Vẻ đẹp của con sông Hương qua cảm nhận của cái tôi tài hoa mê đắm của hoàng phủ Ngọc Tường
Văn mẫu lớp 12: Vẻ đẹp của con sông Hương qua cảm nhận của cái tôi tài hoa mê đắm của hoàng phủ Ngọc Tường được VnDoc.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 12 hay dành cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 12 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
Cảm nhận của cái tôi tài hoa mê đắm của hoàng phủ Ngọc Tường mẫu 1
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn chuyên thể bút ký, tùy bút. Lời văn của ông được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng, đậm chất trữ tình và lối hành văn độc đáo của cái tôi uyên bác, tài hoa. Ông là một trí thức yêu nước, đã từng gắn bó đời mình với cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ, hào hùng của dân tộc. Sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, ông đã “chấm nghiên mực” của mình vào xứ Huế rồi viết tập kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?". Ông tái hiện lại vẻ đẹp sông Hương như một nhân vật trữ tình, với những nét tính cách phức tạp, biến đổi một cách kỳ diệu trong không gian và thời gian. Tất cả được phô diễn qua những lời văn giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và trữ tình tài hoa, mê đắm.
Hình ảnh sông Hương nhìn từ cội nguồn được hiện như như một dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn, một dãy núi lịch sử, anh hùng. Đặt dòng sông trong mối quan hệ đặc biệt ấy, sông Hương được ví như một bản trường ca của rừng già với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội. Khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, lúc “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, khi “cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực sâu”, lúc lại dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Nhưng đáng chú ý hơn cả là sông Hương lại được ví như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Hình ảnh cô gái Di-gan khiến người đọc liên tưởng đến một cô gái thuộc tộc người nổi tiếng trên thế giới với đặc điểm thích sống du mục, nhảy múa, ca hát và quan tâm đến những vấn đề bùa chú. Ông kết hợp tài tình giữa văn hóa phương Tây và văn hóa truyền thống, đưa con sông ra tầm vóc quốc tế.
Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành mà không biết gì về con sông Hương từ nguồn cội, người ta khó mà thấu hiểu được bản chất và vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ. Ấy vậy mà, dòng sông ấy lại không muốn bộc lộ tâm hồn mình mà “đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá ở chân núi Kim Phụng”. Đây là vẻ đẹp bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông chưa thể phơi bày trước nhân gian.
Đi qua cái nhìn lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường như người tình thủy chung của cố Đô, ông đã ví von rằng: “Phải nhiều thế kỉ đi qua, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoa dại”. Dòng Sông Hương khi về đến đồng bằng đã được tác giả so sánh và nhân hóa với một người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng chờ người tình mong đợi đến đánh thức. Sau giấc ngủ mơ màng ấy, dòng sông như bừng tỉnh giữa một thời đại mới và bắt đầu cuộc hành trình có chủ đích. Sự chuyển dòng trong cách cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường giống như “một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Vẫn những đường cong mềm mại, sông Hương lại có sự chuyển mình: “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Những từ “liên tục”, “đột ngột” đa tái hiện lại khoảnh khắc chuyển dòng đầy bất ngờ, thể hiện sự gian khổ và bất chấp của dòng sông với khao khát được gặp gỡ, hội ngộ với người tình cố đô.
Khi đi qua Vọng Cảnh, Tam thai, Lựu Bảo, sông Hương được miêu tả mềm như tấm lụa. Cảnh sắc sông Hương hiện lên như một bức tranh có đường nét, có hình khối, phát huy cao độ trí tưởng tượng của thi nhân: “Sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Sánh đôi với nền trời phía Tây Nam thành phố, sông Hương “ánh lên những phản quang nhiều màu sắc: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Chữ “chiều tím” của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sắc tím kín đáo của xứ Huế mộng mơ. Đó là một gam màu gửi gắm nhiều ẩn số của không gian Huế “mà chẳng nơi nào có được”.
