều đã trải qua và đang phải chịu đựng. Kết hợp với những biện pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, sử dụng câu hỏi tu từ với lối viết thơ như đang kể chuyện đã giúp người đọc thấm thía và thấu hiểu với số phận của Thúy Kiều. Đồng thời, nhà thơ đã làm nổi bật lên hình ảnh điển hình của những người phụ nữ thời loạn lạc, họ đã phải sống và đối mặt với những bất công, bất hạnh như thế nào, đã phải gánh chịu và hi sinh những gì, từ đó đã tạo nên vẻ đẹp cao cả, quật cường của người phụ nữ lúc bấy giờ.

Qua tác phẩm, tôi càng đồng cảm hơn với những tổn thương những mất mát mà Thúy Kiều nói riêng hay những người phụ nữ thời xưa nói chung. Càng cảm thấy biết ơn và trân trọng với cuộc sống hiện tại của chúng ta. Chúng ta cần hỏi học và đóng góp thật nhiều hơn nữa cho đất nước của mình.

5. Phân tích tâm trạng Thúy Kiểu trong 10 câu thơ cuối mẫu 5

“Truyện Kiều” - kiệt tác nổi tiếng của đại thi hào Nguyễn Du đã tái hiện thành công cuộc đời nhân vật Thúy Kiều - người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời gặp nhiều trái ngang, sóng gió. Trích đoạn “Trao duyên” là một trong những minh chứng tiêu biểu thể hiện bi kịch tình yêu tan vỡ, số phận bất hạnh của Thúy Kiều cùng tài năng của Nguyễn Du khi xây dựng, khắc họa tâm lí nhân vật. Sau khi “trao duyên”, nàng Kiều chìm sâu trong thế giới khổ đau của chính mình, nàng nhớ đến Kim Trọng và mối tình còn dang dở. Thông qua tám câu thơ cuối, chúng ta có thể thấy được sự ý thức của Thúy Kiều về thực tại cùng tiếng lòng khắc khoải, thống thiết của nàng dành cho Kim Trọng:

“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Sau khi trao kỉ vật tình yêu, dặn dò Thúy Vân và chìm sâu vào dòng độc thoại nội tâm, Kiều nhận ra bi kịch phũ phàng của thực tại và tâm sự với Kim Trọng trong nỗi tuyệt vọng. Nàng ý thức rất rõ về quá khứ, hiện tại và tương lai. Những thành ngữ “trâm gãy gương tan”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi” đã diễn tả sự tan vỡ, dở dang, bạc bẽo, trôi nổi của tình duyên và số phận con người:

“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”

“Trâm gãy gương tan” - hai vật hoán dụ cho số phận của nàng Kiều, hoán dụ cho tình duyên lỡ dở, hoán dụ cho số phận bất hạnh, khổ đau. “Phận bạc như vôi” để thể hiện số phận mong manh, bạc bẽo. Bên cạnh đó, “nước chảy hoa trôi” đã nhấn mạnh vào sự lênh đênh, chìm nổi giữa sóng gió cuộc đời. Những câu thơ đã gợi lên số phận chung của những kiếp “hồng nhan bạc mệnh” về người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Danh từ chỉ thời gian “Bây giờ” vang lên đầy xót xa, nhấn mạnh sự đối lập giữa quá khứ - những năm tháng “Êm đềm trướng rủ màn che” cùng tình yêu đầu đời đẹp như hoa như mộng và hiện tại chia lìa, tan vỡ. Miền kí ức “muôn vàn ái ân” không thể đong đếm đã lùi xa vào tiềm thức, chỉ còn lại nỗi đau đớn, xót xa. Tác giả đã sử dụng biện pháp đối lập để nhấn mạnh sự tương phản giữa quá khứ ngọt ngào, ân ái mặn nồng và hiện tại dở dang cùng tương lai vô cùng mịt mờ, đẩy nàng vào bi kịch không có điểm tựa. Vì thế, nàng thổn thức trong nghẹn ngào:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”

Tác giả đã sử dụng số từ “trăm nghìn” để ước lệ về sự lớn lao, vô hạn trong sự đối lập với “ngần ấy thôi” thể hiện sự nhỏ bé, khiêm nhường, bất lực. Tác giả đã lấy cái hữu hạn “ngần ấy thôi” để đối lại với cái vô hạn “trăm nghìn” để nói lên tiếng lòng của Thúy Kiều đối với Kim Trọng. Đó là sự day dứt, trăn trở, đau đáu đến khôn nguôi của nàng Kiều. Đặc biệt, hành động “lạy” một lần nữa xuất hiện trong trích đoạn “Trao duyên” đã thể hiện nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nếu ở lần lạy thứ nhất với Thúy Vân, Thúy Kiều hiện lên với vị thế của người chịu ơn đối với ân nhân thì trong lần lạy với Kim Trọng, chúng ta thấy được nỗi đau của nàng. “Trăm nghìn gửi lạy tình quân” chính là cái lạy tạ lỗi, thể hiện niềm day dứt mặc cảm, mong nhận được sự cảm thông của Kim Trọng; đó còn là lời tạm biệt đầy tức tưởi của nàng Kiều.

