Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Giải SBT Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo bài 29

Giải SBT Ngữ văn 8 bài 29: Đọc trang 32 có đáp án chi tiết cho từng câu hỏi chương trình sách mới. Thông qua đây các em học sinh đối chiếu với lời giải của mình, hoàn thành bài tập hiệu quả.

Bài: Đọc trang 32

Câu 1 trang 32 SBT Ngữ Văn 8 Tập 2: Em hãy nêu điểm giống và khác nhau giữa văn bản thông tin giải thích một hiện tượng tự nhiên (đã học ở bài Những bí ẩn của thế giới tự nhiên, Ngữ văn 8, tập một) và văn bản thông tin giới thiệu một cuốn sách hoặc một bộ phim.

Trả lời:

a. Giống nhau:

- Đều thuộc loại văn bản thông tin

- Kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.

- Có thể có sa-pô hoặc không có sa-pô

b. Khác nhau:

Văn bản thông tin giải thích một hiện tượng tự nhiên

Văn bản thông tin giới thiệu một cuốn sách hoặc một bộ phim

Mục đích

Giải thích một hiện tượng tự nhiên

Giới thiệu, khuyến khích mọi người đọc cuốn sách hoặc xem bộ phim.

Cấu trúc

+ Phần mở đầu: giới thiệu khái quát về quá trình xảy ra hiện tượng tự nhiên.

+ Phần nội dung: giải thích nguyên nhân và cách thức diễn ra hiện tượng.

+ Phần kết thúc (không bắt buộc): trình bày sự việc cuối của hiện tượng hoặc tóm tắt nội dung giải thích.

+ Phần 1: nêu một số thông tin về cuốn sách/ bộ phim (tên tác phẩm, tên tác giả hoặc đạo diễn, diễn viên, người quay phim,…) và trình bày ấn tượng hoặc nêu nhận xét khái quát của người viết đối với cuốn sách/ bộ phim.

+ Phần 2: tóm tắt ngắn gọn nội dung cuốn sách/ bộ phim và trình bày nhận xét, đánh giá của người viết về giá trị của cuốn sách/ bộ phim.

Câu 2 trang 32 SBT Ngữ Văn 8 Tập 2: Có phải tất cả các văn bản thông tin giới thiệu một cuốn sách hoặc một bộ phim đều có sa-pô hay không? Mục đích của sa-pô trong văn bản là gì?

Trả lời:

- Không phải văn bản nào cũng có sa-pô.

- Mục đích của sa-pô là trình bày tóm tắt nội dung bài viết và thu hút sự chú ý của người đọc.

Câu 3 trang 32 SBT Ngữ Văn 8 Tập 2: Tác dụng của việc sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ trong kiểu văn bản này là gì?

Trả lời:

Tác dụng của việc sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ trong kiểu văn bản này là truyền tải thông tin về tác phẩm được giới thiệu một cách sinh động, hấp dẫn người đọc.

Câu 4 trang 32 SBT Ngữ Văn 8 Tập 2: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:

CON CHIM XANH BIẾC BAY VỀ - CỔ TÍCH CHO NGƯỜI LỚN

Lê Hồng Lâm

Với tác phẩm mới, Nguyễn Nhật Ánh tiếp tục chinh phục bạn đọc bằng câu chuyện cổ tích. Dù cổ điển hay hiện đại, tình yêu trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh vẫn sẽ chiến thắng.

1. “Con chim xanh biếc

Đậu hờ trên tay

Yêu anh đến thế

Mà thành mây bay...”

Từ lâu, Nguyễn Nhật Ánh đã xác lập cho mình một vị trí không thể thay thế ở dòng văn chương dành cho tuổi mới lớn. Cảm xúc trong trẻo, hồn hậu gắn liền với kí ức tuổi thơ ở một vùng quê nghèo miền Trung hay những cảm xúc mưa nắng thất thường của tuổi mới lớn đều được ông nắm bắt tài tình và thể hiện bằng một văn phong giản dị mà thấu hiểu trong truyện dài Con chim xanh biếc bay về.

Từ trường của Nguyễn Nhật Ánh

2. Nguyễn Nhật Ánh được tạo hóa ban cho một cục nam châm “hút” độc giả. “Từ trường” của Nguyễn Nhật Ánh luôn tỏa ra qua các trang sách từ những năm 90 của thế kỉ trước cho đến ngày hôm nay, khiến cho độc giả của 30 năm trước hay của thời đại “mạng xã hội” hiện nay vẫn có thể tìm thấy những đồng điệu về cảm xúc hay tâm hồn khi đọc sách của ông. Con chim xanh biếc bay về, cuốn truyện dài mới nhất của Nguyễn Nhật Ánh, cũng là một tác phẩm như vậy.

