Cảm nhận về một danh lam thắng cảnh
Những bài văn mẫu hay lớp 7
Văn mẫu lớp 7: Cảm nhận về một danh lam thắng cảnh gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
Đề bài: Cảm nhận về một danh lam thắng cảnh
Bài làm 1
Giỗ tổ Hùng Vương hay lễ hội đền Hùng là một lễ hội lớn mang tầm vóc quốc gia ở Việt Nam. Hàng năm, vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, hàng vạn người từ khắp mọi miền tổ quốc đổ về đền Hùng để tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc.
Đền Hùng là một khu du lịch nổi tiếng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú cách Hà Nội 100km về phía Bắc. Đó là một quần thể kiến trúc bao gồm lăng tẩm, đền, miếu cổ kính. Do những biến động của lịch sử và sự khắc nghiệt của thời gian, các kiến trúc ở đền Hùng đã được trùng tu và xây dựng lại nhiều lần, gần đây nhất là vào năm 1922. Từ chân núi đi lên, qua cổng đền, điểm dừng chân của du khách là đền Hạ, tương truyền là nơi bà Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng. Trăm trứng ấy đẻ ra trăm người con, năm mươi người theo cha xuống biển, bốn chín người theo mẹ lên núi. Người con ở lại làm vua, lấy tên là Hùng Vương (thứ nhất). Qua đền Hạ là đền Trung, nơi các vua Hùng dùng làm nơi họp bàn với các Lạc hầu, Lạc tướng. Trên đỉnh núi là đền Thượng là lăng Hùng Vương thứ sáu (trong dân gian gọi là mộ tổ) từ đền Thượng đi xuống phía Tây nam là đền Giếng, nơi có cái giếng đá quanh năm nước trong vắt. Tương truyền ngày xưa các công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con vua Hùng Vương thứ mười tám, thường tới gội đầu tại đó.
Lễ hội đền Hùng bao gồm những hoạt động văn hóa, văn nghệ mang tính chất nghi thức truyền thống và những hoạt động văn hóa dân gian khác... Các hoạt động văn hóa mang tính chất nghi thức còn lại đến ngày nay là lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Đó là hai nghi lễ được cử hành đồng thời trong ngày chính hội. Đám rước kiệu xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Đó là một đám rước tưng bừng những âm thanh của các nhạc cụ cổ truyền và màu sắc sặc sỡ của bạt ngàn cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống... Dưới tán lá mát rượi của những cây trò, cây mỡ cổ thụ và âm vang trầm bổng của trống đồng, đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá huyền thoại để tới đỉnh núi Thiêng.
Góp phần vào sự quyến rũ của ngày lễ hội, ngoài những nghi thức rước lễ còn những hoạt động văn hóa quần chúng đặc sắc. Đó là những cuộc thi hát xoan (tức hát ghẹo), một hình thức dân ca đặc biệt của Vĩnh Phú, những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi các vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện chiến.
Người hành hương tới đền Hùng không chỉ để vãn cảnh hay tham dự vào cái không khí tưng bưng của ngày hội mà còn vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người hành hương đều cố thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương.
Trẩy hội Đền Hùng là truyền thống văn hóa đẹp của người Việt Nam. Trong rất nhiều những ngày hội được tổ chức trên khắp đất nước, hội đền Hùng vẫn được coi là hội linh thiêng nhất bởi đó là nơi mỗi người Việt Nam nhớ về cội nguồn và truyền thống oai hùng, hiển hách của cha ông.
"Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba."
Giỗ tổ Hùng Vương hay lễ hội đền Hùng là một lễ hội lớn mang tầm vóc quốc gia ở Việt Nam. Hàng năm, vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, hàng vạn người từ khắp mọi miền tổ quốc đổ về đền Hùng để tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc.