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Trong dòng độc thoại nội tâm, nàng Kiều thu mình vào thế giới đầy khổ đau của chính mình, Kiều thốt lên tiếng kêu thương bi phẫn, oán hờn hiện thực bất công, phi lí, nhưng đó cũng là tiếng kêu xé lòng. Với nhịp thơ 3/3, câu thơ như bẻ gãy làm đôi trong sự nghẹn ngào, nức nở. Các thán từ “ôi”, “hỡi” kết hợp với việc nhắc lại tên gọi của Kim Trọng hai lần đã thể hiện tiếng lòng dồn dập, thống thiết. Điệp từ “Thôi thôi” nhấn mạnh nỗi đau tuyệt vọng, kết hợp từ “phụ” như một lời sám hối đau đớn, thể hiện nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Trong khoảnh khắc, “Trao duyên” đã thể hiện lời trăng trối của người con gái chung tình mà hóa ra phụ tình ấy. Bằng trái tim nhân đạo, tác giả Nguyễn Du đã dùng nỗi đau để bị thiết nỗi đau, cùng nỗi đau để chạm tới trái tim của người đọc.

Như vậy, thông qua tám câu thơ cuối của trích đoạn “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được bi kịch về tình yêu tan vỡ, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Đồng thời, những câu thơ trên còn là minh chứng tiêu biểu cho những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm “Truyện Kiều” qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo cùng từ ngữ trau chuốt, đặc sắc.

6. Phân tích tâm trạng Thúy Kiểu trong 10 câu thơ cuối mẫu 6

Tình yêu đầu luôn tỏa sáng và tươi đẹp. Nhưng với Thuý Kiều, tình yêu ấy lại chứa đựng bao đau khổ, xót thương không nguôi. Mối tình đầu tuyệt vời của nàng với Kim Trọng đã bị chia cắt bởi những biến cố gia đình đau lòng. Để bảo toàn truyền thống hiếu thảo, nàng quyết định nhường mối duyên cho em gái, Thuý Vân, để Vân có thể trả ơn cho Kim Trọng. Đoạn trích Trao duyên là bức tranh tuyệt vời về sự đau đớn và giằng xé trong tâm hồn của Kiều khi phải buông mình khỏi mối tình sâu đậm.

Đoạn trích Trao duyên, từ câu 723 đến câu 756 trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, kể về những biến cố trong gia đình Kiều sau đêm thề nguyền với Kim Trọng. Gia sản bị tịch thu, cha và em trai bị bắt. Trước khi rời đi, Kiều nhờ em gái, Thuý Vân, trả nghĩa cho Kim Trọng. Trích đoạn là tác phẩm nghệ thuật thể hiện rõ sự đau đớn và giằng xé tinh tế trong tâm lý của Thúy Kiều.

Đêm trước khi rời đi, Kiều lẻ loi trong bóng tối. Nàng đau lòng vì bản thân, đau lòng vì mối tình dang dở với Kim Trọng. Kiều luôn tự trách mình, cảm thấy là nguyên nhân của nỗi đau cho chàng:

“Công trình biểu tượng biết bao
Vì ta trung thành với người hồ đồ!
Thề nguyền chưa kịp hoàn thành
Lỗi lầm chỉ mới đã quá đủ!”

Kiều mang trên vai gánh nặng tội lỗi dù tình cảm của họ là sự tự nguyện. Dưới ánh đèn mờ, nàng khóc thương cho số phận và tình cảm của mình. Tâm trạng Kiều rối bời và dằn vặt. Nàng nhận ra chỉ còn một cách để cứu vãn, dù chỉ là một phần của mối duyên của mình, đó là nhờ Thuý Vân trao lại cho Kim Trọng. Vân sẽ giúp nàng kết nối với Kim Trọng, hai người như chị em, và Vân sẽ trở thành người thay thế cho nàng.

Khi Thuý Vân nhìn thấy vẻ buồn bã của Kiều, Vân hỏi Kiều về câu chuyện, và Kiều trả lời:

“Lòng đau thắt lại, mối duyên vẫn còn vướng mãi
Đánh rơi lời thề, lòng vẫn phải chung một nhà
Mở lời cũng e ngại, thẹn thùng làm sao đây
Tâm hồn gian nan, trao duyên với ai?”

Kiều bắt đầu nói trong sự thẹn thùng và e ngại, vì đây là câu chuyện riêng tư của nàng, không phải ai cũng hiểu và nghe được. Kiều cực kỳ cẩn trọng, chọn lựa từ ngữ tỉ mỉ khi nói với em gái:

“Chỉ hy vọng em hiểu lòng
Chị đây xin chân thành lạy em đôi lời”

Câu nói này làm nổi bật sự e dè và thận trọng, cũng như tầm quan trọng của câu chuyện mà Kiều muốn chia sẻ với em. Nàng chọn cẩn thận từng từ, ngần ngừng khiến câu chuyện trở nên quan trọng hơn. Một lời “chỉ hy vọng” phản ánh sự nghi ngờ, lo lắng, còn “chân thành lạy em đôi lời” là sự tôn trọng đặc biệt, thậm chí nằm ngoài dự kiến khi Kiều sử dụng những hành động tôn kính dành cho người có địa vị cao với em gái, Thuý Vân.

Kiều rất khôn ngoan và tinh tế khi đặt vấn đề với Vân trong câu chuyện của mình. Những lời nói của nàng không chỉ làm cho Vân cảm nhận được sự quan trọng của việc nàng muốn nhờ vả mà còn thể hiện nỗi đau và tuyệt vọng của Kiều trong từng từ ngữ.

Sau những lời khó khăn ban đầu, Kiều chia sẻ nỗi lòng với em về mối tình đẹp đẽ với chàng Kim:

“Giữa đường đời gập ghềnh

Mỉm cười, tình vẫn thơm lây nồng nàn”

Mỗi từ, mỗi câu là một kí ức về mối tình đầu tinh khôi và trọn vẹn của nàng. Những hẹn ước, thề nguyền dưới ánh trăng vẫn còn nguyên vẹn, nhưng nàng phải “đứt gánh”. Câu thơ ngân nga như lời tâm sự của Kiều về nỗi đau khó lựa chọn giữa trách nhiệm hiếu thảo và tình cảm:

“Những sóng gió trái ngang
Tình hiếu lẽ lớn nhất bề vẹn hai”

Ở tình thế nan đối, Kiều đã quyết định chọn hiếu thảo, bán mình để cứu cha em. Tuy nhiên, trong lòng nàng vẫn còn mối tình với Kim – một nghĩa khó có thể trả hết. Mỗi câu, mỗi chữ là biểu hiện của đau khổ không ngừng trong trái tim Kiều. Nàng van em gái, hãy thay mình để kết duyên, trả nghĩa cho Kim thay vì nàng. Nếu như vậy, dù nàng phải đối mặt với cái chết thê thảm nhất, nàng cũng sẽ hạnh phúc.

Những lý lẽ trao duyên của Kiều chặt chẽ, thông minh nhưng ẩn sau đó là sự dằn vặt và xót xa cho mối tình đầu của nàng.

Khi đã nói hết lý lẽ trao duyên, Kiều lặng lẽ giao cho em hết những ký ức tình yêu của mình:

“Bức vằn và tấm mây
Duyên này giữ của chung
Dù em là vợ hay chồng
Xoá những mệnh trời đau lòng không quên
Mất người chỉ là chút tin
Nhạc đàn và hương nguyên ngày xưa'

Trong lời thơ nguyên văn, Kiều như một người tỏ ra bình tĩnh, phân tích cho Vân nghe về mọi sự dằn vặt, đau xót nàng cất giữ trong lòng. Tuy nhiên, ở đây, Kiều không thể kiềm chế được cảm xúc nữa. Những câu thơ như tiếng nấc nghẹn của nàng khi truyền đạt những kỉ vật cho em gái. Kiều trao hết, trao mối duyên này đi, tạo ra cho mối duyên giữa Vân và Kim Trọng. Nhưng những kỉ vật này, hãy xem chúng là “của chung”, của cả ba người. Càng nói, Kiều càng đau xót cho số phận mình, tự nhận mình là một kẻ “bạc mệnh”. Nàng thậm chí cảm nhận được tương lai của mình đầy mịt mù, chỉ thấy cái chết là rõ ràng nhất.