3. Cái màu “xanh biếc” ở nhan đề của truyện tưởng như đã gặp ở đâu đó trong các tác phẩm trước đây của Nguyễn Nhật Ánh và luôn chất chứa một nỗi buồn nào đó, như trong Ngồi khóc trên cây hay Mắt biếc. Có lẽ vì thế mà ta có linh cảm cuốn truyện mới này cũng mang đến nhiều nỗi buồn như thế.

4. Khác với hầu hết truyện dài trước đây khi xây dựng nhân vật chính là những đứa trẻ ở vùng quê nghèo hay những cô cậu học trò tuổi mới lớn, Con chim xanh biếc bay về có sự thay đổi đáng kể khi tập trung vào những thanh niên mới ra trường và đang chật vật mưu sinh ở thành phố.

5. Phần đầu của truyện dài có tên là “Quán chợ” được kể bằng lời của một nhân vật trong truyện, nhân vật Khuê, sinh viên mới ra trường. Lời kể dẫn dắt người đọc bước vào hành trình lập nghiệp của những người trẻ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Do chưa tìm được việc làm đúng nghề được đào tạo, Khuê làm việc ở một quán ăn cho ông chủ trẻ tên Sâm. Khuê là cô gái tính tình có vẻ bộc trực, ngẫu hứng, dễ tự ái, hay dỗi hờn, nhưng có tâm hồn đa cảm.

6. Trái ngược với Khuê là Sâm, ông chủ quán ăn, già hơn tuổi, gương mặt có phần khắc khổ, tính cách kĩ lưỡng, cầu toàn, ghét sự cẩu thả và đôi khi hơi nguyên tắc. Tính nguyên tắc của Sâm thể hiện ở chuyện anh ta chỉ lấy hàng ở những mối quen thân thiết, dù đắt hơn nhất quyết bắt Khuê phải trả lại những món quà mà bạn hàng tặng dịp Tết. Điều đó làm nảy sinh không ít mâu thuẫn giữa ông chủ và người làm thuê tà Khuê là người trực tiếp chịu đựng, Nhưng giữa sự khác biệt đó, cả lui vẫn dành sự quan tâm cho nhau. Thậm chỉ, những tình cảm mơ hồ bộc phát hay sự ghen tuông khi Khuê phát hiện ra mình là kẻ thứ ba. “Trong bộ phim tình cảm được đạo diễn bởi bàn tay của thần may rủi đó, hoả ra tôi chỉ là một nhân vật phụ ngớ ngẩn, chết ngay ở cá vấp tả đầu tiên ở cảnh đầu tiên” hoặc “Tôi tự thuyết phục rằng giữa tôi và Sâm không hề tồn lại cuộc tình nào, vì một cuộc tình thực sự thì không thể tạo ra từ một phía, cũng như một nụ hôn không thể được thực hiện chỉ bởi một người".

7. Ngoài hai nhân vật có vẻ có nhiều duyên nợ mà xung khắc đó, ta còn gặp những nhân vật “đậm chất Nguyễn Nhật Ánh" khác, như Lương, một cô đồng nghiệp làm chung ở quán ăn, tính tình hài hước, yêu đời, thích triết lí, thích làm thơ: “Lẫn trong tình yêu một chút gì tính toán/ Lẫn trong vàng một sắc đồng pha lẫn trong thủy chung một hạt mầm phản bội. Trong trăng non người lẫn chút trăng tà”. Huy Tịnh cô bạn cùng quê thuê chung phòng trọ với Khuê, dù xuất thân khá giả vẫn tự lập bằng chính năng lực của mình thay vì dựa dẫm vào bố mẹ. Đó còn là những chị Dân, cô Mười, chị Diệp, dì Hai Anh, dì Ba Được,. những tiểu thương ở chợ với sự chất phác, trọng tình nghĩa hay một đổi tình nhân lớn tuổi, bắt đầu mối tình của họ ở quán ăn, nơi Khuê, Lương làm việc.

8. Cho dù độ tuổi của các nhân vật hay bối cảnh câu chuyện có ít nhiều thay đổi, ta vẫn cảm nhận được “từ trường” của Nguyễn Nhật Ánh tỏa ra qua từng trang viết, qua cách ông khai thác tâm lí của nhân vật. Hoặc qua những câu văn mang đậm phong cách Nguyễn Nhật Ánh "Bọn con trai là vậy, chuyên đi gây tội ác", hay “Tình yêu đâu phải chiến tranh. Tôi chả thêm lên phương án tác chiến nữa, đánh để tới đâu hay lời đó. Yêu mà giống vừa đi vừa dò tìm thì khổ quá, thà không yêu còn hơn".

Những hoán chuyển của số phận, tình yêu

9. Nếu ở phần một. bối cảnh của Con chim xanh biếc bay và dù có nhiều thay đổi vẫn mang nhưng chất liệu cảm xúc mà Nguyễn Nhật Ánh đã tạo dựng thành công thì sang phần hai, khi đổi vai kể cho nhân vật xưng “tôi" là Sâm, cuốn truyện dẫn dắt người đọc bước vào một câu chuyện nhiều chữ buồn, mất mát mà ta dự cảm từ đầu qua từ khóa xanh biếc" ở nhan đề truyện.

10. Sự thay đổi đột ngột của cách kể trong phần này khiến ta liên tưởng đến những cuốn truyện kiểu Chàng trai đến từ hôm qua với những tình cờ, ngẫu nhiên của số phận và ta từng bắt gặp trong những truyện dài trước đây của Nguyễn Nhật Ánh. Nhưng trong sự tình có ngẫu nhiên đó, ta nhận ra những cảm xúc nhiều mất mát hơn là những kí ức hồn nhiên, trong trẻo trước đây.

11. Những kí ức tuổi thơ của Sâm dần dần hiện ra trong đám sương mù, đưa người đọc bước vào một câu chuyện với quá nhiều buồn tủi, thậm chí đau thương về sự hoán chuyển của số phận do sự bất cẩn của con người khiến nhiều người thân của anh phải trả giá. Nói như Khuê, Sâm là “một đứa trẻ được sinh ra cho cuộc đời bắt nạt”. Và chỉ khi đọc đến đây, ta mới hiểu rằng tại sao Sâm lại có những nguyên tắc sống đôi khi hơi cứng nhắc như vậy, đều biết là anh ghét sự bảo thủ đến vậy: “Đâu phải sai lầm nào trên đời cũng có thể sửa chữa. Trong cuộc sống vẫn có những đổ vỡ, mất mát vô phương tin văn đó thôi”..

12. Trong phần cuối cùng của truyện dài này, hai nhân vật chính liên tục đổi vai kể cho nhau, dần dần khai mở hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Ở Khuê, những bất ngờ kiểu trên trời rơi xuống khiến cô thấy tránh "giống như một sinh linh bị trù ếm, từ lúc nào đã biến thành một quả lắc bị cuộc sống tha hồ đưa qua đẩy lại – luôn cảm thấy chóng mặt giữa thực tế và tưởng tượng. giữa chân tình và ngộ nhận, giữa lòng quyết tâm và nội bán khoản giữa khoảnh khắc bình yên và những ngày dậy sóng”. Còn ở Sâm, bất ngờ đó lại là một sự trưởng thành và vị tha mà anh đón nhận từ đầu con người ta tới một lúc nào đó cũng phải trưởng thành. Tất nhiên tùy vào hoàn cảnh mà có người trưởng thành một cách hồn nhiên, có người chấp nhận rớm máu để lớn lên – như qua một ca phẫu thuật hiểm nghèo".

13. Trong cuốn truyện dài về những hoán chuyển lạ lùng của số phận cùng tình yêu này, Nguyễn Nhật Ánh khai thác một đề tài tưởng như rất cũ, thậm chí lạc hậu, lỗi thời như chuyện “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó", chuyện tụi bắt “mai mối”, nhưng với cách kể chuyện đậm màu cổ tích hiện đại của mình, chúng lại trở nên hợp lí vô cùng. Thế mới biết không phải là đề tài gì, mà cách khai thác đề tài đó như thế nào mới là điều đáng nói.

14. Bố cục chặt chẽ với ba phần liên tục thay đổi, hoán chuyển người kể chuyện và góc nhìn của người kể chuyện; ở phần cuối, hai góc nhìn đó lại xen kẽ nhau, giúp người đọc soi chiếu được nội tâm của hai nhân vật chính và hóa giải những hiểu lầm giữa họ.

15. Cách viết này giống như cách người ta bóc một củ hành và chỉ đến khi bóc đến lớp trong cùng, chúng ta mới hiểu được tại sao họ có những tính cách hay hành động như vậy. Phong cách này cũng giống như một bộ phim trinh thám về tình yêu với những cú "twist” (đảo chiều) chóng mặt ở đoạn kết khiến độc giả đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Có là dù biết bị tác giả "dắt mũi", tôi tin rằng những độc giả của ông vẫn hào hứng chấp nhận với cái kết quá đỗi ngọt ngào.

16. Với Con chim xanh biếc bay về, Nguyễn Nhật Ánh tiếp tục chinh phục chúng ta bằng một câu chuyện cổ tích thời hiện đại. Chuyện cổ tích đó văn còn tiếp diễn, sau khi những vật như Sâm, như Khuê, như Quyền,… sửa sai và đứng lên bước tiếp sau những mất mặt hiểu lầm mà họ phải trả giá, cho dù đó là những lỗi lầm không phải do chính họ gây ra.