Hành trình của sông Hương lại nối tiếp sau những liên tưởng hội họa của tác giả, giờ dòng sông lại lạc đến những lăng tẩm, rừng thông, đền đài. Dòng sông Hương hiện lên với nét đẹp trầm mặc, như triết lí, như cổ thi. Nét đẹp ấy xuất phát từ sự âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn đã yên mình dưới lòng rừng thông u tịch và những lăng tẩm đồ sộ. Vẻ đẹp đó của sông Hương “kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…”
Tình yêu là sự hòa hợp giữa hai tâm hồn đồng điệu, là tiếng gọi của trái tim.thì sông Hương và Huế cũng được xem như một mối tình. Khi gặp Huế, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. Dòng sông kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây – Nam , Đông - Bắc đến nơi cuối đường, nó nhìn thấy “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vành trăng non”. Khi đã giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương Uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Cách so sánh trong diễn đạt tinh tế của tác giả về vẻ đẹp tình tứ mà kín đáo của cô gái Huế. Cuối cùng, sông Hương và Huế - hai người tình đã gặp nhau, sông Hương làm nên vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Huế, Huế làm nên vẻ đẹp trầm tư, sâu lắng của sông Hương.
Miêu tả sông Hương khi chảy vào Huế, tác giả như thể tận dụng hết kiến thức của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để viết một cách chi tiết về phong tục, lễ hội, tất cả trở thành những hình tượng nghệ thuật miêu tả dòng sông với “trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh…qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chào nhẹ trên mặt nước như những vương vấn của một nỗi lòng”. Những kiến thức về âm nhạc cũng được tác giả huy động với những liên tưởng kỳ thú: “ điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố….đấy là điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Ở góc độ hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô.
Les Brown đã từng nói: “Tinh túy của trí tuệ đến từ kỹ năng đi tìm ý nghĩa của mọi trải nghiệm hàng ngày”. Điều ấy thật đúng với trải nghiệm Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác giả như ôn lại những kí ức về những dòng sông nơi ông từng được đặt chân để so sánh và làm rõ nét đặc trưng dòng chảy của sông Hương. Sông Hương “giống như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình” với những phiến băng trôi nhanh như những chiếc thuyền xinh đẹp của những chú chim hải âu.
Và trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương lại hóa thân thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh sông Hương như một tài nữ để thể hiện vẻ đẹp trang trọng, duyên dáng, nữ tính của dòng sông Hương. Tác giả đã khẳng định toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này. Sông Hương đã đem đến những câu hò man mác hay âm hưởng của ca nhạc cung đình Huế. Không chỉ vậy, sông Hương còn có công trong việc tạo nên vẻ đẹp trong đại kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Để tăng thêm sự xác thực cho sự có mặt ấy, nhà văn đã bộc bạch thêm: “Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỷ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua/Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”... Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”.
Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính Bắc, ôm lấy đảo cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ, rồi như sực nhớ ra điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng Đông - Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Cuộc chia tay giữa sông Hương và kinh thành Huế được nhà văn ví von sông Hương giống như nàng Kiều chí tình trở lại tìm Kim Trọng.
Hòa mình vào lịch sử hào hùng của dân tộc, sông Hương là một trang “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc” theo dòng thời gian. Từ thuở xa xưa, đó là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng. Quay về thời trung đại và được lưu truyền trong “Dư địa chí”, Sông Hương mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc. Đến thế kỉ mười tám, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Sông Hương còn đi vào thời đại cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quả quyết và tự hào khi ghi nhận về những chiến công oanh liệt của dòng Hương giang: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”. Từng từ, từng chữ hiện lên như một bản anh hùng ca vang dội khắp mọi miền đất nước.
Về góc độ thi ca, tác giả cho rằng có một dòng thi ca về sông hương, dòng sông không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các thi sĩ. Ấy là “Dòng sông trắng lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, là vẻ đẹp hùng tráng như “Kiếm dựng trời xanh” trong khí phách Cao Bá Quát, là nỗi hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, là sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu.
Tác phẩm như một món quà mà Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn dâng tặng cho thiên nhiên và con người mảnh đất Cố Đô. Từ tình yêu say đắm với dòng sông quê hương, từ những hiểu biết phong phú về các lĩnh vực khác nhau, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên vẻ đẹp phong phú của sông Hương trong một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế, trí tuệ và tài hoa. Đây chính là bài kí dài nhất và đỉnh cao nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông.