Đền Hùng là một khu du lịch nổi tiếng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú cách Hà Nội 100km về phía Bắc. Đó là một quần thể kiến trúc bao gồm lăng tẩm, đền, miếu cổ kính. Do những biến động của lịch sử và sự khắc nghiệt của thời gian, các kiến trúc ở đền Hùng đã được trùng tu và xây dựng lại nhiều lần, gần đây nhất là vào năm 1922. Từ chân núi đi lên, qua cổng đền, điểm dừng chân của du khách là đền Hạ, tương truyền là nơi bà Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng. Trăm trứng ấy đẻ ra trăm người con, năm mươi người theo cha xuống biển, bốn chín người theo mẹ lên núi. Người con ở lại làm vua, lấy tên là Hùng Vương (thứ nhất). Qua đền Hạ là đền Trung, nơi các vua Hùng dùng làm nơi họp bàn với các Lạc hầu, Lạc tướng. Trên đỉnh núi là đền Thượng là lăng Hùng Vương thứ sáu (trong dân gian gọi là mộ tổ) từ đền Thượng đi xuống phía Tây nam là đền Giếng, nơi có cái giếng đá quanh năm nước trong vắt. Tương truyền ngày xưa các công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con vua Hùng Vương thứ mười tám, thường tới gội đầu tại đó.
Lễ hội đền Hùng bao gồm những hoạt động văn hóa, văn nghệ mang tính chất nghi thức truyền thống và những hoạt động văn hóa dân gian khác... Các hoạt động văn hóa mang tính chất nghi thức còn lại đến ngày nay là lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Đó là hai nghi lễ được cử hành đồng thời trong ngày chính hội. Đám rước kiệu xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Đó là một đám rước tưng bừng những âm thanh của các nhạc cụ cổ truyền và màu sắc sặc sỡ của bạt ngàn cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống... Dưới tán lá mát rượi của những cây trò, cây mỡ cổ thụ và âm vang trầm bổng của trống đồng, đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá huyền thoại để tới đỉnh núi Thiêng.
Góp phần vào sự quyến rũ của ngày lễ hội, ngoài những nghi thức rước lễ còn những hoạt động văn hóa quần chúng đặc sắc. Đó là những cuộc thi hát xoan (tức hát ghẹo), một hình thức dân ca đặc biệt của Vĩnh Phú, những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi các vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện chiến.
Người hành hương tới đền Hùng không chỉ để vãn cảnh hay tham dự vào cái không khí tưng bưng của ngày hội mà còn vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người hành hương đều cố thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương.
Trẩy hội Đền Hùng là truyền thống văn hóa đẹp của người Việt Nam. Trong rất nhiều những ngày hội được tổ chức trên khắp đất nước, hội đền Hùng vẫn được coi là hội linh thiêng nhất bởi đó là nơi mỗi người Việt Nam nhớ về cội nguồn và truyền thống oai hùng, hiển hách của cha ông.
Bài làm 2
Mỗi danh lam thắng cảnh của Việt Nam đều mang trong mình những vẻ đẹp riêng biệt. Mỗi khi đặt chân đến danh lam thắng cảnh ấy đều cho ta một cảm nhận riêng. Đã tham quan nhiều nơi nhưng nơi để lại cho em nhiều ấn tượng và cảm xúc nhất chắc chắn phải nói đến Động Phong Nha-Nơi được coi như là “ Đệ nhất kì quan ở Phong Nha” .
Ngay từ khi bắt đầu vào cửa động đã cho ta cảm giác dễ chịu và mát mẻ,hứa hẹn một chuyến tham quan đầy thú vị! Tô điểm thêm cảnh sắc nơi đây là những núi đá vôi trùng điệp, những nương ngô xanh ngát một màu đung đưa theo gió.
Nếu Động khô thoáng đãng và thu hút bởi những cảnh sắc thoáng đãng thì việc đến Động nước là một trải nghiệm hoàn toàn ngược lại. Vào Động nước phải đi bằng thuyền, càng đi sâu càng tối. Tuy nhiều chỗ đã được mắc đèn nhưng vẫn cần dùng tới đuốc diện đèn tích điện nếu muốn khám phá hết 1500m của toàn hang. Động chính của Phong Nha gồm tổng cộng 14 buồng, được nối với nhau bởi các hành lang. Nếu có thể khám phá hết tất cả các buồng thì có lẽ sẽ để lại trong lòng du khách những ấn tượng không bao giờ bởi vẻ đẹp kì vĩ mà không kém phần huyền bí của nó. Nhưng cho đến nay đến hang động thứ 14 cũng chỉ có các nhà thám hiểm đặt chân tới, cùng với độ sâu trong động vẫn còn là một ẩn số thú vị và hấp dẫn mà con người chưa thể biết đến.
Điều tuyệt vời nhất đối với tôi đó chính là ngồi trên thuyền trôi nhẹ theo dòng nước dưới ánh sáng lung linh của đèn đuốc, từ từ khám phá bằng con mắt của mình các khối thạch nhũ đủ màu đủ khối, có khối hình con gà, có khối lại dựng thẳng đứng như đốt trúc đứng thẳng trên mặt nước… Thi thoảng trên vách động còn rủ xuống một cành phong lan xanh biếc.Trong hang đôi khi ta cũng bắt gặp những bãi cát , bãi đá để thuyền dừng lại cho du khách có thể leo trèo, luồn lách qua các bậc đá để khám phá thêm, ghi lại cho mình những khoảng khắc đẹp nhất hay thắp hương lên các bàn thờ dựng lên từ thủa xa xưa do bàn tay của người Chăm hay người Việt cổ. Việc đi vào hang động cho ta cảm giác như lạc vào một thế giới hoàn toàn khác, một thế giới đẹp như tiên cảnh. Sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên hoang sơ bí hiểm cùng các cảnh vật rất thanh thoát lại lộng lẫy đã tạo nên một động Phong Nha hoàn toàn khác biệt, có một không hai.
Cảm ơn bàn tay kì diệu của tạo hóa, của mẹ thiên nhiên đã dành sự ưu ái đặc biệt cho vùng đất Quảng Bình này một cảnh sắc tuyệt vơi như thế. Động Phong Nha đã nhận được rất nhiều lời khen ngợi không chỉ của du khách trong và ngoài nước mà của cả những nhà khảo cổ, thám hiểm. Tiêu biểu là Nhà thám hiểm Hao-ớt Lim be trưởng đoàn thám hiểm Hội địa lí Hoàng gia Anh sau chuyến tham quan động đã phát biểu: “ Với kinh nghiệm của mười sáu năm thám hiểm hang động ở tổ chức nghiêm cứu hang động mạng nhất của Hoàng gia anh,tôi khẳng định Phong Nha là hang động dài và đẹp nhất thế giới.” Theo báo cáo khoa học của đoàn thám hiển Hội địa lí Hoàng gia Anh thì Phong Nha có bảy cái nhất: hang động dài nhất; cửa hang cao và rộng nhất; bãi cáy,bãi đá rộng và đẹp nhất; có những hồ ngầm đẹp nhất; hang khô rộng và đẹp nhất; thạch nhũ tráng lệ và kì ảo nhất; sông ngầm dài nhất.
Thật tự hào biết bao khi Việt Nam có những danh lam thắng cảnh có giá trị cao được tất cả mọi người công nhận. Bản thân tôi sau khi tham quan động cảm thấy thực sự kinh ngạc và thích thú trước vẻ đẹp của hang động. Mong muốn được khám phá nhiều hơn,nhiều hơn nữa những cảnh đẹp của thiên nhiên,của đất trời,khám phá thêm những danh lam thắng cảnh của Việt Nam để từ đó thấy yêu thiên nhiên đồng thời biết giữ gìn và bảo vệ thiên nhiên hơn nữa, để những danh lam thắng cảnh mãi tồn tại và là một nét đep ,niềm tự hào to lớn của dân tộc Việt Nam.