17. Cuối cùng, giống như những câu chuyện cổ tích (dành cho người lớn) khác, dù cổ điển hay hiện đại, tình yêu trong truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh vẫn sẽ chiến thắng “Trái tim trong lồng ngực mỗi người giống như chiếc đồng hồ đỏng đảnh, thỉnh thoảng tỏ ra mệt mỏi, lười biếng, nhưng bạn yên tâm đi, rồi nó sẽ tích tắc chạy lại một khi thần tình yêu đã lên dây".

12/11/2020

(Theo “Con chim xanh biếc bay về” - cổ tích cho người lớn, http://zingnews.vn, ngày 20/12/2022)

a. Vẽ sơ đồ cấu trúc của văn bản và tóm tắt nội dung từng phần (làm vào vở).

b. Xác định thông tin cơ bản, thông tin chi tiết và vẽ sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa các chi tiết và thông tin cơ bản của văn bản trên.

c. Tác giả viết văn bản này nhằm mục đích gì?

d. Quan sát kĩ hình bìa sách và trả lời câu hỏi: Tác dụng của việc sử dụng hình ảnh bìa sách trong văn bản này là gì?

đ. Đọc lại nội dung văn bản, đối chiếu với nhan đề của văn bản và trả lời câu hỏi: Nhan đề “Con chim xanh biếc bay về” - cổ tích cho người lớn có thể hiện được nội dung bài viết hay không? Dựa trên cơ sở nào để khẳng định như vậy?

Trả lời:

a. Tóm tắt nội dung từng phần:

- Sa-pô: giới thiệu tóm tắt nội dung bài viết

- Phần 1 (đoạn 1): cung cấp thông tin và nêu nhận xét khái quát về tác phẩm

- Phần 2 (đoạn 2 đến đoạn 15): tóm tắt nội dung kết hợp với việc đánh giá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

- Phần 3 (đoạn 16 đến đoạn 17): khẳng định ý nghĩa của tác phẩm.

b. - Nội dung chính của văn bản: tóm tắt nội dung và trình bày đánh giá của người viết về cuốn sách Con chim xanh biếc bay về

- Thể hiện qua các chi tiết:

+ Chi tiết về đánh giá của người viết với nội dung cuốn sách: tình yêu trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh vẫn sẽ chiến thắng (sa-pô).

+ Chi tiết về thông tin nội dung của cuốn sách: tên sách, tên tác giả, ấn tượng chung về cuốn sách (đoạn 1).

+ Các chi tiết tiêu biểu về nội dung của cuốn sách (đoạn 2 đến đoạn 13), hình ảnh minh họa cho bìa sách.

+ Chi tiết đánh giá về nghệ thuật của cuốn sách (đoạn 14 – đoạn 15).

+ Chi tiết khẳng định khả năng chinh phục người đọc của cuốn sách (đoạn 16 – đoạn 17).

c. Mục đích của tác giả khi viết văn bản này là giới thiệu cuốn sách và nêu những nhận xét của bản thân khi đọc cuốn sách.

d. Tác dụng của việc sử dụng hình ảnh bìa sách là tăng tính trực quan cho bài giới thiệu sách.

đ. Nhan đề đã thể hiện nội dung bài viết, đồng thời là cảm nhận của người viết về cuốn sách. Bằng chứng là: trong bài viết, nhiều lần tác giả dùng từ “cổ tích” để nhấn mạnh đây là câu chuyện tình yêu đẹp, buồn nhưng kết thúc có hậu.

>>>> Bài tiếp theo: Giải SBT Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo bài 30

Trên đây là toàn bộ lời giải Giải SBT Ngữ văn lớp 8 bài 29: Đọc trang 32 sách Chân trời sáng tạo. Các em học sinh tham khảo thêm Ngữ văn 8 Kết nối tri thức Ngữ văn lớp 8 Cánh Diều. VnDoc liên tục cập nhật lời giải cũng như đáp án sách mới của SGK cũng như SBT các môn cho các bạn cùng tham khảo.

Đánh giá bài viết
1 2
3 Bình luận
Sắp xếp theo
  • Bé Gạo
    Bé Gạo

    🤠🤠🤠🤠🤠🤠

    Thích Phản hồi 09:01 15/11
    • Hằng Nguyễn
      Hằng Nguyễn

      😃😃😃😃😃😃

      Thích Phản hồi 09:01 15/11
      • Gà Bông
        Gà Bông

        🤟🤟🤟🤟🤟🤟

        Thích Phản hồi 09:01 15/11

        Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo

        Xem thêm