Cảm nhận của cái tôi tài hoa mê đắm của hoàng phủ Ngọc Tường mẫu 2
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách độc đáo và sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng, ám ảnh, đậm chất trữ tình của cái tôi uyên bác, tài hoa. Ông là một trí thức yêu nước, đã từng gắn bó đời mình với cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ, anh hùng của dân tộc. Để rồi, sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, ông đã chắp bút viết tập kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.
Trong tác phẩm, nhà văn gắn bó lòng yêu nước, tinh thần dân tộc với tình yêu sâu sắc dành cho thiên nhiên đất nước và với truyền thống văn hoá lịch sử lâu đời của dân tộc mà ông đã bỏ công say mê tìm tòi, tích lũy cả một đời người. Tất cả những phẩm chất ấy đã được thể hiện rất rõ qua việc ông tái hiện lại vẻ đẹp của dòng sông Hương như một nhân vật trữ tình, với những nét tính cách phức tạp, biến đổi một cách kì diệu trong không gian thời gian. Tất cả được phô diễn qua những lời văn giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và trữ tình tài hoa, mê đắm.
Sông Hương hiện ra qua sự kết hợp nhiều góc nhìn khác nhau của Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ địa lý, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật… “hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn mãnh liệt qua những ghềnh thác”. Nhưng rồi cũng có những lúc sông Hương “trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Viết tùy bút, theo Nguyễn Tuân là “lối chơi độc tấu”, “mạch văn tràn chảy tùy theo cảm hứng”. Đặc trưng này xác đáng với những lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả về sông Hương. Nhà văn đã đưa người đọc đến những liên tưởng bất ngờ, khi ông so sánh “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Ông cho rằng sông Hương là đứa con của rừng già với một tâm hồn tự do và trong sáng, để rồi rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, “sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.
Với đôi mắt khảo sát nghiêm túc của nhà địa lý có một tầm văn hoá sâu rộng, kết hợp vốn ngôn từ nghệ thuật phong phú mượt mà giàu chất thi họa, Hoàng Phủ Ngọc Tường tái hiện thủy trình của sông Hương từ vùng trung du trở xuống, nó liên tục chuyển dòng, “theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Nhà văn đã đặt sông Hương vào giữa cảnh quan núi đồi, lăng tẩm, bãi biển vùng ngoại ô tây-nam thành phố Huế, gương mặt Hương Giang trong xanh phẳng lặng tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn dòng sông Hương như một chủ thể có ý thức góp phần tôn vinh thêm vẻ đẹp của xứ Huế. Và trước khi về với Huế, sông Hương trôi lặng thầm giữa một vùng không gian “Bốn bề núi phủ mây phong. Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”. Giữa đám quần sơn lô xô, ở phía tây thành Huế, nơi dành cho giấc ngủ ngàn năm của các bậc vua chúa thời Nguyễn, sông Hương hiện ra với vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi kéo dài mãi “giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.
Đến khi sông Hương đổ vào thành phố tương lai của nó, “nó đã kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam-đông bắc…, nó đã thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Nhà văn đã dành cho sông Hương một tình cảm trìu mến, thân thương. Có như vậy, ông mới liên tưởng trạng thái sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô.
Với một trình độ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp của sông Hương với nhiều dòng sông nổi tiếng thế giới như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,… Từ đó mà ông đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Hương vào buổi đêm về, “vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Nhà văn quý điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành Huế. Ông cho rằng “Đây là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy… chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.”
Cảm nhận của cái tôi tài hoa mê đắm của hoàng phủ Ngọc Tường mẫu 3
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách độc đáo và sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng, ám ảnh, đậm chất trữ tình của cái tôi uyên bác, tài hoa.
Ông là một trí thức yêu nước, đã từng gắn bó đời mình với cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ, anh hùng của dân tộc. Để rồi, sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, ông đã chắp bút viết tập kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Trong tác phẩm, nhà văn gắn bó lòng yêu nước, tinh thần dân tộc với tình yêu sâu sắc dành cho thiên nhiên đất nước và với truyền thống văn hoá lịch sử lâu đời của dân tộc mà ông đã bỏ công say mê tìm tòi, tích lũy cả một đời người. Tất cả những phẩm chất ấy đã được thể hiện rất rõ qua việc ông tái hiện lại vẻ đẹp của dòng sông Hương như một nhân vật trữ tình, với những nét tính cách phức tạp, biến đổi một cách kỳ diệu trong không gian thời gian. Tất cả được phô diễn qua những lời văn giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và trữ tình tài hoa, mê đắm.