'Mai sau dù có bao giờ
Đốt lo hương ấy so tơ phím này
Nhìn ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan'

Trong khi Vân và Kim hạnh phúc với mối duyên mới, Kiều tưởng tượng mình như một linh hồn lạc lõng nơi thế gian. Mặc dù “nát thân bồ liễu” nhưng linh hồn Kiều vẫn gắn bó với lời thề sắt son cùng Kim Trọng, không bao giờ quên. Đây là một mâu thuẫn, khi nàng từng nói nếu Vân giúp mình, nàng sẽ “ngậm cười chín suối” ngay cả khi thân thể đã “thịt nát xương mòn”. Nhưng giờ đây, khi nàng trả nợ tình duyên, nàng không hề thanh thản mà còn đau đớn và nặng nề hơn trước. Nàng nhận ra sự bạc bẽo của số phận và tương lai mờ mịt, oan trái khiến tâm hồn nàng trở nên mơ hồ. Những từ ngữ của nàng như lời của một linh hồn vọng lại từ thế giới bên kia.

Trong từng lời nói của Kiều hiện lên sự giằng xé, tiếc nuối không dứt khi phải trao mất mối duyên tình sâu sắc. Đồng thời, nàng chứa chất nỗi đau xót, cảm giác tiêu cực về số phận bạc bẽo và tương lai mờ mịt không có lối thoát.

Trong bức tranh đau đớn của nỗi nhớ, Kiều tỏ ra bất lực và thốt lên những lời đau đớn về mối duyên dang dở, về số phận của mình:

“Giờ đây trâm gãy, gương tan,
Kể làm sao xiết được muôn vàn tình ân!

Trăm nghìn lời cầu chúc phúc cho tình yêu, nhưng mối duyên ngắn ngủi chỉ là như vậy thôi!

Phận sao khắc nghiệt như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi, lỡ làng.
Ôi Kim Trọng! Hỡi Kim Trọng!
Thôi thôi, thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Bây giờ, trong thực tại của nỗi nhớ về Kim Trọng, Kiều chỉ nhìn thấy sự tan vỡ, những đau thương như “trâm gãy, gương tan”. Mặc dù biết mọi nỗ lực đều vô ích, nhưng trái tim Kiều vẫn đau xé khi nhìn nhận về sự “phận” bạc bẽo của mình, để mối tình và trái tim kia “lỡ lãng”. Kiều thừa nhận lỗi lầm, tiếc nuối với tình lang của mình trông chua xót và đau đớn. Cuối cùng, nàng không thể kiềm chế được nữa, lời thốt lên nghẹn ngào và đau đớn quằn quại:

“Ôi Kim Trọng! Hỡi Kim Trọng!
Thôi thôi, thiếp đã phụ chàng từ đây”

Tiếng nấc nghẹn của Kiều là sự bộc lộ tâm trạng đau đớn đầy cảm xúc của nàng, tới mức gần như mê sảng. Nỗi đau chia cắt nhân lên gấp bội, lên tới đỉnh điểm.

Đoạn kết kịp lại trong nỗi đau thương quằn quại của con người Kiều, không vì bản thân mình mà vì người nàng yêu, vì tình lang của mình. Tâm hồn nàng chứa đựng sự vị tha, nhân ái vô bờ, nàng mong muốn hạnh phúc cho người mình yêu, sẵn sàng hi sinh cho người đó.

Đoạn trích Trao duyên tận dụng ngôn ngữ sắc sảo để thể hiện một cách chân thực tâm trạng của Thuý Kiều khi phải trao đi mối duyên đậm đà với Kim Trọng. Nguyễn Du tài năng khiến cho mỗi động từ, mỗi ngôi từ trở nên sống động, tạo nên một tác phẩm đong đầy cảm xúc. Điều này giúp chúng ta cảm nhận hết sự đau đớn, giằng xé và nghẹn ngào trong tâm hồn Kiều.

Chọn file muốn tải về:
Đóng Chỉ thành viên VnDoc PRO/PROPLUS tải được nội dung này!
Đóng
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
30 lượt tải tài liệu
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%

Có thể bạn quan tâm

Xác thực tài khoản!

Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

Số điện thoại chưa đúng định dạng!
Số điện thoại này đã được xác thực!
Bạn có thể dùng Sđt này đăng nhập tại đây!
Lỗi gửi SMS, liên hệ Admin
Sắp xếp theo
🖼️

Văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức

Xem thêm
🖼️

Gợi ý cho bạn

Xem thêm