Sông Hương hiện ra qua sự kết hợp nhiều góc nhìn khác nhau của Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ địa lý, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật… “hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn mãnh liệt qua những ghềnh thác”. Nhưng rồi cũng có những lúc sông Hương “trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Viết tùy bút, theo Nguyễn Tuân là “lối chơi độc tấu”, “mạch văn tràn chảy tùy theo cảm hứng”. Đặc trưng này xác đáng với những lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả về sông Hương. Nhà văn đã đưa người đọc đến những liên tưởng bất ngờ, khi ông so sánh “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Ông cho rằng sông Hương là đứa con của rừng già với một tâm hồn tự do và trong sáng, để rồi rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, “sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.
Với đôi mắt khảo sát nghiêm túc của nhà địa lý có một tầm văn hoá sâu rộng, kết hợp vốn ngôn từ nghệ thuật phong phú mượt mà giàu chất thi họa, Hoàng Phủ Ngọc Tường tái hiện thủy trình của sông Hương từ vùng trung du trở xuống, nó liên tục chuyển dòng, “theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Nhà văn đã đặt sông Hương vào giữa cảnh quan núi đồi, lăng tẩm, bãi biển vùng ngoại ô tây-nam thành phố Huế, gương mặt Hương Giang trong xanh phẳng lặng tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn dòng sông Hương như một chủ thể có ý thức góp phần tôn vinh thêm vẻ đẹp của xứ Huế. Và trước khi về với Huế, sông Hương trôi lặng thầm giữa một vùng không gian “Bốn bề núi phủ mây phong. Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”.
Giữa đám quần sơn lô xô, ở phía tây thành Huế, nơi dành cho giấc ngủ ngàn năm của các bậc vua chúa thời Nguyễn, sông Hương hiện ra với vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi kéo dài mãi “giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Đến khi sông Hương đổ vào thành phố tương lai của nó, “nó đã kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam-đông bắc…, nó đã thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Nhà văn đã dành cho sông Hương một tình cảm trìu mến, thân thương. Có như vậy, ông mới liên tưởng trạng thái sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô.
Với một trình độ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp của sông Hương với nhiều dòng sông nổi tiếng thế giới như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,… Từ đó mà ông đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Hương vào buổi đêm về, “vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Nhà văn quý điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành Huế. Ông cho rằng “Đây là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy… chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.”
Có thể nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hoá Huế, ông không chỉ nhìn sông Hương trôi ở trong thì hiện tại, ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hoà, cho cuộc sống người dân xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần lịch sử. Sông Hương trong quá khứ qua các triều đại phong kiến vàng son, nó đã từng mang cái tên Linh giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam Tổ quốc nước Đại Việt. Nó đã từng vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, rồi nó đi suốt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ góp phần làm nên những chiến công lẫy lừng vang dội cả thế giới như lời đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.
Từ hiện thực kiêu hùng của Huế, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc”. Mặt khác, sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ thuật. Có biết bao văn nhân, thi sĩ đã từng rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca về sông Hương và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”.
Tản Đà thấy “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Hàn Mặc Tử thì lại so sánh tôn vinh sông Hương như sông ngân hà: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay”. Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông Hương mà bâng khuâng “con sông dùng dằng con sông không chảy/Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”.
Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 12: Vẻ đẹp của con sông Hương qua cảm nhận của cái tôi tài hoa mê đắm của hoàng phủ Ngọc Tường. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài viết rồi đúng không ạ? Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu để học tập tốt hơn nhé. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 12 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 12 và biết cách soạn bài lớp 12 và các Tác giả - Tác phẩm Ngữ Văn 12 trong sách Văn tập 1 và tập 2, mời các bạn tham khảo.
Các bài liên quan đến tác phẩm: